CHIẾN TRANH KHÔNG PHẢI TRÒ ĐÙA

Trang chủ»Tin tức»CHIẾN TRANH KHÔNG PHẢI TRÒ ĐÙA

CHIẾN TRANH KHÔNG PHẢI TRÒ ĐÙA

 

Đây là 1 hồi kí của 1 người lính, viết về 1 góc nhỏ chiến tranh giúp bạn giải phóng Camphuchia khỏi bọn diệt chủng Pôn Pôt – Iêng Xary tay sai bành trướng Bắc Kinh

Lời tựa của người viết: Đã từ lâu tôi có ý định viết về trung đoàn mình…Tôi tranh thủ ghi lại những chặng đường đã đi qua ở dạng đơn sơ nhất. Kỷ sử của một binh nhì trong đội quân lớn. Tạm coi là thế! Tất cả tên người, tên đất trong bài này là thật nên xin phép các Liệt sĩ, các đồng đội cho phép dùng tên thật. Xin cảm ơn! 

Cho đến khi chuyển từ trạm Long Bình về cứ của Sư đoàn 9 ở Trảng Lớn, Thị xã Tây Ninh năm 1978, tôi - một binh nhì 18 tuổi đời vẫn chưa có hình dung nào về chiến tranh, về những ngày tháng mình sẽ đi qua cùng trung đoàn mình được bổ sung vào. Trung đoàn Đồng Xoài của tôi, một trang bi hùng, một phần máu xương của đồng đội tôi, của tôi...

Thị xã Tây Ninh, một thị xã biên giới xinh xắn và xanh ngắt nằm yên tĩnh giữa một vùng đất đỏ. Đoàn xe quân sự vừa dừng bánh, các dì, các em chìa tận cửa xe mời mua những bịch nước mía đá, những gói kẹo đậu phộng..."Mía ghim! Mía ghim....Năm hào một cây mía ghimm...".

Xe lôi, xe thổ mộ ngược xuôi. Toà Thánh Cao Đài, chợ Long Hoa người đi lại nhộn nhịp. Đám đông dân chúng thỉnh thoảng điểm sắc lính áo xanh. Trong một vài quán cóc, dăm ba thương binh chống nạng hoăc băng tay trắng toát, phì phèo điếu thuốc rê trên môi, nhìn theo đoàn lính mới ra chiều thông cảm...

Ngày 25/11/1978, buổi tối, trong khi đang điểm danh đơn vị, bầu trời thị xã đột nhiên sáng bừng bởi hàng trăm vệt đạn vạch đường xé toạc màn đêm yên tĩnh. Đại trưởng hô: "Giữ nghiêm hàng ngũ! Các đơn vị phòng không đang diễn tập đánh máy bay địch!

Đêm đó, tôi đã cảm thấy hơi thở của thần Chiến tranh đang phả đâu đây!

Trảng Lớn là căn cứ cũ của sư đoàn 25 QLVNCH trước đây nằm ngoài rìa thị xã Tây Ninh, bao gồm nhiều phân khu độc lập. Các phân khu giới hạn bởi các hàng rào thép gai phủ đầy cỏ Mỹ, vạch ngang dọc những lối chồn đi. Bấy giờ đang là mùa khô. Ngày nắng, bụi, nhưng đêm về gió chướng lùa qua lỗ vách, vốn là những tấm ghi lột lên từ đường băng dã chiến cũ, lạnh gai người. Bình minh mùa khô phương nam thật lạ.

Chân trời đỏ rực với những dải mây thấp, loang lổ xám. Chưa đến giờ tập thể dục. Tôi còn đang ngái ngủ bỗng dỏng tai nghe. "Vi vi vuuut... Oành! Oành...! Tất cả chạy nháo ra sân. Trung đội trưởng hét lên: "Tản ra! Nằm xuông! Pháo 130 ly nó giã đấy..! Mấy quả nữa bắn trúng dãy nhà tôn bỏ không mé bên trái, giật tung mái bay xoang xoảng. Tôi không còn thấy sợ nữa nhưng lòng cảm nhận tê tái: Chiến tranh thực sự rồi! Nó bắn thêm mấy quả nữa rồi ngưng, chắc sợ ta dò toạ độ phản pháo hoặc oanh tạc không quân. Cỏ Mỹ khô bắt lửa cháy giần giật, tàn lửa bay tung toé trong khói cuồn cuộn. 

Ở căn cứ thêm mấy ngày nữa, ngày 8/12/1978, chúng tôi lên đường ra chốt.

Lại lên xe. Nhưng không phải xe ca nữa, mà là xe REO (GMC), loại xe vận tải quân sự của Mỹ. Chạy về hướng Sài gòn à? Ai cũng thắc mắc, mặt trận ở hướng Tây kia mà? Lại qua những xóm ấp yên bình, những cánh đồng, trảng mía ngút tầm mắt, sông Vàm Cỏ đông nước xanh ngăn ngắt, thị trấn Gò Dầu hạ tấp nập... Chóp núi Bà Đen uy nghiêm chầm chậm xoay mình theo hướng xe lăn.... 

Bây giờ thì chóp núi ấy đã ở phía sau chúng tôi, hơi chếch về tay phải. Có nghĩa là trước mặt là hướng chính Tây... Đường bắt đầu vắng teo. Cánh đồng không cày cấy cỏ dại dày rịt, vàng úa. Một con đê thấp nằm chắn ngang cánh đồng, đùn lên là mấy ụ đất bao quanh mấy khẩu pháo tự hành lừng lững.Dãy lều bạt lụp xụp.

Đơn vị pháo chiến dịch 175mm (pháo Mỹ) đấy! Cửa khẩu Mộc bài đấy! Biên giới đấy! Ôi chao biên giới là thế này đây...! Nó không như hình dung của tôi. Đoàn xe bình thản vượt qua ranh giới vô hình ấy. Chúng tôi ngoái lại nhìn nước Việt một lần nữa. Ôi đất nước mẹ tôi em tôi! Có lẽ nhiều nghìn ngày nữa, trên những con đường đầy khói bụi của chiến tranh, có thể tôi sẽ gặp, hoặc không gặp lại Người!

Đồng không mông quạnh. Thốt nốt mọc theo những bờ ruộng thành từng cụm hoặc đơn lẻ. Đến ngã ba Chi Phu, đoàn xe rẽ trái xuôi về hướng nam chừng 1.5 km rồi dừng lại. Bộ đội xuống xe rôì được phân về từng đơn vị theo sự dẫn dắt của ban quân lực. Tôi và nhiều chiến hữu khác được điều về tiểu đoàn 4, trung đoàn 2, sư đoàn 9 thuộc quân đoàn 4. Anh Tuấn - hỗn danh Tuấn "còi", trung đội phó thông tin tiểu đoàn dẫn tôi và đoàn lính mới tò te băng đồng về chốt. Bố này muốn doạ, hoặc ra điều ta đây lính cũ thỉnh thoảng lại nhắc: "Bảo đi khom là đi khom, bảo chạy là chạy rõ chưa! Không 12.8 mm nó quất cho bỏ mẹ!". Tiếng thì eo éo như con gái, nghe vừa tức, vừa buồn cười. 

Xế chiều hôm đó, chúng tôi về đến chốt Long An. Địa bàn chốt giữ của tiểu đoàn nằm trọn trong vùng Mỏm Vẹt, phía nam cách ngã ba Chi Phu chừng 4 km. Tiểu đoàn bố trí đội hình hàng ngang theo chiều dài một con đê thẳng tắp. Đại đội 2 nằm ngoài cùng, gần phum chùa Cốc. Tiếp đó là đại đội. Đại đội 3 nằm nhô lên phía trên đội hình tiểu đoàn chừng 350m trong một cụm nhà cũ đã bị phá huỷ.

Đại đội 4 - đại đội hoả lực nằm gần tiểu đoàn bộ, hơi chếch về bên trái. Đã bắt đầu mùa khô nhưng những căn hầm nửa nổi nửa chìm tựa vào bờ đê vẫn toát lên mùi mốc ẩm. Thôi nhé từ nay vĩnh biệt thời huấn luyện! Ah ha! Cái phản lính dài dằng dặc trại Trảng Lớn trở thành niềm mơ ước. Còn cốc chè đậu đường đen thị xã Tây Ninh, trong tiếng hát ma mị Khánh Ly chừng thuộc một thế giới xa mờ. Thôi tiến lên nào, anh lính chiến!...

Tình hình cuối năm 1978 ở địa bàn đứng chân của trung đoàn 2 khá yên tĩnh. Ta và địch cách nhau một cánh đồng rộng khoảng 1.2km. Ngoại trừ một lần vào lúc chập tối, tiểu đoàn trưởng Sơn (anh Huỳnh Ngọc Sơn hiện là tư lệnh Quân khu 5) lệnh cho đại 3 mang cối 60 tập kích địch để thăm dò. Khẩu đội cối bò lên trước đội hình khoảng 600m, nạp liều 3 bắn chừng hơn chục quả. Địch trả lời bằng 12.8 mm toang toác suốt đêm. Hầm của trung đội thông tin nằm gần hầm tiểu đoàn. Ban ngày, tiểu đội hữu tuyến củng cố lại dây dợ máy móc. Tiểu đội vô tuyến 2W chúi đầu học bảng mật danh mới. 

Thằng Vỹ, thằng Mạnh, Thằng Ban trố suốt ngày lầm bầm như cầu kinh: "01 tiểu đội, 02 trung đội, 03 tiểu đoàn, 04 trung đoàn.... "Cha Nhương - tiểu đội trưởng 2W suốt ngày càu nhàu vì quân lâu thuộc. Nhưng tôi dám chắc nếu kiểm tra thì chính bố này thể nào cũng tạm tịt nhất. Đã thế lại còn cái tính hay chê, bôi bác người khác. 

Chẳng hạn kể chuyện anh Hoạch bên hữu tuyến, hồi mới giải phóng Saigon cứ tưởng cái bồn cầu là chậu vo gạo. Thế là cứ tống gạo vào vo. Đến khi giật nước gạo trôi đi sạch cứ thắc mắc um lên. Lại còn luôn mồm chửi tiện nghi của bọn tư bản là thâm độc. Hay chuyện Khương "khàn" dưới đại 1 dẫn lính đi khao. Không biết gọi phin cafe là gì mới e hèm cất giọng sang sảng: "Này cô em! Cho một số cái nồi ngồi trên một số cái cốc"! Hết biết!

Tuy tiểu đoàn bộ nằm lui về sau đội hình nhưng vẫn tổ chức gác ba vọng đề phòng địch bâu bám mật tập. Tôi đã biết định vị sao Tua Rua để căn giờ gác. Trong đêm, nếu ếch nhái đang rỉ rả ầm ĩ mà tự nhiên im bặt, hoặc chim đêm trong chòm cây phía trước bỗng dưng xao xác là phải coi chừng. Luồn hào về bấu tay anh em dậy rồi trở lại vị trí gác ngay. Hãy cúi thật thấp sát mặt đất, dùng nền trời đêm sáng mờ làm phông sẽ dễ phát hiện địch hơn. 

Lại còn muỗi mới khiếp. Muỗi Chi Phu có họ với muỗi Đồng Tháp mười, con nào con nấy to như con châu chấu con. Áo ka ki ga ba đin không là cái đinh gì. Vòi muỗi xuyên qua hết. Muỗi lăn xả cảm tử xông vào đốt người. Không được đập vì sẽ gây tiếng động. Cũng không được dùng dầu gió xoa vì ban đêm trên đầu gió, mùi dầu sẽ lan rất xa.

Chỉ được phép vuốt thôi, vuốt đến đâu lép bép đến đó... Có anh (chắc là con bác Ba Phi) còn kể là hồi mùa mưa, minh nằm trong màn. Muỗi bâu kín ngoài màn hết lớp này lớp khác, một lúc thì dây màn (dây dù) đứt phựt. Lỡ để một ngón tay sát chân màn, muỗi châm ngay. Những con khác không châm được thì châm ngay vào bụng con đang hút máu mình thành một dây chuyền dài hàng mét. Tóm lại là cũng biết làm ăn theo kiểu hợp tác xã...

Ngày 22/12/1978 - ngày Tết Quân đội. Ngoài tiêu chuẩn mà xe hậu cần B3 chở từ nước sang, chúng tôi còn tổ chức cải thiện thêm. Tôi xách AK đi dọc bờ mương bắn cá. Đứng rình một lúc, từng đàn cá sặc rằn to cỡ bàn tay từ từ nổi lên. Thế là: Bụp! Cá láng trắng nước nhưng phải lập tức lấy màn vớt ngay. Vì chỉ một lát là nó hồi lại. 

Bố Nhương lại có kiểu bắt cá khác. Không biết anh ấy kiếm đâu được quả đạn B.40 lép liền tháo ngòi nổ ra. Buộc vào một thanh tre cứng dài chừng 2m rồi vác xuống cái đìa cạn gần đại đội 4. Vào xin ít liều cối tọng vào đầu đạn đốt. Thuốc nổ TNT bắt lửa cháy đen kịt. Thế là cha ấy gí cái dụng cụ bắt cá quái dị ấy xuống đìa rà đi rà lại một lúc cho thuốc cháy hết rồi lội ào xuống. Quờ quạng rồi quăng liên tiếp lên bờ những con cá lóc đen bị say thuốc to cỡ bắp tay. Tôi ngán cái dụng cụ nghề cá ấy quá. Kinh bỏ mẹ! Thôi! Để em xách cá về cho nào...

Điểm qua thực binh và trang bị của trung đoàn 2 trước chiến dịch giải phóng Phnom Penh:

- Trung đoàn trưởng: Thiếu tá Nguyễn Như Thạnh.

- Các ban Tác chiến, ban Chính trị, ban Hậu cần

- 3 tiểu đoàn bộ binh gồm D4, D5, D6 (tiểu đoàn anh hùng) - tổng quân số khoảng 700 người

- Đại đội 16 : 3 khẩu đội cối 120mm

- Đại đội 17 : 4 khẩu đội DKZ 75mm

- Đại đội 18 : 4 khẩu đội 12.8 mm

- Đại đội 19 : Công binh - trang bị nhẹ.

- Đại đội 20 : 1 B Thông tin -Vô tuyến máy 15W, 1 B hữu tuyến, 1 B truyền đạt

- Đại đội 21: Trinh sát - Trang bị nhẹ - AK , M.79

- Đại đội 22: Vận tải - 2 xe GMC, 1 xe Zeep, trực thuộc B3

- Đại đội 23: Trạm phẫu, bệnh xá trung đoàn

- Đại đội 24: Vệ binh - trang bị như đại đội bộ binh, bảo vệ sở chỉ huy trung đoàn, trực thuộc ban tác chiến.

Thống kê như thế để thấy rằng tại thời điểm đó, quân số dù đã được bổ sung vẫn còn lâu mới đủ quân số theo biên chế chính thức của một trung đoàn bộ binh chủ lực. Chúng ta đã từng xem rất nhiều phim về chiến tranh. Theo tôi, có bộ "Giải phóng châu Âu" của Liên xô có những cảnh quay chiến tranh thành công nhất. 

Còn mấy bộ phim chiến đấu nước nhà muốn chân thực hơn có lẽ phải cho mấy bố làm phim cầm súng choảng nhau vài năm hãy cho về cầm máy quay.Chiến tranh giản dị đến khắc nghiệt vô cùng. Diễn tiến tâm lý cũng chẳng lằng nhằng phức tạp trong thời điểm cận chiến. Mày sống tao chết hoặc ngược lại. Huy động và sử dụng tối đa các kỹ năng sống sót của con thú. Lăn đi! Nằm xuống! B.41 đâu? Bịt mồm khẩu đại liên! Mẹ kiếp!....Không sủa, không gầm gừ được thì văng tục!..... Có thế thôi! Sau này lắng lại, các xúc cảm con Người trở về, và được sự giúp đỡ của các nhà văn nhà báo lãng mạn mới hay mình đã chiến đấu vì Đất nước. Kể cũng thấy tự hào...

Rồi thời điểm ấy cũng đã đến! 

TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN

Cán bộ tiểu đoàn đi họp quân chính về vào những ngày cuối cùng của năm 1978. Các đại đội cho người lên tiếu đoàn bộ nhận thêm một cơ số đạn. Hữu tuyến tổ chức thu dây ngay trong trưa 31/12/1978. 

Thông tin 2W nhận pin mới rồi xuống các đại đội nhưng cấm lên sóng. Mọi thông tin tạm thời dùng tiểu đội truyền đạt chạy bộ cho đến khi có lệnh mới. Kiểm tra toàn bộ vũ khí trang bị toàn tiểu đoàn trước 14h. Đúng 16h30, toàn tiểu đoàn rời chốt hành quân theo dọc bờ đê về vị trí quy định. Tiểu đoàn 6 chủ công, tiểu đoàn 5 dự bị tấn công hướng chính dọc theo lộ , con lộ từ Saigon đi Pnom Penh. Tiểu đoàn 8 (trung đoàn 3 - trung đoàn Hoa Lư) với tiểu đoàn 4 chúng tôi hộ công luồn sâu vu hồi cánh trái.

Tại vị trí tập kết, sau khi ăn tối, anh nuôi phát cho mỗi người một vắt cơm và gói bột gia vị là khẩu phần ăn ngày mai. Bữa tiệc tất niên năm 78 hoành tráng như thế đấy. Lính nằm ngồi thao thức hoặc gà gật dưới tán cây ô môi cổ thụ chờ lệnh xuất phát. Một cán bộ tác chiến sư đoàn được phái xuống đi cùng với mũi của chúng tôi.

Lính bâu vào hỏi: "Thủ trưởng ơi! Năm nay ăn Tết ở đâu đây?" "Có thể sẽ ở tây S'vay Riêng!". Anh ấy có cái đài bán dẫn mở nho nhỏ, đang phát đi bản tin báo gió mùa đông bắc...Chao ôi là nhớ nhà. Những giờ khắc cuối cùng của năm này, những người thân yêu của tôi đang làm gì?

2h30 sáng 1/1/1979, anh Ky tiểu đội trưởng vỗ mọi người dậy.Thì ra tôi cũng ngủ được một lúc. Tiểu đoàn 8 đang vượt qua đội hình chúng tôi. Kế đó đến đại đội 2, đại đội 1.....Im lặng! Lầm lũi đi! 2W mở máy nhưng chỉ thông tin ám hiệu bằng cách bóp công tắc.. Bùn lép nhép dưới chân. Thỉnh thoảng đội hình dừng lại. 

Trinh sát đang bám địch. Lại tiếp tục đi xuyên vào một rừng tràm non cao đến ngực. Lá tràm toả mùi thơm hăng hắc. Nhưng rẽ tràm nhọn hoắt mọc ngược, đâm vào đế dày đau điếng. Chả hiếu sao quân nhu hồi đấy sản xuất loại giày chết tiệt mỏng như vỏ trứng như thế! Tiểu đoàn 8 đã sát địch rôi. Lệnh dừng lại, triển khai công sự tại chỗ. Đằng đông, sao Mai đã mọc.

...Đất bùn yếu nên chỉ sau 10 phút là tôi và thằng Thiệu "mù" - quê Đông anh, Hà nội đã khoét được một cái hố cho hai thằng nằm. Trời sáng dần. Đã quan sát rõ trước mặt chúng tôi là một cái phum rộng. Trong phum thấp thoáng mấy mái ngói đỏ khuất sau hàng cây ngoài rìa. 5h30- Phía bên lộ 1 hướng D6, D5, pháo 105mm của sư đoàn bắt đầu bắn chuẩn bị. Bên này, cối 82 (4 khẩu) của D8 và D4 cũng lập tức lên tiếng. Địch giã lại ngay. Cối 60 nổ vài quả giữa đội hình tiểu đoàn tôi rồi thu tầm theo hướng phát triển của D8. 

Trinh sát đã cắt nhầm hướng. Đáng lẽ phải vòng qua sau phum này thì chúng tôi lại đâm đầu đúng vào nó. Bộ đội tiểu đoàn 8 không lên nổi vì sát phum là bãi mìn chống bộ binh dày đặc. Đạn 12.8mm và đại liên quất ràn rạt. Đại đội 2 tiểu đoàn 4 được lệnh xuất kích đánh vào sườn nhưng cũng bị vướng mìn không phát triển nổi. Địch mới được trang bị loại mìn KP.2 ( còn gọi là K.978 ) hình trụ. Đường kính khoảng 8 cm, cao 15 cm. Dây bẫy vướng nổ sơn màu xanh lá cây nên lẫn hoàn toàn với cỏ cây. Khi vướng dây tụt chốt, liều phóng phía dưới đẩy mìn nhảy cao lên ngang ngực mới phát nổ. Văng nhiều mảnh nên gây sát thương rất lớn. 

Đã thế mấy thằng lính mới lại nhảy lung tung mới bỏ mẹ. B trưởng gào khản giọng: " Chạy đi đâu...? Nằm xuống... ! Chết mẹ bây giờ!". Lúc bắt đầu nổ súng, tay tôi tự nhiên run bắn, nhưng một lúc thì cũng hết sợ. Bấy giờ thằng Thiệu mù tư dưng dở chứng bảo tôi dịch ra cho nó đi ỉa. Tôi bảo nó bò ra đằng kia mà làm cái việc không đúng lúc ấy, chứ ai lại bĩnh vào cái công sự chung của tao với mày. Nhưng nó cứ phớt lờ đề nghị của tôi, lóng ngóng tụt quần. Tôi tức quá bò ra chỗ khác đào một lỗ nông choèn rồi nằm xuống. Thương binh, tử sĩ bắt đầu được cáng về. Thương vong khoảng gần 3 chục, chủ yếu do mìn. Cũng may hoả lực địch ở hướng này không mạnh.

Cả đơn vị nằm cứng giữa rừng tràm non. Lá tràm che phủ chúng tôi. Địch cũng thôi không bắn nữa. Hướng D5, D6 cũng không chọc thủng được tuyến phòng ngự của địch. Xế chiều có lệnh rút quân. Tiểu đoàn 4 đi sau rút trước nhưng lính tiểu đoàn 8 cứ chạy tràn qua đội hình chúng tôi. Địch phát hiện nên đồng loạt khai hoả hoả lực các loại. Nghe rõ lính nó gào truy kích : " Trô..! trô.. ! trô..!." 

Anh Sơn hô 2 khẩu đội 12.8mm giá súng đứng, kiểu bắn phòng không, bắn thẳng vào đội hình địch. Nó chỉ hô thế thôi chứ bố bảo cũng không dám đuổi theo. Thế là D4 đâm ra rút sau cùng. Chúng tôi về lại đúng vị trí xuất phát. Tập hợp đội hình xong rồi hành quân về đội hình trung đoàn ngay trong đêm...

...Đêm ấy nằm sau đội hình trung đoàn nên lần đầu tiên không phải gác. Mặc kệ quần áo toàn bùn khô đóng vảy, tôi quay ra kiếm mấy cái cọc đóng 4 góc rồi giăng mùng ngủ một mạch. Hôm sau mở mắt trời đã sáng rõ. Kiếm được một con lạch mùa khô nước lờ lờ đục, bộ đội ào xuống tắm giặt. Lại có mỳ tôm và rau cải xanh mới chở từ bên nhà sang nên lính tráng được một bữa nóng sốt tỉnh cả người. 

Chiều cán bộ đi nhận nhiệm vụ về phổ biến mai đánh tiếp hướng lộ 1. Không còn hồi hộp gì nữa, kể cả trận ngày hôm qua, như nó đã xảy ra nghìn lần trong đời. 

Tinh mơ ngày 03/01/79, trung đoàn tiếp cận mục tiêu xong. Lữ đoàn pháo 71 (thuộc quân đoàn) tăng cường hướng trung đoàn 2 hai khẩu 85mm đẩy tay lên sát tiền duyên trực xạ. 5h30 sáng, pháo chiến dịch khai hoả. Màn mở đầu quá ấn tượng. Pháo 155mm quân đoàn, 105mm của sư đoàn và các cỡ cối trung đoàn, tiểu đoàn thi nhau trút đạn xuống đầu địch. Nằm nghe đạn cầu vồng rít qua đầu mà khoan khoái cả con người. Chết mẹ mày đi! Cho bõ tức ngày hôm qua. Địch phản pháo yếu ớt rồi câm luôn.

Hai khẩu 85mm nòng dài đi cùng trung đoàn không đào công sự, nằm ngay trên mặt ruộng khô rạp nòng xuống quất. Mỗi lần giật cò lại nảy lên cầng cẫng. Tiếng 85mm đanh lọng óc, hơi đạn thấp đi phần phật. Tiểu đoàn 6, tiểu đoàn 4 bắt đầu xung phong. Bộ binh phát triển đến đâu, pháo 85mm kéo lên đến đấy.

Trên tuyến phòng ngự của địch, những bựng khói đen dựng lên liên tiếp. DK.75 địch mới đầu còn "cùng - x..éo.o" vài quả sau cũng tịt luôn. Loe loé đầu nòng độc nhất một khẩu 12.8mm, toang toác chừng được vài phút thì bị DK tiểu đoàn 6 xơi ngay. 11h30 trung đoàn đã đánh qua lớp công sự thứ nhất. Ở mấy hầm tiền tiêu còn mấy quả bom bay đen trũi bọn lính Miên chết pháo, không kịp gí. Đến 12 h, chịu không nổi, địch bắt đầu tháo chạy.

Phát triển truy kích đến chiều tối, tiểu đoàn 4 dừng lai trước một con lạch nhỏ chảy vào sông S'vay Rieng. Bên trái có lẽ là trạm phẫu tiền phương của địch. Bông băng, dụng cụ y tế quăng bừa bãi. Mùi máu tanh nồng lẫn mùi hăng của thuốc tê...Những chiếc võng còn dính đầy máu chăng ngang dọc dưới chân cột nhà sàn. Đêm ấy tiểu đoàn bộ nằm lẫn luôn với đội hình đại 1. Trung đoàn 3 phát triển sườn phía bắc đường. Các đơn vị nhận nhau ngoài vô tuyến điện còn bắn bắt liên lạc, cộng tròn bằng 7. Đêm đầu tháng, như để bù lại cho buổi ban ngày, cực kỳ yên tĩnh. 

Sáng sớm ngày hôm sau, có lệnh tiếp tục tiến. Đồng ruộng trống trải. đội hình hàng dọc đi trên mặt lộ như một buổi hành quân dã ngoại mỗi lúc một rảo bước. Thị xã S'vay Rieng đã hiện ra trước mặt. Trên cây cầu sắt bắc qua sông phía xa, một đoàn quân đang vượt tới. Triển khai ngay đội hình và bắn bắt liên lạc. Ba phát AK vang lên. Bên kia trả lời đĩnh đạc bốn phát. Ta rồi! Thì ra lính tiểu đoàn 7 trung đoàn 3. Trong chiến đấu, không gì vững lòng bằng lúc gặp đơn vị bạn đang cùng hướng, cùng nhiệm vụ. "Cho xin hớp nước bạn ơi!"." Này! Dốc sang một nửa bi đông!"

9h30 sáng ngày mùng 4 tháng một năm 1979, trung đoàn chúng tôi vào thị xã S'vay Riêng không tốn một phát súng nào. Mãi về sau này mới biết lúc đó Quân đoàn 3 đã vượt qua Kômpong Chàm, đánh lên Kômpng Thom ở phía bắc. Quân khu 9 và Hải quân đánh bộ đã chuẩn bị giải phóng cảng Kompong Som ở hướng nam.

Nó sợ bị bao vây tiêu diệt chiến lược lớn nên bỏ chạy tiệt. Cả tháng trời nằm hầm, nằm đất, bây giờ khoan khoái ngả lưng trên nền đá hoa mát rượi. Đã đời ghê! Anh Nhương (lại anh Nhương) túm đâu được con lợn khoảng 25 kg vẫy tay gọi Toàn cồ hữu tuyến. Hai người lôi nó vào trong toilet làm thịt, phân công tôi đứng ngoài canh...tiểu đoàn. Có lệnh cấm tuyệt đối không được vi phạm tài sản của nhân dân bạn và chiến lợi phẩm. Ông Thưởng - chính trị viên tiểu đoàn biết là toi ngay.

Ở thị xã này lấy quái đâu ra dân, Lợn của địch thì có - thế thì thịt thôi. Một bao dứa đầy tro bếp chụp vào đầu nó, thế là con lợn Pôn Pốt chỉ còn "hập! hập" được mấy cái là xong đời. Gia vị chỉ có mấy gói ngũ vị hương tống vào nhưng cứ thơm phức. Anh nuôi nhọ đít chia xong là mấy thằng vội vác chậu cơm về. 

Một nửa trung đội ăn trước, một nửa ăn sau. Nhớn nha nhớn nhác nhưng ngon miệng không chịu được. Chén xong, thằng Ban trố đi rửa chậu về trả anh nuôi. Bố Nhương giằng lấy khịt khịt ngửi đi ngửi lại rồi bắt nó mang xà bông đi rửa lại.

...Chiều tối hôm ấy, lại tiếp tục hành quân thẳng tiến hướng tây. Lúc đi, lúc nghỉ mải miết. Bàn chân tôi dần sưng phồng mọng nước như bị bỏng. Mắt nhắm mắt mở thỉnh thoảng lại đụng thằng đi trước vì buồn ngủ. Hễ có lệnh nghỉ giải lao là hạ ba lô nắm ngay trên mặt lộ ngủ ngay được. Đến khi bị đá dậy còn càu nhàu, tưởng là mình vừa mới ngả lưng xong. Khốn khổ nhất là hoả lực cối đại 4.

Mỗi thằng một gánh đòn tre kẹp 8 quả cối 82. Thằng Văn râu đỏ dân Hà nội lặc lè với cái mâm đế cối. Tướng người đậm thấp, khoác cái mâm đế trông không khác gì con rùa. Bù trừ thôi mày! Lúc bộ binh xung phong thì các bố chỉ mỗi việc nằm sau ung dung thả đạn. Mãi gần trưa hôm sau mới đến Kômpong T'rabêk. Có lệnh dừng lại, nấu cơm ăn rồi chờ xe của trung đoàn. Hai dãy nhà sàn xếp hàng thẳng tắp hai bên đường. 

Trong lúc chờ cơm, trèo lên một căn nhà lục lọi, tôi bỗng thấy trong bao thóc đổ có mấy cuốn truyện của Duyên Anh (trước năm 75). Chắc chủ nhân ngôi nhà này là Việt kiều chăng? Không biết còn sống hay đã chết?

Nghỉ ngơi vài tiếng thoải mái cho đến chiều thì bắt đầu sốt ruột. Mãi không thấy xe trung đoàn đâu. Kiểu này lại hành quân bộ quá. Y như rằng có lệnh lên đường. Quá ít xe nên trung đoàn sẽ chuyển tăng bo dần từng đơn vị. Lại mải miết đi...Bỗng nhiên ai cũng ngẩng lên nhìn trời. Dường như có hàng trăm con diều sáo đang lên tiếng cùng một lúc, rồi phía đằng sau lưng, rộ lên một loạt đề pa như sấm ầm ì. Tiếng hú gió của đạn pháo 130mm bay qua đầu chúng tôi, nổ bên kia phà Niek Luong. Thê thiết thay cái dàn hơi chết người ấy...

...Rồi xe sư đoàn cũng đón chúng tôi. Tất cả leo ào lên thùng xe, duỗi đôi chân đã quá rã rời cho khoan khoái. Tôi ngồi ngó nghiêng cảnh vật thay đổi hai bên đường. Đi trận mà như thế này quả là dễ chịu. Xe chạy chừng hơn 1 tiếng. Một làn gió mát rượi hơi nước ào tới. Phà Niek Luong đây rồi! Mêkong đây rồi! Thấy bỗng nhớ Mêkong của Nguyên Hồng: 

 ...Mê Kông chảy cây lao đá đổ.

Lan hoang, dứa mật, thông nhựa lên hương.

Có những trưa ngun ngút nắng Trường Sơn.

Ngẫm nghĩ voi đi. 

Thác Khôn cười trắng xoá...

Cuộc chiến đã cuốn chúng tôi đến đây, tới bờ sông này, trước khi đẻ chín nhánh Cửu long trên đất Việt. Chúng tôi chạy ào xuông dốc phà, khoả nước lên mặt. Mê Kông loang loáng chảy. Gió lồng lộng. Trên sông, đoàn tàu há mồm LCU chở quân lùi lũi ngược sóng. Hộ tống hai bên sườn là bốn chiếc khinh hạm loại nhỏ. Ba chiếc LCU khác cập bến thả cầu đón đơn vị sang sông. Sư đoàn 7 đã sang sông trước. Thật là lạ, đến một thằng binh nhì như tôi cũng không thể hiều nổi vì sao nó không lợi dựng cái chiến hào thiên nhiên vĩ đại này để tổ chức phòng ngự? Chắc chắn sẽ gây không ít khó khăn cho quân ta.

Đêm ấy, đơn vị dừng chân ngay bến phà, bờ hữu ngạn... 

...Ngày 05/01/79, ai cũng yên trí rằng sẽ tiến dọc lộ 1 vào Ph’nom Penh thì trung đoàn lại lệnh xuống cho tiểu đoàn 4 xuôi cặp bờ Mekong truy quét địch. Từ Niek Lương, đơn vị ngoặt theo hướng nam, hành quân trên con đường đất dọc bờ sông. Khu vực này bắt đầu gặp dân bạn. Họ đứng trên sàn nhà, nhìn đoàn quân đi. Không vồ vập cũng chẳng sợ sệt. Dân mà…cốt yên bình sống là đủ. 

Cán bộ dân vận cùng trinh sát hỏi thăm một cụ già về tình hình địch. Ông cụ cười nhe lợi: “Ruột tằng o hơi!” (chạy hết sạch rồi!). Chúng tôi đi qua một nông trường lớn với những con mương thẳng tắp. Cái nhà ăn tập thể lợp lá thốt nốt rộng mênh mông. Mấy cái nồi gang to đùng chúng nó bắn thủng hết đáy, chắc không để cho ta sử dụng được. Bọn này đúng là thực hiện tốt việc tiêu thổ kháng chiến. 

Các dãy nhà sàn đứng cách nhau đều như xếp hàng duyệt binh. Lại còn gà nữa mới đau. Thằng Cầm anh nuôi nghịch gõ một tiếng kẻng đầu nhà ăn, gà bỗng nhiên ở đâu đổ về đông nghịt. Giữa ban ngày ban mặt, không có vật che khuất nên không đứa nào dám ho he. Anh Nhương đi cùng tiểu đoàn, nhìn đám gà cứ như nhìn thấy kẻ thù giai cấp, nuốt nước bọt ừng ực. Thỉnh thoảng lại liếc anh Thưởng chính trị viên, rồi lại thở dài nhìn lên trời …xanh mây trắng. Trưa hôm ấy, chúng tôi hạ trại nghỉ nấu cơm ngay tại nông trang. Thực đơn bữa trưa gồm cá khô mang từ bên nước sang và món gà “ngó” trứ danh ấy.

Mâm tiểu đoàn cũng cá khô như lính. Nhưng có thêm chút me thằng Điệp liên lạc hái về dầm vào cho dịu vị . Bố Nhương vẫn còn hậm hực quay sang kháy liên lạc tiểu đoàn: “Điệp à! Me này mày cũng ém mang từ nước sang đấy à? “. Tôi thì tự nhủ thầm: Chiến tranh đúng là cực kỳ phi lý! Một con gà trống, như tán thưởng tư duy hàn lâm ấy, cất tiếng gáy o o…

Quá trưa ngày 07/01/79, chúng tôi nhận được tin quân ta đã vào được Phnom Penh. Cả đơn vị vui sướng tột cùng, dù vẫn còn chút tiếc nuối nho nhỏ vì vẫn phải loanh quanh tìm địch ở bến phà này. Cánh lính cũ được dịp ôn nghèo kể khổ. Thôi hết nhé những ngày mưa nằm chốt cầu Prasot, ngã tư Nhà thương, giành giật với địch từng met đường 24…Tôi thì tưởng tượng cảnh trung đoàn sẽ tiến vào thủ đô trên những chiếc xe thiết giáp đầy bùn đất. Lá Quân kỳ ám đen khói súng và lỗ chỗ vết đạn sẽ phủ bóng trên những gương mặt kiêu dũng của binh đoàn tình nguyện. 

Chúng tôi sẽ mỉm cười với nhân dân ra đón. Và nếu như có cô gái nào đó tặng hoa tôi, thì tôi sẽ ôm hôn cô ấy. Hệt như những nụ hôn không biên giới khi Hồng quân tiến vào Budapet mà tôi đã được xem trên phim…Than ôi! Thương thay cho những tưởng tượng huy hoàng ấy. Gần một tuần sau, trung đoàn tiến vào Phnom Penh không một bóng người. Chỉ có tiếng léc chéc đạn nhọn của mấy thằng lính ta đi lục lọi kiếm ăn bắn bậy.

Tiểu đoàn 4 lộn lại nam cầu Sài gòn (CPC có cây cầu vào thủ đô PhnomPenh cũng gọi là cầu SG) khoảng 6 km chốt lại bên sông Mê kông. Chốt đằng đít vì mình đánh nhanh quá, sợ những đơn vị lẻ của địch bây giờ mới chạy đến thủ đô đánh tập hậu - (hồi đó gọi là đánh bọc đít - sở trường của bon Miên). Đơn vị nằm giữa vườn sa bô chê (hồng xiêm) rậm rạp, cạnh một trại nuôi gà (lại gà). Đời lính của tôi chưa bao giờ có những ngày hạnh phúc đến thế. Mắc võng giữa vòm cây xanh mát. Trên đầu, sóc đi tìm quả chín chạy loạt soạt. Những quả sóc ăn làm rụng ngọt đến nhức răng. Ban ngày, tôi vào nhà một ông già sống độc thân chơi. Ông già đãi tôi món khô cá lìm kìm nướng nhậu với nước thôt nốt chua.

Để làm được thức uống trứ danh này (được mệnh danh là bia Pochentong) là cả một kỳ công. Đầu tiên, người ta đi chặt những cây tre lồ ô già có gióng rất đều, tỉa cành đi rồi buộc áp vào thân cây thôt nôt. Có những cây có thể cao hơn 20m nên phải hai, ba cây tre mới leo đến ngon cây. Hoa thôt nôt ra buồng. Người ta dùng hai thanh tre cứng kẹp lấy cuống hoa. Ngày nào cũng kẹp cho đến khi cuông hoa thôt nôt mọng lên, ứa ra nước là cắt cuống, treo ống lồ ô vào. Sáng hôm sau đã đầy ống nước ngọt, dùng để nấu đường.

Còn muốn làm nước thôt nôt chua, bỏ thêm vào ống mấy mảnh vỏ cây có tác dụng lên men (tôi không biết là vỏ cây gì), là có bia Pochentong uống ngay. Thứ nước này sinh ga rất mạnh. Tôi đã chứng kiến có lần lính ta mang một can 20 lit nước thôt nôt chua ra sân phơi nắng để uống cho thêm bốc. Một lát sau, cái can nhựa từ từ phồng lên hết cỡ rồi nổ cái bùm. Mấy thằng không biết gì xách súng chạy toé ra, tưởng địch tập kích. Thế là công toi…nghỉ uống.

Ngồi uống một vài bát, mặt tôi đã thấy nong nóng. Anh Ky, với thứ ngoại ngữ bằng tay, hỏi cụ già công nghệ chế tác mồi nhậu. Cụ già dẫn chúng tôi ra sông. Một con thuyền nhỏ, một cái te bằng tre đan gióng trước mũi thuyền. Đàn cá kìm đang ve vẩy ngược sóng. Thân hình chúng trông giống như quả tên lửa, gần như trong suốt với cái mồm dài ngoằng. Một con to nhất đàn đang cặp ngang một con cá nhỏ bằng cái miệng đặc biệt ấy. Te từ từ nâng lên. Xong rồi! Mang về làm sạch, phơi qua một nắng và đưa lên gác bếp xông khói. Không còn gì phải bàn nữa…!

Đã gần Tết Nguyên đán. Gió chướng lao rao trên các vòm lá. Buổi đêm lạnh nên hay ngót bụng thèm ăn. Dường như không chịu được nữa, anh Tuấn còi trung đội phó thông tin sai tôi với thằng Tường lé mò xuống trại gà. Vừa sờ lườn được vài con thì hướng tiểu đoàn thấy có ánh đèn pin loang loáng đi xuống. Bỏ mẹ! Tôi với thằng Tường vội trèo ngay lên sàn gà đậu, nằm im không dám thở.

Anh Thào, tiểu đoàn phó cùng thằng Điệp liên lạc đang xuống kiểm tra. Tay vung vẩy khẩu K.59, anh ấy quát hú hoạ: “ Mấy thằng mò gà đâu ra ngay! Tao bắn bể sọ!” Im lặng đến nghẹt thở. Đám gà mé bên kia tự nhiên loác quác. Ánh đèn rê theo hướng ấy, quét đi quét lại vài lần. Có cái gì buồn buồn ngang lưng. Tôi rờ rẫm chạm phải cái gì lành lạnh bỗng rủn người hất xuống. “Xoạch! Phì… phì ì …!” Thằng Điệp quay ngoắt lại, lia đèn vào chỗ phát ra tiếng động. Một con rắn hổ mang đang lắc lư trên nền đất. Nó lia đèn loanh quanh một chút rồi chĩa thẳng vào mặt tôi. Hai thằng im lặng nhìn nhau nửa giây rồi ánh đèn chĩa ra hướng khác.

“ Rắn! Thủ trưởng ạ! Nó vào mò trứng gà thôi!”. Tiếng chân bước xa dần. Tôi và thằng Tường tụt xuống. Đêm lạnh nhưng mồ hôi ra ướt đẫm cả người. Hai thằng bóp cổ chết năm con gà mái tha về trung đội. Nước đã sôi sùng sục. Tuấn còi chửi “Làm gì mà lâu thế?” Tôi nói không ra hơi, chỉ tay về hướng tiểu đoàn. Anh Hoạch chồm dậy, dụi bớt lửa. Bố Nhương lấy tấm liếp thôt nôt che chắn xung quanh rồi sai thằng Vỹ ra gác.

Lông gà và lòng mề chôn ngay. Một lát sau, nồi cháo thịt gà nhiều hơn gạo đã ngấu. Cả trung đội đang sì sụp ăn vụng bỗng giật nảy mình. Thằng Điệp liên lạc, không biết bằng cách nào, đã đứng lù lù trước đống lửa. Nó nhe răng cười và chìa bát sắt ra. Hú hồn! Mẹ thằng này khôn thật! Cả về sau này, có lẽ chẳng còn bát cháo gà nào với tôi, ngon như thế nữa.

Sáng hôm sau, tôi được phân công xuống trực máy đại đội 1. Mừng hú, vì dưới đại đội sinh hoạt có phần thoải mái hơn nằm ở tiểu đoàn bộ. Gần lửa thì rát mặt. Cán bộ đại đội có anh Khanh, đại phó, anh Síu chính trị viên. Đại đội 1 có mấy thằng lính cùng đoàn với tôi, chơi với nhau cũng hợp tính như thằng Căn liên lạc, Thằng Đặc trung đội 3…Xuống đến nơi thì chúng nó đi đâu cả.Tôi hỏi thì ông Khanh nháy mắt:” Cho chúng nó đi cải thiện!”. 

Gần trưa, hai thằng lặc lè khoác ba lô về. Mở ra thì toàn rượu Napoléon loai lâu năm thượng hạng. Còn ba lô kia toàn sữa hộp Neslé và thuốc lá thơm Ara. Trong thành phố Phnom Penh lúc đó có rất nhiều kho dự trữ của địch. Chắc hai thằng này may mắn vớ đúng kho Sở ngoại vụ rồi. Chiều ra sông tắm, quăng xuống quả US da láng (M.26). Nổ đánh ục một cái, cá nổi trắng nước. Lao vội ra vớt những con to nhất quăng lên bờ. Thêm hai con gà luộc nữa là bữa tối trở nên hoành tráng. 

Thằng Tuý 2W xì ra một lố pin PRC.25 đã thải, đấu vào cái bóng 12V. Lúc này, cái nhà sàn ban chỉ huy đại đội bỗng thành nơi dốc bầu tri kỷ. Cha con anh em ngất ngưởng nâng bát. Lưng chừng cuộc vui, anh Khanh lúc ấy đã tây tây rồi, đòi đục sữa hộp ra pha vào rượu. Bố ai chịu được loại coctail ấy. Thế mà anh ấy ực một hơi hết bát B.52 rồi ra vịn lan can …ói. Chưa ai kịp ra đỡ thì từ từ gục xuống, cắm đầu rớt qua thành lan can rơi xuống hồ. Thằng Căn lao xuống lôi lên. 

Bố ấy vẫn còn lè nhè : “Đ…mẹ ! Tao rớt ngọt như quả mít! “ Nói tiếng Đan mạch (Đ…m) một lúc nữa rồi cha ấy nằm thẳng cẳng. Tôi cũng say quá. Tự nhiên thấy nhớ nhà kinh khủng. Nước mắt giàn giụa không kìm đươc, tôi bật khóc hu hu…!

…Những ngày yên tĩnh như thế rồi cũng nhanh chóng trôi qua. Trưa ngày 25/01/79, tức là ngày 27 Tết Kỷ Mùi, đơn vị nhận lệnh hành quân gấp. Tiểu đoàn 4 đi dọc con đường ngược sông về Ph’nom Penh. Đến mũi đất phía nam sông Bốn mặt (gần cầu Sài gòn), chúng tôi leo xuống bờ sông dốc đứng. Ở đó đã có mấy chiếc tàu LCU đang chờ sẵn. Tiểu đoàn xuống tàu, lùi lũi ngược Tonle Sap. Sông bốn mặt rộng mênh mông. 

Thủ đô Ph’nom Penh trải dài ven bờ phía trái tầm mắt chúng tôi. Những mái vàng của Hoàng cung lấp lánh trong nắng. Từng vòm cây xanh ngắt ôm ấp những khu nhà ngói đỏ xinh xắn. Trước mũi tàu rẽ sóng, thỉnh thoảng những đàn cá linh thấy động vụt nhảy rào rào trắng xoá. Ph’nom Penh lùi dần lại sau lưng. Chạy được khoảng 2 giờ, bỗng có tiếng đạn nhọn rộ lên bên sườn bờ bên tay phải. Chúng tôi ngồi thụp xuống lòng tàu, không bắn trả. Đoàn tàu né sang bờ hữu ngạn, tăng tốc phả khói đen mù mịt tiếp tục tiến.

Chạy thêm 1 tiếng nữa, hải quân cập bờ trái. Đơn vị đổ bộ lên bến phà Preck Đam, tiếp tục tiến theo mé sông hướng bắc lên U Đông. Địa hình ven bờ toàn những bụi cây dại lúp xúp. Con đường đất chạy giữa một bên sông, một bên là đầm lầy. Trời đã mờ mờ tối. Tiểu đoàn dừng lại ở một cái xưởng cưa ven sông, triển khai đội hình chiến đấu. Trên mặt sông, mấy chiếc giang hạm nhỏ đen trùi trũi đi phối thuộc với chúng tôi đang buông neo gần bờ. Anh Ky và tôi được lệnh kéo dây xuống đại đội 1 ở phía trước. 20h30, liên lạc hữu tuyến đã thông suốt.

Đêm cuối tháng tối như mực. Im lặng đến rợn người. Máy điện thoai để mức chuông nhỏ nhất. Cấm đốt lửa, chúng tôi đổ nước lạnh vào bịch gạo sấy hoặc xé mỳ tôm sống ra trệu trạo nhai. Đến nửa đêm, tổ trinh sát tiểu đoàn 3 người vượt qua đại đội 1 lên bám địch. Qua đội hình trung đội 3 tiền tiêu, anh Sơn tiểu đội trưởng trinh sát còn lào thào dặn với :”Chút nữa bọn tao về! Nhớ hỏi mật khẩu không có bắn nhầm đấy!”. Gà gật đến 2h30 sáng 26/01 (28 Tết), đạn nhọn rồ lên phía trước mấy loạt rồi im bặt. 

Gần sáng, hầm tiền tiêu thấp thoáng bóng người. Tiếng nói nhỏ: ”Trinh sát đây! Sơn đây! Đừng bắn!”. “Mật khẩu?” “ Mật khẩu đ… gì? Mấy thằng lính mới trung đội mày gác giật mình ngoéo cò thì bố mày lên nóc tủ à?”. Trinh sát đã về qua đại đội. Mọi người xúm vào hỏi. “Còn thằng nữa đâu?” “Chắc tiêu rồi! Sát họng đại liên, không kéo về được!”. 

5 h30, trời bắt đầu sáng. Chỉ huy tiểu đoàn triển khai nhiệm vụ cho đại đội 1 qua máy điện thoại xong, 2W lên máy. Anh Nhương dặn tôi qua máy: “Chúng mày không phải thu dây, tao cho chúng nó thu từ dưới này lên!”. Cả đội hình tiểu đoàn từ từ tiến. Dưới sông, tàu hải quân cũng tiến song song. Trước mặt có một cái cồn nổi lớn chia Tonle Sap thành hai nhánh. Bốn chiếc khinh hạm của ta phát hiện địch trước. Đại liên 50 hai nòng trên các tàu bắt đầu khai hoả. Lính đại 1 bám từng bờ cây, bụi cỏ phát triển dần lên. Địa hình hẹp bề ngang, nhiều vật che khuất chỉ có một đường tiến. 

Cối 82 tiểu đoàn được yêu cầu bắn trước đội hình 60m nên đại 4 gần như dựng nòng lên thả đạn. Dưới sông, bốn chiếc khinh hạm yểm trợ nhau lần lượt quay đuôi về phía địch thụt cối 81 (thằng cối 81 dưới tàu Mỹ bắn bằng điện nên góc bắn có khi nhỏ hơn 45 độ). Trên cái cồn (giồng) giữa sông, địch có một cái tăng PT.85 chôn âm, nguỵ trang đầy lá thôt nôt gióng nòng pháo bắn săn tàu chiến. Do tàu cơ động liên tục, và khoảng cách cũng xa nên nó nã hơn chục phát cũng không chiếc nào dính đạn.

Mấy khẩu 85mm đi tăng cường cho tiểu đoàn 4 không bắn được do địa hình bị che khuất bởi cây cối. Trước mặt là cái trảng, rồi đến con mương thuỷ lợi rộng khoảng 20m ăn thông với sông. Một cây cầu nối hai bờ mương. Bộ binh cứ thò ra ngoài trảng là đại liên bên kia mương nó quất ngay. Địch tựa vào bờ sông và cồn bên kia làm thế ỷ giốc gây khó khăn lớn cho ta. May là nó không bắn cối chứ đường độc đạo như thế, nó cứ thả cối dọc theo đường thì cha con khiêng nhau mệt.Tử sỹ đã được chuyển về. 

Trong số đó có thằng Thành quê Hà Nam Ninh, thằng Thái người Quảng Bình, thằng Thư ở Bắc Ninh là mấy đứa cùng bổ sung cùng đợt 1978 như tôi. Mấy chiếc tàu quân ta hùng hổ được một lúc, bắn hết đạn cối rồi quay đuôi chuồn thẳng. Bộ binh cũng nằm luôn, không tiến nữa. Buổi trưa yên tĩnh trở lại, như chưa hề có điều gì vừa xảy ra. Trên mặt công sự của tôi, những con kiến đang chăm chỉ tha những cọng mỳ tôm vương vãi. Mặc kệ! Ai có việc của người ấy phải không? Tớ bận kiếm ăn, còn loài người các cậu thì bận giết nhau. Cũng thế cả thôi! Tự nhiên tôi bỗng nhớ tới nụ cười Bayon mà chúng tôi đã gặp rất nhiều trên đất nước này. Đôi mắt lim dim, nụ cười đá nhếch mép thoang thoáng, nửa như chia sẻ, nửa như giễu cợt: ”Thôi đi nào! Kể cả sự Sống cũng như cái Chết! Chỉ có Thời gian mới là vĩnh cửu!”. Cái đất nước bí ẩn và quái quỷ này…

Pháo 105mm sư đoàn bắt đầu giã vào ngã ba chùa sau lưng địch. Tiểu đoàn 5 từ U Đông đánh bọc đít tuyến chốt này, quyết bao vây tiêu diệt gọn. Trung đoàn lệnh cho tiểu đoàn 4 xung phong phối hợp. Đại đội 4 còn bao nhiêu đạn cối 82 mang ra xài hết. Đẩy khẩu DK.82 duy nhất của tiểu đoàn lên sát đại 1 thổi thẳng vào những bụi cây ven bờ mương. Địch vỡ trận bắt đầu tháo chạy. Phía bên kia cồn, tiếng động cơ rồ lên.

Cái tăng PT.85 lùi ra khỏi ụ lủi đi thật nhanh. DK82 bắn đuổi với nhưng không trúng. Bộ đội đã vượt qua được cầu. Ngay trước hầm địch 5m là xác thằng Năm trinh sát hy sinh hồi đêm. Súng đã bị địch thu mất, thi thể găm đầy vết đạn. Tôi thấy đôi dép cao su đúc của nó còn tốt liền tháo ra xỏ vào chân, quăng ngay đôi giày thối xuống sông. Trên sân chùa, đoàn xe bò chở gạo và thương binh tử sỹ địch trúng pháo văng tung toé. Một con bò què cẳng rống lên thảm thiết. 

Có ngay một phát đạn nhân đạo dành cho nó. Anh nuôi các đại đội đi qua mỗi thằng xẻo một miếng tướng trước mặt ban chỉ huy tiểu đoàn nhưng cũng chẳng ai nói gì. Không thế lấy sức đâu ra mà đánh nhau. Đến chiều tối thì hai tiểu đoàn gặp nhau. Trận này không kể bị thương trung đoàn hy sinh 11 người.

Anh Thạnh trung đoàn trưởng (đi cùng mũi với tiểu đoàn 5) phần thì xót lính, phần thì tức tối vì sổng mất cái xe tăng, luôn mồm chửi rủa. Đúng lúc ấy, hai trong số bảy thằng tù binh to vật vã đang ngồi dưới gốc cây bỗng lao vào giật súng của vệ binh định ăn thua đủ. May mà lính ta ra tay kịp thời. Đạn cày nát cái sân đất trước mặt. Trận ấy trung đoàn 2 không bắt sống được tù binh, nhưng đã xoá sổ gần một tiểu đoàn địch.

Mai đã là 30 Tết rồi!

Chiều ba mươi Tết (năm ấy tháng thiếu, 29 là ngày ba mươi), đơn vị dừng chân ở một phum trù phú ven bờ Tonle Sap. Tôi bị Tào Tháo đuổi có lẽ do món thịt bò hầm bằng thùng đại liên trộn với nước lã uống đại dọc đường đánh nhau trong bụng. Đêm mắc võng cạnh anh Thịnh 2W, nghe Thu Phương (không phải Thu Phương bây giờ) hát qua cái radio chiến lợi phẩm mà lòng quặn lên nỗi…đi ngoài.

Bài hát này tôi thuộc và rất thích: “Em ơi mùa xuân đến rồi đó! Thắm đỏ ngàn hoa sắc mặt trời…”.(Mấy thằng lính chúng tôi sửa lại thành: “Em ơi đừng nghe nó lừa đấy! Nó ở nhà quê mấy vợ rồi…!”). Gà lợn đầy phum và đã có lệnh được phép sử dụng thực phẩm thu được của địch một cách hợp lý. Nhưng các bạn biết đấy,với mấy thằng lính chiến thì giới hạn của sự hợp lý là vô hạn. 

Thôi thì đủ các món trên trời dưới bể: Kho, xào,nướng, tái…Anh Hồng đại trưởng đại 4 còn thể hiện món tiết canh. Các đại đội đóng quân tương đối xa nhau nên hữu tuyến được nghỉ không phải dải dây. Đến giao thừa, tất cả các cỡ súng đồng loạt rộ lên. Tiếng đạn nhọn giòn như bắp rang điểm nhịp trầm trầm của hoả lực. Đạn vạch đường AK, đại liên, 12.8 từ hướng các tiểu đoàn bay vạch ngang vạch dọc bầu trời. Thậm chí còn có thể nhận ra những vệt đỏ lừ của đạn chống tăng M.72 .

Anh Lộc người Hà Tây mới về nhận nhiệm vụ chính trị viên phó tiểu đoàn 4 định kêu 2W gọi xuống các đại đội thì mọi người gạt đi: “Gọi làm gì! Địch tập kích ấy mà!”. “Mẹ chúng nó! Tập kích đường không hay sao ấy nên toàn bắn lên trời thế kia! Mai trung đoàn hỏi thì ăn nói thế nào ?”. “Ấy đừng lo! Chắc bây giờ trung đoàn bộ cũng đang bị tập kích thôi !” - Chính trị viên Thưởng khoái trá. Thực ra từ hồi chiều chỉ huy tiểu đoàn đã lệnh cho các đại đội cấm cho lính bắn bậy.

Nhưng giờ phút thiêng liêng này, ai nỡ ngăn cản những xúc cảm con người. Nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương xa xót, lòng hy vọng ở một ngày mai yên bình, lời vĩnh biệt thằng bạn cùng ra lính sáng nay ngã xuống, niềm cô đơn bất tận của đoàn người tha hương...Tất cả, tất cả những ẩn ức dồn nén ấy đã bật ra trong tiếng súng. Bi tráng và day dứt hơn bất cứ dàn giao hưởng nào. Phải chăng con sói của Jack London cũng đã từng tru lên như thế trong đêm lạnh dưới vầng trăng vùng cực?

Trong tận cùng cô độc, nhìn sâu vào lòng mình, con người trưởng thành hơn và thấy thương con người hơn. Tất nhiên chúng tôi hiểu Đất nước và Nhân dân luôn bên cạnh, nhưng trong khoảnh khắc ấy, với tôi là những giờ phút rất riêng tư.

Sau Tết được vài hôm, anh Ky, tôi và thằng Tuý 2W (hy sinh năm 1980) được lệnh đi độc lập với đại đội 2 (đại đội anh hùng) cùng sở chỉ huy nhẹ tiểu đoàn ra U Đông phối thuộc với trung đoàn 3. Địch bâu bám, quấy rối và đánh cắt giao thông lộ 5 đi Kompong Ch’nang, đẩy tiểu đoàn 8 trung đoàn 3 ra sát rìa lộ. Ở ngã tư gần thị trấn U Đông còn thấy năm sáu chiếc xe tăng T.54, M.113 của ta bị nó phục kích bắn cháy đen thui. 

Địa hình ruộng khô xen lẫn rừng thưa nên rất khó quan sát. Được tăng viện, trung đoàn 3 quay lại đuổi địch dạt vào phía rừng. Nhưng bọn này thuộc địa hình, cứ dạt ra chỗ này lại bâu chỗ khác rất khó chịu. Đã ba ngày liền, tiểu đoàn 8 và đại 2 tiểu đoàn 4 quần nhau với bọn này. Rình rập nhau từng xó rừng, bờ ruộng. Mùa khô lính khát nước gần chết. Phía trong rừng thưa lẫn ruộng chỉ có độc nhất một cái hồ nhỏ, không hiểu sao lại gọi tên là hồ Thiên nga. 

Đại 2 đánh lên rồi nằm trấn ngay bờ hồ ấy, cứ thằng nào mò ra lấy nước là bắn tỉa. Gần 2 chục thằng phơi xác. Có lần địch bắn rát hô xung phong nhưng anh Hải (người Quảng ninh – hy sinh năm 1981) đại trưởng quát lính nằm im không thèm bắn. Bọn này biết ngay là gặp thành phần không dễ chơi nên lại dạt ra phía lộ. Trên máy PRC.25 nó dò được tần số liên lạc của ta liền chửi: “Choi me Duôn!” nhặng xị.

Có thằng biết chửi cả bằng tiếngViệt. Thằng Tuý chửỉ lại mỏi mồm, bảo chúng nó có khát thì chịu khó đái ra mà uống chứ đừng dại dột lại gần cái hồ này rồi chuyển tần số theo quy định. Gần tối, đại đội 2 lại được lệnh quay ra lộ 5 đánh bọc đít. Đi đến đâu địch dạt ra đến đấy. Trên mặt lộ, anh Nguyễn Năng Nguyễn – trung đoàn trưởng trung đoàn 3 - dàn cả 5 khẩu DK.75 táng đạn xuyên vào bìa rừng chúng nó mới tháo lui…

Sơ qua về truyền thống đơn vị chúng tôi một chút: Sư đoàn 9 - Từng được mệnh danh Quả đấm thép miền đông Nam bộ có ba trung đoàn. Trung đoàn 1 mang tên trung đoàn Bình Giã. Sau trận Bình Giã oanh liệt mà mang danh. Trung đoàn 2 là trung đoàn tôi phục vụ, mang tên chiến thắng Đồng xoài. Trung đoàn 3 mang tên chiến thắng Hoa Lư. Riêng trung đoàn tôi với truyền thống “Thành đồng quyết thắng- Trung dũng kiên cường - Đi là chiến thắng - Đánh là dứt điểm” đã có tiểu đoàn 6 được phong tặng danh hiệu Anh hùng. Tiểu đoàn 4 của tôi có tới hai đại đội Anh hùng là đại 1 và đại 2.

Từ cái nôi tiểu đoàn 4, qua trui rèn chiến trận đã thành danh các tướng lĩnh như anh Sơn, anh Nguyễn... Còn biết bao các anh nữa nếu giờ phút này chưa hy sinh anh dũng hẳn sẽ là những sỹ quan rường cột nước nhà như anh Hải, anh Quang.. Đi trận với những người chỉ huy dày dạn và quyết đoán, bộ đội tin tưởng và quyết tâm hơn. Tôi nhớ anh Sơn tiểu đoàn trưởng, quân phục lúc nào cũng tinh tươm.

Khi đụng địch cũng chẳng lúc nào đi khom, trừ khi nó bắn rát quá. Thằng thông tin tiểu đoàn là tôi đi bên cạnh chẳng nhẽ lại bò, nên cũng cố hít một hơi thật sâu rồi đứng dậy. Tôi nhớ anh Quang râu (hy sinh năm 1980), khi địch nó đánh thốc vào đại đội 1 ở Âmleng. Có mỗi cái hầm nhỏ, hai anh em nhường nhau chẳng ai chịu chúi. Anh ấy dúi tôi vào rồi cứ ngồi kềnh kễnh trên miệng hố mà thét lính… Chiến thắng đến có thể bằng nhiều cách. Nhưng những hành vi cao thượng luôn khích lệ con người…

Lộ 5 đã thông, đại đội 2 và chúng tôi trở về đội hình tiểu đoàn bằng xe tải. Từ U Đông lên thẳng Kampong Ch’nang rẽ phải xuôi ra bờ Tonle Sap. Tiểu đoàn 4 (thiếu) đã cùng tàu hải quân lên Kampong Ch’nang trước bằng đường thuỷ. Đại đội 2 qua sông bằng thuyền của dân bạn, về đội hình tiểu đoàn ở Bongbang, bên kia thị xã Kampong Ch’nang. Ban chỉ huy tiểu đoàn đóng tại cái chùa lớn. Trung đội thông tin nằm trong cái nhà đúc 2 tầng cách BCH khoảng 100m. 

Về đến nơi, tôi và anh Ky được phân công xuống đại đội 1 ngay. Phải nói là sau những đòn mãnh liệt và nhanh chóng của ta, địch bắt đầu hồi lại và tổ chức phản kích. Các đơn vị nhỏ lẻ bâu bám cầm chân chủ lực ta để các đơn vị cấp sư đoàn gom quân, vũ khí, khí tài rút vào địa hình hiểm trở hòng kháng chiến lâu dài. Chiến tranh có vẻ kết thúc sau khi Phnom Penh được giải phóng.

Nhưng với chúng tôi, nó mới thực sự bắt đầu. Đêm vừa xuống đến đại đội 1, địch tập kích ngay. Tiếng súng rộ lên khắp các đại đội. Nó đánh cả vào ban chỉ huy tiểu đoàn. Đại đội 1 nằm cạnh một gò núi nhỏ mọc đầy tre tầm vông, chẹn ngang con đường đất đi về phía rừng thưa. Đại 2, đại 3, đại 4 nằm liền kề bố trí hình vòng cung lõm. Ban ngày yên tĩnh. Cánh đồng trống trải nhìn rõ những gò cây khô trơ trụi do cháy và rụng lá mùa khô. Lính tráng đi lại kiếm ăn cải thiện khá thoải mái.

Sơn “ba tai” hữu tuyến còn kiếm đâu được con ngựa liền cưỡi ra bờ sông sang thị xã Kampong Chnang kiếm rau ăn. Chiều tối cả người cả ngựa bơi vượt sông về. Tôi cũng thử tập làm kỵ sỹ. Dù lót cả cái bao tải làm yên nhưng cũng trợt cả da mông vì mồ hôi ngựa. Một lần vào buổi trưa, thằng Đồng Huế liên lạc phát hiện một con trâu đang xồng xộc chạy trên đồng, hướng địch hay vào tập kích. Tôi và nó nằm ngay trên cái phản trong lều đại đội vớ ngay AK cứ thế tương (bắn).

Con trâu đã loạng choạng lảo đảo thì lại thấy bóng người đang đuổi theo nó. Ah! Địch rồi! Thằng này tợn thật, dám tiếc con trâu à!. Thế là lại quay sang tỉa nó. Thằng Gia “cà bây”(trâu) bên cối 60 hét lên: ”Địch đâu mà địch! Ông Khanh đấy!”. Xung lực ngưng bắn ngay lập tức. Bố Khanh - (Quê Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá - đại trưởng) – đúng là bố Khanh thật, từ từ đứng dậy quan sát rồi bình tĩnh tiến đến con trâu đã chết. Sau một hồi hì hục giải phẫu, xách về một cái lưỡi trâu, một quả tim lừ lừ đi thẳng vào lều hỏi: ”Thằng nào vừa bắn đấy?” Thằng Đồng im lặng.

Còn tôi đứng ngay dậy: “Em bắn đấy! Em tưởng…”. Thế là veo một cái, cả cái lưỡi trâu trên tay cha Khanh bay thẳng vào mặt tôi. Phản ứng cực lẹ, tôi né được phát thứ nhất. Chưa định thần thì bụp, cả quả tim trâu đầy máu đập ngay vào bụng tôi rồi lăn ra đất. Dường như đã hả tức, anh ấy chửi rủa vài câu nữa rồi thôi. Thằng Đồng len lén đi nhặt chiến lợi phẩm bất đắc dĩ ấy đi rửa để chiều làm bữa. Còn tôi cởi áo (cái áo duy nhất), ra sau bụi le đái vào vò sạch máu trâu rồi đi giặt. 

Đấy là ban ngày, còn ban đêm các trung đội căng ra gác. Kể cả các trung đội thông tin, trinh sát và vận tải tiểu đoàn. Đêm nào địch cũng tập kích quấy rối. Bọn nó nằm ngoài bờ hoặc bìa rừng khô lia đạn nhọn vào đội hình chứ cũng không dám xáp vô. Thỉnh thoảng cóc oành quả M.79. Hồi đầu, khẩu DK.75 đi phối thuộc với đại 1 cứ thấy loé lửa đầu nòng chỗ nào lại phụt một trái vào đấy. Lâu ngày thành quen, ta chán không bắn lại nữa. Bọn nó đâm sợ bị ta dâng đội hình phục kích nên dãn ra xa.

Đêm mùa khô thật lạnh. Địch tập kích đã thành quen. Có những hôm không có tiếng súng bọn tôi không thể ngủ được. Tất nhiên, đứa nào gác cứ gác, đứa nào ngủ cứ ngủ. Bây giờ là khoảng giữa tháng hai năm 1979. Qua radio, tôi biết bọn Khựa đang tiến công ta trên toàn tuyến biên giới. Dường như để phối hợp, bọn Miên cũng tăng cường hoạt động. Có lần, giữa đại đội 1 và đại đội 3, có hai thằng phụ B.40 lọt hẳn vào đội hình. Lính ta thấy mặt hơi bị lạ túm lại hỏi: "Mày ở B nào?". Nó chỉ loằng ngoằng một lúc rồi phọt ra cánh đồng. Mất cơ hội bắt sống hoặc diệt địch.

Đêm khuya thanh vắng. Bầu trời quanh vị trí đứng chân của tiểu đoàn bỗng rền rĩ nức nở những tiếng than ai oán. Tôi nằm nghe cũng rợn hết cả da người. Súng đây! Đồng đội cũng ngay đây! Ông Khanh đại trưởng đại 1 đánh nhau thì hay nhưng hoá ra cũng sợ ma. Ông ấy hô thằng Dung "kỳ đà" bắn cối. Cả đại đội nhỏm dậy. Điện thoại tiểu đoàn gọi xuống hỏi tại sao các anh dùng hoả lực. Thì ra là tiếng kêu của bày công đất đi ăn đêm (thịt công đất tuyệt ngon -đúng là nem công chả phượng.

Hướng trung đội 2 tiếng trung liên của thằng Cự kéo hai loạt ngắn trước. Tiếng AK của địch đáp trả rất gần. Một lát sau nổ thêm 3 phát nữa nhưng xa hơn. Sau đó tất cả lại im lặng. Bình thường địch bao giờ cũng nổ súng trước nhưng đêm nay như thế thì quả là lạ. Anh Khanh nhỏm dậy gọi thằng Đồng cùng xuống trung đội 2 kiểm tra tình hình. Một lát sau trở về kêu các trung đội tổ chức thêm vọng gác.

Cả BCH đại đội và cối 60mm vì nằm gần nhau nên cũng phải tổ chức chung một vọng gác nữa. Cái linh cảm là lạ này bắt đầu ở đâu nhỉ? Ah! Thì ra là từ sự im lặng bất thường ấy, Rồi đêm cũng dần qua. Buổi sáng, trước hầm gác của thằng Cự trung đội 2 lù lù một cái xác Miên to vật. Nó nằm sấp úp mặt xuống đất. Lính ta định lật xác nó lên thì anh Khanh cản lại. Săm soi một lúc nữa mới phát hiện thêm một vệt máu nữa cách đấy một chút rồi mất dấu. Trở lại xác thằng địch chết, thận trọng lật lên (vì đề phòng chúng nó gài mìn) thu khẩu M.79 với rất nhiều đạn và lựu đạn. 

Bộ ka ki màu xám, cái túi mìn claymo bên trong có một cái võng nilon (cái võng này tất nhiên thuộc về thằng Cự). Một cuốn sổ ghi chép linh tinh chữ loằng ngoằng như giá đỗ. Ở moi quần còn phụt ra cả một đám tinh dịch loang lổ, chắc do mất kiểm soát hành vi trước khi về địa ngục. Khẩu M.79 đã bắn nhưng đạn mới ra khỏi nòng được một nửa vì ngã sấp. Trinh sát tiểu đoàn khi dịch cuốn sổ cho biết đây chính là bọn đặc công, đêm qua định xơi tái đại 1. Thật may là đàn công đất đã báo động cho chúng tôi. Khi đại đội bắn cối nó tưởng là bị lộ nên rút ra. 

Có thể hình dung tổ ba người của thằng trinh sát này đen đủi mò vào đúng họng RPD của trung đội 2. Chết 1, bị thương 1 vì vẫn còn dấu máu khi rút lui. Tiếng AK bắn 3 phát sau từ phía xa có thể là hiệu lệnh tập hợp đội hình của địch. Hú vía! Từ đó bố có bảo cũng chẳng thằng nào dám bỏ gác. 

Thường thì cán bộ đại đội khi chọn liên lạc bao giờ cũng chọn những thằng nhanh nhẹn tháo vát, nhỏ người trong số quân mới bổ sung. Ngoài nhiệm vụ liên lạc với các trung đội, nó còn là cả một cái kho di động, chuyên ém những nhu yếu phẩm cần thiết. Chẳng hạn có giai thoại là khi bắt đầu buổi họp quân chính đại đội. Khi đại trưởng hoặc chính trị viên muốn khao các B thì hỏi liên lạc: “Này thằng em! Thuốc rê còn hay hết?” Thế là liên lạc nhanh nhảu ngay: ”Còn anh ạ!” rồi mang ra tất cả phì phèo.

Còn nếu hỏi ngược lại rằng “hết hay còn?” thì câu trả lời bao giờ cũng là “Dạ đã hết!”. Tất nhiên trong bồng bao giờ cũng phải còn một bịch nữa dành cho những lúc anh em nhà nó lên cơn vật. Tôi cũng tập toẹ hút thuốc từ dạo đó. Hồi đầu mỗi tháng được hai gói thuốc Mai, Đà lạt, Lao động hay Vàm cỏ, tôi đều cho đi hết. Sau này đến cả thuốc rê Tây ninh đắng nghét hôi xì cũng chẳng từ.

Điếu thuốc rê sâu kèn, quấn bằng báo Quân đội nhân dân hoặc bằng lá cò ke còn một tý tóp cũng giắt lên vách, phòng khi cơ nhỡ mang ra xài tạm. Mỗi lần có nhu yếu phẩm ở nước sang là cả một ngày hội đúng nghĩa. Trà B’lao (lính gọi là trà Bố láo), thuốc lá bao các loại, đường và sữa…Đục mấy hộp sữa ra, láng chảo một ít mỡ, tiếp thêm một chút đường. Bắc lên bếp ngoáy đều cho đến khi quánh lại. Đổ ra vung xoong quân dụng cán phẳng rồi dùng dao cắt thành những miếng vuông đều nhau. Thế là xong món kẹo. Ca inox Mỹ cho trà vào, số lượng không hạn chế sau đó úp ngược cái bình tông nhựa vừa khít đầy nước sôi lên trên. 

Thế là xong món trà quắt lưỡi. Quanh cái bàn dã chiến với những món “thời trân” đó, những câu chuyện của lính bất tận liên tu…Trà trong bát hết lại nhấc bình toong lên một chút, Nước lại chảy xuống ca. Chuyện chán thì quay ra bôi bác nhau hoặc bôi bác tỉnh nọ tỉnh kia. Những câu chuyện vui về các miền quê trên khắp đất nước truyền từ đời lính nọ sang đời lính kia, mà chắc bây giờ vẫn lưu truyền trong quân ngũ. Lính Hải hưng chê lính Thanh Hoá “ăn rau má, phá đường tàu - khu 4 đuổi ra - khu 3 đuổi vào - đuổi sang nước Lào - Lào không thèm nhận - biết thân biết phận - lập quốc gia riêng- thủ đô thiêng liêng – là vùng Nông Cống – bài ca truyền thống - dô tá dô tà….”. 

Lính tỉnh Thanh đốp lại dân Hải Hưng là loại đội nón cho. “Nước lụt tháng 3, ngồi trên nóc nhà hát bài ca hy vọng…”. Chuyện này bắt đầu là vì hồi nước lụt năm 1971. có gia đình ở Hải hưng leo lên nóc nhà. Khi trực thăng bay qua thả bánh mỳ cứu trợ thì ông bố nhanh trí giằng nón đội cho con để lấy thêm một suất nữa…Những chuyện vô thưởng vô phạt như thế mà đôi khi máu đồng bào nổi lên là quay ra táng nhau ngay. Tỉnh nào cũng có ”thành tích” nhưng khốn khổ nhất vẫn là Nghệ an và Thái bình… Ghét nhau tức nhau lúc ấy thôi nhưng khi lâm trận mới thấy liền như ruột thịt.

Tôi được điều xuống đại đội 3 trực máy vì một lý do rất vớ vẩn. Thằng liên lạc mới (không nhớ tên) của anh Đạt đại trưởng nhặt được ở đâu đó quả đạn cối 81 lép mang về định kẹp thêm lựu đạn đánh cá. Anh Đạt đang nằm võng trông thấy hét nó mang đi vứt ngay. Thằng ngu đấy giật mình ném đi luôn thật.

Thế là :“Uỳnh!”. Đạn thì nặng, tầm ném gần. Đại trưởng và thông tin bị thương, liên lạc hy sinh. Đang thiếu người, anh Thưởng, anh Sơn tiểu đoàn tức lộn tiết nhưng đành động viên anh Thoan xuống nhận nhiệm vụ đại đội phó. Tôi từ đại đội 1 sang đi với đại 3. Nói thêm một chút về anh Thoan, người Thanh Hoá, lính 74 đang mang hàm chuẩn uý. Sau những trận đánh ác liệt ở cầu Prasaut, anh ấy không nhận nhiệm vụ nữa. Tiểu đoàn rút lên kỷ luật Đảng nhưng vẫn để đi kèm tiểu đoàn bộ.

Lính tráng nói kháy gọi là “tham mưu tụt tạt” hay là “thành phần đọc báo” anh ấy cũng mặc kệ. Lần này không nhận nhiệm vụ không được nên đành xuống đại đội 3. Một lần trong đêm, tôi gọi về tiểu đoàn kiểm tra đường dây như thường lệ. Thấy tay quay máy nhẹ và không có tín hiệu biết ngay là dây đã đứt. Tôi gọi thằng Phụng 2W (người Huế- hy sinh năm 1982) lên máy rồi trở dậy, khoác súng đi nối dây.

Lại còn cẩn thận mang thêm cả bao xe (bao đựng băng đạn AK lính mang trước ngực). Xin anh Thoan thằng liên lạc đi cùng nhưng anh ấy không cho.Tôi bảo thằng Phụng gọi về tiểu đoàn thông báo các chốt gác để khỏi bắn nhầm rồi lên đường. Chỉ huy sở tiểu đoàn cách đại 3 khoảng 1,5 km. Đêm tối như mực. Tay tôi cứ lần theo dây mà đi thật chậm tìm chỗ đứt. Thỉnh thoảng lại co kéo dây thật nhẹ nhàng để kiểm tra. Nếu thấy dây điện thoại co về dễ dàng thì hãy cẩn thận, vì đã đến gần chỗ phải nối. Ai biết được dây đứt vì lý do gì?

Bọn Miên thường chơi trò cắt dây điện thoại rồi nằm phục tại vị trí cắt hoặc gài mìn. Điều này anh Hoạch, anh Tuấn “còi” đã dạy chúng tôi từ hồi còn nằm chốt biên giới. Lần mò dần nhưng không thấy dây đứt chỗ nào. Đã nhìn thấy nóc chùa tiểu đoàn mờ mờ trên nền trời sao. Vọng gác thông tin đây rồi. Tôi cúi người thật thấp rồi giặng hắng: “Thông tin đây! Đừng bắn!”. Anh Hoạch ra đón. Tôi thông báo tình hình. Anh Hoạch nhận định có thể dây bị đứt ngầm rồi giục tôi về làm cọc âm. Khi ta nối một dây vào cọc âm thì máy điện thoại vẫn có thể liên lạc được. 

Tất nhiên chất lượng liên lạc có kém hơn. Về đến đại đội, tôi lôi que thông nòng AK ra lấy xẻng đóng xuống đất làm cọc âm. Nhưng vẫn không liên lạc được vì đất mùa khô độ dẫn truyền điện tích rất kém. Thế là tôi mang ra ngay cây dừa, đóng vào thân cây. Tiếng chan chát vang lên trong đêm làm anh Thoan cáu: “Thôi ngay đi! Địch nó bắn vào bây giờ!”. Tôi cũng phát khùng. Phần thì mệt, phần thì tức chuyện không cho người đi cùng lúc nãy liền vặc lại: “Đây là nhiệm vụ của tôi! Tôi không thể không nhận!”. “Ah! Thằng cà chớn...!” 

Anh ấy chạm nọc văng vung xí mẹt, đòi đuổi tôi về tiểu đoàn ngay. Đến lúc này thì tôi cũng cóc cần gì nữa. Liên lạc đã thông, tôi quay máy thẳng về báo cáo với trung đội. Sau vụ đó vài hôm, thấy căng thẳng, anh Nhương (lúc này đã là trung đội phó) lại chuyển tôi sang đại đội 1.

Cuối tháng 2 lại có lệnh hành quân. Đơn vị rời Bongbang sang Kampong Ch’nang bằng tàu hải quân. Đến thị xã, tôi nhận được một lúc 14 lá thư. Thư gia đình, thư bạn bè…Đây là lần đầu tiên những lá thư đến với tôi. Chúi vào một góc kín đọc chậm từng lá. Nước mắt lặng lẽ chảy… Làm thế nào được, năm đó tôi mới 19 tuổi đời. Không có nhiều thời gian cho những xúc động riêng tư, tiểu đoàn lên xe theo lộ 27 tiến về ga Rômeas.

Đây là con lộ đất dài khoảng 30 km.

Phía trong khu vực ga, địch đang bao vây tiểu đoàn 6 và một đại đội của trung đoàn pháo 42 (105mm). Đêm đêm nó đánh vào tận chân pháo. Pháo thủ phải đánh nhau như bộ binh. Nhiều lần phải hạ nòng xuống bắn thẳng. Thậm chí các đơn vị địch còn dùng pháo hiệu bắt liên lạc với nhau để hiệp đồng. Bọn này thuộc quân khu Tây nam, đang bị ta dồn vào các thung lũng rừng núi kẹp giữa Kampong Ch”nang và Kampong Speu – thánh địa cuối cùng - nên điên cuồng chống trả. 

Đường đất đỏ mùa khô bụi mù mịt, nghẹt hết cả mũi. Xe chạy được nửa đường có lệnh xuống xe hành quân bộ theo đội hình chiến đấu. Đại đội 2 đi đầu. Đại 3 sườn bên phải. Đại 4, tiểu đoàn bộ đi giữa cùng xe tải. Đại 1 đi chặn hậu. Đại 2 bắt đầu chạm địch. Chúng nó không đối đầu, dạt sang bên phải. Cứ thấy tiếng xe nổ máy rì rì ở đâu là bắn đạn nhọn về phía đó nhưng cũng không dám dàn mặt. Mặc kệ! Xe cứ chạy, tiểu đoàn cứ tiến. Phát đạn duy nhất bắn về phía địch là quả M.72 của một tham mưu trung đoàn đi cùng đội hình đơn vị.

Bố này mang nặng muốn quăng bớt đi cho nhẹ. Cách ga Rômeas 1 km, đến cầu cháy thì gặp trung đội chốt đường của đại 11 tiểu đoàn 6. Tôi gặp thằng Hiệp. Nó vẫn mặc bộ quân phục màu vàng đất thời huấn luyện. Trên tay là khẩu B.41 “ống loe”. Cùng chúng tôi năm ấy ra trận có thằng Tuấn Anh, thằng Bình cáo, thằng Thọ. Mỗi lá thư của chúng tôi gửi về đều là thư chung cho ngần ấy gia đình. Khỏi phải nói chúng tôi đã mừng rỡ như thế nào. May mà vẫn chưa có đứa nào bị thương hoặc hy sinh. 

Thằng Hiệp kể rằng trung đội chốt đường của nó đã nằm đây 4 ngày trời. Rình rập tỉa nhau với địch quanh cái cầu cháy này. Bọn nó muốn chiếm và phá huỷ cầu để ngăn cơ giới ta nhưng không được. Chuyện ngắn vài câu tôi lại mải mốt chạy bước theo đơn vị. Chiều tối tiểu đoàn 4 nghỉ luôn ở vị trí đại đội pháo 105mm. Lính pháo mấy ngày lạnh lưng hở sườn lo sốt vó chống địch, bây giờ thấy chúng tôi đến, lại được tiếp thêm đạn pháo thì sướng quá. Còn bao nhiêu trà lá thuốc thang mang ra chiêu đãi mệt nghỉ. Thằng Bình cáo nghe tin tiểu đoàn 4 đến tăng viện, mò sang chỗ tôi chơi. 

Hai thằng trải nilon nằm trên mặt bờ ruộng nói chuyện. Được mươi phút thì địch lại đánh rát vào đại đội 11. Tiếng súng rộ lên. Nó trở dậy chạy về đơn vị. Rừng mùa khô đang cháy dữ dội. Lửa hắt lên trời những vầng sáng hồng rực, nhìn rõ cả từng cái cát tút rơi trên đường.

Sáng hôm sau, tiểu đoàn 4 nằm ở sân ga đợi lệnh. Ga Rômeas, cũng như mọi nhà ga nhỏ trên trái đất này, với đủ đường ke, nhà chờ và tháp nước…Con đường sắt heo hút chạy giữa rừng dầu thưa, mùa khô lá rụng, không biết về đâu. Nhà ga một tầng, lợp ngói đỏ. Tường lỗ chỗ vết đạn to nhỏ. 

Phía trong nhà cũng cửa tò vò, ghi sê bán vé. Những vật thể kiến trúc còn lại như nhắc nhở về một thời yên bình từng hiện hữu nơi đây. Ngắm nhìn chúng, tôi thấy buồn buồn…Trên sân ga, hàng cây keo cổ thụ toả bóng râm mát. Mỗi khi gió mạnh thổi qua, những quả keo chín loăn xoăn quay vòng rụng xuống. Hướng tây ga Rômeass là một trái núi nhỏ, thấp, cách ga khoảng 3 km. 

Trung đoàn 1 đang đánh địch ở đó. Trên núi, nó có một khẩu pháo cao xạ 37mm hai nòng hạ góc tà âm bắn điên cuồng hòng cản bước sư đoàn. Cứ “Bốp bốp…khục khục” suốt. Trận địa pháo 105mm của trung đoàn 42, được chúng tôi hộ tống xe tiếp tế hôm qua, bắt đầu bắn không tiếc đạn lên núi.Tại giao lộ đường sắt và đường 27, cán bộ quân lực và chính sách trung đoàn 1 đang vạch võng thương binh,tử sỹ nhận người. Tiểu đoàn 4 theo đường sắt lên hướng tây bắc 1.5 km rồi tạt xuống lòng một con suối cạn chuẩn bị vu hồi. Hai bên bờ suối, le mọc dày rịt.

Thân nọ đan thân kia như một hàng rào không thể vượt qua. Toàn “cồ” túm được một con tê tê (con trút) ngay trong lòng suối định mang theo làm thịt nhưng ai cũng bảo vứt đi. Đi đánh nhau ăn thịt trút, ăn rùa và nhất là cơm khê thì lính rất kiêng, kể cả cán bộ tiểu đoàn. Thằng anh nuôi mà sơ ý để cơm khê là nghe chửi vỡ mặt rồi chuẩn bị cọ nồi mà đi nấu nồi khác. Được thả, con trút đang cuộn mình từ từ duỗi ra rồi chậm chạp lủi vào một cái hốc.

Khẩu 37mm của địch bây giờ không thấy bắn nữa. Thông tin trung đoàn thông báo là E1 đã tịch thu được nó rồi. Thu nốt cả cái xe ô tô kéo pháo. Tiểu đoàn tôi lại được lệnh quay lại nhà ga, theo đường bò bắc lộ 27 tiến giữ sườn cho trung đoàn 1. Đường bò là loại đường dân sinh. Nông dân Campuchia thường dùng loại xe gỗ bánh cao do đôi bò kéo để vào rừng, lên rẫy.

Những con đường do bò kéo bao giờ cũng có hai vệt bánh xe, ngang dọc khắp rừng. Chiều tà, nghỉ giải lao tại một cái nhà tole có cần anten cao vút địch bỏ chạy chưa kịp dỡ. Anh Trung tham mưu tiểu đoàn bảo đây chính là sở chỉ huy sư đoàn địch. Tôi gặp thằng Thọ - bạn cũ - trong đội hình tiểu đoàn 6 đang hành quân qua. Khẩu cối 60 cồ cộ trên vai, đầu chụp cái mũ nhựa ép dạng mũ sắt của QLVNCH cũ, không biết nó kiếm được ở đâu.

Nó thả khẩu cối bịch xuống đất, xin tôi hớp nước. Nói được dăm ba câu chuyện rồi lại vác cối lên vai, lùi lũi đi theo đội hình. Lại tiếp tục lên đường. Đi mãi đến sâm sẩm tối, đơn vị dừng lại ở một cái phum cũ, rừng vây xung quanh. Không còn nhà cửa, chỉ có thể nhận biết là nơi từng có người ở qua những cây me, cây chùm ruột lẫn trong những hàng rào đổ nát. Các đại đội lặng lẽ bố trí đội hình. 

Lại cấm đốt lửa, chúng tôi bẻ cơm vắt được phát hồi trưa, chấm với bột gia vị cố mà nuốt. Đêm trong rừng núi tịch lặng và bí hiểm. Trên những cây dầu lớn, trong những hốc người ta đục vào thân cây đốt để lấy dầu, ánh lửa chập choạng ma quái. Đâu đó phía xa, vài tiếng súng lẻ vang lên rồi tắt ngấm. Sau tiếng súng, không gian như càng im vắng hơn. 

4h sáng. Dậy! Tiếp tục hành quân. Lần này đơn vị bỏ đường lộ cắt xiên sang tay phải vào rừng. Tốc độ hành quân chậm do trinh sát phải dò dẫm bám địch. Đi được một lúc, sau khi vượt qua một con suối có một bờ cao dốc đứng, đội hình dừng lại. Đằng trước có tiếng chặt cây chan chát cùng tiếng đào đất thình thịch. Địch đang chặt cây làm hầm chiến đấu. Tiểu đoàn báo về trung đoàn đã phát hiện địch rồi triển khai đội hình bí mật tiếp tục bám dần lên. Đại 3 vượt sang bên phải sẵn sàng đánh sườn. Đã gần địch lắm rồi. Trong khi đặt đạn, không biết đứa nào bên cối đại 4 để gánh đạn va vào mâm cối đánh “cốc” một tiếng. Tiếng chặt cây lập tức im bặt. “Cóc! Oành…!”. Quả M.79 của địch bắn thăm dò trúng một thân cây loé xanh nổ. Không ai bắn trả. Tất cả lại im lặng. Tôi nghí thầm bọn này ghê gớm đây! Không gọi 2W vì sợ lộ, tiểu đoàn cho truyền đạt bò lên các đại đội lệnh khi phát hiện địch cho hoả lực nổ súng đồng loạt áp đảo.

Tổ truyền đạt vừa về đến tiểu đoàn thì “Ùng ! Uỳnh!”. B.40, B.41 thi nhau nổ tức ngực. Tiếng đạn nhọn ré lên ngay tức thì. Trời đã mờ sáng. Lính đại 1, đại 2 cứ thấy chỗ nào có ụ đất mới hoặc cành cây gãy còn tươi lù xù trên đất là thổi B.40, B.41 vào đấy. Lối tiếp cận quá gần cùng hoả lực mãnh liệt làm cho bọn nó choáng. Sau khoảng 15 phút là tháo chạy ngay. 

Bỏ lại hơn chục thằng toi mạng trên dãy hầm mới đào đêm qua. Có thằng nằm vắt nửa trên nửa dưới hầm, cánh tay và gần nửa người bị hơi nổ tuốt đi. Cối 82 đại 4 mới bắn chi viện hơn chục trái đã phải tháo súng lên theo bộ binh. Truy kích thêm nửa cây số nữa đến một cái phum. Địch chạy tuốt vào đấy rồi tổ chức chống trả. Cối 60 của địch trong phum hoàn hồn, bắt đầu lên tiếng. Hai khẩu cối 82 của đại 4 bắt đầu giã vào phum. Mấy thằng lính cối khôn vặt tranh nhau tháo đạn để khỏi mang nặng. Hễ cứ nghe tiếng M.79 hay tiếng cối ta, cối địch đề pa “Coong!” một tiếng, y như rằng tiếng đạn nhọn lại câm bặt. Nổ “Oành!” xong một cái thì lại rồ lên như xé vải.

Đạn cối địch rơi ngay trúng đội hình tiểu đoàn bộ. Thằng Khoát người Thanh Hoá lính vận tải bị một quả cối 60 nện giữa đỉnh đầu. Phần sọ biến mất. Chi còn xương hàm dưới với khúc đứt đầu tuỷ sống nám đen thuốc nổ. Đại 1, đại 2 vẫn chưa vượt qua được trảng trống trước phum. Đúng lúc đó, phía sau đội hình, tiếng súng địch toang toác rộ lên rất gần. Chúng nó đánh bọc đít. Bọn này cơ động nhanh thật. Anh Sơn điều một trung đội của đại đội 3, cùng với thông tin, trinh sát tiểu đoàn bộ vận động ra phía sau chặn địch. Lúc trung đội của đại 3 vận động ra phía sau, có tiếng lao xao: “Đại 3 chạy kìa!”. Anh ấy vằn mắt nhìn quanh.

Tôi tin là nếu phát hiện thằng nào vừa lên tiếng, ông ấy bắn cho phọt óc. Chúng tôi bắn dữ dội về phía sau, mặc dù không nhìn thấy địch. Phía trước, bộ đội đã bám được vào rìa phum. Tiếng súng thưa dần. Cối 82 quay nòng giã về phía sau mấy trái. Bọn bọc đít biết tình hình không ổn nên cũng chuồn nhanh. Tiểu đoàn 4 đã làm chủ trận địa.

Đơn vị dừng lại củng cố vị trí đứng chân sau 2 ngày đánh địch, vượt quãng đường gần 50 km. Anh nuôi triển khai nấu cho bộ đội ăn cơm nóng. Đang mùa khô, lính ăn 8 lạng một ngày (mùa hè 7 lạng gạo/ ngày). Thông tin còn trên tiểu đoàn 9 người, vị chi là 2.7 kg, vừa xoẳn cái ruột tượng tôi mang. Khốn nạn hệt mấy thằng lính cối lúc nãy, tôi nhanh chân đến soong quân dụng của thằng Cầm điếc trút tuột hết gạo vào.

Nhẹ mang đi được mấy ký. Thậm chí còn nháy mắt với thằng Ban trố đến sau. Trừ các trung đội cảnh giới vòng ngoài, lính ta bắt đầu lục lọi kiếm ăn. Tôi lục được một chum đường thốt nốt, múc đầy một ca inox rồi vẫy tay gọi chúng nó. Sau một loáng chỉ còn lại cái chum không. Của này buổi tối lạnh nấu một nồi chè thì cả trung đội ấm chân răng. Còn cái gì đây thế nữa? Ah! Một dãy toàn chum đựng muối đầy ặc. Muối biển tải lên rừng để kháng chiến lâu dài đây mà. Mấy thằng xúm lại, hè nhau lăn ra dốc hết xuống suối. Lia thêm loạt AK, mấy cái chum vỡ toác.

Thế là đi ráo cả cặp phạm trù nội dung lẫn hình thức. Xin các nhà đạo đức đừng vội kết án. Chiến tranh là thế đấy! Tiểu đoàn tôi hôm nay đã mất đi ba người nữa rồi…Trên một căn nhà khác, tôi tìm được một con dao cắt kính. Con dao nhỏ chuôi gỗ đen bóng khắc nhiều hoạ tiết, chuốt cong như một mái chùa xứ này. Có thể nói là một tác phẩm tuyệt đẹp. Tôi dám chắc nghệ nhân chế tác ra nó chỉ để chơi mà thôi, chứ không phải để rạch cắt trên bất cứ tấm kính thô lỗ nào. 

Gia tài bẻ bỏng trong ba lô của tôi thêm một món đồ. Nào! Thử kiểm kê xem nó có những gì: Một bộ quần áo lính vải kaki gabađin Nam Định (đang mặc trên người), thêm một cái quần dài vải chéo đã mủn vài chỗ. Đôi áo lót trước kia là màu trắng. Hai cái quần đùi giải rút lính, rộng thùng thình, chừa rất nhiều tự do cho đối tượng mà nó cần bảo vệ. Một cái võng vải còn khá tốt lột được của địch. Tấm nilon dày phát từ thời huấn luyện. Hai cuốn truyện lấy được gần phà Niek Luong hao gầy dần đi theo năm tháng, vì ngoài chức năng phục vụ văn hoá, nó còn phải phục vụ thêm một số nhu cầu bắt buộc khác.

Cái địa bàn Mỹ anh Phát tôi (lính trinh sát cũ bị thương năm 75) cho trước khi vào bộ đội. Bịch thuốc rê và tập thư bọc kỹ trong túi nilon quý hơn vàng. Mấy miếng liều cối 60 và sợi dây inox để kéo lửa khi trời mưa ẩm và để bôi dán ghẻ. Năm viên đạn vạch đường (tích trữ do sợ bị lạc). Cái bát sắt B.52 và đôi đũa. Bây giờ có thêm con dao cắt kính nữa. Hết! Thêm máy móc, súng đạn, tất cả gọn nhẹ trên người 16 kg, không kể đôi dép đúc lấy của thằng Năm đã hy sinh dưới chân. Như thế thôi nhưng còn khá giả hơn khối thằng trong đơn vị.

Vâng! Sẽ tiếp tục! Như không bao giờ ngưng nghỉ, như những cuộc hành quân tháng 3 tháng 4 mùa khô năm 79. Sư đoàn 7, sư đoàn 341 ở hướng nam và tây nam, sư đoàn 9 chúng tôi theo hướng đông bắc tiến vào Âm leng - chiến khu của Khơmer Đỏ. Có thể hình dung khu vực này giống như một tứ giác lồi.

Một cạnh là tuyến đường sắt từ ga Rômeas đến ga Pursat dài khoảng 100 km với các ga Thơmay, Bâmnak, Kâmrenh… mà lính sư 9 không thể nào quên. Một cạnh là rìa phía tây tỉnh Kampong S’peu. Một cạnh là lộ 56 chạy từ thị xã Pursat đi thị trấn Leach, đến tận biên giới Thái lan. Cạnh cuối cùng là một lũng núi rộng lớn nằm kẹp giữa vùng núi tỉnh Kôcông và dãy núi Ôrăng S’vai, thông từ Kampong S’Peu cho đến Leach - nơi hầu như toàn bộ quân khu Tây nam của địch bị ta dồn vào đấy.

Sở dĩ nhớ được những điều này bởi vì tôi là thằng rất khoái bản đồ, địa bàn. Là lính thông tin, luôn được đi với chỉ huy sở khi hành quân nên cứ mỗi lần tiểu đoàn trưởng, tham mưu hay trinh sát pháo binh xem bản đồ, vạch tuyến đi là tôi cứ sán đến le lé mắt xem ké. Tôi dần học mót được khối điều. Chẳng hạn cách xác định địa điểm đứng chân theo các mốc chuẩn tự nhiên của địa hình.

Các đường bình độ sít sịt dính nhau như thế kia là chuẩn bị leo dốc hộc cơm. Cái con suối vẽ vạch đứt quãng như thế này thì chỉ có nước vào mùa mưa. Còn hôm nay cái bút chì đỏ chỉ huy tiểu đoàn vẽ một mũi tên dài độ nửa gang tay trên tấm bản đồ bọc nilon tỷ lệ 1/15.000 thì yên tâm là đi 15 km sẽ được nghỉ…

Mùa mưa đã gần tới. Phải đập tan phiên hiệu các đơn vị địch, phá huỷ các căn cứ hậu cần của chúng, tạo thế đứng chân trong mùa mưa là nhiệm phải hoàn thành gấp rút. Chúng tôi đi như bị phát cuồng. Hành quân cả ngày, đôi khi cả đêm. Càng vào sâu trong thung lũng đi càng gấp. Đụng địch ở đâu đánh địch ở đó. Một đêm trong khoảng trung tuần tháng 3, sau vài lần chạm súng lẻ tẻ với bọn trinh sát, chúng tôi đã tiến gần tới Âm leng. Con đường cát trắng, mờ mờ bụi dưới ánh trăng. Hai bên là rừng thẫm tối. Đến gần sáng thì đại đội 3 chạm địch.

Anh Thoan đại đội phó đi cùng trung đội đi đầu lĩnh đủ một phát M.79 bi. Lính tản ra nằm xuống bắn loạn xạ rồi bò lui, kéo được anh ấy vả thằng liên lạc về. Ngực và bụng lỗ chỗ vết bi, máu ra đẫm ướt cả cái võng, anh ấy khò khè được vài tiếng, kêu “Mẹ…!” rồi tắt thở. Hy sinh hai, bị thương một. Ơi anh Thoan! Hãy yên nghỉ! Quên đi những phút nổi khùng giữa hai anh em mình nhé! Quên đi những lời đàm tiếu hay những phút yếu lòng! Đơn vị mình mà túm được cái thằng bắn phát M.79 ấy sẽ mang nó ra tế vong linh Liệt sỹ! Tiểu đoàn tôi quân số vãn dần đi. 

Mỗi đại đội còn hơn ba chục tay súng khi xung phong là đã thấy vững lòng. Nhưng trường hợp hy sinh của anh Thoan làm tôi suy nghĩ mãi. Con người ta ai cũng có đôi khi cảm thấy sợ hãi, nhưng lại có những lúc lao lên dấn thân đi đầu như anh chăng? Bản thân tôi cũng tự thấy mình đã mừng rỡ một cách khốn kiếp khi được chọn vào trung đội thông tin nhiều cơ hội sống sót hơn. 

Cả đến bây giờ vẫn thấy là mình đã may mắn mới tệ! Chúa ơi! Sao Người không tạo những cơ hội cho con người được soi trong những cảm xúc yên lành, để được thấy rằng mình tốt đẹp và tử tế.

Chiến tranh quả thực là một tấm gương buồn. Tôi bỗng nhớ một bức tranh khắc gỗ của một tác giả nước ngoài vẽ người lính Việt. Bố cục là một cái mũ sắt trùm lên gương mặt trầm tư đang cúi xuống ống sáo trúc. Ngang vai sau lưng, vạch qua nòng súng là một đàn cò giăng giăng… 

Hay người lính Nga trong bộ phim vượt sông Dniep. Cả cánh đồng lúa mì đang cháy. Gã mujich phủi tàn lửa ở ống quần, tuốt một bông, xoa xoa trong bàn tay to bè thô kệch cho sạch vỏ rồi hất vào mồm…Thân phận quá! Vì trước khi là lính, tôi và họ đều là những con người bình thường.

Đêm ấy đơn vị triển khai đội hình tại chỗ chờ trời sáng. Đó đây, trên các hướng khác thỉnh thoảng lại rộ lên tiếng súng, càng gần sáng càng dữ dội. Có cả tiếng động cơ ô tô rì rì, không rõ xe ta hay xe địch. Tang tảng sáng, mờ mờ địa hình địa vật. Cối 82 đại đội 4 bắt đầu bắn. Bắn thì cứ bắn thế thôi, chứ có xác định được vị trí địch đâu. Các đại đội giữ sườn cho nhau. 

Bộ binh bám đường tiến dần lên. Lên qua chỗ địch phục kích hồi đêm 200m, cả tiểu đoàn lại chúi xuống. Hai bên rìa đường phía trước, hai khẩu đại liên địch bắn chéo cánh sẻ rèn rẹt. Lính tráng hồi này cũng hư, cứ gặp hoả lực địch hơi mạnh một chút là nằm kềnh ra, ỷ vào hoả lực tiểu đoàn. Rừng dày thế này, DK.82 xếp xó mặc dù đã giá súng. Hai khẩu 12.8mm trong phòng ngự thì lợi hại, hoặc ngỏng nòng bắn trợ chiến khi xung phong cho nó hách, chứ còn trong trường hợp này cũng vô dụng. 

Tất cả trông chờ vào 2 khẩu đội cối 82 và mấy khẩu cối tép dưới các đại đội. Đúng lúc đó, có tiếng động cơ xe tăng rền rền phía sau. Từ đâu lòi ra 4 cái T.54 của lữ đoàn 22, phun khói mù mịt. Trưởng xe tháo mũ công tác gào lên hỏi bộ binh tình hình địch rồi lại thụt vào xe. Bốn chiếc tăng vượt qua đội hình, càn qua cả những bụi cây nhỏ xộc thẳng vào vị trí địch. Bộ đội bám liền ngay theo sau. Pháo 100 và trọng liên 12.8 mm trên xe nổ điếc tai. Rừng rung rinh nghiêng ngả. Mấy thằng lính chạy gần nhăn cả mặt, há cả mồm. Tiến được một lúc nữa, mấy chiếc tăng tự nhiên dừng lại. 

Thằng xạ thủ 12.8mm trên tháp pháo quay xuống hỏi các anh đơn vị nào? Khi biết chúng tôi là trung đoàn 2, bọn tăng ơi ới gọi nhau trở lui ngay lập tức. Thì ra bọn này có lệnh đi phối thuộc với trung đoàn 1 lại nhầm đường sang hướng đơn vị tôi. Đường bò ngang dọc trong rừng. Chưa biết tiến hướng nào thì nghe chúng tôi nổ súng dồn dập nên đổ xô đến. Ôh! Cảm ơn chiến hữu về sự hiệp đồng bất ngờ này! Bọn lính chúng tôi quen gọi những trận chiến đi qua theo đặc điểm riêng của nó. Chẳng hạn trận “rừng tràm”, trận “cầu cháy”…

Và lần này là trận “xe tăng nhầm đường”. Một đám dân bạn rách rưới cùng mấy chiếc xe bò đi ngược về hướng đơn vị. Tiếng mõ bò lốc cốc. Mấy người đi đầu huơ khăn cà ma rối rít rồi kín đáo chỉ về phía sau. Chúng tôi dạt sang hai bên đường cảnh giác. Y như rằng! Bọn địch bám theo dân thấy động lủi sang hai bên rừng, bắn mấy loạt réc réc rồi biến mất. Một cái trảng nhỏ xuất hiện bên tay trái.

Ngô mọc mới đến ngang thắt lưng tạo một khoảng xanh giữa vùng rừng cháy. Thẩp thoáng trên triền bình độ thấp trong hõm núi, cách chúng tôi chừng 300m là mấy mái tôn xám nhạt. Vết bánh xe tải ngang dọc trên bãi. Đây là cứ của địch rồi! Tiểu đoàn dàn hàng ngang tiến đến. Bộ binh đi đầu bắn như vãi đạn. Trung đội đi đầu đã lọt hẳn vào trong khu vực mà không hề có tiếng bắn trả. Địch đã bỏ chạy. Vào đến nơi mới thấy đây là một căn cứ hậu cần quá rộng.

Một chiếc xe Hồng Hà (xe tải quân sự TQ) vẫn còn đang nổ máy. Đường đi lối lại phong quang. Thậm chí trong bếp lò nấu cơm, than vẫn còn hồng. Trong các nhà tôn, chất đến gần mái toàn là vũ khí các loại. Có đến hàng vạn khẩu súng. Thôi thì đồ Mỹ đủ loại: AR.15, M.16, M.72, M.79, đại liên 30 hai càng…Đồ Trung quốc cũng oách: AK, CKC, K.63, rồi lựu đạn chày, nụ xoè, kíp nổ, thuốc nổ các loại…Chỉ huy tiểu đoàn báo ngay về trung đoàn rồi bố trí đội hình các đại đội bảo vệ kho súng thu được.

Hai hôm sau, xe vận tải sư đoàn đến bốc dỡ ngay. Lính tiểu đoàn 4 chốt ở đó cứ tuỳ tiện mà trang bị thêm.

Của một đống tiền, thật tiếc! Mười ngày bảo vệ kho súng là mười ngày xả hơi của đơn vị. Vừa được thành tích, vừa được nghỉ ngơi, trong khi các đơn vị khác đi càn rã cẳng. Quanh khu vực đứng chân, rừng dâu da đất đang mùa, chín từng chùm lúc lỉu màu hồng sậm. Tôi khoái cái vị chua ngọt thanh thanh của nó. Nhưng anh Ky bảo tọng vừa thôi, không thì sốt rét ốm đòn bây giờ! Cha này người Thái trắng, quê huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Anh ấy hơn tôi một năm lính nhưng cái gì cũng biết.

Vận tải sư đoàn chuyển xong kho vũ khí, chúng tôi lại lên đường. Thời tiết càng về cuối mùa khô càng khốc liệt. Rừng dầu, rừng khộp rụng lá, nắng chói chang. Triền rừng bốc hơi nóng, rung rung dưới nắng. Thảm mục và cỏ gianh dưới chân rừng đã cháy hết, liếm cháy cả bên ngoài lớp vỏ những thân cây.

Chúng tôi hành quân, quệt ngang quệt dọc một lúc là mặt mũi quần áo thằng nào thằng nấy lem nha lem nhem, đen sì như hề. Nhưng đáng sợ nhất là thiếu nước. Mang nặng quá, những thứ khác có thể quăng đi chứ bi đông nước thì dứt khoát là không. Đi rạc rài nửa ngày không có nước mà gặp một lòng suối cạn, lớp cát đáy còn hơi âm ẩm là cả một niềm hạnh phúc bất ngờ. 

Dùng xẻng bộ binh khoét xuống lòng suối khoảng 1m. Ngồi chờ nước ri rỉ ứa ra, lờ lờ đục. Chúng tôi giải khát luôn bằng thứ nước ấy, tích trữ trong bi đông cũng bằng thứ nước ấy. Ấy thế mà không đứa nào bị tháo dạ mới lạ. Một lần, cũng trong tình huống khát nước như thế, chúng tôi tìm thấy một hủm nước trong vắt giữa lòng suối cạn. Trên bờ rặng le ngả bóng xanh om. Quả là may mắn! Chúng nó uống và lấy nước chán chê. Vũng nước đã gần cạn.

Đến lượt mình, tôi vục mũ đưa lên miệng làm một hơi sảng khoái cho đã. Nước mát lạnh và ngọt đến không ngờ. Khi vục bi đông để lấy nước dự trữ, tôi bỗng thấy cái gì trăng trắng dưới đáy. Định thần nhìn kỹ lại thì cha mẹ ơi! Cái đầu lâu người trắng nhờ đang nhìn tôi bằng hai hốc mắt vô hồn mọc đầy rêu. Hàm răng nhe ra như nhạo báng. Tôi giật mình bật ngửa hét toáng lên. Mấy thằng chạy ào xuống, ngó vào vũng nước lom lom rồi cũng thấy sởn da gà. Hai hốc mắt sâu hoắm của cái sọ người đang hấp háy, bỗng dựng lên một hàng mi dài thượt như nổi giận. 

Một thằng can đảm nhất bẻ vội cành le khô chọc xuống, hẩy cái sọ lăn đi. Từ trong hốc xương mắt, mấy con cá nhỏ bị quấy rầy vọt ra. Kinh quá! Hoá ra mấy con cá quậy bên trong làm rêu trong hố mắt toé ra. Ấy thế mà cũng chẳng ai đổ bi đông nước của mình đi. Đằng nào thì cũng đã vào bụng rồi! 

Dùng thứ nước này còn hơn là uống nước đái. Nói thế bởi vì chúng tôi đã có những lần phải đái ra mà uống. Nắng như thiêu đốt. Hành quân mệt nhọc. Mồ hôi rịn ra giọt nào khô ngay giọt đó, thấm vào quần áo cứng như mo nang. Môi đã nứt nẻ hết cả.

Trên bản đồ còn tới 5km nữa mới đến nguồn nước. Thế là tè vào bi đông mà uống để có đủ sức mà lết đi. Mà nước tiểu có nhiều nhặn gì cho cam! Cố mà rặn may chỉ được chục nắp bi đông, đỏ quạch, mặn và nồng không chịu được. Lại một lần khác, đơn vị cũng gần như lả đi vì khát nước thì đại đội 3 phạt hiện một con trâu. Trời cứu ta rồi! Hai loạt AK vang lên. Con trâu ngã kềnh ra. Anh em lao vào xẻ thịt, thái những miếng thịt to như bao diêm rồi quăng vào nồi quân dụng. Lửa được nhóm ngay lập tức. Nồi thịt trâu đã xình xịch nước. Ưu tiên ngay cho những ai yếu nhất.

Phần còn lại chia cho mỗi người một hụm. Thịt chín thì rục ngay ra rừng, để đưa lượt thịt mới vào đun tiếp lấy nước.Yên bụng tàm tạm lại khoác súng lên đường thiên lý. Càng đi tới gần suối hay gần nguồn nước càng phải cảnh giác. Địch hoặc thú dữ cũng hay dựa vào đấy để tồn tại qua mùa khô. Giữa vùng rừng khô khát vàng cháy bỗng xuất hiện một vệt xanh sẫm của rặng le thì đích thị đấy là suối hoặc suối cạn rồi. Triển khai đội hình cẩn thận, thậm chí bắn thăm dò, cử tổ cảnh giới xong xuôi mới có thể yên tâm mà giải khát

Thời gian này, địch đã bắt đầu tan rã hoặc phân tán nhỏ lực lượng. Để đáp ứng tình hình mới, thay vì tổ chức những trận đánh hiệp đồng quy mô lớn, trung đoàn tôi cũng phân tán từng tiểu đoàn độc lập truy quét địch. Mùa mưa chuẩn bị bắt đầu. Tiếng sấm đâu đó đã ì ầm thoảng qua phía chân trời. Rừng dầu đang thay lá. Từ những thân cây, cành cây vỏ cháy đen trong những trận cháy rừng mùa khô, những búp non xanh mỡ đã xoè tay đón nước. 

Tiểu đoàn 4 (thiếu đại đội 3), sau khi càn qua phum chuối (lính gọi như thế vì phum này mọc rất nhiều chuối) sát phía đông chân núi Ô răng S’vai thì rút ra cách đó 6 km, để lại đại đội 1 có tăng cường khẩu đội 12.8 mm của đại 4 chốt lại. Tại vị trí đứng chân của đại đội 1 có một con suối chảy theo hướng Bắc – Nam, ở giữa có cây cầu gỗ nhỏ bắc ngang. Rừng bám vào tận rìa phum.

Gần như không còn tổ chức lại được lực lượng, địch thấy ta là chạy. Trận nào hiệu suất lắm cũng chỉ diệt được ba bốn tên là may, nên bắt đầu có tư tưởng chủ quan khinh địch. Có thể vì thế mà anh Khanh khi bố trí đội hình đại đội 1 đã đưa chỉ huy sở đại đội lên đầu nguồn nước, tại tiền tiêu luôn. Lại còn giỡn với các trung đội là lần này cho chúng mày ăn …ghét văn phòng.

Liền kề là khẩu đội cối 60mm. Kế đến khẩu 12.8mm chẹn ngang cái cầu gỗ. Bên kia suối là trung đội 2 và trung đội 3. Trung đội 1 nằm ở cuối nguồn, cách quan sát sở 120m. Các đồng đội của tôi! Các bạn còn nhớ cái thú tắm suối mùa khô không? Nước mát lạnh, trong văn vắt, cuốn đi bao nhiêu mệt nhọc, bụi đường. Nước mát nâng ta lên, bềnh bồng ve vuốt.

Những con cá nhỏ rỉa vào chân, vào lưng buồn buồn, nhồn nhột. Bên ngoài đã sạch rồi, làm sạch nốt trong lòng bằng cái việc không được thơ cho lắm là…ỉa bậy. Tôi thì tôi cho rằng ngồi cái bồn cầu bằng vàng ròng của Satdam ở Batda đã chắc gì thú bằng làm cái việc ấy trong lòng suối mát đang xuôi chảy. 

Sáng Chủ nhật, ngày 15/4/1979. Trời xanh trong, nắng đẹp. Như mọi chủ nhật khác, chương trình văn nghệ Chủ nhật dành cho chiến sĩ từ 7h30 đến 8h sáng đang phát đi đoạn nhạc hiệu quen thuộc. Thằng Căn liên lạc với tay vặn to cái radio bán dẫn rồi ôm quần áo ra suối tắm.

Dưới suối, rất đông lính các B đang bì bõm giặt áo quần bỗng nghệt mặt ra nhìn: Mái nhà, vách nhà bằng tranh của chỉ huy sở đại đội bỗng bay tung lên trời. Liền luôn đó mới là tiếng B.40 mà tiếng đề pa đầu nòng chập làm một với điểm nổ. Tiếp một phát B.40 tức ngực nữa giật tung lều cối, may mà không đứa nào bên trong. Đạn trung liên, đạn AK cày tung hai bên bờ suối. Địch rồi! Nó đã làm chủ vị trí chỉ huy sở và trung đội 3. 

Anh Tảo người Hà Bắc - Trung đội trưởng 12.8mm đang tắm cứ cởi trần nồng nỗng, nhảy lên khẩu 12.8 cạnh cầu, hất tung tấm tôn che súng bắn cản địch. Lính ta quần đùi áo may ô, trong tay không vũ khí chạy trắng lòng suối về hướng nam - hướng trung đội 1. Hoả lực, đạn nhọn của địch tập trung vào diệt khẩu 12.8mm. 

Chịu không nổi, xung quanh cũng chẳng còn ai, bố Tảo bắn thêm được mấy loạt ngắn nữa rồi cũng bỏ súng chạy nốt. Thằng Tư trung đội 3 lớ ngớ tưởng còn chỉ huy sở, lại thấy 12.8 vừa giòn giã liền chạy về qua cầu. Bị đạn nhọn rớt bịch xuống suối chết ngay. Anh Lượng – (người Hải hưng, biệt danh Lượng khỉ) mới về nhận chức đại đội phó ngày hôm trước chỉ kịp vơ khẩu AR.15 không biết của ai và một băng đạn, kéo thằng Căn nhảy đại xuống một cái hầm sát bờ, cứ thấy bóng áo đen là điểm xạ.

Dưới lòng suối, hai cái đầu đen thò lên cách hầm có 7m. Cò lại xiết nhưng hộp đạn rỗng không. Anh ấy nhanh trí giương súng quát to :“lớc đay lơn!” (giơ tay lên). Hai thằng địch hụp đầu xuống. Hai thầy trò kéo tay nhau vọt lên miệng hầm chạy gấp. Khẩu 12.8mm địch đã chiếm được quay nòng bắn theo mục tiêu vừa phát hiện. Đạn cày tung dưới chân, xuyên qua dãy thùng phuy làm dầu bốc cháy ngùn ngụt. 

Thật là còn may! Khói dầu đã cản tầm quan sát của địch. Trên trận địa chỉ còn khẩu đại liên của thằng Lễ là còn lên tiếng, khằng khặc thêm một thùng đạn rồi cũng tháo súng tuỳ nghi di tản. Cha con anh em đại đội gom dìu nhau ở trung đội 3, theo con suối, thất thểu chạy về tiểu đoàn. Anh Quang râu, chính trị viên phó cũng bị một phát AR.15 xuyên bắp chân, đi tập tễnh. Thằng Tường lé, thằng Ban trố mất máy PRC.25, đôi mắt thất thần. Lính tráng non nửa là quần đùi áo lót, đi tay không, súng ống, ba lô mất sạch. Khẩu cối 60mm cũng rơi vào tay địch.

Thấy thằng Gia “cà bây” vẫn còn gánh 6 quả cối trên đòn, Thằng Trung B1 bảo sao không vất mẹ nó nốt đi rồi trang bị mới luôn thể. Thằng này cáu bảo vất đạn lại để nó giã cho vỡ đầu ông vải nhà mày ra à? Hục hặc như thế nhưng cũng chẳng còn lòng dạ đâu mà đánh nhau nữa. Kiểm điểm lại đại đội 1 trong sáng hôm ấy mất một khẩu 12.8mm; một khẩu cối 60mm; một máy PRC.25; 12 AK và RPD; hy sinh 5; bị thương 3. Tử sỹ không mang đi được. Đến trưa thì về đến đội hình tiểu đoàn. Gương mặt ai nấy bơ phờ. 

Đau quá! Anh Sơn lệnh ngay phần còn lại của đại đội 1, toàn bộ đại đội 2 và một khẩu đội cối 82 đại đội 4 do anh Thào - tiểu đoàn phó chỉ huy, quay ngay lại đánh địch. Vào đến nơi thì địch đã rút đi từ bao giờ. Tại chỉ huy sở đại đội 1, cái máy 2W nằm móp méo, lăn long lóc. Tử sỹ bị chúng nó dùng xẻng bộ binh băm nát mặt. Ba lô quần áo cũng bị rạch nát tứ tung. 

Tiền phụ cấp chúng tôi vừa mới lĩnh (toàn tiền mới) bay như bươm bướm trên mặt đất. Trong một bụi cây gần chỗ bố trí khẩu đại liên cũ, anh Thào lấy gậy chọc chọc, lôi ra một thùng đạn đầy nguyên rồi gọi toáng lên: “Lễ! Lễ lại đây! Mẹ mày! Bảo bắn hết đạn rồi mới chạy thế thùng đạn nào đây?”. “Đạn địch đấy anh ơi!”. “ĐM! Cờ đỏ sao vàng lè lè ra thế này mà mày dám bảo là đạn địch à?”.

Thế là cứ cái gậy sẵn đấy, ông ấy quất vun vút. Thằng Lễ đại liên chân dài, ôm vội thùng đạn rồi bỏ chạy sau khi ăn mấy chưởng gậy vào lưng. Thu dọn chiến trường xong xuôi, về đến đội hình tiểu đoàn thì trời đã tối. Thật là một đêm nặng nề! Nửa đêm về sáng, có hai phát pháo hiệu xanh vọt lên trên đỉnh rừng, cách chúng tôi khoảng 3 km. Điện về trung đoàn hỏi thì được thông tin là không có đơn vị nào đứng chân hay làm nhiệm vụ ở vị trí đó. Xác định rõ là địch đang bâu bám tiểu đoàn 4.

Sáng hôm sau, chỉ huy tiểu đoàn triệu tập toàn bộ các đại đội và trung đội trưởng về họp rút kinh nghiệm. Căn cứ lực lượng địch trong trận đại 1 mất chốt và các dấu hiệu đêm qua, dự đoán địch sẽ có thể đánh vào đội hình tiểu đoàn nay mai. Các đơn vị củng cố hầm hào sẵn sàng đánh địch. Cử các tổ thám sát vòng ngoài phát hiện dấu vết, tránh bị bất ngờ. Cuộc họp ngắn vừa tan thì xe tải trung đoàn có một trung đội của đại đội công binh 19 hộ tống vào đến nơi. Bổ sung súng đạn xong xuôi, tử sỹ thương binh được chuyển lên là xe vội biến ngay vì sợ bị phục kích. 

Tiểu đoàn trưởng trực tiếp bố trí lại đội hình. Cái phum đơn vị tôi đang đứng chân lính gọi là phum “cây dừa cụt” hoặc “phum 19”. Trước đây một thời gian, đại đội 19 công binh trực thuộc trung đoàn đóng quân ở đây nên mới đặt tên như thế. Địa hình dốc thoai thoải từ cái chùa cũ đã bị phá huỷ, qua một trảng trống có một khẩu pháo 155mm xẹp lốp (thu được của địch, đã mất kim hoả) là đến con suối cạn hình cánh cung, ôm lấy rìa phum. Đại đội 2, xác định là hướng chủ yếu, bám rìa con suối cạn cắt ngang con đường.

Khống chế trảng trống sườn phải ban chỉ huy tiểu đoàn là trung đội vận tải và khẩu đại liên 30 Mỹ do thằng Luân – liên lạc tiểu đoàn lấy được ở kho súng tháng trước (ba cán bộ tiểu đoàn mỗi người một liên lạc). Tôi nhớ thằng Luân người Thanh Hoá, người nó to vật vã. Cái ba lô trên lưng nó cõng đồ cho cả hai người, cả nó cả chỉ huy mà vẫn lọt thỏm trên tấm lưng bè bè như cái phản.

Ngoài khẩu AK treo bụng, nó còn vác thêm trên vai khẩu đại liên Mỹ này. Băng đạn quấn ngang quấn chéo đầy mình, cứ đụng địch lại hạ càng bắn rèn rẹt. Phần cao nhất địa hình là cái chùa đổ ở chếch phía sau bố trí đại đội 4 với khẩu 12.8mm còn lại và 2 khẩu cối 82mm. Đại đội , có tăng cường khẩu DK.82, giữ sườn trái tiểu đoàn. 

Vị trí đại 1 nằm trong một chòm cây rậm sát bìa rừng thưa, cách tiểu đoàn bộ khoảng 200m bằng một khoảng ruộng khô. Chỉ huy đại đội bây giờ là anh Tuy “voi” Hà Bắc, thay cho anh Khanh. Anh Lược, dân Hải Phòng làm chính trị viên phó thay cho anh Quang râu bị thương hôm trước. Như là duyên nợ, tôi và anh Ky lại được điều động xuống đại 1. 

Ngày 17/4/1979, buổi sáng, anh Sơn tiểu đoàn trưởng kéo theo thằng Điệp xách khẩu M.16 xuống đại đội 2.

Hai thầy trò dò dẫm ngược lòng suối cạn xem xét tình hình. Việc này đáng nhẽ của trinh sát tiểu đoàn, nhưng không hiểu sao hôm đó anh ấy muốn trực tiếp thị sát. Vừa qua khỏi đội hình đại đội 2 hơn 50m thì đụng 2 thằng trinh sát địch. Thằng đi đầu đứng trên bờ suối mọc đầy le, há hốc mồm vì bất ngờ nhưng cũng kịp bóp cò khẩu M.79. Quả đạn bay thẳng vào đùi anh Sơn, rơi bịch xuống nhưng không nổ vì cự ly quá gần, không đủ vòng xoay. 

Thằng Điệp (người Huế - học sinh trường Quốc học hẳn hoi) cũng bị giật mình, chĩa khẩu M.16 kéo một loạt. Hai thằng trinh sát địch chúi xuống bỏ chạy. Thầy trò anh Sơn cũng tập tễnh dìu nhau tới đại đội 2 rồi về tiểu đoàn, lệnh cho các đại đội chuẩn bị đánh địch. Trung đội thông tin đang họp trong cái nhà sàn con con, nghe tiếng “Póc!” của M.79 và tiếng tiểu liên hướng lòng suối cạn, xớn xác ngó ra ngoài.

Anh Nhương lao về hét thông báo địch vào rồi xua chúng tôi xuống các đại đội ngay. Tôi và anh Ky vừa lao xuống cầu thang thì khắp các đại đội, tiếng súng đã rộ lên. Hai thằng cắm cổ chạy vượt qua khoảng trống về đại đội 1. Không thể nói đạn bay chiu chíu hay cắc bụp bên tai nữa, vì lúc này đã ào lên như một nồi cơm sôi rền từ khắp các hướng. Sau mấy lần ngã chúi vì vấp, hai thằng cũng chạy về tới ban chỉ huy đại đội 1. 

Địch đã bám được vào lòng suối cạn trước mặt đội hình đại đội. Cứ nhô lên thằng nào là trung đội 1 xỉa ngay thằng đó. Biết không thể lên theo hướng này, nó để lại bộ phận bắn kiềm chế rồi quay sang bìa rừng đánh vào hướng trung đội 2, trung đội 3. Khẩu DK.82 nằm kẹp giữa hai trung đội làm liền mấy trái. Tiếng nổ làm tai ù đặc. Lính trung đội 2 hô ầm ầm: “Cối bắn trước đội hình 40m!”. 

Thằng Dung tiểu đội trưởng cối 60 do ù tai, lại đang cuống cả lên liền lấy cự ly 40m thả đạn. Quả đạn cối rơi sát ngay khẩu đội DK.82. Thằng Hạnh, xạ thủ số 1 dính ngay một mảnh vào đầu nằm quay táng ra. Một chú nữa dính mảnh vào đùi. Thằng Mận - tiểu đội trưởng DK phát khùng, cõng thằng Hạnh về đặt nằm trong quan sát sở rồi xách AK chạy xồng xộc về khẩu đội cối tính ăn thua đủ. Dung “kỳ đà” mặt xanh như tàu lá. Anh Tuy chửi ầm ĩ, can chúng nó ra. 

Bên hướng tiểu đoàn bộ, địch cũng bị trung đội vận tải với khẩu đại liên của thằng Luân ghìm chân không vượt qua trảng được. Cối 82 đại 4 cứ thì thụp giã vào bìa suối theo yêu cầu của đại 2. Thằng Cường vận tải thấy thưa đạn, bò lên định gí quả H.12 giá cạnh khẩu pháo 155mm thì bị chúng nó tỉa. Viên đạn có mắt đi qua trán nó.

Anh Sơn bị thương vì quả M.79 hồi sáng, không đi lại được, nằm trong hầm quay điện thoại hỏi hết đại đội này đến đại đội khác rồi quay xuống đại 1. Cán bộ đại đội chạy hết xuống các B nên tôi báo cáo luôn: “Đại đội 1 vẫn vững! Anh yên tâm!”, “Ờ! Ngon nghe thằng em!”. Đúng lúc đó, ngay sau chỉ huy sở đại đội sát mép trảng, đằng sau ụ mối thấp thoáng mấy thằng địch áo đen. Tiếng AK toang toác ngay sau lưng. Đạn xuyên qua nóc lều lợp tạm bằng mấy mảnh tôn rách, thủng lỗ chỗ. 

Thằng Căn, thằng Đồng liên lạc nhảy ra núp sau lều, bắn cản địch. Sợ mất máy, tôi lăn vào lều, đè cả lên người thằng Hạnh đang khò khè, giật vội cái máy điện thoại rồi nhào ra. Thấy thằng Thư y tá đang nhớn nhác, tôi bảo nó trong lều còn thằng Hạnh đang bị thương nằm đấy, vào kéo nốt nó ra đi. Anh Tuy thấy địch đánh rát phía sau, thét khẩu đại liên quay lại, giá súng ngay cạnh lều bắn dữ dội.

Lúc này chẳng thấy tiểu đội trưởng Quyến “khợp” đâu nữa, đại liên chỉ còn thằng Nhạ tân binh, người Thái bình và thằng Lễ. Thằng Nhạ cứ ngồi xổm chồm chỗm trên mặt đất mà đẩy cò. Hai thằng liên lạc và tôi cũng bắn điên cuồng hỗ trợ. Cái ụ mối lớn, cạnh gốc cây to mấy thằng địch nấp bục dần từng mảng. Biết không ngon ăn, chúng nó rút lui. Chúng tôi vận động lên đến đó, thấy quanh ụ mối máu me be bét lẫn cả bông băng. Thu được hai quả lựu đạn địch chưa kịp ném.

Tôi chạy vào trong lều đại đội mắc vội dây vào máy. Chắc tiểu đoàn đang sốt ruột quay máy nên tôi bị giật rung cả tay. Lập cập mấy lần mới xong. Liên lạc lại thông suốt. Anh Tuy báo cáo tình hình, nghe máy một lúc rồi nhăn mặt, đưa tổ hợp cho tôi. Tiếng súng thưa dần rồi im hẳn. Thế mà đã quá trưa lâu rồi!

Đến lúc này, anh Tuy mới gọi: “Thư! Thư! Băng cho tao!”. Anh ấy bị một viên AR.15 xuyên bắp đùi, máu ra không nhiều. Cái mũ cứng của thằng Nhạ cũng bị đạn xuyên thủng vành hai lỗ tròn vo lúc nó ngồi xổm bắn đại liên. Buổi chiều, nó cứ ngơ ngẩn sờ sờ cái lỗ thủng, cười ngây ngô. Khẩu DK.82, do quân ta đánh quân mình, bị thương 2, còn lại 3 người. Tiểu đoàn rút luôn khẩu đội này về đội hình đại đội 4. 

Trung đội 2 được lệnh bung ra ngoài đội hình đại đội, qua bờ suối cạn thám sát địch. Bọn này cũng chỉ lò dò qua trảng đến suối, loanh quanh một lúc, bắn bậy mấy loạt rồi về. Đạn thiếu, lính đi mót từng viên đạn lẻ rơi vãi tra vào băng. Chẳng bù cho những lúc chúng nó cứ bẻ đầu cát tút, dốc thuốc đạn đổ vào để nhóm bếp pha trà. Đại đội 3, sau một thời gian đi phối thuộc trung đoàn được trả về đội hình.

Cắt rừng về đến nơi thì trời đã gần tối, bố trí ngay sau lưng tiểu đoàn. Thêm một đại đội, dẫu chỉ hơn ba chục tay súng, ai nấy cũng yên tâm hơn hẳn. Anh Tuy chào chúng tôi rồi chống gậy tập tễnh về tiểu đoàn bộ. Hôm sau cũng theo xe thương binh tử sỹ, cùng anh Sơn tiểu đoàn đi viện luôn, lập kỷ lục người chỉ huy đại đội 1 trong thời gian ngắn nhất (2 ngày). Anh Quảng trung đoàn cử về thay, nhận chức tiểu đoàn trưởng. Anh Chính ”tréc” người Hà Nam Ninh làm đại đội trưởng đại đội 1.

Tình hình yên ắng trở lại. Sau một tuần củng cố, sư đoàn lại chuẩn bị chiến dịch đánh thông lên thị trấn Leach theo thung lũng phía bên kia núi Ô răng S’vai để phối hợp với các sư đoàn bạn. Trung đoàn 2 chúng tôi được lệnh trèo vượt núi này, chẹn ngang thung lũng để các đơn vị bạn lùa địch vào đấy cất một mẻ lớn. Ô răng S’vai là một dãy núi cao nằm theo hướng tây bắc – đông nam.

Có những đỉnh độ cao tuyệt đối đạt gần 1500m. Địa điểm bắt đầu cắt vào để vượt núi được xác định đúng cái phum hoang mà đại đội 1 mất chốt tuần trước, cách phum “dừa cụt” tiểu đoàn 4 đang đứng chân 6 km. Mệnh lệnh rất rõ ràng, quán triệt đến từng chiến sĩ: Bí mật bất ngờ, tránh các đơn vị nhỏ lẻ của địch, mang đầy đủ lương thực súng đạn tác chiến trong 6 ngày, nhất là đồ đựng nước uống. Chuẩn bị tư tưởng, hậu cần xong xuôi, trung đoàn lục tục lên đường.

4h sáng, nhận xong phần cơm vắt cho cả ngày dưới anh nuôi là hành quân ngay. Tiểu đoàn 4 đi đầu, theo con đường nhỏ ngược về hướng bắc. Cấm dùng thông tin vô tuyến, cấm bắn bắt liên lạc. Nói theo kiểu Tam Quốc Chí của La Quán Trung thì “người ngậm tăm, ngựa khoá nhạc cứ theo khe núi lần lần đi”. Một bộ phận của đại đội trinh sát 21 trung đoàn và trinh sát tiểu đoàn 4 thuộc địa hình đi trước bám địch.

Gần 6h sáng có lệnh dừng lại. Trinh sát đã phát hiện có khói bay lên trong phum (bây giờ gọi là phum “đại đội 1 mất chốt”). Đơn vị im lặng dạt vào rừng, cắt lối khác áp vào triền núi. Bắt đầu leo dốc. Hai ba trăm mét độ cao khởi đầu còn ngon nhưng càng lên cao càng khó đi. Rừng nguyên sinh trên núi dày rịt dây leo. Tầng cây cao khép tán, toả bóng thâm u che phủ. Đã 9h sáng mà đáy rừng vẫn nhờ nhờ tối.

Những cây con bên dưới bị cớm nắng, thân mảnh thẳng đuột, ken dày như thành. Tôi cũng biết là phải giữ hơi đều, hít sâu và thở ra từ từ, nhưng đến khoảng gần trưa thì mớ kiến thức dưỡng sinh ấy trở thành vô dụng. Mũi, mồm và tai cùng thi nhau hoạt động hết công suất. Đấy là còn được đi sau đấy! Còn mấy thằng trinh sát đi đầu, vừa đi vừa phạt cây mở đường lên thì phải biết chúng nó siêu như thế nào. Khoảng tiếp xúc giữa ba lô và lưng áo đã ướt đẫm mồ hôi. 

Rồi cái ruột tượng 5 ký gạo quàng quanh cổ cũng ướt nốt phần đáy. Quai máy, quai súng siết vào vai tê dại. Vẫn chưa có lệnh nghỉ. Đi! Đi cho kịp giờ hiệp đồng! Toàn đơn vị thằng nào thằng nấy khoanh tay trước bụng, còng lưng vượt dốc. Thằng Tào, thằng Lại anh nuôi đại đội 1 cậy mang nhẹ, chỉ phải khiêng cái nồi nhôm quân dụng, nên cứ băng băng vượt trước. Nhọ nồi quệt vào lá cây, từ lá lại quệt vào mặt những thằng đi sau lem nhem.

Ông Thào tiểu đoàn phó tức, vừa xoa mặt vừa quát chúng nó xuống đi sau. Nhưng hai thằng này cứ như điếc, càng vọt khoẻ, mỗi lúc một xa. Bất lực! Thế là bố ấy lấy cái gậy chống phi theo luôn nhưng trượt. Đã thế lại còn mất đà ngã quay ra. Lính tráng cười ồ lên hô: “Tháo đạn đứng dậy!”. “Mẹ hai thằng cà chớn! Rồi biết tay tao!”. Chửi với chữa ngượng thế thôi chứ sức đâu mà đuổi! Tình huống khôi hài cũng làm quên đi cái mệt được một chốc. Quá trưa, có lệnh nghỉ ăn cơm.

Tôi kiếm một chỗ phẳng, ngồi phịch xuống, dựa vào ba lô vẫn quàng nguyên sau lưng hồng hộc thở. Đỡ mệt, giở cơm vắt ra ăn. Bây giờ muốn ăn gì còn phải nghĩ chứ lúc đó, vèo một cái là nửa vắt cơm với chút bột gia vị đã chui tuột vào trong bụng mà vẫn còn thòm thèm. Huống chi hôm đó lại có món mắm trâu của bọn cối đại 1. Thịt trâu ăn chán rồi, còn lại nước thịt. Chúng nó cho muối, bột gia vị vào rồi đun nhỏ lửa cho đến khi cô lại sền sệt. Đổ vào đoạn ống DK.82, lấy nilon bịt lại mang theo khi hành quân. Loại “mắm” đó hao cơm vô cùng! 

Nghỉ một lát lại leo tiếp. Rừng ở độ cao lớn quang đãng hơn nhưng độ dốc lớn hơn. Bắt đầu có mây mù. Trời tự nhiên tối lại. Những hạt nước li ti nhưng dày đặc làm triền dốc trơn nhẫy. Khổ nhất là lính pháo DK.75 đại đội 17 trung đoàn. Khẩu đội trưởng đi trước, dùng xẻng pháo đào khoét triền núi thành từng cái hốc cho bọn khiêng pháo phía sau có chỗ đặt chân. Hai thằng khiêng nòng, mỗi thằng một đoạn tầm vông. Thằng xỏ miệng, thằng xỏ đuôi, hai đoạn tầm vông oằn xuống dưới sức nặng của nòng pháo.

Cứ trầy trượt như thế mà bám sườn leo lên. Bọn mang đạn buộc hai ống DK néo lại làm một, cúi đầu gằn gằn bước. Thỉnh thoảng có thằng trượt chân. Nòng pháo lăn lông lốc rồi mắc lại ở cái gốc cây nào đấy. Chúng nó lại quay xuống, nhẫn nại kéo lên không kêu một tiếng. Để đại đội DK.75 của trung đoàn vượt qua là tôi đã bị tụt lại sau tiểu đoàn 4 khá xa rồi. Hai thằng một máy, anh Ky đi cùng tôi cũng không giục không nhắc gì, cứ lùi lũi đi đằng sau.

Khi các đơn vị khác nghỉ, chúng tôi vẫn cứ cắm cúi bước để theo kịp đơn vị. Trời sâm sẩm tối thì gần lên tới đỉnh. Một hơi gió tạt qua mát lạnh, gió sườn tây núi Ô răng thổi từ vịnh Thái lan. Nghĩa là sắp đổ dốc xuống núi. Trời bắt đầu mưa lất phất. Thật lạ lùng! Mới bên này cách mấy trăm mét khí hậu khô rang nóng kinh người mà sang sườn bên này thời tiết quay ngược 180 độ.

Lần đầu tiên tôi biết thế nào là mưa địa hình. Bây giờ đọc thêm thì mới biết hiện tượng địa lý ấy nó gọi tên là thế, chứ lúc đấy thì biết gì! Chỉ biết là rất mệt! Mệt đến há hốc mồm! Tôi chui vào một bụi rậm vờ đi đái rồi tháo bao gạo đổ đi 1/3 ruột tượng. Trông kỹ ra thì trong bụi ấy cũng trắng xoá gạo đổ của những thằng đi trước. Gạo nhẹ đi nhưng nỗi nhọc ngày một tăng lên. Đôi chân dường như không phải của tôi nữa mà như đi mượn. Trời tối đen.

Cứ nghe tiếng vạch cây rào rào đằng trước mà chuệnh choạng lần theo. Thỉnh thoảng lại vấp phải chân những thằng đang nằm ngủ, hoặc nghỉ thò ra giữa lối, ngã lăn ra. Mồm vập vào súng đau điếng. Phát cáu lên bảo chúng mày muốn ngủ thì cứ chui vào bụi mà nằm, sao lại ngáng chân bố mày. Về sau mới biết có những thằng mệt quá ngồi nghỉ, sợ ngủ quên mất nên cứ thò chân ra đường để có ai đi sau vấp vào đánh thức rồi lại lần theo, không có lạc mất đơn vị. Mà lạc ở đây chắc chỉ có làm mồi cho hổ. 

Giờ thì chẳng còn phân biệt được đơn vị nào vào đơn vị nào nữa! Cứ thằng khoẻ đi trước, thằng yếu đi sau, yếu nữa thì đi sau rốt như bài ca con voi của bọn trẻ con. Giở nắm cơm vắt ra, nó đã chua loét phần bên ngoài. Tôi bẻ đôi, cạp cạp mấy miếng phần lõi rồi lẳng vào bụi. Nhai và nuốt với lý trí là để nạp thêm năng lượng thôi, chứ không hề có thấy đói. Không phải cảm giác mệt nữa! Phải nói là cảm giác tuyệt vọng đôi khi trào lên và dần dần chế ngự con người. 

Một cái đầu đờ đẫn trên một đôi chân rời rã, lúc nào cũng chực gục xuống. Dần dần xung quanh chẳng còn ai. Khi tôi chợt nhận ra điều ấy thì nỗi khiếp sợ bỗng ùa tới làm tỉnh cả người. Tôi dừng lại ghìm nhịp thở, lấy lại bình tĩnh nghe ngóng. Chỉ có tiếng gió thổi trong lá. Xa phía dưới kia, có tiếng lá rung ào ào từng nhịp ngắn. Chỉ có người vịn vào cây vít lại rồi buông ra lá mới rung theo nhịp ấy. 

Tôi tháo ruột tượng gạo định lẳng vào rừng cho nhẹ để đuổi theo, nhưng chợt nghĩ lại. Giống hệt truyện cổ tích của Grim, tôi mở nút ruột tượng, thả gạo dần theo lối chạy để đánh dấu đường. Tiếng động lá ngày càng gần. Lúc này không phải chỉ có chạy nữa, mà vừa chạy vừa ngồi phệt tụt dốc xuống. Vừa hết ruột tượng gạo thì va phải một đám lốc nhốc. Chúng nó chửi ầm lên.

May quá! Khẩu DK.82 của đại đội 4 đây rồi! Hoá ra chúng nó cũng suýt lạc đường. Lúc ấy đã là 2h30 sáng. Cả bọn đi thêm một đoạn nữa thì gặp anh Ninh đại đội phó đại đội 4 hoả lực với thằng liên lạc đang ngồi nghỉ. Mừng vì đã gặp lại đội hình, chúng tôi bước dấn qua. Đêm tối mịt mùng. Bọn DK82 rạch ống bảo quản, tháo đạn cho vào ba lô rồi đốt ống nhựa tìm đường về đại đội 4, bất chấp lệnh cấm đốt lửa.

Nhựa cháy xèo xèo, rỏ cả xuống chân bỏng rẫy. Đi một lúc nữa, tôi về tới đội hình tiểu đoàn. Chân núi chỉ còn một đoạn ngắn nữa. Võng chăng ngang chăng dọc. Tôi cũng tìm vội hai cái cây mắc võng. Quăng ba lô cái huỵch rồi leo lên gần như ngủ ngay tắp lự…

Không có khái niệm thời gian, thiếp đi được một lúc tất cả đều choàng dậy. Trên núi, không thể xác định được khoảng cách, ba phát AK nổ đĩnh đạc, kiểu bắn bắt liên lạc. Tiếng nổ hồi âm qua các sườn núi, các tàn cây vọng lại ào ào rồi nhoè dần. Chúng nó nhỏm dậy, lào thào hỏi nhau: “Bọn nào bắn ấy nhỉ?”. “Chắc bọn lạc đường!”. Hai thằng trinh sát được cử quay lại tìm người bắn, xồng xộc va vào võng tôi cũng hỏi câu y hệt: “Bọn nào bắn ấy nhỉ?”. Mé bụi bên kia có tiếng anh Nhương nhại đểu: “Bọn nào bắn ấy nhỉ?”. Mấy thằng trinh sát thấy vô lý, im lặng luồn ngược lên. Kiểu này thì lộ mất rồi…

Lúc này, phía thung lũng dưới núi, tiếng động cơ ô tô, xe xích bỗng rộ lên, vọng lại ầm ì. Nhìn rõ loáng thoáng những vệt đèn pha trong sương. Chúng nó đã chạy. Chắc chắn là lộ rồi! DK.75 và một khẩu pháo 105mm của địch bắt đầu tương đạn lên núi. Bắn kiểu mù thôi, đạn rơi cách chúng tôi rất xa. Bộ đội thu võng ào ào.

Tiểu đoàn lệnh 2W lên máy, để lại toàn bộ ba lô cho bộ phận thu gom quân lạc đường trông, còn tất cả các đại đội lao xuống núi. Lúc bắt đầu vận động, toàn thân tôi đau điếng, cứng đơ, tưởng chừng không cất mình lên nổi. Được một quãng thì ổn định dần dần. Trời mờ sáng. Lội qua một hẻm nước tù sâu hoắm nước lạnh căm căm thì lên đến một cái trảng rộng. Giữa trảng là con đường đất rộng rãi đầy vết xe cơ giới. 

Bên kia trảng, một dãy nhà thấp lợp tranh nằm lẫn những chiếc xe vận tải, máy, máy xúc màu vàng choé. Bộ binh dàn hàng ngang tiến lên. Lính đại đội 2 nổ súng ầm ầm rồi hô xung phong. Đại đội 1 hưởng ứng rồi tiếng hô lan ra toàn đội hình tiểu đoàn. Đây là lần đầu tiên tôi thấy tiểu đoàn hô xung phong khi đánh địch. Tiếng đạn nhọn, tiếng hoả lực, tiếng hô phản hồi giữa hai vách núi trộn lẫn rền rền không dứt. Khẩu 12.8 giá súng, bắn qua đầu bộ binh đùng đùng.

Cối 82 và DK quay nòng bắn theo hướng con đường chạy dọc thung lũng. Bắn đuổi là chính chứ cơ giới nó đã chạy từ đời tám hoánh. Doạ thế xem có thằng nào sợ, lạc tay lái đâm vào đâu không thôi chứ bắn thế nước mẹ gì! Bộ đội tiểu đoàn 4 đã làm chủ căn cứ. Không tiêu diệt được được bất cứ một thằng địch nào. Thu một khẩu pháo 105mm, một khẩu DK.75mm và một số đạn cối 82. Số xe máy địch bỏ lại, toàn đồ KOMATSU Nhật bản, đã bị bắn thủng gần hết lốp, đề phòng quân ta dùng để đuổi theo truy kích. Riêng lố đạn cối 82 sản xuất tại Trung Quốc, trung đoàn ra lệnh gom huỷ ngay. 

Trong trận U Đông hồi trước, trung đoàn 1 thu được đạn cối 82 của địch mang ra xài. Khi thả đạn thì nổ ngay trong nòng súng. Hy sinh hết sức đau xót gần hết một khẩu đội! Phải công nhận bọn này với thằng thầy nó cực kỳ thâm độc! Bây giờ thì các bố mày không có dại! 

Nắng lên được một lúc thì gặp lính trung đoàn 1 theo đường lớn tiến vào thung lũng. Trung đoàn này cũng gần như phải hành quân suốt đêm hôm qua. Đi đường bằng nên khoẻ quân hơn, theo đường lộ vượt qua chúng tôi, mải mốt truy kích địch. Chúng tôi nghỉ lại một ngày, chờ công binh, vận tải sư đoàn lên thu hồi chiến lợi phẩm. 

Chỉ vì ba phát súng vô kỷ luật ấy mà tất cả bao nhiêu công giăng bẫy, leo núi vu hồi của cả ngàn con người trở thành công cốc. 

Về sau, quân pháp, phòng chính trị quân đoàn xuống đơn vị tôi điều tra mãi nhưng cũng không tìm ra người bắn. Âu cũng là số phận! Như Khổng Minh than với Khương Duy: “Tiếc thay! Dùng mẹo to nhưng lại thành công nhỏ!”.

Hôm sau, cũng theo hướng tây bắc trong đội hình sư đoàn, chúng tôi hành quân nhưng phát triển rộng hơn về hai bên đường. Phía trung đoàn 1 đi trước, tiếng súng nổ vọng lại ầm ầm. Trung đoàn 2, trung đoàn 3 mở rộng đội hình, sục sạo sát chân núi nhằm phát hiện triệt phá những kho tàng, cơ sở hậu cần của địch.

Cứ thấy ngách núi nào có đường bò hoặc nghi có địch là đơn vị rẽ vào. Đây đã là địa phận tỉnh Pursat, cách thị trấn Leach khoảng 45 km. Ngoài đường lớn chạy giữa thung lũng, trung đoàn pháo 42 kéo pháo theo bộ binh. Cần chi viện hướng nào đáp ứng hướng đó. Trong những ngày ấy, tiểu đoàn tôi tìm thấy khá nhiều những những kho hậu cần nhỏ địch phân tán trong rừng, để tạm trong những căn lán nhỏ cất vội. Kho gạo mang không hết thì đốt, vì số lượng nhỏ không bõ gọi xe sư đoàn đến chở. Kho muối thì mang ra suối đổ rồi bắn vỡ hết chum.

Nhưng may nhất là vớ được một kho vải màu xanh sỹ lâm. Lính ta đang rách rưới. Quần áo đi trận đánh nhau đã tơi tả cả mà quân nhu vẫn chưa phát kịp. Nay sục được kho này như buồn ngủ gặp chiếu manh. Phải nói là trong lính có rất nhiều thằng có tài, rất nhiều hoa tay trong nhiều lĩnh vực. Bây giờ tiểu đoàn lòi ra một tay thợ may tay ngang là thằng Lễ đại liên. 

Với một cây kéo cùn không biết xuất xứ từ đâu, nó cứ nhìn người đến nhờ một thoáng rồi hạ kéo cắt xoèn xoẹt, khỏi cần đo đạc mất thì giờ. Thích quần ống loe hả? Có ngay! (Hồi ấy quần ống loe đang là mốt). Đây! Xong rồi! Về mà khâu lấy! Tiền công là một điếu thuốc rê. Đường kim mũi chỉ của mấy anh lính không được “mỹ thuật” cho lắm. 

Chỗ đột mau, chỗ đột thưa và thường là ngoằn ngoèo nhưng cũng đủ giúp chúng tôi có tấm áo che thân lành lặn. Thấy một thằng lính tử trận là điều bình thường. Nhưng nhìn một thằng lính buổi trưa ngồi võng, tự khâu lấy quần áo cho mình thì lại là một điều bất bình thường. Nghĩ lại thấy thương quá! Từ đó, cứ thấy sắc lính xanh rì sỹ lâm là trung đoàn biết ngay lính tiểu đoàn 4 khỏi cần giới thiệu.

Ngoài việc may quần áo, chúng tôi còn mang vải ra đổi thuốc lá, đổi các nhu yếu phẩm cần thiết khác cho lính pháo 42. Bọn này hành quân cơ giới, cái gì cũng mang đi được. Lại hay được hậu cần tiếp tế nên cái gì cũng có, không khác gì cô hàng căng tin trong đội quân của Bonaparte.

Vào một buổi chiều gần tối, trong một cái ngách núi heo hút và ẩm ướt, tiểu đoàn 4 gặp lại “cố nhân” như một sự sắp đặt của định mệnh. Vừa ở bìa rừng rúc ra mép trảng, chúng tôi bắt gặp mấy cái nhà nhỏ lợp gianh, lá còn rất mới. Xin nói là ở Miên, dù cất nhà to hay làm nhà nhỏ, kể cả những cái chòi con đều làm kiểu nhà sàn. Đại đội 1 đi đầu dừng lại ngay, chia mũi bí mật tiếp cận.

Dưới gầm nhà, quanh chân cột, gần hai chục thằng địch đứng ngồi lố nhố. Chúng nó đang nấu cơm chiều. Bộ đội cứ bám từng bụi cây, lặng lẽ bò tới. Cách địch khoảng 30m thì tự nhiên hai thằng trong đám đó đứng dậy, vác 4 ống DK.75 đi xăm xăm thẳng về phía chúng tôi. Chắc chúng nó đi lấy nước ở cái suối mà chúng tôi vừa đi qua.

Chính ”tréc” đại trưởng vừa gí đầu nòng súng lính xuống, định ra hiệu bắt sống nhưng không kịp. Thằng Trung B1 đã kéo một loạt AK. Hai thằng địch đổ vật xuống ngay. Liền đó, hai phát B.41 thổi tung căn nhà, nhìn rõ cả cái nồi gang với một cái đùi người bay lên không trung. Trong đám đó chỉ còn ba thằng phía ngoài vùng chạy được. Trời nhoè nhoẹt tối. Lính đại 1 bắn đuổi theo ba thằng chạy rầm rầm.

Đứa quỳ bắn, đứa đứng bắn, có đứa kê súng vào chạc cây cẩn thận lấy đường ngắm, điểm xạ mãi mà vẫn thấy chúng nó chạy nhanh như hoẵng. Thế mới biết đôi khi chết được cũng khó! Trên cái nền trước kia là nhà, thịt người lẫn lòng ruột văng tung toé. Vẫn còn hai thằng bị thương không chạy được kêu lên ồ ồ! Trong mấy cái bồng rách hôi mù của bọn này, chúng tôi lôi ra được cuốn sổ ghi bài hát nhăng cuội của thằng Tư hy sinh hôm đại đội 1 tan tác.

Kẻ thù đây rồi! Đời mày tàn rồi! Anh Thào nổi điên quát lính khử nốt hai thằng tù binh bị thương. Thằng khẩu đội trưởng DK.75 đại đội 17 đi phối thuộc hô lên: “Để em!”. Chúng tôi vội giạt ra khỏi hướng bắn của nó. Nhịp AK găm vào ngực và họng thằng thứ nhất, nhưng nó không chết tốt lại còn khò khè lớn hơn. Thằng thứ 2 (chỉ chừng 16 tuổi) lăn đến ôm chân thằng bắn.

Nó đạp ra, nhưng đã run tay lùi lại. Ông Thào lườm nó một cái rồi rút K.59, phân phối đều vào sọ mỗi thằng hai phát vọt óc. Thân người giật giật mấy cái rồi xuội lơ, môi vẫn còn run run. Thấy chúng tôi nghệt mặt ra, anh ấy quay lại chửi: “Mẹ chúng mày! Lính với tráng!” rồi bỏ đi. Tôi đá nốt cuốn sổ của thằng Tư vào trong đống than hồng. Trả mày cuốn sổ xuống đấy mà hát vớ hát vẩn! Anh em đã thanh toán xong món nợ cho mày! Không biết có phải cái thằng đã cầm xẻng băm mày không?

Cuối tháng 4 năm 79, các đơn vị địch đã tan rã gần hết. Tàn quân địch rút về thị trấn Leach. Đại bộ phận sư đoàn 9 đã tiến về đó đánh địch còn trung đoàn 2 vẫn dềnh dàng đi sau chặn hậu. Trong bản đồ quân sự, cái thung lũng lớn mà trung đoàn tôi đang hoạt động, từ đó có đường rẽ đi nhà ga Bâmnak (dân gọi là ga Bom nọ) được gọi là “mục tiêu A3”. 

Địa điểm này có vị trí cực kỳ quan trọng, gần như là nơi tiếp giáp của bốn tỉnh Kampong Ch’nang, Pursat, Kampong S’Peu và Kô công, nằm ở phía nam Leach theo đường chim bay chừng 25 km. Tiểu đoàn tôi cứ đi quanh đi quẩn trong các hẻm núi dường như chưa bao giờ có dấu chân người. Có những nơi vòng qua vòng lại mấy lần. Lính mà! Có lệnh đi thì cứ đi, có lệnh nghỉ thì lại nghỉ. Tàn quân Pôn Pốt bấy giờ chưa kịp phục hồi như sau năm 80. Kiếm ăn còn khó chứ đừng nói gì đến đánh đấm. 

Dân lành bị lùa theo tìm cách tháo chạy trở về quê cũ, nhưng chưa hiểu nên cũng tránh bộ đội Việt Nam. Thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp một đám nhỏ ở trong rừng. Họ đói. Họ rách rưới và hoang dại như một đám người rừng. Các bạn xem trên TV, thấy những em nhỏ trong nạn đói ở Phi châu bụng ỏng đít beo, ruồi bâu đầy miệng không buồn đuổi hẳn là thấy rất xúc động.

Trong miền rừng sâu thăm thẳm này, chúng tôi đã gặp những cảnh tương tự. Thậm chí còn thê thảm hơn thế nữa. Đơn vị gom lại, chia cho những con người khốn khổ ấy những ruột tượng gạo bé nhỏ của người lính rồi chỉ lối cho họ ra phía đường lớn. Vào một buổi trưa, khi đang cắt rừng tìm suối, chúng tôi gặp một đám phụ nữ chừng bảy tám người nằm ngồi quanh một cái xe bò gẫy trục.

Thấy bọn tôi, hai người đàn ông trong nhóm chống hai con dao quắm run run đứng dậy, chắc là để chuẩn bị chiến đấu (!). Xương sườn, xương bả, xương ống bọc dưới lớp da đen nhờ, lộ như một tiêu bản thạch cao. Họ đã gần như lả đi. Không thể nói tuổi của họ bao nhiêu khi mà tất cả sợ hãi, khổ đau, tuyệt vọng và đói khát đã in hằn trên khuôn mặt. Những khuôn mặt không có tuổi! Không biểu cảm! Và dường như ở một thế giới khác! Câu chào “Xamaki !” của cán bộ dân vận trở nên giống như một lời xa xỉ giả dối! Anh Ky móc cóc ba lô chìa nắm cơm ra. 

Từng ấy cặp mắt sáng lên nhìn vào. Thằng Phượng “bọ” y tá đại đội 1 (thay cho thằng Thư đi học) giằng lấy nắm cơm ấn vào chỗ cũ, gọi anh nuôi nổi lửa nấu ngay nồi cháo loãng. Cháo chín được chia ngay thành từng suất nhỏ. Lập cập giọt rơi giọt vãi, nồi cháo cũng dần hết. Thằng Phượng giải thích là nhịn đói lâu, phải ăn hạn chế như thế mới không bị sốc. Một bà mẹ cầm ca cháo đến chiếc xe hỏng, lật chiếu lá lên định bón cho thằng bé con. Nhưng cháu bé đã chết.

Bên cạnh nó là một cái gùi. Trong gùi, một cẳng tay sấy khô nằm lăn lóc cạnh mấy nắm lá giang. Chứng kiến, không ai nói được một lời nào. Tất cả đều im lặng quay đi. Không phải là vì sợ, mà vì hình như thấy đau khổ quá! Một sự im lặng cùng cực…! Lúc ấy, tôi chỉ muốn rống lên thôi!

Đơn vị lặng lẽ chôn cất cháu bé. Bà mẹ cũng không khóc một tiếng nào. Thêm một mất mát trong cả ngàn vạn mất mát có ý nghĩa gì! Đến chiều, cho ăn uống như bình thường xong, chúng tôi chia gạo rồi vừa dìu, vừa dẫn họ ra tận sát mé đường, nơi đã nghe tiếng ầm ì của xe pháo của trung đoàn 42.

Đài kỹ thuật vô tuyến điện quân đoàn dò được tin Tà Môk, chỉ huy quân khu Tây nam đang chạy về biên giới Thái lan qua nẻo “mục tiêu A3”, phum Kâmnon. Thằng này nghe đồn bị thọt, từng gây rất nhiều tội ác đối với đồng bào ta ở An giang, Bảy núi… Hổ thọt bao giờ cũng là hổ dữ và tinh quái. 

Thị trấn Leach đã bị ta chiếm. Đường 56 tắc nên nó và bộ sậu cắt rừng đi đường này. Tiểu đoàn 4 đang trong thung lũng A3 được lệnh lên đường giữa đêm khuya, nhằm phum Kâmnon tiến gấp.

Đơn vị bỏ đường bò, cắt rừng bí mật đến mục tiêu. Cũng may là rừng quãng này thưa nên chúng tôi hành quân không đến nỗi vất vả lắm. Đi cả đêm được gần 17 km, nhưng so với Ô Răng thì thấm tháp gì! Đến gần vị trí xác định, tiểu đoàn hành quân chậm lại, vừa đi vừa tìm dấu vết. Đến gần vị trí trên bản đồ chỉ nơi con suối gặp đường bò, chúng tôi thận trọng cắt ra đường. Đây rồi! Vết xích xe M.113 hằn trên triền rừng còn rất mới. Thằng này khôn thật! cũng biết bỏ đường bò để tránh tạo dấu vết. Cả đơn vị được lệnh cấp tốc đuổi theo. Đại đội 2 đi đầu, kế đến đại đội 1 rồi tiểu đoàn bộ… Đơn vị cứ theo dấu xích xe mà chạy tới.

Địch có chừng một trung đội, rẽ rừng chạy ào ào. Vừa chạy vừa quay lại bắn léc chéc. Trong số đó nhìn thấy cả mấy bóng phụ nữ mặc váy (sà rông). Khẩu đại liên trên xe không kịp bắn một phát nào. Lính đại 2 nhảy lên trên xe, quay nòng bắn rèn rẹt theo hướng địch chạy. Đuổi thế quái nào được nữa! Suốt một đêm hành quân gần hai chục cây số, lại vừa chạy vũ trang gằn một tiếng đồng hồ. Lính ta ngồi thở dốc quanh cái xe M.113 vừa thu được. Một thằng bê thùng đại liên trong xe tính thay băng đạn đang bắn sắp hết thì nặng quá trượt tay.

Thùng đạn đại liên rơi bịch xuống đất văng tung nắp. Cả một khoảng vàng lấp lánh xoà ra mặt đất. “Vàng! Vàng chúng mày ơi!”. Lính ta đổ xô vào nhặt. Loáng cái đã sạch nhẵn. Anh Thào tiểu đoàn phó đến nơi thì hầu như chẳng còn dấu vết gì. Anh ấy rút K.59 cầm tay, ra lệnh những quân nhân nào đã nhặt được lập tức nộp, thu gom ngay về cán bộ chính sách tiểu đoàn. 

Quân đội cách mạng hay là một lũ kẻ cướp hả? Thế là mấy thằng “trúng mánh” lúc nãy ỉu xìu mang nộp lại. Cũng chẳng kê khai gì. Thì giờ đâu? Tôi biết có những thằng chỉ nộp lấy lệ mà thôi chứ chúng nó vẫn còn găm đâu đó. Thằng Cầm điếc anh nuôi nhặt một bộ vest đũi trắng mắc ngay vào người. 

Ai cũng biết là nó chỉ nghịch thế thôi nhưng ông Thào đang cáu, bắt nó mặc nguyên bộ mồi đó, khoác AK đứng nghiêm phơi nắng cạnh cái xe hơn 1h đồng hồ. Nhìn không ai nhịn được cười. Chiến lợi phẩm thu được trên xe ngoài những thứ như tôi vừa kể trên còn một số quần áo dân sự linh tinh, vài thùng các tông niêm phong đựng rất nhiều tài liệu. Tôi đoán đó là những tài liệu hết sức quan trọng vì cán bộ quân báo quân đoàn gần như xuống ngay lập tức hôm sau.

Đơn vị có lệnh đứng chân ngay tại vị trí đó. Chiều tối, tôi đang nằm võng thì tiếng AK nổ sát sạt. Dây võng đứt đôi, đầu rơi xuống đập vào chân cọc phụ đau điếng. Thằng Hiệp híp hữu tuyến, mắc võng nằm cạnh kêu rầm lên. Nó bị một viên xuyên qua tay, mỡ lòi ra vàng như mỡ gà. Hoá ra Bình “vàng” trung đội vận tải xách súng đi bậy, thấy chúng tôi nằm hơi xa đội hình, tưởng là địch nên bắn nhầm.

Anh Nhương tức, sang vận tải chửi cho một trận. “Địch đ…đâu mà địch? Địch nằm ngay đội hình tiểu đoàn bộ à? Cái thằng nhát đ…loại mày thì xung quanh toàn là địch…!”. Riêng thằng Hiệp có vẻ khoái trá với cái vết thương phần mềm đó. Hôm sau theo xe quân đoàn về viện rồi biệt tích luôn. Sau chiến tranh tôi mới gặp lại nó. 

Sau này, chúng tôi mới biết là đã để xổng mất Tà Môk, Iêng Thirit (vợ Iêng Sary) cùng toàn bộ BCH quân khu tây nam của địch. Quá là tiếc! Giá như may mắn tóm sống được nó thì có lẽ đơn vị tôi không phải nằm đến gần 10 năm ròng rã bên đó. Và chắc chắn sẽ có Huân chương Quân công…

Và bây giờ, nếu "quý ông", "quý bà" chạy re kèn trong cái ngày hôm đó, nếu như còn trên đời này hãy nhớ rằng chỉ chậm thêm một phút nữa thôi thì tôi không dám chắc điều gì sẽ xảy ra đâu!

Cho đến bây giờ, chắc không chỉ mình tôi mà tất cả đồng đội đều vẫn còn hậm hụi tiếc. Sau khi chạy thoát sang Thái lan, Tà Môk trở thành bộ não tổ chức ”kháng chiến” của cái chính phủ lưu vong khốn nạn đó. Còn Iêng Thirit bày đặt đi nước này nước nọ, lên đài xuyên tạc bá láp tình hình, kêu gọi viện trợ hòng khôi phục cái thây ma thối rữa vất vưởng xứ người.

Với đơn vị tôi, chúng nó chỉ là một đám ma đói chạy tụt cả váy (theo nghĩa đen), không hơn. Kinh tởm độc ác thế mà cũng có đứa tin, tuồn viện trợ cho nó. Có thể các bạn nghĩ tôi thiếu kiềm chế hay cực đoan, nhưng chúng nó đã làm anh em chiến trường K và cả đất nước Campuchia khốn khổ thêm chừng ấy năm trời. Phải chi lúc ấy chỉ thêm một tiểu đoàn đón lõng thì bọn nó sẽ tha hồ được phát thanh trước tòa án quốc tế, hoặc phát thanh trước Diêm vương. 

Bây giờ nói sang chuyện khác cho đỡ tức. Coi như xả stress! Dẫu có hơi lạc chủ đề nhưng nó cũng là những kỷ niệm của đời lính chiến. Trong các bạn đọc có ai quê ở Đồng nai không? Đương nhiên, Đồng nai (ngày xưa) là một cánh đồng rất nhiều nai. Cái tên thật là giản dị. Ở vùng tác chiến của đơn vị tôi cũng có những đồng nai như thế. Đấy chính là cái thung lũng A3 và vùng phụ cận mà các bạn nhìn thấy trên bản đồ đấy! Tháng 5 năm 79, mùa mưa đã bắt đầu. 

Trong khi trung đoàn truy quét (lính gọi là đi càn) để làm trong sạch và củng cố địa bàn đứng chân qua mùa mưa thì đàn nai cũng tràn ra những trảng cỏ trong thung lũng tìm gặm những ngọn cỏ đầu mùa. Nai đi ăn lẫn với bò hoang. Chiến tranh liên miên, bò nhà hoặc xổng, hoặc phá bầy lâu dần thành như hoang thú. Lắm con vẫn còn đeo cả mõ lốc ca lốc cốc làm lính mình tưởng là bò của dân không dám bắn. 

Đến khi lại gần thì cả đàn tháo chạy. Những anh lính quê thành phố hay đồng bằng ngẩn người ra nhìn mấy con nai cao lớn nặng hàng tạ, nâu nhạt hoặc vàng hươm phi như tên bắn. Ban đêm cứ phục gần vũng nước độc lập, rìa suối thoải mà le mọc thưa dứt khoát bắn được nai. Những con nai bụng mang dạ chửa thèm muối, thường hay lần mò đến những phum hoang cũ, nơi chúng tôi đổ vãi muối dự trữ của địch ra để liếm đất mặn. Không chỉ nai, lợn rừng, mễn(hoẵng) mà thú rừng nào hầu như cũng thèm muối.

Các phum hoang trở thành những địa điểm săn bắn cải thiện lý tưởng cho chúng tôi, khi mà tiếp liệu thực phẩm mùa mưa trở nên khó khăn. Có thú ăn cỏ chắc chắn có thú ăn thịt. Tôi muốn nói đến hổ - chúa sơn lâm của rừng già. Những loại tẹp nhẹp như sói, lang, beo thì không tính. Mặc dù con beo cũng rất nguy hiểm vì hành tung của nó rất bí mật và leo cây phục kích rất giỏi. Hổ vùng này rất nhiều.

Chiến trường khốc liệt, xác lính địch, xác dân chết đói đầy rẫy. Thế là chúa sơn lâm quay sang đổi món, thưởng thức thịt người như một món ăn khoái khẩu. Cứ nghe tiếng súng trận, thay vì bỏ chạy cong đuôi, những con hổ tinh quái lại mò mò đến, chờ đánh chén bữa tiệc thịnh soạn đã được dọn sẵn. 

Trong mùa mưa năm 1979, trung đoàn 2 sư đoàn 9 lập cứ dừng chân ở nhà ga Bâmnak. Tiểu đoàn 4 đóng quân trong cái phum hoang, gọi tên trên bản đồ là Kbal Tea Hean (lính phiên âm là Ba tà hiên – nghĩa là ba “người lính” trong tiếng Việt). Đây là vị trí xa trung đoàn bộ nhất, gần thung lũng A3. Rừng tự nhiên bao phủ rồi lấn cả vào những cái phum không người. Tiểu đoàn 4 và trinh sát 21 trong trung đoàn có tiếng là sát địch. Trong nhiều lần đi càn, có khi các tiểu đoàn bạn về không thì chúng tôi ít nhất cũng xơi được vài thằng. Bộ đội ta săn địch sống, còn hổ thì săn địch chết. 

Trong đợt truy quét địch ở phum Kà rọi (phum cam), Có hai con hổ cứ đi theo tiểu đoàn lẽo đẽo. Lúc đi sau, lúc vượt trước ngoan như bọn trẻ con. Chúng tôi nhận biết nó qua cái mùi khét đặc trưng và những vết chân to như cái bát ăn B.52. Nước trong dấu chân ấy còn đang vẩn đục, nghĩa là bọn nó vừa đi trước đội hình chừng 5 phút. Một lần đang ngược suối, trinh sát bỗng thấy dòng chảy đang trong bỗng có vệt lởn vởn đục. 

Đơn vị thận trọng bám lên thì nhìn thấy hai ông kễnh to tướng đang lon ton bì bõm vượt suối. Nhìn thấy chúng tôi, bọn nó khinh khỉnh nhìn lại cứ như bố tướng rồi đủng đỉnh ngoắt đuôi tránh đường. Có thể loài vật thông minh ấy cũng hiểu là không nên tấn công những kẻ luôn mang lại những bữa ăn ngon lành cho mình. Ban đêm, đơn vị mắc võng ngủ rừng, nó cứ à uôm xung quanh suốt. Nhưng hổ đã kêu như thế thì không đáng sợ. Lúc đấy nó đã no mồi rồi. Hoặc đang tán tỉnh nhau.

Còn thấy mùi hổ mà không thấy động tĩnh gì thì hãy coi chừng. Những thằng tụt tạt phía sau đội hình hành quân bỗng trở nên mạnh khỏe hơn bao giờ hết. Đi truy quét, chúng tôi gặp rất nhiều thú nhưng không dám bắn vì sợ lộ đội hình. Ưu tiên diệt địch bao giờ cũng là số một. Những câu chuyện về thú rừng, về những chuyến săn cải thiện xen lẫn trong bài viết này.

Vâng! Chúng ta đang ở thời điểm tháng 5 năm 1979, tại ga Bâmnak và các vùng phụ cận quanh thung lũng A3. Kể từ đây, thời gian bị nhoè đi theo cuốn nhật ký bởi những trận mưa rừng xối xả. Nhưng những câu chuyện của đời lính không thể nào quên vẫn tươi nguyên trong ký ức, trong từng trang thiếu xé ra từ cuốn sổ để hút thuốc rê. Đôi khi, một mảnh cỏ khô giắt lại, một vết cháy do tàn thuốc cũng nhắc lại được rất nhiều điều…

Vào một ngày mưa như thế, chúng tôi được lệnh hành quân ra Bâmnak. Suốt mấy tháng sống giữa rừng già, nay được quay trở ra đường sắt nên ai cũng thấy phấn khởi. Tiểu đoàn 4 hành quân trước. 

Trung đoàn bộ và tiểu đoàn 5 đi sau. Tiểu đoàn 6 chốt ở phum “Cà” (vì có một nương cà dái dê) sẽ rút ra sau cùng. Chúng tôi đi giữa rất nhiều đám dân bạn được giải phóng, cũng đang lục tục trở ra đồng bằng. Rừng thưa dần. Đã thấy những khung nhà sàn không có người ở cắm chân bên những ruộng lúa nước. Gọi là ruộng lúa thôi chứ làm gì có lúa, toàn cỏ dại mọc lấn um tùm. Rừng chen ruộng. Ruộng lại chen rừng. Địa hình thoải và tầm mắt được mở rộng dần.

Lúc đó, hướng phum “Cà” tiểu đoàn 6, tiếng hoả lực bỗng vọng lại rền rền. Tiểu đoàn 4 được lệnh dừng lại, bỏ trang bị nặng chuẩn bị đánh vận động. Đơn vị ngoặt hướng chưa được nửa cây số lại có lệnh trở ra đường tiếp tục hành quân. Chuyện này nghe thằng Bình “cáo” và thằng Bình “ghẻ” ở khẩu đội đại liên đại đội 12 kể lại là khi toàn tiểu đoàn chuẩn bị lên đường thì địch đánh ập vào. Bọn này hẳn là rất thiện chiến và giàu kinh nghiệm nên chọn thời điểm tấn công hết sức nham hiểm. Khi chuẩn bị hành quân, đương nhiên các loại hoả lực sẽ phải tháo súng, bộ đội sẽ rời công sự và tâm lý thường là mất cảnh giác hơn. Khẩu đại liên đại đội 12 vừa tháo xong thì chúng nó khai hoả.

Quả B.40 dũi tung bờ công sự, kẹt vào cái gốc cây hai chạc nhưng không nổ. Hai thằng trợn mắt nhìn cái đuôi đạn đen nhám còn bốc khói, bỏ khẩu đại liên đang tháo dở rồi lăn ra quạt AK vào bựng khói đen đầu nòng bên kia suối. Anh Thắng “chàm”, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 6 lệnh cho các đại đội từ phương án đánh địch tại chỗ chuyển sang đánh vận động. Yếu tố bất ngờ không khai thác được, lại bị đại đội 11 đánh bọc sườn nên bỏ chạy sau mươi phút giao tranh, bỏ lại xác 4 thằng. 

Bên ta chỉ có một bị thương và thằng Kính, lính Hải phòng hy sinh. Tôi nhớ thằng Kính cán bộ khung huấn luyện - tiểu đội trưởng. Vào đơn vị chiến đấu cùng đoàn, tuổi thì sàn sàn thì gặp nhau mới mày tao chứ thời huấn luyện thì phải gọi bằng anh bỏ mẹ!

Ra đến đường, đi thêm quãng nữa, một cảnh tượng hết sức phẫn uất bày ra ngay dưới mắt đơn vị. Một thằng lính B3 hậu cần trung đoàn bộ (không biết tên) nằm trên một vũng máu, đầu lìa khỏi cổ. Nó bị một nhát chém chí tử từ đằng sau bằng dao quắm vào gáy. Khi tiểu đoàn tư vận động đánh địch lúc nãy, đội hình trung đoàn bộ đã vượt qua chúng tôi đi trước. 

Thằng này có lẽ mệt, vừa đi vừa nghỉ, có ý chờ tiểu đoàn 4 nên bị mấy thằng địch trong dân xử ngọt. Nó không còn gì trên người ngoài bộ quân phục đang mặc. Chết bom chết đạn thì không sao chứ chơi nhau kiểu hèn hạ ấy làm lính tiểu đoàn 4 như phát cuồng. Chúng nó cứ hằm hè nhìn đám dân, thấy người nào có vác dao quắm là xô lại túm ngực lôi đến cái võng tử sỹ ấn đầu vào hỏi. Đoàn người khốn khổ sợ hãi xanh mét cả mặt. Lúc nãy còn tử tế xin thuốc xin nước nhau là thế mà bây giờ tình thế đổi khác hẳn. Cơn giận làm mờ mắt cả lương tri. 

Chính trị viên tiểu đoàn hò hét khản cả giọng, rút K.59 ra bắn chỉ thiên mới dập nguội được những cái đầu nóng ấy. Từ đó cho đến tối, vượt qua một đoàn dân bạn nào , tôi chỉ chăm chăm nhìn xuống chân xem có ai đi đôi dép giống kiểu dép mà hậu cần vừa phát cho đơn vị không? Tiếc thay! Hoặc may thay! Họ toàn đi đất.

Những người dân thoát từ rừng ra cũng không dám trụ lại những phum bám quanh nhà ga Bâmnak vì nơi đây vẫn còn hoang vu và nằm trong vùng chiến sự. Một cái nhà ga hoang, như ga Rômeas, đúng nghĩa. Ban đêm, lợn rừng vào ủi tận những mảnh ruộng sát mép đường sắt.

Còn ban ngày, vịt trời và các loài chim nước tụ đàn trên những đầm nước ven đường. Cầu đường sắt bắc qua con suối Damrei (trung đoàn gọi là suối tiểu đoàn 4) chưa bị địch phá nhưng cầu đường bộ, vốn làm bằng những cây gỗ lớn, đã bị chúng nó đốt nham nhở. Trở lại cùng với mùa mưa là các hoạt động tăng cường của địch. Những hoạt động tuy nhỏ lẻ nhưng thường xuyên gây khó khăn cho chúng tôi.

Công tác hậu cần bị chậm trễ. Từ Bâmnak ra lộ 5 chỉ có hai con lộ đất. Lộ 28 chạy từ ga Kâmrenh (ga phía trên Bâmnak), qua kẹp núi Tuk S’ra, gặp lộ 5 tại Kra Ko. Lộ không tên, vốn là con đường bò lớn chạy từ ga Th’may, ga dưới ga Bâmnak ra thị trấn Ponley. Đi đường nào lộ trình cũng tương đương 30 km toàn rừng thưa và đồng hoang không một bóng người. Đường sắt chưa khôi phục hoạt động.

Tất cả trông chờ vào xe vận tải sư đoàn và trung đoàn. Mỗi lần chốt đường thông xe là mỗi lần đổ máu. Tuy ít nhưng cứ lai nhai kiểu “kê cân” rất khó chịu. Nước mưa xuống, rừng nhiệt đới sinh sôi phát triển mãnh liệt. Có những khoảng rừng thưa khẳng khiu khi đơn vị đi qua mới non một tháng. Khi trở lại vòm lá đã trở nên thẫm tối. Những con đường bò mùa khô đầy bụi. Bây giờ cỏ dại đan ken che lấp hai vệt bánh, phải khó khăn lắm mới nhận ra.

Còn trên những bình độ dốc, nước mưa chảy ào ào trên đường bò, xói đi đất đá. Lúc đó con đường bỗng trở thành con suối một mùa. Mùa mưa đến cũng có nghĩa mùa sốt rét bắt đầu tác quái. Đơn vị bắt đầu có những thằng sốt nằm li bì. Quân số tác chiến bắt đầu giảm đi. Riêng trung đội thông tin chưa bị dính ca nào. Y tá tiểu đoàn và các đại đội bắt đầu phát thuốc Nivaquin, bắt phải uống trước mặt vì sợ chúng nó vứt thuốc đi.

Không hiểu sao hồi ấy lại có tin đồn là uống thuốc này (lính gọi là viên phòng 3) thì sẽ chẳng thể có con được. Buổi sáng hoặc buổi trưa những ngày nghỉ truy quét, chúng tôi thường ngủ lu bù trên võng. Anh Nhương phải đến lùa từng thằng dậy, bắt vận động đi lại cho nó tỉnh người. Ngủ nhiều rất dễ bị sốt rét.

Nhưng mà địch thì không bị sốt rét (đó là do tôi nghĩ thế) vì nó bâu bám đơn vị rất sát. Tại bình độ 100 trong kẹp núi Pean Sas, khi đại đội 1 rời đi lùng sục, địch mò hẳn vào chỗ đóng quân lúc sáng. Có một cái chum sứt lớn, lính đại đội 1 thái măng ngâm chua với ớt rừng để ăn dần. Bọn nó vớt hết sạch măng, sau đó cũng đập tan cái chum, hệt như cách chúng tôi cư xử với những chum muối của chúng nó.

Vừa tức vừa buồn cười! Quân số hao hụt trong chiến đấu, nay càng hao hụt thêm vì sốt rét. Đại đội 1 mà tôi đi máy lúc này chỉ còn khoảng gần 30 người, kể cả thông tin đi phối thuộc. Có những trung đội chỉ còn 6 tay súng. Đại đội lại phải san bớt người ở các trung đội khác sang. Ban đêm, mỗi B gác 2 vọng từ chập tối. Chỉ huy sở và cối 60 cũng phải gác, trừ cán bộ đại đội. 

Nhưng thấy anh em vất vả quá, các anh ấy cũng chia phần thức đêm với lính. Đi truy quét, chúi rừng rậm ngủ thì ù xoẹ gác thế nào cũng xong. Còn dừng chân tại các phum cũ, các giao lộ đường bò, không thằng nào dám bỏ gác. Có buổi sáng thức dậy, đang lào xào thu võng thì chúng nó bắn rát vào đơn vị.

Đại đội chia cánh vận động lên thì địch đã chạy. Tại chỗ địch bắn vào đội hình lúc nãy đếm được 12 cái cọc phụ mắc võng. Đêm hôm qua, đã có 6 thằng địch ngủ cạnh đại đội 1, cách có 40m, cứ như một B phối thuộc vậy. Anh Chính “tréc” thè lưỡi trợn mắt, hất hàm dọa bọn tôi: “Thấy chưa?!”. Một đêm, đúng ca gác của tôi, gần hết ca tự nhiên đau bụng quá. Tôi lần về võng, lục ba lô lấy vội mấy cái phong bì thư. Để làm gì chắc các bạn đã biết. Bên phải là B2 , bên trái là B3.

Lò mò sang hai hướng ấy chúng nó tưởng địch quất cho bỏ mẹ! Thế là tôi cứ thẳng hướng gác của mình tiến lên. Qua khỏi đội hình chừng 15m, nhớ lại chuyện ngủ chung với địch hôm trước. Tôi không dám mò lên nữa, ngồi luôn xuống làm công việc giải thoát đại tràng. Xong xuôi khoan khoái, rờ quanh thấy một nửa cái vỏ dừa tươi. Tôi vớ lấy, úp lên cái sản phẩm cuối cùng của bộ máy tiêu hoá. 

Hết ca! Về bấu thằng Căn liên lạc dậy thay rồi chui vào võng. Nằm được một lát, chưa kịp ngủ lại thấy thằng Căn mò về bấu anh Chính “tréc” đại đội trưởng: “Anh ơi! Dậy! Địch ở rất gần!”. “Sao mày biết?”. “Có mùi phân tươi, anh ạ!”. Quả đúng là trong không khí cuối gió, mùi phân người thoang thoảng. Ông Chính dậy ngay, bảo thằng Căn luồn xuống các B báo động. 

Tôi nằm im re, không dám nói gì! Đến sáng, đội hình thận trọng bung ra. Vẫn không thể phát hiện được cái mùi đặc biệt ấy từ đâu? Dòm ngó loanh quanh một lúc, thằng Dung cối quả quyết vung chân đá tung cái vỏ dừa. Nó vênh mặt nhìn quanh, đắc ý hệt Colombus tìm ra châu Mỹ. Bên trong cái vỏ dừa, kèm theo những thứ không tiện nói là cả một cái phong bì. 

Hàng chữ nắn nót trên đó tố cáo ngay chủ nhân của nó. Phải giới thiệu tên mình trong cái hoàn cảnh đặc biệt như thế này quả là không tiện lắm! Nhưng nó cũng là sự thật, như tất cả những sự kiện tôi đã kể với các bạn trong trang viết này! Cho đến tận bây giờ gặp nhau, bọn tôi vẫn nhắc lại rồi không nhịn được cười.

Một số thông tin nói rằng Kh'mer Đỏ xây dựng một xã hội không trường học, sách báo, tiền tệ...

Trong khi đánh địch, tại Ph'nom Penh cũng như một số nơi khác, chúng tôi đã nhặt được rất nhiều tiền do Kh'mer Đỏ in hoặc nhờ in song chưa phát hành thì phải. Những hình vẽ trên đồng tiền thường phản ánh thực trạng hoặc định hướng xã hội của một chế độ. Các bạn hãy nhận xét định hướng xã hội của chế độ ấy qua hình ảnh những đồng tiền chưa bao giờ có cơ hội lưu thông này.

Xin chú ý những cái mũ lưỡi trai đội đầu của những nhân vật được vẽ trên đồng tiền. Tôi thấy giống giống... cái mũ này trông quen quen!

Khẩu đại liên Kalinôp có bánh xe vẽ trong đồng tiền chính là khẩu đại liên cùng loại của C1 trong các trận đánh. Mãi năm 1981 trung đoàn mới đổi cho khẩu đại liên ba chân (tên gọi là K.53 thì phải - cái này tôi không biết tên) mới coong, bắn cùng loại đạn K.53

Còn tư thế bắn B.40 của "chị gái" trong hình rất Pờ rồ!

Do địch chơi kiểu du kích như thế nên chúng tôi cũng thay đổi cách đánh để chơi lại. Những trận đánh cấp tiểu đoàn, trung đoàn như hồi mùa khô không còn nữa. Bây giờ chủ yếu là những trận phục kích, bao vây cấp đại đội. Tiểu đoàn hành quân giải toả hoặc chốt đường xong, khi rút qua một địa điểm thuận lợi đã chọn sẵn liền bí mật để lại một trung đội cứng và một máy 2W nằm phục.

Còn đơn vị cứ hành quân như không có chuyện gì xảy ra. Thậm chí đi được một lúc còn bắn bậy sang hai bên đường, ra cái điều thông báo chúng ông đã về đến đây rồi. Mấy thằng địch bâu bám tưởng bở, tênh tênh mò ra đường hoặc theo dấu đơn vị lập tức ăn đòn đủ, thường là bị tiêu diệt gọn. Đơn vị về đến vị trí đứng chân, nghe ở hướng trung đội phục kích rầm rầm B.40, B41 và đạn nhọn rộ lên là kể như chắc ăn. Mấy thằng có võng cũ chạy ngay ra hóng để xin hoặc đổi võng. 

Bọn nằm phục về, lỉnh kỉnh súng đạn thu được, còn trên tay thỉnh thoảng lại lấp lánh cái đồng hồ tự động chiến lợi phẩm hiệu Orient, Rado…Nhưng chiến thắng nào mà chẳng có cái giá của nó! Tiểu đoàn 4 có tiếng sát địch thì cán bộ tiểu đoàn và cán bộ đại đội cũng thay như thay áo. Mới có 3 tháng đầu năm 1979, chỉ tính riêng hàng ngũ cán bộ đại đội trở lên đã hy sinh và bị thương 5 người.

Anh Thoan đại đội phó đại đội 3 hy sinh tháng 3. Đến tháng 4 thì anh Sơn tiểu đoàn trưởng, anh Quang, anh Tuy đại đội 1, anh Đạt đại đội 3 bị thương. Vào một buổi trưa, anh Tiến mới nhận tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 4 thay anh Quảng (bệnh – đau dạ dày cấp), cùng tổ trinh sát 27 sư đoàn trèo lên cái tháp nước trên sân ga. Cái tháp nước này cao khoảng 15m. 

Trong khi đang quan sát địa hình bằng ống nhòm thì bị địch bắn tỉa. Phải nói thằng địch này rất thiện xạ. Từ khoảng cách có đến vài trăm mét, viên đạn có lẽ bắn từ khẩu K.63 xuyên qua bụng (chắc chắn hồi đó địch không có súng bắn tỉa ống ngắm quang học dùng đạn K.53). Chúng tôi thấy anh ấy ôm bụng gục ngay trên tháp nước. Hai thằng trinh sát 27 vội nằm ngay xuống kêu ầm lên.

Anh Thào tiểu đoàn phó hô lính vận động, chủ yếu là để đuổi địch thôi chứ biết nó bắn từ đâu trong cái ngàn xanh bao bọc sân ga này. Mọi người đưa anh Tiến xuống. Cũng may là viên đạn không phá nhiều. Khoảng 2h đồng hồ sau, trực thăng đáp xuống sân ga đưa anh ấy cùng mấy thằng sốt rét ác tính đi viện luôn. Tôi bây giờ cũng không biết là có qua khỏi hay không! 

Anh ấy là người thứ 6 trong danh sách cán bộ mà tôi vừa kể trên. Từ đó, ngoài cái tiếng là sát địch, tiểu đoàn 4 còn có tiếng là sát cán bộ. Lính nói nam nam, chuyện gẫu bá láp thế thôi chứ tôi chưa thấy ai từ chối nhiệm vụ chỉ huy mà trung đoàn giao cho bao giờ. 

Ngay chiều tối hôm ấy, theo lệnh trung đoàn, anh Thào dẫn tiểu đoàn càn vào hướng địch bắn tỉa lúc trưa, tiến đến dãy núi “thằn lằn” - (tên trên bản đồ là Ph’nom Lang T’beng). Đơn vị bỏ đường lớn, cặp theo suối Damrei rẽ rừng tiến bước. Qua phum Th’may, trời đã nhập nhoạng tối. Phum Th’ may là một phum lớn, còn nguyên vẹn nhưng cũng là một cái phum hoang như hầu hết các phum trong khu vực.

Những ngôi nhà sàn lừng lững, mái ngói đã lên rêu phủ bóng tối xuống mảnh sân mà cỏ dại đã lấn vào. Trên sân, mấy cái cối, dùng để giã gạo hoặc cốm dẹt trong Tết mừng cơm mới đã mục, nằm chỏng trơ. Xoài tượng rụng vàng cả gốc, bốc lên mùi men rượu chua nồng. Khi ta bước lên thang, những bậc gỗ cũ kẽo kẹt như sẵn sàng rụng xuống. Trong những ngôi nhà rộng rãi và tăm tối đó đầy mùi ẩm mốc và tử khí.

Đôi khi gặp những xác người đã phân huỷ, dưới lớp áo quần đã mủn là những bộ xương rã rời. Tóc rụng quanh sọ không tiêu huỷ được, xếp thành một lớp chằn chặn dưới sàn. Và dơi! Dơi quạ ở đây to khủng khiếp. Sải cánh mỗi con phải đến 1.2m. Cả đàn hàng trăm con đến ăn xoài chín, quạt cánh phần phật tối cả hoàng hôn.

Xuân Tùng

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop