Tin nông nghiệp Chủ Nhật ngày 04 tháng 12 năm 2016

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp Chủ Nhật ngày 04 tháng 12 năm 2016

Xuất siêu gần 7 tỷ USD nông lâm và thủy sản

 

Nguồn tin:  Nhân Dân

 

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cán cân thương mại nông lâm và thủy sản của 11 tháng qua xuất siêu khoảng 6,95 tỷ USD, trong đó thủy sản cùng gỗ và các sản phẩm gỗ có kim ngạch xuất khẩu đạt hơn sáu tỷ USD.

 

Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 11 năm 2016 ước đạt 2,69 tỷ USD, đưa tổng giá trị xuất khẩu 11 tháng đầu năm 2016 đạt 29,1 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm 2015.

 

Kim ngạch nhập khẩu toàn ngành nông, lâm, thủy sản tháng 11 năm 2016 ước đạt 2,1 tỷ USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu 11 tháng đầu năm 2016 đạt 22,15 tỷ USD, tăng 4,6% so với năm cùng kỳ năm 2015.

 

Gạo: Lượng giảm, giá tăng

 

Kết quả hình ảnh cho Hình ảnh xuất khẩu gạo

 

Khối lượng gạo xuất khẩu trong 11 tháng đầu năm 2016 ước đạt 4,54 triệu tấn và hai tỷ USD, giảm 25% về khối lượng và giảm 20,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Tuy nhiên, giá gạo xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm 2016 đạt 450 USD/tấn, tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2015.

 

Trung Quốc vẫn tiếp tục đứng vị trí thứ nhất về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2016 với 36% thị phần. Gana là thị trường nhập khẩu gạo lớn thứ hai của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2016 với 11,5% thị phần. Các thị trường có giá trị giảm mạnh là Philippines giảm 61,6%, Malaysia (51,5%), Singapore (34,1%), Bờ Biển Ngà (29,1%), Hoa Kỳ (28,3%) và Hồng Công (7,7%).

 

Cao su, Cà phê, Tiêu: Lượng tăng, giá giảm

 

Kết quả hình ảnh cho Hình ảnh xuất khẩu Cao su

 

Ước tính khối lượng xuất khẩu cao su 11 tháng đầu năm 2016 đạt 1,1 triệu tấn và 1,43 tỷ USD, tăng 12,3% về khối lượng và tăng 4,6% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Giá cao su xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm 2016 đạt 1.267 USD/tấn, giảm 9,6% so với cùng kỳ năm 2015. Trung Quốc và Ấn Độ là hai thị trường tiêu thụ cao su lớn nhất của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2016, chiếm 66,1% thị phần.

 

Xuất khẩu cà phê trong 11 tháng đầu năm 2016 đạt 1,6 triệu tấn và 2,98 tỷ USD, tăng 36,1% về khối lượng và tăng 24,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Giá cà phê xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm 2016 đạt 1.817 USD/tấn, giảm 10,4% so với cùng kỳ năm 2015. Đức và Hoa Kỳ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2016 với thị phần lần lượt là 15,2% và 13,2%.

 

Khối lượng tiêu xuất khẩu tháng 11 năm 2016 ước đạt 10 nghìn tấn, với giá trị đạt 78 triệu USD, đưa khối lượng xuất khẩu tiêu 11 tháng đầu năm 2016 đạt 170 nghìn tấn và 1,37 tỷ USD, tăng 36,7% về khối lượng và tăng 15,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Giá tiêu xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm 2016 đạt 8.102 USD/tấn, giảm 15% so với cùng kỳ năm 2015.

 

Hạt điều: Tăng lượng, được giá

 

Kết quả hình ảnh cho Hình ảnh xuất khẩu Hạt điều

 

Khối lượng hạt điều xuất khẩu 11 tháng đầu năm 2016 đạt 320 nghìn tấn và 2,59 tỷ USD, tăng 6,2% về khối lượng và tăng 18,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Giá hạt điều xuất khẩu bình quân 10 tháng đầu năm 2016 đạt 8.033 USD/tấn, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm 2015. Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hà Lan vẫn duy trì là 3 thị trường nhập khẩu điều lớn nhất của Việt Nam chiếm thị phần lần lượt là 34%, 14,2% và 13,5% tổng giá trị xuất khẩu hạt điều.

 

Xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt 6,2 tỷ USD

 

Kết quả hình ảnh cho Hình ảnh xuất khẩu gỗ

 

Ước giá trị xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ 11 tháng đầu năm 2016 đạt 6,2 tỷ USD, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm 2015. Hoa Kỳ, Nhật Bản và Trung Quốc là ba thị trường nhập khẩu gỗ và sản phẩm gỗ lớn nhất của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2016, chiếm 69% tổng giá trị xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ.

 

Xuất khẩu thuỷ sản đạt 6,4 tỷ USD

 

Kết quả hình ảnh cho Hình ảnh xuất khẩu thủy sản

 

Giá trị xuất khẩu thủy sản 11 tháng đầu năm 2016 đạt 6,4 tỷ USD, tăng 6,9% so với cùng kỳ năm 2015. Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc là bốn thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2016, chiếm 54,1% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản.

 

X.B

 

Mô hình chỉ dẫn địa lý - đứng riêng lẻ sẽ khó trụ vững

 

Nguồn tin:  VOV

 

Các nhà sản xuất sản phẩm chỉ dẫn địa lý phải có tính cộng đồng, cùng nhau sản xuất, cùng nhau bảo vệ danh tiếng, bảo vệ chất lượng sản phẩm.

 

Những năm gần đây, việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm nông sản đã đạt được những kết quả nhất định, đặc biệt từ khi Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Tuy vậy, vẫn còn nhiều nhà sản xuất, doanh nghiệp và địa phương chưa quan tâm đến bảo hộ sở hữu trí tuệ cho nông sản và rất ít nhãn hiệu sản phẩm nông sản Việt Nam có thương hiệu trên thương trường quốc tế.

 

 

Hội nghị phát triển thị trường và thương hiệu sản phẩm thông qua chỉ dẫn địa lý.

 

Kết quả điều tra của các cơ quan chức năng tại Hội thảo “Phát triển thị trường và thương hiệu sản phẩm thông qua chỉ dẫn địa lý” do Bộ Công Thương phối hợp với UBND thành phố Hà Nội tổ chức ngày 1/12 cho thấy, hiện có tới 90% lượng nông sản Việt Nam xuất khẩu dưới nhãn hiệu của nước ngoài, khoảng 50% chỉ dẫn địa lý và 140 nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể được đăng ký xác lập, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và chỉ một số ít trong đó được đăng ký bảo hộ ở nước ngoài.

 

Nguyên nhân là năng lực hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp còn thấp, sự liên kết giữa chính quyền địa phương, người dân và doanh nghiệp chưa chặt chẽ; kỹ năng kinh doanh thương mại và tiếp thị, phát triển sản phẩm của người sản xuất còn hạn chế, mang tính tự phát; chính quyền cơ sở và người nông dân chưa ý thức được tầm quan trọng của việc phát triển thị trường.

 

Xu hướng chung của thị trường hiện nay đòi hỏi sản phẩm phải có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, nhãn hiệu hàng hóa được các cơ quan chức năng Nhà nước bảo hộ. Do đó, để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cho các sản phẩm, việc tăng cường phát triển thị trường, xây dựng thương hiệu và chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm là hết sức quan trọng, cần thiết.

 

Ông Lưu Đức Thanh, Trưởng phòng Chỉ dẫn địa lý, Cục sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cho rằng, các nhà sản xuất các sản phẩm chỉ dẫn địa lý phải có tính cộng đồng, cùng nhau sản xuất, cùng nhau bảo vệ danh tiếng, bảo vệ chất lượng sản phẩm của mình, nếu đứng riêng lẻ sẽ không thể trụ vững.

 

“Cần phải áp dụng tiến bộ kỹ thuật, làm sao cho các sản phẩm có hình thức đẹp hơn, bắt mắt hơn; Cần phải có chiến dịch truyền thông đối với những sản phẩm này để cho người tiêu dùng biết có những sản phẩm đặc thù như vậy. Trên hết chúng ta cần phải có khung thể chế để làm sao quản lý được các sản phẩm chỉ dẫn địa lý”, ông Thanh nhấn mạnh./.

 

Chung Thủy/VOV-Trung tâm Tin

 

Không cam chịu nghèo

 

Nguồn tin:  Báo Thừa Thiên Huế

 

Ở xã Quảng Vinh (Quảng Điền, Thừa Thiên Huế) ngày càng có nhiều nông dân vượt qua khó khăn, nỗ lực cố gắng vươn lên làm giàu trên trang trại vùng cát...

 

 

Nuôi cá kết hợp với chăn nuôi vịt đàn, trồng rừng của gia đình ông Phan Văn Hứa

 

Năm 2006, từ đội 10, thôn Sơn Tùng, xã Quảng Vinh, ông Nguyễn Thuận cùng vợ con dắt nhau lên vùng cát của xã để lập trang trại. “Với vùng cát trắng như ri chỉ có đầu tư chăn nuôi và trồng rừng là có triển vọng hơn cả”, ông Thuận mở đầu câu chuyện.

 

Được chính quyền địa phương, Hội Nông dân xã tạo điều kiện, gia đình ông Thuận đầu tư chăn nuôi lợn và trồng nấm sò, nấm rơm. “Lúc đó chỉ 5 – 7 con lợn nái, vài ngàn bịch nấm, cơ sở vật chất thiếu thốn, kinh nghiệm chưa có nhiều, nên tui lo lắm. Nhưng đã lên vùng đất này rồi, muốn “an cư lạc nghiệp” phải cố thôi. Tui đầu tư nuôi thêm gà, đào ao thả cá”, ông Thuận chia sẻ. Giờ gia đình ông Thuận là một trong những hộ nông dân làm ăn kinh tế khá nhất ở vùng trang trại rú cát Quảng Vinh, với hơn 20.000 con gà, vịt, ngan; 400 con lợn thịt, 10 con lợn nái, thu nhập mỗi năm từ 2 đến 3 tỷ đồng.

 

Năm 2001, được sự đồng ý của chính quyền địa phương, ông Phan Văn Hứa, từ thôn Thạch Bình, thị trấn Sịa lên vùng đất mới Quảng Vinh làm kinh tế. Với 5 ha đất vùng cát, ông Hứa cùng gia đình tích cực trồng rừng, xây chuồng, chăn nuôi gia súc, gia cầm và đào ao thả cá. Nhiều ý tưởng táo bạo được ông ứng dụng vào. Tuy có lúc thăng, lúc trầm nhưng ông là người đi đầu trong đầu tư chăn nuôi đà điểu, xây dựng được vườn thuốc nam. “Ngoài trồng 4 ha rừng keo, thì chỉ có chăn nuôi mới mong làm ăn phát triển. Từ chăn nuôi đàn lợn vài chục đến trăm con; đàn gà hơn 4.000 con; rồi cá và các khoản khác, doanh thu mỗi năm cũng lên đến 1, 2 – 1,5 tỷ đồng. Nếu được vay thêm vốn, tui đầu tư, mở rộng thêm để sản xuất kinh doanh”, ông Hứa cho biết.

 

Tuy vợ chồng ông, bà Hồ Sinh - Văn Thị Huệ mới đầu tư làm ăn kinh tế, nhưng cũng là một trong những hội viên hội nông dân đi đầu “dám nghĩ, dám làm” ở Quảng Vinh. Vợ chồng ông, bà bàn nhau vay 800 triệu đồng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Quảng Điền đầu tư xây dựng 2 dãy nhà nuôi lợn nái và lợn thịt, đầu tư con giống, thức ăn cùng với những công trình phụ trợ khác, kinh phí lên đến gần 1 tỷ đồng”. Hiện trong chuồng có 20 con lợn nái, 55 con lợn con, 120 lợn thịt, 2.000 con vịt, 1 cặp bò, 3 ha rừng keo lai cũng đủ lấy thu bù chi, trang trải cuộc sống và nuôi mấy đứa nhỏ đi học. Mới 4 năm đầu tư làm ăn, cái được lớn nhất là xây dựng được cơ sở hạ tầng, cùng với một chút ít kinh nghiệm trong chăn nuôi, rứa là mơ ước lớn rồi còn chi”, bà Văn Thị Huệ trải lòng.

 

Với mục đích hỗ trợ hội viên xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu, Hội Nông dân xã đã phát động phong trào thi đua “Nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững” tới 100% cán bộ, hội viên. Hàng năm, hội tích cực chỉ đạo, triển khai thực hiện phong trào dưới nhiều hình thức như: Khảo sát, phân loại hộ nghèo; phân công hội viên có điều kiện kinh tế khá giúp đỡ hội viên nghèo với các hình thức như giúp cây, con giống, giúp vốn, giúp về kinh nghiệm sản xuất... Hội vận động hội viên và gia đình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, áp dụng tiến bộ KHKT mới, đưa các giống cây, con có giá trị kinh tế cao vào sản xuất. Để tạo nguồn vốn cho hội viên mở rộng sản xuất, Hội đứng ra tín chấp với Ngân hàng Chính sách xã hội cho hơn 441 hộ hội viên vay 9,6 tỷ đồng để phát triển kinh tế.

 

Ông Hồ Văn Thiệp, Chủ tịch Hội Nông dân xã Quảng Vinh phấn khởi: “Hội hiện có 1.232 hội viên, sinh hoạt ở 15 chi hội. Chăn nuôi và trồng trọt là hướng phát triển chính của nhiều hội viên. Nuôi lợn rừng, trồng hoa cúc, trồng sắn dây trong bao, trồng ném, hành lá là những mô hình mới. Nhiều hộ nông dân của xã làm ăn mang lại hiệu quả kinh tế cao, ổn định cuộc sống; trong đó, có 6 hộ thu nhập từ 1,5 – 2,4 tỷ đồng/năm; 110 hộ thu nhập 108 – 250 triệu đồng/năm...”.

 

“Các hội viên đã đóng góp gần 5 tỷ đồng bao gồm, hiến đất, tự nguyện giải phóng các công trình, tài sản trên đất để cùng với Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể, Nhân dân trong xã xây dựng chương trình nông thôn mới. Hội Nông dân xã Quảng Vinh là một trong những cấp hội vững mạnh, đi đầu trong các phong trào, nhất là tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế, nâng cao mức sống hội viên”, ông Phan Cảnh Ngưu, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Quảng Điền đánh giá.

 

ANH PHONG

 

Đề án "2 con, 1 cây" ở Tiên Yên (Quảng Ninh)

 

Nguồn tin:  Báo Quảng Ninh

 

Năm 2015, huyện Tiên Yên (Quảng Ninh) đã xây dựng và triển khai Đề án Phát triển đàn gà Tiên Yên, nuôi tôm thẻ chân trắng và trồng cây dược liệu (gọi tắt là Đề án “2 con, 1 cây”), đến nay, nhiều mô hình đang phát huy hiệu quả kinh tế và tiếp tục được nhân rộng.

 

 

Mô hình trồng cây dược liệu thìa canh mang lại hiệu quả kinh tế cao cho các hộ dân thôn Đồng Tâm, xã Yên Than (huyện Tiên Yên).

 

Yên Than là xã triển khai sớm Đề án “2 con, 1 cây” của huyện Tiên Yên. Từ đầu năm 2015 đến nay, xã đã tập trung khai thác thế mạnh phát triển đàn gà Tiên Yên và trồng cây dược liệu tập trung. Thực tế, kinh nghiệm trong cách làm của xã Yên Than cho thấy, để 2 dự án này phát huy hiệu quả cao, ngoài việc tuyên truyền vận động bà con đăng ký tham gia, xã còn tích cực xúc tiến cơ chế chính sách hỗ trợ về công nghệ, giống, vốn; tập huấn quy trình khoa học công nghệ giúp các hộ dân tham gia dự án áp dụng vào sản xuất. Ngoài ra, xã còn tập trung rà soát, quy hoạch phân vùng sản xuất nông nghiệp tập trung tại các thôn, trong đó dành nguồn lực ưu tiên phát triển dự án đàn gà Tiên Yên và trồng cây dược liệu... Nhờ đó đến nay, quy mô đàn gà trong diện dự án tăng theo từng năm (hiện 4.500 con). Đặc biệt, dự án trồng cây dược liệu tập trung sau khi đưa vào trồng tại thôn Đồng Tâm, cây thìa canh và cà gai leo phát triển rất tốt. Hiện xã đã mở rộng diện tích trồng cây dược liệu từ 0,2ha (năm 2015) lên hơn 2,2ha (năm 2016), với 10 hộ trồng. Mô hình này đang mở hướng đi mới giúp các hộ dân trong xã chuyển đổi diện tích lúa kém hiệu quả sang trồng dược liệu tập trung cho hiệu quả kinh tế cao.

 

Ông Trần Văn Hiến, Phó Chủ tịch UBND xã Yên Than, cho biết: “Đề án “2 con, 1 cây” thực sự không chỉ phát huy tốt thế mạnh của địa phương mà còn làm thay đổi tư duy sản xuất của người dân chuyển từ manh mún nhỏ lẻ sang sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá tập trung có sự liên kết tiêu thụ đầu ra sản phẩm. Thời gian tới, để 2 dự án duy trì phát triển ổn định, xã sẽ tiếp tục vận động người dân mở rộng diện tích, gia tăng đàn gà nuôi. Trong đó, quy mô dự án phát triển đàn gà Tiên Yên sẽ tăng lên 8.000 con, diện tích trồng cây dược liệu nhân rộng thêm 2,3ha (năm 2017)”.

 

Cùng với xã Yên Than, các xã, thị trấn trên địa bàn huyện đang triển khai tích cực Đề án “2 con, 1 cây” trên cơ sở phù hợp với điều kiện, thế mạnh của từng địa phương. Đặc biệt, với những cơ chế chính sách hỗ trợ đắc lực từ nguồn vốn của chương trình 135, chương trình xây dựng nông thôn mới và ngân sách huyện đã thúc đẩy các mô hình kinh tế “2 con, 1 cây” của huyện phát triển khá hiệu quả. Cụ thể, từ đầu năm 2016 đến nay, huyện đã triển khai 14 dự án phát triển đàn gà Tiên Yên với tổng số 150 hộ tham gia chăn nuôi 117.600 con gà Tiên Yên. Tổng kinh phí thực hiện hơn 22,8 tỷ đồng (ngân sách hỗ trợ hơn 960 triệu đồng, còn lại vốn đối ứng người dân). Đến nay, đàn gà phát triển tương đối tốt. Tổng số gà đã xuất bán khoảng 15.000 con, sản lượng đạt 30 tấn (số còn lại xuất bán vào cuối năm nay và đầu năm 2017).

 

Bên cạnh phát triển đàn gà Tiên Yên, những năm gần đây, con tôm thẻ chân trắng đang trở thành một trong những thế mạnh của huyện, mang lại thu nhập cao cho nhiều hộ dân các xã có diện tích nuôi tôm lớn như: Đồng Rui, Đông Ngũ, Đông Hải... Trong hai năm 2014-2015, huyện đã hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ cho khu nuôi trồng thuỷ sản tập trung với tổng kinh phí gần 8 tỷ đồng từ nguồn hỗ trợ phát triển sản xuất, chương trình xây dựng nông thôn mới và lồng ghép các nguồn vốn khác. Ngoài ưu tiên hạ tầng, huyện còn tập trung quy hoạch các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung; tập huấn cho các hộ nuôi tôm ứng dụng các phương pháp nuôi công nghệ cao, theo hướng hiện đại. Đến nay, toàn huyện có hơn 450 hộ nuôi tôm (tăng 20% so với năm 2014), diện tích nuôi trên 1.200ha. Bên cạnh hai dự án trên, dự án trồng cây dược liệu mà huyện Tiên Yên đã ký cam kết tiêu thụ sản phẩm dược liệu với Công ty Dược liệu Đông Bắc (TP Cẩm Phả) đang triển khai rất thuận lợi. Từ năm 2015 đến nay, huyện đã quy hoạch 4 vùng tập trung phát triển cây dược liệu (chủ yếu trồng cây cà gai leo, cây thìa canh, diệp hạ châu đắng) với diện tích hơn 3,2ha tại xã: Đông Ngũ, Đông Hải, Tiên Lãng, Yên Than. Dự kiến, năm 2017, huyện sẽ tiếp tục mở rộng thêm gần 3ha diện tích trồng cây dược liệu.

 

Phạm Tăng

 

Hà Nội: Ứng Hòa đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi

 

Nguồn tin:  Kinh Tế Đô Thị

 

Với mục tiêu phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hóa, bền vững, huyện Ứng Hòa (Hà Nội) luôn coi trọng đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, giúp nông dân từng bước tăng thu nhập, nâng cao đời sống.

 

Nhiều mô hình hiệu quả

 

Gia đình chị Phùng Thị Sang, xã Hòa Xá, huyện Ứng Hòa là hộ đầu tiên nuôi bò BBB của huyện. Ban đầu, chị Sang cũng đắn đo vì số tiền bỏ ra đầu tư quá lớn, song được sự khuyến khích, hỗ trợ của huyện về kinh phí mua bê giống (7 triệu đồng/con) chị đã mạnh dạn đầu tư thực hiện mô hình. Tháng 10/2015, gia định chị quyết định đầu tư hơn 600 triệu đồng để xây dựng chuồng trại và mua 20 con bê BBB. Đến nay, sau một năm được nuôi dưỡng đúng kỹ thuật, bò đã đạt trong lượng trung bình 4 tạ/con. Chị Sang chia sẻ: "Nuôi bò BBB vừa nhàn vừa cho hiệu quả kinh tế cao nên dù quay vòng vốn chậm, tôi vẫn rất yên tâm. Đầu ra cũng không phải lo vì chất lượng thịt bò BBB ngon, tỷ lệ thịt đạt trên 60% trọng lượng". Chị Sang nhẩm tính, khoảng 6 tháng nữa khi bò đạt trọng lượng 5 tạ/con, chị sẽ xuất bán. Với mức giá thị trường hiện nay bình quân 100.000 đồng/kg thịt, chị cầm chắc trong tay khoản thu nhập 1 tỷ đồng.

 

 

Mô hình nuôi bò BBB của hộ gia đình chị Phùng Thị Sang, xã Hòa Xá, huyện Ứng Hòa.

 

Thời điểm này, trên những vườn bưởi vàng rộm của xã Đồng Tiến luôn tấp nập những thương lái các nơi đến đặt hàng. Là địa phương thực hiện chuyển đổi cây trồng tiêu biểu của Ứng Hòa, xã Đồng Tiến hiện có 35ha bưởi Diễn với 60 hộ tham gia sản xuất. Lãnh đạo UBND xã Đồng Tiến cho hay, khoảng 70% số vườn bưởi 5 năm tuổi trở lên đang cho năng suất, sản lượng quả ổn định. Hạch toán kinh phí cho thấy, với giá bán dao động từ 25.000 – 30.000 đồng/quả, trung bình mỗi cây bưởi cho thu nhập trên 1 triệu đồng. Cá biệt, năm 2014, có những cây cho thu nhập tới trên 4 triệu đồng. Đơn cử như vườn bưởi Diễn 10 năm tuổi của hộ ông Nguyễn Viết Hiền, thôn Thành Vật, năm nay ước tính cho thu hoạch 5.000 quả, tương đương với số tiền lãi xấp xỉ 100 triệu đồng.

 

Nhờ tích cực chuyển đổi các diện tích trũng, cấy lúa, trồng màu kém hiệu quả sang các mô hình kinh tế mới, đến nay, toàn huyện đã chuyển đổi được 2.800ha. Đồng thời, hình thành nhiều vùng sản xuất tập trung như: Chăn nuôi lợn ở Vạn Thái, Tảo Dương Văn, Sơn Công; sản xuất đa canh lúa – cá – vịt ở Trầm Lộng, Minh Đức; nuôi trồng thủy sản ở Phương Tú, Hòa Lâm; trồng cây ăn quả ở Đồng Tiến, Phù Lưu...

 

Chuyển đổi phù hợp với quy hoạch

 

Nhằm nâng cao giá trị cho các sản phẩm nông nghiệp, hiện tại, cùng với việc hỗ trợ nông dân xây dựng thương hiệu nông sản hàng hóa, Ứng Hòa còn định hướng, tập huấn cho nông dân sản xuất an toàn. Theo đó, huyện đã tiến hành lai tạo giống bò BBB trên nền bò cái lai sind thành bò lai F1 hướng thịt, triển khai đề án sản xuất rau an toàn...

 

Theo ông Nguyễn Chí Viễn – Phó Chủ tịch UBND huyện Ứng Hòa, tạo điều kiện tốt nhất cho nông dân sản xuất, trên cơ sở cân đối nguồn ngân sách, huyện đã có cơ chế, chính sách hỗ trợ các địa phương đầu tư cơ sở hạ tầng (đường giao thông, nước sạch, điện) phục vụ cho vùng chuyển đổi. Hiện nay, huyện đang tập trung chỉ đạo các xã tiếp tục rà soát, điều chỉnh đề án xây dựng nông thôn mới, trong đó bao gồm xây dựng quy chế mở rộng vùng chuyển đổi sao cho phù hợp quy hoạch đã được TP phê duyệt. Bên cạnh đó, huyện vẫn khuyến khích các địa phương mở rộng quy mô vùng sản xuất nhưng phải đảm bảo không để xảy ra tình trạng sản xuất manh mún, dàn trải, mạnh ai nấy làm.

 

Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của Ứng Hòa hiện nay là công tác quản lý thực hiện chuyển đổi. Thực tế cho thấy, người dân muốn nâng cao hiệu quả sản xuất bằng cách chuyển đổi, song theo chỉ đạo của T.Ư, TP thì huyện vẫn phải giữ đất trồng lúa. Đó là chưa kể việc tổ chức cưỡng chế các vi phạm chuyển đổi rất dễ gây phức tạp trong cộng đồng dân cư. Do đó, huyện kiến nghị TP cho phép địa phương tăng diện tích chuyển đổi trong sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, TP cần sớm triển khai chương trình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất rau an toàn nhằm nâng cao năng suất lao động, tính cạnh tranh của nông sản, từ đó giúp người dân nâng cao thu nhập.

 

NGỌC ÁNH

 

Xu hướng organic chi phối thị trường tiêu thụ thực phẩm

 

Nguồn tin:  Sài Gòn Giải Phóng

 

Trong bối cảnh chất lượng thực phẩm tranh tối tranh sáng, người tiêu dùng Việt Nam đang hướng đến tiêu dùng thực phẩm sạch, thực phẩm organic được cấp các chứng nhận an toàn vệ sinh nhằm bảo vệ sức khỏe cho chính mình. Xuất phát từ thực tế đó, nhiều doanh nghiệp, nông hộ đã bắt đầu chuyển hướng kinh doanh, trồng trọt theo hướng tạo ra những sản phẩm hữu cơ (organic) và có đầu tư cho thương hiệu sản phẩm trước khi đưa ra thị trường.

 

Vượt rào cản kỹ thuật với sản xuất sạch

 

Ông Bùi Huy Sơn, Cục trưởng Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công thương) cho biết, hiện lượng thực phẩm tiêu thụ bình quân đầu người tăng 17%/năm. Trong giai đoạn từ nay đến năm 2020, lượng tiêu thụ thực phẩm dự kiến tăng ở mức 18,6%/năm. Các sản phẩm thực phẩm chế biến có mức tăng trưởng cao là hải sản, sữa và các sản phẩm từ sữa, sản phẩm đường, mì ăn liền và một số loại nông sản chủ lực như gạo, cà phê và rau củ quả. Riêng những loại sản phẩm sữa và các sản phẩm từ sữa, nông sản, ngoài có mức tiêu thụ cao trong nước còn gia tăng nhu cầu về sản lượng nhờ tăng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường các nước trên thế giới, nhất là tại hơn 50 quốc gia mà Việt Nam là thành viên hiệp định thương mại.

 

 

Thực phẩm organic bán tại một cửa hàng ở quận 7 Ảnh: THÀNH TRÍ

 

Tuy nhiên, cùng với những điều kiện thuận lợi về tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ, chất lượng sản phẩm, nhất là rào cản liên quan đến tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm cũng sẽ ngày càng thắt chặt. Trước thực tế đó, nhiều doanh nghiệp chế biến thực phẩm trong nước cũng như nông hộ đã và đang chuyển hướng sang sản xuất sản phẩm organic. Ông Phan Minh Tiên, Giám đốc Điều hành của Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk), chia sẻ, công ty vừa được tổ chức Control Union chứng nhận trang trại bò sữa đầu tư và xây dựng tại Lâm Đồng là trang trại bò sữa organic đầu tiên của Việt Nam đạt tiêu chuẩn châu Âu - tiêu chuẩn sản xuất thực phẩm chất lượng cao cấp nhất hiện nay trên thế giới. Tuy nhiên, để đạt được chứng nhận này đòi hỏi quy trình sản xuất phải tuân theo các quy định vô cùng nghiêm ngặt như hoàn toàn không có sự can thiệp của hóa chất, thuốc kháng sinh, hormon tăng trưởng hay sử dụng các thành phần biến đổi gene... Trang trại bò sữa organic được Vinamilk đầu tư xây dựng với quy mô hiện tại là 500 con bò sữa hữu cơ phải được chăn thả tự nhiên trong điều kiện thời tiết và môi trường được đánh giá tương đồng với châu Âu, phù hợp cho sinh lý bò sữa. Bên cạnh đó, công nghệ chăm sóc bò tại trang trại bò sữa organic phải là công nghệ tiên tiến nhất hiện nay, thân thiện và bảo vệ môi trường theo định hướng phát triển bền vững.

 

Ông Richard De Boer, đại diện Tổ chức Chứng nhận Control Union nhấn mạnh thêm, các loại thực phẩm organic được sản xuất phải giàu các chất dinh dưỡng tự nhiên, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho sức khỏe của người sử dụng. Tại các nước châu Âu, Mỹ và Nhật Bản, xu hướng sử dụng thực phẩm organic đang trở nên phổ biến trong nhiều năm nay nhờ những lợi ích rõ rệt cho sức khỏe người tiêu dùng. Do đó, trong bối cảnh những nước trên đang là thị trường tiêu thụ truyền thống sản phẩm thực phẩm chế biến, nông sản của Việt Nam thì doanh nghiệp và nông dân Việt Nam cần có những bước chuyển biến thích hợp với xu thế này nếu không muốn bị mất thị trường tiêu thụ trong thời gian tới.

 

Cần hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho sản phẩm Việt

 

Liên quan đến vấn đề này, đại diện Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khẳng định, hiện bộ đang rất quyết liệt trong hoạt động kiểm soát chất cấm trong chăn nuôi, trồng trọt… Một số giải pháp đã và đang thực hiện như canh tác trên cánh đồng mẫu lớn để quản lý hiệu quả việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đầu vào; quy hoạch lại vùng nguyên liệu sản xuất kết nối với hệ thống phân phối để sản xuất nông sản hữu cơ. Tuy nhiên, có thực tế nông sản hữu cơ sạch xuất khẩu nhiều hơn phân phối trong nước.

 

Bà Võ Ngân Giang, phụ trách chương trình FAO-ECATAD thực phẩm an toàn, Tổ chức nông lương Liên hiệp quốc tại Việt Nam cho rằng, kinh nghiệm thực tế thông qua các dự án thực phẩm an toàn Mộc Châu, Lâm Đồng cho thấy, để phát triển thương hiệu nông sản organic Việt Nam, Chính phủ cần có những chính sách hiệu quả hơn trong việc hỗ trợ người nông dân cải tiến quy trình sản xuất để tạo ra sản phẩm sạch ngay từ đầu vào kết hợp với đầu thương hiệu cho sản phẩm thông qua nhãn hiệu, bao bì. Đồng thời, kết hợp các hệ thống phân phối, đưa hệ thống phân phối đến tham quan những mô hình sản xuất của người nông dân, tổ chức xúc tiến, giới thiệu sản phẩm sạch của doanh nghiệp, nông dân đến cộng đồng thông qua các hội nghị, triển lãm, truyền thông cộng đồng. Ngoài ra, các cơ quan chức năng liên quan cần đẩy mạnh hoạt động truyền thông cộng đồng, giáo dục về an toàn vệ sinh thực phẩm, từng bước thiết lập thị trường cạnh tranh công bằng cho sản phẩm organic mà ở đó, người tiêu dùng phải được nhận diện rõ và ưu tiên tiêu dùng cho loại sản phẩm có lợi cho sức khỏe của mình.

 

MINH XUÂN

 

Những tỷ phú vùng đồi

 

Nguồn tin:  Báo Nghệ An

 

Hiện toàn huyện Thanh Chương (Nghệ An) có gần 400 trang trại, gia trại trong đó có 29 trang trại đạt tiêu chí theo thông tư 27 của Bộ Nông nghiệp và PTNT.

 

Trong đó, có 13.182 hộ đạt danh hiệu sản xuất kinh doanh giỏi có mức thu nhập từ 50 - 200 triệu đồng/năm; có 83 hộ thu nhập từ 500 triệu - 1 tỷ đồng/năm, 10 hộ có thu nhập trên 1 tỷ đồng/ năm.

 

Điển hình như ông Nguyễn Sỹ Thành ở xóm 7, xã Thanh Thủy. Bắt đầu từ năm 2008, được sự giúp đỡ của Hội nông dân xã cho gia đình vay 30 triệu đồng, cùng với vốn liếng của gia đình ông quyết định mua 8 con bò nái sinh sản và sau đó khoảng 2 năm số lượng đã được nhân gấp đôi và đến nay ông đã có đàn trâu bò phát triển tốt với trên 80 con. Trong đó có 30 con bò nái sinh sản, 10 con trâu mẹ và trên 7ha cây keo nguyên liệu, trung bình mỗi năm gia đình ông thu nhập khoảng gần 1 tỷ đồng.

 

 

Đàn bò hơn 80 con tại trang trại ông Nguyễn Sỹ Thành ở xóm Khe Mừ, xã Thanh Thủy.

 

Hay mô hình phát triển kinh tế trang trại của anh Nguyễn Hữu Bằng ở xóm 3B xã Thanh Phong. Sau khi đi làm ăn ở nhiều nơi nhưng không hiệu quả, khi địa phương có chủ trương lăn đổi ruộng đất, anh đã mạnh dạn nhận ở những nơi đất cao cưỡng làm lúa không hiệu quả nhưng có diện tích lớn để phát triển kinh tế trang trại.

 

Để mở rộng diện tích, anh đã nhận khoán thêm 1,5 ha đất của UBND xã nữa để trồng cỏ và làm nơi chăn thả gia súc. Hiện nay trang trại của gia đình anh có trên 600 gốc cam, bưởi, chanh, thanh long, đầu tư chăn nuôi phát triển đàn bò. Hiện nay, tổng đàn bò của gia đình anh có gần 20 con.

 

 

Người dân Bản Lạp, xã TĐC Ngọc Lâm chăm sóc vườn chè.

 

Bên cạnh chăn nuôi gia súc gia cầm, phong trào trồng cây ăn quả cũng đang được các hộ nông dân quan tâm đầu tư mang lại nguồn thu nhập lớn. Thực hiện chủ trương của huyện và xã về việc phá bỏ vườn tạp trồng cây ăn quả có giá trị hàng hóa, từ năm 2000 gia đình ông Võ Văn Kỷ ở xóm 10, xã Thanh Nho đã mạnh dạn trồng một số loại cây ăn quả mới như cam chanh, quýt và các loại keo, cây lấy gỗ. Sau 3 năm, cam, quýt bắt đầu cho quả bói và đến năm thứ 5 thì cho thu nhập ổn định.

 

 

Vườn cam thu nhập trên 1 tỷ đồng của ông Võ Văn Kỷ ở xóm 10, xã Thanh Nho.

 

Nhận thấy đất đai, thổ nhưỡng phù hợp và giá trị của các loại cây ăn quả đưa lại ông đã mở rộng dần diện tích và đến nay gia đình ông đã có 4 ha, trên 2.000 gốc với các loại giống cho năng suất cao như cam bù, cam chanh bản địa, cam V2, cam Xã Đoài... cho thu nhập trên 1 tỷ đồng mỗi năm.

 

Nhiều hộ dân đã mua sắm máy làm đất, gặt đập nâng cao năng suất lao động.

 

Hiện Thanh Chương có hàng trăm mô hình mang lại thu nhập cao, giải quyết việc làm cho lao động trên địa bàn (bình quân 5 lao động/mô hình). Hiện đã có hơn 1.200 hộ dân đầu tư mua máy nông nghiệp để sản xuất, góp phần tăng năng suất lao động, đảm bảo tiến độ gieo trồng... từng bước hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.

 

Trần Đình Hà

 

Sản xuất nông nghiệp hữu cơ ở Hà Nội: Tạo dựng nền nông sản sạch

 

Nguồn tin:  Hà Nội Mới

 

Sản xuất nông nghiệp hữu cơ là mục tiêu mà Ngành Nông nghiệp Hà Nội hướng tới nhằm tạo ra sản phẩm sạch, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm (ATTP). Tuy nhiên, để thực hiện được mục tiêu này thì hệ thống văn bản hướng dẫn, quy định phải hoàn thiện và đồng bộ, cũng như thói quen sản xuất truyền thống của người dân phải sớm thay đổi, khắc phục tình trạng sản xuất ở dạng nhỏ lẻ, manh mún và phát triển chậm.

 

 

Sản xuất rau hữu cơ tại xã Thanh Xuân, huyện Sóc Sơn. Ảnh: Sơn Tùng

 

Mới dừng ở mô hình

 

Được sự tài trợ của dự án phát triển nông nghiệp hữu cơ VNFU-ADDA (Đan Mạch), năm 2008, TP Hà Nội bắt đầu triển khai sản xuất rau hữu cơ ở xã Thanh Xuân (Sóc Sơn). Sau 4 năm triển khai, xã Thanh Xuân tổ chức được 10 nhóm nông dân trồng rau hữu cơ trên diện tích 13ha. Kết thúc dự án, Chi cục Bảo vệ thực vật Hà Nội phối hợp với Hội Nông dân xã tiếp tục triển khai các hoạt động nâng cao kiến thức, kỹ năng sản xuất rau hữu cơ trên cơ sở mở rộng nhóm.

 

Đến nay, xã Thanh Xuân đã hình thành 26 nhóm với diện tích rau hữu cơ đạt 34ha. Ngoài sản xuất rau hữu cơ theo nhóm nông dân, một số doanh nghiệp sản xuất rau hữu cơ tham gia dự án như Công ty Việt Liên phát triển 3ha trồng rau hữu cơ trên địa bàn quận Long Biên; Công ty TNHH Khai thác tiềm năng sinh thái Hòa Lạc mở rộng trồng 10ha ở huyện Thạch Thất. Tại các huyện Sóc Sơn, Thường Tín... bước đầu đã định hình triển khai thực hiện một số mô hình chăn nuôi lợn hữu cơ.

 

Theo đánh giá, phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Hà Nội vẫn manh mún, nhỏ lẻ, mới dừng ở dạng mô hình. Tiến sĩ Ngô Kiều Liên - đại diện nhóm liên kết các nhà sản xuất hữu cơ ở huyện Ba Vì cho biết, TP Hà Nội có nhiều lợi thế để phát triển sản xuất sản phẩm sạch, hữu cơ, nhưng do thiếu chính sách về phát triển nền nông nghiệp hữu cơ dẫn tới khó khăn trong quá trình thực hiện. Mặt khác, người tiêu dùng chưa được trang bị kiến thức, công cụ thuận tiện phân biệt thực phẩm bẩn và sạch như: Kít thử nhanh dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, nitrat… nên chưa có sự ủng hộ lớn đối với sản phẩm hữu cơ.

 

Ngoài ra, việc thay đổi tập quán canh tác của nông dân từ sản xuất truyền thống sang sản xuất hữu cơ gặp khó khăn, việc sử dụng chế phẩm sinh học, phân bón hữu cơ, phòng trừ dịch hại bằng biện pháp thủ công hoặc thuốc thảo mộc, sinh học tốn kém nhiều công sức và khó thực hiện trên diện rộng. Tại các vùng sản xuất hữu cơ thuộc các huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng... vẫn chưa được quy hoạch cụ thể địa điểm để thu hút doanh nghiệp vào đầu tư.

 

Giám đốc Công ty Xuất nhập khẩu lâm sản thuộc Tổng công ty Rau quả Việt Nam Bùi Vũ Anh cho biết, hộ sản xuất hữu cơ đang thiếu kiến thức về sử dụng giống cây trồng, vật nuôi, công nghệ sinh học, chế biến, cách tiếp cận thị trường, quy trình quản lý trong nông hộ... Năm 2001, Công ty Xuất nhập khẩu lâm sản triển khai dự án trồng măng sạch hữu cơ 1.000ha ở Ba Vì nhưng kinh phí đầu tư khá lớn, chi phí cho 1ha sản xuất theo phương pháp nông nghiệp hữu cơ tốn kém 42,5 triệu đồng, trong khi đó doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi, nên đến nay dự án vẫn chưa thể triển khai.

 

Tháo gỡ khó khăn

 

Sản xuất nông nghiệp hữu cơ là xu thế phát triển bền vững mà Hà Nội nói riêng và cả nước đang hướng tới. Để tháo gỡ khó khăn trong quá trình tổ chức thực hiện, các bộ, ngành đã ban hành văn bản quy định, hướng dẫn tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy định chung về kiểm tra, giám sát sản xuất, chứng nhận, nhãn hàng hóa hữu cơ... với sản phẩm có nhãn hàng hóa truy xuất nguồn gốc; thiết lập hệ thống công nhận và chứng nhận, giám sát cho sản phẩm hữu cơ. Theo đó, TP Hà Nội quy hoạch diện tích đất cho sản xuất nông nghiệp hữu cơ và có cơ chế chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển sản xuất, chế biến, đầu tư nghiên cứu khoa học phục vụ phát triển sản xuất hữu cơ...

 

Trao đổi hướng tháo gỡ khó khăn nêu trên, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Ngô Đại Ngọc cho rằng, các sở, ngành và chính quyền địa phương cần tăng cường tuyên truyền để người tiêu dùng nâng cao nhận thức về ATTP, trong đó chú trọng sản xuất nông nghiệp hữu cơ, sử dụng sản phẩm hữu cơ. Đồng thời, dựa vào lợi thế của mỗi địa phương, chọn cây trồng, vật nuôi phát triển cho phù hợp, đối với trồng trọt nên ưu tiên lựa chọn một số loại nông sản như: Rau ăn lá, gia vị, thảo dược, chè xanh hữu cơ, cây thuốc nam, một số loại cây ăn quả bản địa...

 

Trong lĩnh vực chăn nuôi ưu tiên phát triển nuôi đàn bò sữa, bò hướng thịt (BBB), lợn và gà đồi; xây dựng vùng sản xuất cá chuyên canh tập trung theo chuỗi tại các xã Cổ Đô, Vạn Thắng (Ba Vì), hồ Suối Hai nuôi cá lồng dọc sông Đà, sông Hồng với quy mô 450ha… Mục đích định hướng để người dân sản xuất ra những sản phẩm sạch, chất lượng cao, bảo đảm vệ sinh ATTP.

 

Ngọc Quỳnh

 

Phú Yên: Tăng cường bảo vệ môi trường vùng biển ven bờ

 

Nguồn tin: Báo Phú Yên

 

 

Nuôi trồng thủy sản cũng dẫn đến ô nhiễm môi trường nước biển ven bờ - Ảnh: ANH NGỌC

 

Hiện môi trường biển ven bờ và các sông, đầm, vịnh trên địa bàn tỉnh Phú Yên bị ô nhiễm và việc khai thác hủy diệt đã làm nhiều loài thủy sinh suy giảm, cạn kiệt. Để bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường biển, UBND tỉnh đã có chỉ thị tăng cường công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường vùng biển ven bờ trên địa bàn tỉnh.

 

Nguồn lợi thủy sản suy giảm

 

Phú Yên có bờ biển dài khoảng 189km, rất thuận lợi để phát triển các ngành công nghiệp, thương mại, du lịch, đặc biệt là đánh bắt và nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, việc khai thác bất hợp lý tài nguyên ven biển đã và đang gây ra nhiều vấn đề lớn. Đó là tình trạng khai thác cạn kiệt nguồn lợi thủy sản ven bờ, nhiều hệ sinh thái biển như san hô, cỏ biển… bị khai thác hoặc phá hủy do các hoạt động neo đậu tàu thuyền, nuôi trồng và khai thác thủy sản. Tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng tại nhiều vùng nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là tại các đầm, vịnh đang ở mức báo động. Chất thải từ các hoạt động sản xuất, dân sinh và du lịch không được thu gom, xử lý kịp thời đã gây ảnh hưởng lớn đến môi trường ven biển. Theo kết quả điều tra của Sở TN-MT, từ năm 2013-2014, vùng biển ven bờ Phú Yên có hơn 1.310 loài thủy sản, trong đó cá là loài có số lượng nhiều nhất. Riêng diện tích cỏ biển khoảng 555ha, tập trung ở đầm Cù Mông, vịnh Xuân Đài, đầm Ô Loan và vùng ven biển thuộc các thôn Vịnh Hòa (xã Xuân Thịnh, TX Sông Cầu), Mỹ Quang Bắc (xã An Chấn, huyện Tuy An). Hiện một số loài thủy sản bị suy giảm, diện tích các thảm cỏ biển đang bị thu hẹp dần do sự xâm lấn của các ao nuôi thủy sản và môi trường ô nhiễm cục bộ ở một số khu vực.

 

Ông Trần Trung Trực, Chi Cục trưởng Chi cục Bảo vệ môi trường (Sở TN-MT), cho biết: Tại các thôn Hòa Mỹ, Hòa Thạnh, Hòa Lợi (xã Xuân Cảnh, TX Sông Cầu) thuộc đầm Cù Mông và các khu vực từ xã An Hiệp đến An Hòa (huyện Tuy An) thuộc đầm Ô Loan, cỏ biển chỉ còn phía bên ngoài khu vực ao nuôi thủy sản. Trong khi đó, phần lớn rừng ngập mặn cũng mất đi do phát triển nuôi trồng thủy sản khu vực biển ven đầm, vịnh. Đây là một mất mát lớn vì khó khôi phục lại những rừng ngập mặn, cỏ biển đã mất và sẽ ảnh hưởng đến một số loài thủy sinh quý hiếm.

 

Khảo sát của Sở TN-MT cho thấy ô nhiễm nguồn nước do nhiều nguyên nhân, hiện vùng biển ven bờ dần xấu đi do ô nhiễm nhiều loại nguồn thải. Sự ô nhiễm môi trường nước từ nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt, sự mất cân bằng sinh thái trong phát triển nông nghiệp, hay các hoạt động khai thác khoáng sản, khai thác rừng trái phép đã làm cho môi trường nước trên các sông, đầm, vịnh mất cân bằng sinh thái, giảm đa dạng sinh học, giảm số lượng loài trong tự nhiên. Các loài thủy sinh hấp thụ chất độc trong nước, lâu ngày gây biến đổi trong cơ thể, gây đột biến gen, tạo nhiều loài mới hoặc làm cho nhiều loài thủy sinh chết. Chất lượng nước biển ven bờ, hiện có dấu hiệu ô nhiễm kim loại nặng, hàm lượng này tại hầu hết các điểm quan trắc đều vượt quy chuẩn cho phép. Hoạt động nuôi trồng thủy sản mang tính tự phát, không theo quy hoạch tại các đầm, vịnh ven biển, cửa sông, nguồn nước thải sau vụ nuôi thải trực tiếp ra môi trường chưa qua xử lý cũng góp phần làm ô nhiễm môi trường nước, bùng phát dịch bệnh gây thiệt hại về kinh tế và môi trường.

 

Đẩy mạnh quản lý

 

Theo Sở TN-MT, các hệ sinh thái rừng ven biển trong 5 năm trở lại đây bị tác động mạnh, đa dạng loài và nguồn gen có khả năng suy giảm. Nguyên nhân do chuyển đổi mục đích sử dụng thiếu quy hoạch, khai thác và sử dụng không bền vững tài nguyên sinh học, ô nhiễm môi trường và quản lý còn nhiều bất cập. Hiện trạng môi trường trên địa bàn tỉnh còn nằm trong tầm kiểm soát, chưa đến mức báo động, công tác quan trắc, dự báo môi trường được quan tâm, tần suất quan trắc được duy trì, đảm bảo khả năng kiểm soát. Tuy nhiên, tại một số điểm ở hạ lưu các con sông nơi tiếp nhận nước thải tổng hợp từ đô thị, sinh hoạt, hoạt động nông nghiệp… có dấu hiệu ô nhiễm cục bộ về hữu cơ, vi sinh vào mùa khô và mùa mưa. Ông Trần Sáu, Trưởng Phòng NN-PTNT huyện Tuy An, cho rằng: Các ngành chức năng và địa phương cần bảo vệ diện tích rừng ngập mặn còn sót lại ở ven đầm Ô Loan nhằm giữ vùng đệm tự nhiên giữa hai môi trường nước lợ và nước ngọt đồng thời bảo vệ một số nguồn lợi sinh vật quan trọng như cua xanh, cua huỳnh đế, sò huyết… và các loài chim nước về cư trú. Ngành chức năng cũng cần bảo vệ các thảm cỏ biển ở đầm Ô Loan, nơi tái tạo tài nguyên thủy sinh và mang lại nguồn lợi thủy sản….

 

Ông Nguyễn Như Thức, Giám đốc Sở TN-MT thông tin, sở đã kiến nghị UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ban, ngành và địa phương liên quan rà soát, điều chỉnh các quy hoạch của ngành, địa phương mình quản lý phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. Tỉnh cũng cần xây dựng chính sách hỗ trợ các đơn vị thu gom rác thải trên địa bàn (đơn vị tư nhân), khuyến khích sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, tiết kiệm năng lượng, các chương trình nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ mới về bảo vệ môi trường, ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất nông nghiệp và xử lý chất thải. Phú Yên cần đưa nội dung bảo vệ môi trường vào cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa vào tiêu chuẩn thi đua; đồng thời nhân rộng các mô hình tiên tiến trong hoạt động bảo vệ môi trường. Các ngành chức năng và địa phương tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra liên ngành, giám sát chặt chẽ và thường xuyên các hoạt động bảo vệ môi trường.

 

UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở TN-MT phối hợp với các sở, ngành và địa phương đẩy mạnh tuyên truyền làm thay đổi nhận thức của người dân về bảo vệ môi trường; đồng thời kiểm tra, kiểm soát các nguồn thải trực tiếp gây ô nhiễm, làm suy thoái môi trường vùng biển ven bờ. UBND tỉnh cũng yêu cầu Sở NN-PTNT và các địa phương rà soát quy hoạch nuôi trồng thủy sản, kiên quyết xử lý tình trạng nuôi trồng thủy sản trái phép, tăng cường kiểm tra, xử lý tình trạng khai thác, đánh bắt thủy sản hủy diệt gây suy giảm nguồn lợi và tính đa dạng sinh học của biển.

 

ANH NGỌC

 

Biến đổi khí hậu và bài toán sinh kế

 

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

 

Câu chuyện cá tra nguyên liệu hút hàng, giá tăng vọt đã làm “nóng” từ người nuôi đến nhà máy chế biến xuất khẩu từ tháng 10 đến cuối tháng 11-2016. Tuy nhiên, vùng nuôi cá tra được xem nằm ở “rốn nước ngọt” cũng không còn miễn nhiễm với biến đổi khí hậu (BĐKH). Toàn vùng nguyên liệu nông sản ĐBSCL đối diện với BĐKH ngày càng khốc liệt hơn. Các giải pháp để thích ứng đang được triển khai. Song câu chuyện chuyển giao khoa học kỹ thuật ngày càng cam go hơn.

 

Đe dọa toàn vùng

 

Cá tra là 1 trong 3 mặt hàng chủ lực quốc gia, chủ yếu nuôi ở ĐBSCL. Tổng diện tích năm 2014 - 2015 đạt 5.500 - 5.900ha, năm 2016 khoảng 2.700ha; sản lượng dao động 1.116.000 - 1.123.000 tấn; năng suất cá nuôi ao trung bình đạt 400 tấn/ha/vụ. Tuy nghề nuôi cá tra luôn có những cải tiến trong quản lý chất lượng nước và thức ăn để cải thiện năng suất, nhất là trong bối cảnh thời tiết thay đổi như hiện nay, nhưng các nhà khoa học của Trường ĐH Cần Thơ cảnh báo: Dù nghề nuôi chưa bị ảnh hưởng nhiều nhưng một số ao nuôi ven biển như Bến Tre, Trà Vinh đã bị nhiễm lợ, vì thế cần có biện pháp quản lý phù hợp.

 

 

Nuôi thủy sản nước ngọt ngày càng khó do biến đổi khí hậu

 

Giờ đây, không chỉ cây lúa, cây mía, cây ăn trái mà vùng nuôi thủy sản cũng đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng do BĐKH gây ra. Kết quả khảo sát của một nhóm nhà khoa học từ Khoa Thủy sản (Trường ĐH Cần Thơ) cho thấy: Mùa mưa mỗi năm đến trễ hơn, mưa ngày càng ít hơn; mùa nóng càng nóng hơn, độ mặn ngày càng cao ở vùng nuôi tôm ven biển. Mưa to, nhiệt độ cao, độ mặn tăng có ảnh hưởng lớn đến môi trường, sức khỏe và tăng trưởng của tôm nuôi ở vùng ven biển. Đáng lưu ý, rất nhiều nông hộ không biết về nguy cơ của BĐKH, xâm nhập mặn; ảnh hưởng của các vấn đề này cũng như biện pháp ứng phó. Điều này cho thấy công tác thông tin, tuyên truyền, cảnh báo, tập huấn cho người dân là rất cần thiết để chủ động ứng phó hiệu quả.

 

Với khoảng 1,7 triệu ha đất trồng lúa, trên 600.000ha nuôi thủy sản, 300.000ha cây ăn trái, 40.000ha mía... ĐBSCL là vùng nông sản chủ lực của cả nước. BĐKH giờ đã tấn công, gây thiệt hại rộng khắp các mặt hàng chủ lực này.

 

Tạo sinh kế ít rủi ro

 

Các nhà khoa học từ Viện Lúa ĐBSCL, Trường ĐH Cần Thơ thời gian qua đã nghiên cứu và trồng thử nghiệm nhiều giống lúa chịu mặn để nông dân trồng. Đây được xem là bước khởi đầu giúp nông dân trồng lúa từng bước thích ứng với BĐKH. Song nhiều nhà khoa học cho rằng: ĐBSCL cần phải nhanh chống đẩy mạnh nghiên cứu chọn lọc và sản xuất giống thủy sản nước ngọt có khả năng chịu mặn, chịu nhiệt độ cao để nuôi trong vùng nước lợ và vùng thời tiết khắc nghiệt. Quá trình này cần gắn chặt với phát triển hệ thống nuôi thủy sản mới, thích ứng với BĐKH, nhiệt độ và độ mặn tăng cao.

 

Đối với vùng nuôi tôm, để thích ứng với BĐKH, các nhà khoa học khuyến cáo: Tùy theo mô hình mà người nuôi chọn giải pháp kỹ thuật quan trọng để thích ứng với sự thay đổi của thời tiết và độ mặn. Như hạ mức nước ao sâu hơn; điều chỉnh lịch thả giống nuôi, ương giống lớn và thả vào thời điểm thích hợp; nuôi kết hợp đa loài; che ánh sáng cho ao thâm canh... Đặc biệt, hiện nay mô hình nuôi tôm chân trắng siêu thâm canh trong nhà kín, áp dụng công nghệ Bioflocs cho năng suất rất cao (20 - 40 tấn/ha hay 2 - 4kg/m3). Đây là mô hình rất triển vọng do giảm thiểu tác động của thời tiết, môi trường ngoài; an toàn sinh học; thân thiện môi trường...

 

Thực tiễn đã chỉ ra, trong quá trình phát triển nông nghiệp của ĐBSCL, nhiều giải pháp khoa học kỹ thuật đã được áp dụng vào sản xuất. Bên cạnh những giải pháp đạt hiệu quả cao, cũng không ít những giải pháp chết yểu khi đưa vào sản xuất mặc dù chi phí cho giải pháp không nhỏ. Cũng có những giải pháp chỉ đạt hiệu quả về sức sản xuất nhưng kém bền vững, không ổn định, hoặc tạo ra sản phẩm kém an toàn cho người tiêu dùng... Do đó, phải chọn lựa giải pháp thật kỹ lưỡng trước khi đưa vào sản xuất. “Nông dân ĐBSCL rất nhạy bén và tích cực tiếp nhận khoa học kỹ thuật mới; nhưng nếu vượt quá nguồn lực của họ sẽ làm cho họ do dự trong áp dụng”. GS-TS Nguyễn Bảo Vệ, giảng viên cao cấp Trường ĐH Cần Thơ, nhận định.

 

Có thể nói, các nhà khoa học, lãnh đạo các địa phương “đang chạy nước rút” để sớm tìm ra giống cây, con để tạo ra sinh kế ít rủi ro nhất trong bối cảnh BĐKH ngày càng khốc liệt.

 

Ngày 25-11, tại TPHCM đã diễn ra hội thảo khoa học “Giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu (BĐKH) đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL)”, do Văn phòng Chương trình Tây Nam bộ, Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật TPHCM và Viện Khoa học - công nghệ Phương Nam phối hợp tổ chức.

 

Tại hội thảo, các nhà khoa học và quản lý đã tham gia nhiều tham luận, ý kiến chung quanh các vấn đề thời sự như: Tổng quan BĐKH và những vấn đề cụ thể đặt ra cấp bách ở ĐBSCL, 7 giải pháp của Chính phủ, ảnh hưởng đối với hệ thống vận tải đường sông ở ĐBSCL, thích ứng BĐKH và phát triển bền vững - giải pháp địa phương và mục tiêu toàn cầu, quốc tế hỗ trợ Việt Nam ứng phó BĐKH và các giải pháp kiến trúc chống ngập…

 

Hội thảo đã làm rõ thực trạng, phân tích nguyên nhân, dự báo các kịch bản, đề xuất hàng loạt giải pháp khả thi ứng phó BĐKH đã và đang tác động mạnh đến hệ sinh thái ở ĐBSCL như xâm nhập mặn, môi trường sống, trồng trọt chăn nuôi, đời sống dân cư… Đặc biệt lưu ý ảnh hưởng môi trường của các dự án thủy điện và nhiệt điện, tệ nạn khai thác cát bừa bãi, các giải pháp kiến trúc chống ngập mặn, thích ứng các giống cây trồng và vật nuôi, đưa nội dung bảo vệ môi trường và BĐKH vào chương trình giáo dục, đầu tư xử lý chất thải…

 

CAO PHONG - Mai Bình

 

Dân rẫy đón Tết

 

Nguồn tin: Báo An Giang

 

Thời điểm này, nông dân canh tác rẫy tại xã Khánh Hòa (Châu Phú, An Giang) đang tất bật chuẩn bị cho vụ hoa màu bán trong dịp Tết. Với họ, đây là vụ canh tác quan trọng nhằm tạo nguồn thu cho gia đình những ngày đầu năm mới.

 

 

Khách hàng có thể chọn mua hoa tại rẫy

 

Khởi phát hơn 10 năm nay, mô hình trồng hoa bán Tết ở xã Khánh Hòa đã mang lại nguồn thu khá cho người dân. Ông Hà Tấn Na, người có trên 5 năm gắn bó với mô hình này, cho biết: “Năm nào tui cũng tranh thủ xuống giống hoa bán Tết. Cũng nhờ mô hình này mà nhiều anh em có thu nhập để tiêu xài trong gia đình những ngày đầu năm. Tuy nhiên, thu nhập cao hay thấp còn tùy vào thị trường và thời tiết. Vào những năm tiết trời thuận lợi thì dân trồng hoa ở Khánh Hòa cũng đỡ lo”.

 

Về Khánh Hòa những ngày cận Tết cứ ngỡ đang ở một góc nào đó của làng hoa Sa Đéc, bởi nơi đây có đủ các loài hoa, như: Thược dược, cúc Đài Loan, cúc Tiger, cát tường... “Tùy thời gian sinh trưởng của các loại hoa mà người trồng xác định thời điểm xuống giống thích hợp. Như cúc Đài Loan cần đến 4 tháng mới thu hoạch thì phải đặt cây con từ tháng 9 âm lịch. Nếu là cúc Tiger chỉ cần 3 tháng thì dân rẫy sẽ trồng từ đầu tháng 10 âm lịch. Nói chung, người trồng phải tranh thủ có hoa bán Tết từ ngày 20 đến 29 tháng Chạp thì mới đảm bảo nguồn thu. Nếu thu hoạch trễ thì phải đợi đến rằm tháng Giêng mới bán được giá cao” - ông Na cho hay.

 

Năm nay, ông Na xuống giống 8.000 cây cúc Tiger và sẽ tung ra thị trường hoa Tết với mức giá 7.000 đồng/cây. Theo cách tính của nông dân này, nếu hoa bán chạy thì ông có thể thu lãi hơn 10 triệu đồng/công. Tuy nhiên, do năm nay lượng mưa nhiều nên việc xuống giống hoa khá “trằn trọc”. Hiện tại, đa số nông dân trồng hoa đã xuống giống xong và phải tập trung chăm sóc để đảm bảo thu hoạch trong những ngày cận Tết. Có 2 cách trồng hoa. Có thể trồng trong chậu và chăm sóc đến ngày thu hoạch hoặc trồng xuống liếp rẫy, đến Tết lại bứng vào chậu đem bán chợ. Đôi khi, người mua có thể ra tận rẫy để chọn cây hoa mình thích rồi bứng vào chậu mang về.

 

Ngoài cây hoa bán Tết, dân xứ rẫy Khánh Hòa còn tập trung xuống giống các loại rau màu để đảm bảo thu nhập vào cuối năm. Ông Huỳnh Thanh Nhã, nông dân ấp Khánh Mỹ, chia sẻ: “Năm trước, tôi xuống giống 2 công cải tùa xại để bán Tết. Do thời gian sinh trưởng của loại cải này khoảng 45 ngày nên tôi đã chủ động bầu sẵn cây con từ rất sớm. Không riêng gì cải tùa xại, tất cả các loại rau màu đều phải chọn thời điểm thu hoạch trước ngày 28 Tết, bởi nếu quá trễ sẽ không bán được”. Năm trước, với 2 công cải tùa xại ông Nhã thu lãi trên 7 triệu đồng, đủ để trang trải trong gia đình những ngày Tết đến. Năm nay, ông dự tính sẽ xuống giống 3 công cải nhằm tăng thêm thu nhập.

 

Chủ tịch Hội Nông dân xã Khánh Hòa Trần Văn Hậu thông tin: “Năm nay, thời tiết diễn biến khá bất thường. Với đợt mưa kéo dài đã gây khó khăn cho bà con nông dân khi xuống giống rau màu đón Tết. Do ai cũng tập trung thu hoạch trong những ngày cận Tết đã khiến nguồn cung vượt cầu nên rau màu thường không có giá cao trong dịp này. Với các loại hoa bán Tết tình hình có khả quan hơn nhưng cũng chịu sự cạnh tranh gay gắt từ hoa Sa Đéc”.

 

Theo nhiều nông dân có kinh nghiệm, vụ rau màu bán Tết chủ yếu nhờ sức mua từ thị trường Campuchia. Tuy nhiên, thị trường này đã có dấu hiệu chững lại trong thời gian gần đây nên khá nhiều nông dân cảm thấy lo lắng. Dù phải đối diện với khó khăn nhưng người nông dân ở xứ rẫy Khánh Hòa vẫn phải bắt tay vào vụ sản xuất mới, bởi đó là nguồn thu chủ yếu của họ mỗi khi Tết đến, Xuân về.

 

Chủ tịch Hội Nông dân xã Khánh Hòa Trần Văn Hậu cho biết: “Toàn xã có khoảng 450 héc-ta đất chuyên canh hoa màu, trong đó có trên 10 héc-ta trồng hoa bán Tết vào dịp cuối năm. Hiện tại, địa phương đã thành lập Tổ sản xuất hoa màu ấp Khánh Phát nhằm duy trì, phát triển mô hình này. Đồng thời, trên địa bàn xã đang hình thành tổ sản xuất rau an toàn tại ấp Khánh Phát và dự kiến sẽ mở rộng mô hình trong thời gian tới”.

 

THANH TIẾN

 

Mổ nghé phát hiện vật lạ, được trả giá hàng chục triệu đồng không bán

 

Nguồn tin: VOV

 

Sau khi vật lạ được phát hiện trong bụng con nghé thì đã có người đến trả giá 30 triệu đồng để mua lại nhưng gia chủ vẫn chưa đồng ý bán.

 

Theo đó, gia đình anh Đinh Nho Thanh, trú xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, vừa mổ bụng một con nghé khoảng 4 tháng tuổi thì bất ngờ phát hiện 1 vật lạ hình tròn, màu xám, nặng gần 1kg. Thấy vật lạ anh Thanh và gia đình đem cất giữ.

 

 

Vật lạ được phát hiện trong bụng con nghé.

 

Sau khi nghe tin có một vị khách đã đến nhà anh hỏi mua vật lạ trên với giá 30 triệu đồng nhưng gia đình không bán.

 

Được biết, gia đình anh đã làm nghề mổ trâu 41 năm nay nhưng chưa hề gặp trường hợp đặc biệt như thế này .

 

Hiện gia đình anh Thanh vẫn đang cất giữ vật lạ này, nhiều người dân khi nghe tin cũng đã kéo đến tận nhà anh để xem./.

 

CTV Nhật Minh/VOV.VN

 

Vang Đà Lạt hội nhập

 

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

 

Với thành phố ngàn hoa, vang Đà Lạt đã trở thành thương hiệu đặc trưng, đóng góp cho sự phát triển kinh tế của tỉnh. Và rồi vang Đà Lạt vẫn tiếp tục khẳng định mình trong những bước tiến mới, những bước “dài hơi” trong thời kỳ hội nhập. Nhắc tới rượu vang Việt Nam, mặc nhiên người ta nghĩ ngay đến Đà Lạt - nơi được mệnh danh là thủ phủ của những chai vang “Made in Vietnam”.

 

 

Vang Đà Lạt ngày càng khẳng định mình trong thời kỳ hội nhập kinh tế. Ảnh V. Báu

 

Để những ly rượu vang sánh đỏ hay thơm thanh thoát vị vang trắng đến mỗi bữa ăn, tiệc khách của người tiêu dùng là bao nhiêu tâm huyết của những người làm vang Đà Lạt, có cả thất bại và thành công để mỗi chai vang đứng vững trên thị trường. Khảo sát một vài công ty sản xuất rượu vang mới thấy được những câu chuyện đằng sau mỗi chai vang, mỗi thương hiệu.

 

Không ngừng khẳng định chất lượng

 

Một trong những thương hiệu vang “sinh sau đẻ muộn” nhưng lại nhanh chóng chiếm lĩnh thị phần nội địa phải nói đến vang Dalat Beco. Bắt đầu bước vào thị trường vang từ năm 2001, Công ty Dalat Beco đã đưa ra thị trường những chai vang được người tiêu dùng trong tỉnh và tại các thành phố lớn trong nước chấp nhận. Năm 2003, Công ty tiếp tục nghiên cứu, cải tiến mẫu mã và đưa ra thị trường 3 dòng sản phẩm mới với hàng chục loại rượu vang và rượu chát, đặc biệt là vang trắng và vang đỏ đã được giới tiêu dùng trong và ngoài nước ưa chuộng. Nhờ vậy mà hàng năm tổng doanh thu của đơn vị đều tăng từ 5-10%.

 

Với tổng diện tích nhà máy là 8.700 m2, công suất 2,5 triệu lít/năm và được hoàn thành, đưa vào sử dụng vào đầu năm 2007. Ông Trần Phú Lộc - Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc Công ty cổ phần Rượu bia Đà Lạt cho biết: “Sản phẩm rượu vang của Dalat Beco là sản phẩm chất lượng cao được sản xuất theo công nghệ hiện đại đạt tiêu chuẩn châu Âu. Do vậy, việc quản lý chất lượng sản phẩm phải được tuân thủ nghiêm ngặt theo tiêu chuẩn đã được công bố. Tất cả các loại sản phẩm của Công ty trước khi đưa ra thị trường tiêu thụ đều được kiểm tra từ khâu sơ chế cho đến khâu thành phẩm. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ từng bước đầu tư công nghệ sản xuất chế biến hiện đại để tạo ra các sản phẩm đạt chất lượng cao hơn”.

 

Với một chiến lược kinh doanh khác, hướng đến phát triển bền vững, Công ty Ladofoods là một trong những doanh nghiệp đầu tiên quan tâm đến việc phát triển vùng nguyên liệu sạch. Công ty cổ phần Thực phẩm Lâm Đồng (Ladofoods) đã quyết định thành lập “Dự án phát triển vùng nguyên liệu tỉnh Ninh Thuận” với chức năng phát triển vùng nguyên liệu phục vụ cho chế biến các sản phẩm rượu vang Đà Lạt của công ty; triển khai mô hình trồng nho rượu theo phương pháp BIO của châu Âu; đào tạo đội ngũ tư vấn, kỹ thuật viên; tổ chức hội nghị, hội thảo đồng ruộng và hướng dẫn nông hộ tỉnh Ninh Thuận phát triển canh tác, nhân rộng mô hình trồng nho rượu theo công nghệ mới của công ty ra các hộ nông dân trồng nho.

 

Ông Nguyễn Hữu Thụy - Phó Tổng Giám đốc Ladofoods cho biết: Mô hình trồng nho rượu theo phương pháp làm giàn hàng rào và mô hình trình diễn trồng nho rượu thử nghiệm BIO trên vườn nho theo công nghệ của châu Âu, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của chuyên gia người Áo, thử nghiệm cải tiến quy trình chăm sóc để từng bước nâng cao năng suất và chất lượng nho rượu, tiết giảm chi phí sản xuất, tuyển chọn các giống nho phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của Ninh Thuận. Với sản lượng cao từ nguồn nguyên liệu tốt này, hàng năm, công ty tổ chức bao tiêu sản phẩm từ các hộ nông dân từ 3 - 4 nghìn tấn/năm, đủ để nâng công suất Nhà máy rượu Vang Đà Lạt lên từ 4 đến 5 triệu lít/năm, trong đó có những dòng sản phẩm chất lượng cao, có thể sánh vai với các loại vang nhập ngoại cao cấp đang có trên thị trường Việt Nam. Qua thử nghiệm, đã có 7 giống nho rượu nhập khẩu được trồng tại Đà Lạt - Lâm Đồng. Đến nay, cho thấy có 2 giống nho syrah & sauvignon blanc đã cho kết quả tốt, thích nghi với điều kiện tự nhiên tại Lâm Đồng.

 

Ðưa hương vị vang Ðà Lạt bay xa

 

Rượu Vang Đà Lạt mang hương vị đậm đà, thơm ngon và nồng nàn nhưng lại phù hợp với khẩu vị của người Việt. Tuy nhiên, cùng với sự hội nhập kinh tế của đất nước mà gần đây nhất là Việt Nam gia nhập Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP), Vang Đà Lạt lại một lần nữa đứng giữa cơ hội và thách thức. Bởi vì, tuy đã trở thành thương hiệu vang nội được người tiêu dùng tin cậy và ủng hộ nhưng chưa đủ để cạnh tranh với vang trên thị trường thế giới vì vang nội chất lượng chưa đủ sức cạnh tranh được với vang ngoại nhập. Nhất là khi gia nhập TPP, hàng rào thuế quan được dỡ bỏ, sẽ có rất nhiều thương hiệu vang danh tiếng từ nước ngoài dễ dàng vào Việt Nam, và vang Đà Lạt càng cần phải khẳng định mình.

 

Là thương hiệu được xây dựng hơn 20 năm, Vĩnh Tiến được đánh giá là thương hiệu mạnh của vang Đà Lạt trên thị trường. Bà Nguyễn Thị Bích Huệ - Giám đốc Công ty chia sẻ: Điều mà các thương hiệu vang Đà Lạt cần hướng đến hàng đầu hiện nay đó chính là chất lượng thì mới có thể tồn tại bền vững. Như tại công ty chúng tôi quy trình sản xuất vang sạch, được sản xuất từ giống nho nhập từ Pháp, trồng tại Đà Lạt, qua quy trình sản xuất với công nghệ lên men truyền thống của Pháp, cho ra đời sản phẩm vang chất lượng cao. Được sự tài trợ của Chính phủ Đan Mạch, từ năm 2009 Công ty Vĩnh Tiến đã áp dụng VietGAP (quy trình quản lý chất lượng nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm từ trang trại tới bàn ăn) vào quy trình sản xuất. VietGAP là quy trình đảm bảo từ việc chọn giống nho, trồng, thu hoạch và sản xuất ra thành phẩm rượu vang theo tiêu chuẩn. Sản phẩm đa dạng cũng cần phải đa dạng các loại sản phẩm rượu vang từ vang nhẹ 11 độ - 11,5 độ, 12 độ tới 12,5 độ, và vang bịch loại 3 - 5 lít.

 

Ông Nguyễn Xuân Hùng - Phó Giám đốc Trung tâm Xúc tiến đầu tư, Thương mại và Du lịch Lâm Đồng cũng cho rằng: Từ kinh nghiệm của các chương trình xúc tiến thương mại cho thấy, thị trường rượu vang Việt Nam phát triển ngày càng đa dạng, phong phú với hàng chục nhà sản xuất vang trong nước và sự ồ ạt xuất hiện của các hãng vang nước ngoài. So sánh giữa vang Việt và vang ngoại, điều dễ thấy là rượu vang ngoại có giá thành cao hơn nhiều trong khi chất lượng của những chai rượu vang ngoại (loại trung) có khi còn thua xa vang trong nước.

 

Hội nhập, cơ hội và thách thức luôn song hành đối với vang Đà Lạt, không chỉ phải luôn đổi mới, nâng cao chất lượng mà còn phải đương đầu với sự cạnh tranh khốc liệt của vang ngoại nhập. Với chiến lược quan tâm hàng đầu đến thị trường nội địa và khách hàng Việt, nhiều hãng vang Đà Lạt cũng đã bắt đầu tiến ra thị trường thế giới với những dòng vang cao cấp.

 

Với một thị trường dần trưởng thành, những người tiêu dùng ngày càng hiểu biết, đời sống thu nhập, mức sống ngày một nâng cao và các vấn đề chính sách đang thuận lợi hơn là những yếu tố hứa hẹn cho một sân chơi đầy sôi động của các thương hiệu vang. Và trong sân chơi đó, tin rằng vang Đà Lạt sẽ không ngừng thay đổi mình, bắt kịp xu hướng để khẳng định vị thế của mình và đưa vang Đà Lạt lên những tầm cao mới, bằng những chiến lược, bước tiến dài hơi. Để mỗi chai vang đến tay người tiêu dùng, người ta không chỉ thích vì vị ngọt đặc biệt của vang Đà Lạt mà còn nhớ đến những câu chuyện làm vang, những thương hiệu vang đến từ Đà Lạt.

 

DIỄM THƯƠNG

 

Hiếu Giang tổng hợp

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop