Tin nông nghiệp Chủ Nhật ngày 19 tháng 06 năm 2016

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp Chủ Nhật ngày 19 tháng 06 năm 2016

Nông nghiệp suy giảm vì hạn, mặn

Nguồn tin:  Báo Chính Phủ

 

Trong những tháng đầu năm 2016, ngành NN&PTNT đã phải ứng phó với rất nhiều tình huống cấp bách về thiên tai.

 

Do ảnh hưởng của hiện tượng El Nino và biến đổi khí hậu, tình hình thời tiết, thiên tai những tháng đầu năm 2016 diễn biến bất thường và cực đoan, gây hậu quả nặng nề.

 

Hạn hán, xâm nhập mặn kéo dài đã làm khoảng gần 300.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt; gần 250.000 ha lúa, hơn 18.000 ha hoa màu, hơn 30.000 ha cây ăn quả, gần 150.000 ha cây công nghiệp bị thiệt hại, sản lượng lúa giảm khoảng 844.000 tấn...

 

Tính đến ngày 20/5, ước khoảng 1.355 con gia súc, gia cầm bị chết và hàng nghìn con khác đang thiếu nước uống; ước khoảng 6.857 ha nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại.

 

Tính đến giữa tháng 5/2016, tổng thiệt hại trên phạm vi cả nước vào khoảng 9.735 tỷ đồng (thiệt hại do rét đậm, rét hại là 700 tỷ đồng, thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn là 8.906 tỷ đồng, thiệt hại do giông, lốc, sét, mưa đá là 129 tỷ đồng).

 

Nhìn chung, tình hình sản xuất hầu hết các lĩnh vực trồng trọt, nuôi trồng thủy sản đều suy giảm nghiêm trọng về sản lượng và diện tích nuôi trồng. Theo báo cáo của Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT), tại vụ lúa Đông Xuân, diện tích cả nước ước đạt 3,1 triệu ha, năng suất ước đạt 64,2 tạ/ha, sản lượng ước đạt 19,9 triệu tấn, giảm khoảng 844.000 tấn so với vụ Đông Xuân trước.

 

Tại miền Bắc, tính đến ngày 15/5, diện tích lúa Đông Xuân khoảng 1,15 triệu ha, bằng 99 % so với cùng kỳ năm trước; năng suất ước đạt 62,5 tạ/ha (tăng 0,5 tạ/ha); sản lượng ước đạt 7,3 triệu tấn, tăng khoảng 30.000 tấn so với vụ trước. Miền Nam đã thu hoạch được gần 1,83 triệu ha lúa Đông Xuân, đạt 95,3% diện tích gieo cấy và bằng 95,5% so với cùng kỳ năm trước. Tổng diện tích tại phía Nam đạt khoảng 1,9 triệu ha, (giảm 15.000 ha); năng suất đạt 65,1 tạ/ha (giảm 4 tạ/ha); sản lượng đạt 12,6 triệu tấn (giảm 874.000 tấn so với vụ Đông Xuân năm trước).

 

Đáng lưu ý, các địa phương xuống giống lúa Hè Thu đạt hơn 1.000 ha, giảm 17,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vùng ĐBSCL đạt 959.200 ha, giảm 18,3%.

 

Nhìn chung, nhiều địa phương ở miền Nam có tiến độ xuống giống lúa Hè Thu chậm so với cùng kỳ năm trước, một phần do ảnh hưởng của nắng hạn và tình trạng nhiễm mặn kéo dài.

 

Tương tự, ngành thủy sản cũng đang quyết liệt chỉ đạo các địa phương theo dõi diễn biến thời tiết và môi trường, khi đã đủ điều kiện để nuôi thì nên thả giống lớn để tránh bị chết và bảo đảm thời vụ phù hợp.

 

Tổng cục Thủy sản đã cử đoàn công tác trực tiếp tới ĐBSCL, mỗi tỉnh có 1 cán bộ nằm vùng trực tiếp chỉ đạo. Đồng thời, hướng dẫn các địa phương ven biển từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên-Huế triển khai tốt các biện pháp cấp bách, chính sách hỗ trợ ứng phó với tình trạng hải sản chết bất thường, nhanh chóng phục hồi hoạt động nuôi trồng thủy sản, bảo đảm tiêu thụ, sớm ổn định đời sống người dân.

 

Đỗ Hương

 

Tiền Giang: Liên kết "4 nhà": "Đòn bẩy" phát triển nông nghiệp, nông thôn

 

Nguồn tin:  Báo Ấp Bắc

 

Liên kết “4 nhà” là một trong những trọng tâm trong phát triển nông nghiệp, nông thôn. Bên cạnh các liên kết “4 nhà” đã và đang tiếp tục được hình thành theo hướng ngày càng chặt chẽ hơn, hiệu quả hơn, cũng có nhiều mối liên kết bị đổ vỡ do nhiều nguyên nhân. Dù vậy, những liên kết giữ được ổn định là tiền đề nhân rộng, làm “đòn bẩy” cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.

 

 

Liên kết sản xuất và tiêu thụ giúp nông dân an tâm sản xuất.

 

Nhân rông mô hình, mở rộng quy mô

 

Theo các nhà chuyên môn, liên kết “4 nhà” là định hướng xuyên suốt trong nhiều năm qua nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững, nâng cao hiệu quả sản xuất, chất lượng nông sản. Kèm theo đó, nhiều chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ ra đời. Nhờ đó mà hoạt động liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản có điều kiện phát triển, ngày càng có nhiều mối liên kết hoạt động ổn định, mở rộng quy mô.

 

Ông Nguyễn Quốc Kiệt, Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Chăn nuôi - Thủy sản Gò Công (Tiền Giang) cho biết, lâu nay, chăn nuôi mang tính tự phát nên chưa tạo nên sản phẩm hàng hóa, người nuôi không quan tâm đến phòng, chống dịch bệnh dẫn đến rủi ro cao, giá cả bấp bênh, dễ bị thương lái ép giá. Liên kết những người sản xuất lại với nhau thành lập HTX, tổ hợp tác (THT) để tạo ra sản phẩm chăn nuôi đủ lớn, đảm bảo chất lượng mới có cơ hội liên kết với doanh nghiệp tiêu thụ.

 

“Nếu không có liên kết thì không có con gà Ta Gò Công. Từ năm 2013 đến nay, HTX đã hợp đồng cung ứng gà Ta Gò Công cho Công ty San Hà. Từ cơ sở này, HTX đã hình thành nên nhiều tổ hợp tác cung ứng sản phẩm gà Ta Gò Công đạt chất lượng; sản lượng gà Ta Gò Công cung ứng cho thị trường tăng qua mỗi năm.

 

Mới đây, HTX thành lập thêm tổ hợp tác chăn nuôi gà Ta Gò Công ở xã Bình Đông. Bên cạnh đó, HTX còn mở các cửa hàng bán gà “sạch”. Mới đây, HTX đã mở thêm cửa hàng bán gà “sạch” tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, nâng số cửa hàng bán gà Ta Gò Công của HTX lên 14 cửa hàng” - ông Kiệt cho hay.

 

TX. Gò Công còn có HTX Rau an toàn Gò Công đã duy trì được hợp đồng cung ứng rau “sạch” cho các doanh nghiệp, đơn vị như Metro, Coop Mart, bếp ăn tập thể… với sản lượng khoảng 3 - 3,5 tấn/ngày.

 

Trong lĩnh vực cây ăn trái, “vương quốc” trái cây Tiền Giang cũng có nhiều liên kết giữa HTX, THT với doanh nghiệp (DN) mang tính ổn định, lâu dài như HTX Hòa Lộc ký hợp đồng tiêu thụ với Công ty HatchanDo (Nhật Bản), HTX Sơ ri Gò Công Đông ký hợp đồng với Công ty Nichirel Suco, HTX Mỹ Lương ký hợp đồng với Doanh nghiệp tư nhân Phương Anh (Hà Nội)... Đối với cây lúa, từ năm 2013 đến nay, trên địa bàn Tiền Giang đã có 11.145 ha tham gia thực hiện cánh đồng lớn.

 

Trên bình diện cả nước, liên kết “4 nhà” đã tạo ra chuyển biến tích cực với hàng ngàn mô hình được thực hiện. Ông Đào Văn Hoàng (Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển nông thôn) cho biết, thời gian qua có nhiều chính sách liên quan đến liên kết “4 nhà” trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

 

Những chính sách trên khi đưa vào triển khai thực tế đã mang hiệu quả tích cực rõ rệt về sản lượng và diện tích. Từ năm 2013 đến nay, toàn quốc đã có 556 ngàn ha lúa tham gia sản xuất theo mô hình cánh đồng lớn (CĐL), trong đó Đồng bằng sông Cửu Long có 450 ngàn ha tham gia thực hiện CĐL.

 

Qua các liên kết CĐL, cơ giới hóa được đưa vào sản xuất đã giảm công lao động, các dịch vụ, đào tạo nghề nông nghiệp được thực hiện. Ngoài ra, thực hiện CĐL còn giúp chuyển biến tư tưởng người dân và chính quyền địa phương về hợp tác, liên kết trong sản xuất, góp phần giải quyết chất lượng và nâng giá trị gia tăng cho nông sản. “Nhờ liên kết mà người dân an tâm sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao thu nhập” - ông Hoàng nói.

 

Cần nhưng chưa gặp nhau

 

Thực tế, hiện nay đang có rất nhiều HTX, THT sản xuất nông sản theo các tiêu chuẩn an toàn, GAP gặp khó khăn đầu ra vì không liên kết được DN tiêu thụ. Trong khi các DN lại “than” thiếu hụt nguồn cung nông sản “sạch” do chưa tìm được nơi cung ứng ổn định.

 

Đại diện Công ty TNHH Mỹ Châu cho biết, thời gian qua công ty có liên kết tiêu thụ rau màu “sạch” của THT Thạnh Hưng, Thạnh Hòa để cung ứng cho các siêu thị và được những nơi này chấp nhận. Hiện tại, công ty đang có hướng mở các cửa hàng bán nông sản “sạch” ở TP. Mỹ Tho và các huyện, thị. Vì thế, công ty đang có nhu cầu ký hợp đồng tiêu thụ với các HTX, THT sản xuất rau “sạch”.

 

Trục trặc, phá vỡ hợp đồng hay không gặp nhau giữa các nhà trong liên kết “4 nhà” tiếp tục là vấn đề quan tâm của các ngành, các cấp; bởi đây là chủ trương theo định hướng tái cơ cấu ngành Nông nghiệp. Vấn đề này càng trở nên bức thiết hơn khi Việt Nam tham gia ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do. Bởi từ đây, hàng hóa không chỉ tăng cường xuất khẩu mà còn cần đẩy mạnh tiêu thụ trong nước, tăng sức cạnh tranh với hàng nhập khẩu.

 

Ông Cao Văn Hóa, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, phải nhìn nhận thực tế, liên kết “4 nhà” hiện nay chưa đủ mạnh. Theo ông, Tiền Giang là tỉnh nằm trong vùng có nhiều tiềm năng phát triển nông, ngư nghiệp, có nguồn nguyên liệu phục vụ cho chế biến, dịch vụ, thương mại, du lịch và mở rộng giao lưu phát triển kinh tế với các tỉnh trong nước, khu vực và thế giới. Dù vậy, việc liên kết giữa các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ của các thành phần kinh tế chưa tốt.

 

Nguyên nhân là do DN trong nông nghiệp còn ít; những DN thực sự muốn liên kết có năng lực về tài chính, kho tàng, cơ sở chế biến có thể liên kết và thực hiện liên kết không nhiều. Các hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp phát triển chậm và nếu đã hình thành thì cũng chưa đủ mạnh để đảm nhận vai trò trung gian gắn kết nông dân với DN. Nhận thức về vai trò của từng nhà trong liên kết “4 nhà” còn hạn chế.

 

Chính quyền, cơ quan, ban, ngành liên quan chưa mạnh dạn và vào cuộc quyết liệt để tổ chức liên kết, hỗ trợ liên kết; chưa xây dựng được một cơ chế, chính sách phù hợp để xâu chuỗi gắn kết “4 nhà”, xử lý vi phạm hợp đồng và chia sẻ lợi ích cũng như rủi ro của “4 nhà”.

 

Cùng nhận định này, ông Đào Văn Hoàng đánh giá, tốc độ liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản hiện nay khá chậm, chỉ chiếm khoảng 4% tổng diện tích. Các liên kết còn lỏng lẻo, chưa gắn lợi ích giữa các bên (giữa DN với nông dân, nông dân với nông dân) và thường xuyên phá vỡ hợp đồng khi xảy ra biến động giá. Nhà nước chưa có chế tài cụ thể, nhiều liên kết chỉ tập trung hỗ trợ đầu vào mà chưa giải quyết đầu ra...

 

“Phát triển nông nghiệp nhất thiết phải liên kết “4 nhà” - ông Hoàng khẳng định. Để làm được điều này, ông Hoàng đề xuất xây dựng các mô hình liên kết phù hợp với từng vùng miền, từng loại nông sản; mở rộng vùng nguyên liệu tập trung và có chính sách ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng cho các vùng này; xây dựng các chính sách ưu đãi cho các tổ chức nông dân (vay ưu đãi, hỗ trợ cho HTX nông nghiệp, tổ chức nông dân, xây dựng vùng nông sản xuất khẩu…), tổ chức sản xuất gắn với thị trường, quy hoạch vùng sản xuất, cơ cấu sản phẩm theo hướng phát huy thế mạnh từng vùng, từng DN.

 

TÂN PHÚ

 

Cà Mau: Ứng dụng khoa học - công nghệ để phát triển bền vững

 

Nguồn tin:  Báo Cà Mau

 

Mỗi năm lại có hàng chục đề tài, dự án khoa học công nghệ được nghiệm thu đưa vào nhân rộng trong sản xuất và đời sống. Từ đó, góp phần nâng cao giá trị các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản nói riêng và kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau nói chung. Tuy nhiên, việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn cần được tháo gỡ.

 

Thông qua chỉ số các yếu tố năng suất tổng hợp thì khoa học - công nghệ đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội chiếm đến 39%, ngoài yếu tố vốn và lao động. “Khoa học có vai trò vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong thời kỳ hội nhập sâu rộng như hiện nay. Từ hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao, phát triển tài sản sở hữu trí tuệ... đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng nhiều mặt hàng trên địa bàn tỉnh”, ông Nguyễn Thành Vinh, Trưởng Phòng Quản lý khoa học, Sở Khoa học và Công nghệ, chia sẻ.

 

Góp phần tăng năng suất, hiệu quả

 

Từ những đề tài dự án khoa học được triển khai thời gian qua đã có nhiều giống lúa, cây trồng, vật nuôi mới, những quy trình sản xuất tiên tiến ra đời, góp phần đưa nền nông nghiệp của tỉnh phát triển theo chiều sâu; năng suất, chất lượng ngày một được nâng lên.

 

 

Ðề tài khoa học nâng cao năng suất, chất lượng vườn chuối U Minh Hạ đã góp phần nâng giá trị cây chuối.

 

Ðược triển khai từ 2011 và kết thúc vào 2013, dự án xây dựng dây chuyền sản xuất chế phẩm sinh học (EMOZEO) đã góp phần to lớn trong phục vụ nuôi trồng thuỷ sản và xử lý môi trường trên địa bàn tỉnh. Hiện nay, chế phẩm sinh học đang được nhân rộng trên nhiều mô hình nuôi từ tôm sú, thẻ chân trắng cho đến cá và từ nuôi công nghiệp đến quảng canh. Giá trị từ các chế phẩm sinh học mang lại không chỉ có giá trị kinh tế trước mắt cho người dân mà còn bảo vệ được môi trường lâu dài.

 

Bên cạnh đó, thời gian qua, công tác chọn lọc, phục tráng các giống cây trồng, vật nuôi phục vụ cho phát triển nông nghiệp luôn được chú trọng đầu tư từ công sức và ngân sách. Trong đó, tiêu biểu có thể kể đến là sự thành công từ dự án phục tráng và sản xuất nguyên chủng các giống lúa mùa địa phương như Một bụi đỏ, Một bụi lùn, Tài nguyên và Tép hành... Qua đó góp phần đáng kể nâng cao năng suất cho những cánh đồng lúa - tôm trên địa bàn.

 

Ông Nguyễn Thành Vinh đánh giá, dự án này đã tạo ra được giống nguyên chủng có khả năng chịu mặn, chịu phèn, từ đó cải thiện năng suất lúa tăng từ 10-15%. Ðặc biệt, từ hiệu quả này đã làm thay đổi tập quán sản xuất của người dân là tự lưu trữ giống. Hiện nay đã có đến trên 70% nông dân sử dụng giống cấp xác nhận trong sản xuất.

 

Một trong những chuyển biến tích cực của nghề nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn tỉnh là việc chuyển giao thành công quy trình sinh sản nhân tạo giống cùng ứng dụng công nghệ lọc nước TDC cung cấp cho các trại sản xuất giống. Từ việc chủ yếu dựa vào nguồn giống có ngoài tự nhiên và nhập tỉnh, đến nay giống cua đã hoàn toàn sản xuất trong tỉnh, còn giống tôm có thể đáp ứng được 60% nhu cầu.

 

Ông Nguyễn Văn Tranh, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT, chia sẻ, thành công trên góp phần không nhỏ trong việc giúp tỉnh chủ động trong bố trí sản xuất và mùa vụ. Ðồng thời, trong những năm gần đây, các ngành, các cấp luôn tìm tòi, nghiên cứu cũng như nhân rộng những mô hình mới, quy trình sản xuất hiện đại, thân thiện với môi trường và nhiều cách làm hay được nhân rộng.

 

Giá trị khoa học chiếm tỷ trọng chưa lớn

 

Ðể đưa ngành nông nghiệp hướng tới mục tiêu phát triển theo chiều sâu, bền vững, với nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao thì hoạt động khoa học công nghệ phải tiếp tục cải thiện nhiều hơn nữa từ việc chọn đề tài, dự án khoa học hằng năm cho đến nghiệm thu và nhân rộng. Trong giai đoạn năm 2011-2015 toàn tỉnh có 65 đề tài, dự án khoa học cấp Trung ương, cấp tỉnh được phê duyệt và triển khai thực hiện. Trong đó, tổng số đã được nghiệm thu giai đoạn 2011-2014 (đề tài dự án năm 2015 đang nghiệm thu chưa có kết quả) là 44 đề tài dự án. Theo đó, có 2,27% được xếp loại xuất sắc, 54,55% đạt loại khá, 36,36% đạt loại trung bình và 6,8% không đạt.

 

Từ kết quả trên, ông Nguyễn Thành Vinh nhận định: "Tuy có nhiều kết quả nghiên cứu từ các đề tài, dự án nhưng số lượng công nghệ mà tỉnh thực sự làm chủ là chưa nhiều. Ngoài ra, hàm lượng chất xám và giá trị tăng thêm trong đầu tư thực hiện đề tài, dự án chưa cao, giá trị khoa học trong sản phẩm sản xuất ra chiếm chưa lớn”.

 

Từ những hạn chế trên đã khiến cho hoạt động ứng dụng, nhân rộng kết quả nghiên cứu đề tài dự án khoa học trong thực tế vẫn còn nhiều hạn chế. Trong tổng số 44 đề tài dự án đã được nghiệm thu trong giai đoạn 2011-2014, thì chỉ khoảng 10 đề tài dự án ứng dụng được xếp loại đạt hiệu quả cao, còn lại chỉ trung bình, thậm chí không ứng dụng được.

 

Những hạn chế xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân, có thể kể đến như: ngân sách đầu tư chưa đảm bảo theo yêu cầu thực tiễn, người nghiên cứu khoa học công nghệ trong tỉnh còn thiếu và yếu, ít doanh nghiệp quan tâm đầu tư nghiên cứu công nghệ mới... “Tuy nhiên, nguyên nhân quan trọng chính là chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa tổ chức và cá nhân nghiên cứu với cơ quan quản lý nghiên cứu, cơ quan chuyển giao kết quả nghiên cứu và tổ chức, cá nhân sử dụng kết quả nghiên cứu đề tài dự án khoa học. Tức là chưa thể hình thành được chuỗi gắn kết từ quy trình quản lý, triển khai đề tài dự án cho đến sản xuất thực nghiệm và ứng dụng, nhân rộng”, ông Vinh cho biết thêm.

 

Ðể khoa học - công nghệ và kinh tế - xã hội luôn là người bạn đồng hành trên con đường tiến tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá, năm 2013, Luật Khoa học công nghệ đã có sự thay đổi cho phù hợp. Theo đó, kể từ năm 2013, khoa học - công nghệ nghiên cứu và chuyển giao theo yêu cầu đặt hàng của ngành và địa phương. Tức trong quá trình quản lý của các ngành và các cấp chính quyền, có gì còn khó khăn vướng mắc, cần khoa học công nghệ tháo gỡ thì tiến hành đặt hàng nhiệm vụ đó.

 

Ông Nguyễn Thành Vinh cho biết, đây cũng là hướng đi chủ đạo của khoa học công nghệ trên địa bàn tỉnh. Bởi lẽ, cách làm này giảm được số lượng đề tài, dự án khoa học đăng ký hằng năm cũng như các đề tài dự án được tập trung hơn, sát với thực tế hơn và khả năng ứng dụng cao hơn. Ngoài ra, ngành đang lồng ghép vào 7 chương trình phát triển lớn của tỉnh như: kinh tế biển, đô thị động lực, thương mại - dịch vụ, nông - lâm - ngư nghiệp, giao thông vận tải... làm sao khoa học - công nghệ luôn sát với nhu cầu địa phương.

 

Hiện nay, trình độ dân trí của người dân trong tỉnh vẫn còn thấp, do đó, việc nâng cao nhận thức và trình độ tiếp thu, ứng dụng khoa học cho nông dân là điều không kém phần quan trọng. Trong quá trình chuyển giao khoa học phải làm cho người dân sờ tận tay, xem tận mắt thông qua các hội thảo ngay trên đồng ruộng, vườn cây, ao cá… Có như vậy, khoa học và nông nghiệp mới thực sự gắn kết và cùng phát triển./.

 

Nguyễn Phú

 

Nhà nông trăn trở: Làm thế nào để sản xuất an toàn?

 

Nguồn tin:  Kinh Tế Đô Thị

 

Trong bối cảnh thị trường vật tư đầu vào như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), thức ăn chăn nuôi đang tồn tại nhiều bất cập như hiện nay, làm thế nào để sản xuất đảm bảo ATTP?

 

Băn khoăn của rất nhiều nông dân đã được Sở NN&PTNT Hà Nội giải đáp tại hội thảo “Nhịp cầu nhà nông” được tổ chức ngày 9/6 tại huyện Đan Phượng.

 

Cái khó của người nông dân

 

Thời gian qua, chuỗi hội thảo “Nhịp cầu nhà nông” do Trung tâm Khuyến nông Hà Nội tổ chức tại nhiều huyện, thị xã đã thực sự trở thành cầu nối mang nhiều kiến thức, kỹ thuật mới đến với bà con nông dân. Không dừng lại ở những kỹ thuật đơn thuần, bà con đến với chương trình còn để chia sẻ nhiều tâm tư, nguyện vọng và những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tiếp cận các chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Tại “Nhịp cầu nhà nông” tổ chức ở Đan Phượng lần này, một nét mới được ghi nhận là rất nhiều nông dân quan tâm tới vấn đề sản xuất đảm bảo ATTP, nhất là thời điểm Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu lực đã cận kề (1/7).

 

 

Quang cảnh buổi hội thảo. Ảnh: Thiên Tú

 

Là một hộ chăn nuôi có nhiều kinh nghiệm với trang trại nuôi 1.000 con lợn, song anh Trần Văn Phong, xã Trung Châu, huyện Đan Phượng vẫn tỏ ra khá bối rối khi tiếp cận thông tin về quy định của Nhà nước. Anh Phong cho biết, hiện nay, các hộ chăn nuôi đã có ý thức trong việc đảm bảo VSMT và ứng dụng chế phẩm sinh học để cho ra sản phẩm an toàn. Tuy nhiên, tới đây, khi Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu lực, trong đó có quy định phạt nặng về hành vi sử dụng chất cấm khiến cho anh Phong và nhiều hộ chăn nuôi lo ngại. “Nhà nước ban hành danh mục các chất cấm sử dụng trong chăn nuôi nhưng nông dân hầu như không biết đó là những chất gì vì rất ít được thông tin, tuyên truyền” – anh chia sẻ.

 

Một thực tế là hiện nay đa phần nông dân, nhất là các hộ sản xuất quy mô vừa và nhỏ lẻ khi mua và sử dụng vật tư nông nghiệp (VTNN) đều do chủ cửa hàng kinh doanh mặt hàng này hướng dẫn, giới thiệu. Do đó, nếu không quản lý tốt các cơ sở này, khả năng người nông dân vô tình sử dụng chất cấm hoặc bị đánh lừa dẫn tới bị phạt là hoàn toàn có thể xảy ra. Bà Nguyễn Thị Đào, xã Phương Đình, huyện Đan Phượng cũng cho biết, bà đã được tập huấn về kỹ thuật sản xuất rau an toàn một vài lần. Tuy nhiên, kiến thức về nhận biết các loại thuốc BVTV còn hạn chế và hầu như tin tưởng hoàn toàn vào sự giới thiệu, tư vấn của các chủ cửa hàng kinh doanh.

 

Tích cực tháo gỡ

 

Những băn khoăn, trăn trở của nhiều nông dân tại diễn đàn “Nhịp cầu nhà nông” cho thấy, người dân đã bước đầu ý thức được trách nhiệm về sản xuất đảm bảo ATTP, nhất là khi vấn đề này đang trở nên nhức nhối. Tuy nhiên, cũng từ những băn khoăn ấy đã phản ánh phần nào “lỗ hổng” trong cơ chế quản lý, giám sát VTNN và thông tin tới người dân trên địa bàn TP. Lắng nghe những ý kiến trên, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Ngô Đại Ngọc cũng tán thành, đây là những trăn trở rất “thời sự” bởi vấn đề ATTP đang được cả xã hội quan tâm. Theo ông Ngọc, quản lý VTNN thực tế đang tồn tại những bất cập, hạn chế nhất định. Trên địa bàn TP có hơn 1.900 cơ sở kinh doanh VTNN, trong đó riêng thuốc BVTV có tới 1.300 cơ sở. “Để người dân nhận biết đâu là thuốc trong danh mục, đâu là thuốc ngoài danh mục thực sự rất khó khăn” – ông Ngọc cho hay.

 

Trước thực trạng này, lãnh đạo Sở NN&PTNT cho biết, hiện nay, Sở đang xây dựng và sắp tới trình TP ban hành văn bản để siết chặt quản lý sản xuất, kinh doanh và sử dụng VTNN. Đồng thời thực hiện thanh, kiểm tra để loại bỏ các cơ sở, cửa hàng kinh doanh không đủ điều kiện theo quy định. Song song với đó, tại mỗi xã, thị trấn cần xây dựng một vài cửa hàng kinh doanh VTNN quy mô lớn, có kiểm soát để phục vụ nhu cầu của người dân. Lãnh đạo Sở NN&PTNT cũng khuyến cáo bà con nông dân khi mua VTNN nên tìm đến các cơ sở uy tín trên địa bàn để tránh mua phải hàng giả, hàng nhái hay chất cấm mà không biết.

 

Thiên Tú

 

“Kỹ sư chân đất” thành công với chế tạo máy chẻ hạt điều

 

Nguồn tin:  Báo Bình Phước

 

Những cơ sở chế biến hạt điều trên địa bàn tỉnh Bình Phước không xa lạ với cái tên Hoàng Kim Tiến (Tiến máy chẻ) và sản phẩm máy cắt tách vỏ cứng hạt điều do chính anh mày mò chế tạo ra. Nhưng ít ai biết việc anh Tiến trở thành kỹ sư bất đắc dĩ xuất phát từ việc mưu sinh hằng ngày của gia đình mình.

 

“Kỹ sư chân đất”

 

Anh Tiến kể: Quê tôi ở Hải Phòng. Năm 2000, tôi đến huyện Phước Long lái xe thuê cho các cơ sở chế biến hạt điều. Năm 2008, thấy nhiều người làm điều “có ăn”, tôi vay mượn để mở xưởng ở thôn Hai Căn, xã Phú Nghĩa, huyện Phước Long (nay là huyện Bù Gia Mập). Lúc đầu xưởng có 4 công nhân, sau tăng lên 40 người. Những năm đó, ở Phước Long phát triển nhiều cơ sở chế biến hạt điều nên khan hiếm nhân công, nhất là khâu chẻ hạt. Xưởng điều gia đình tôi cũng gặp tình trạng này, cộng thêm công nhân tay nghề thấp, lao động thời vụ, lương cao nên lãi không nhiều. Năm 2009, tôi mày mò thử chế tạo máy chẻ hạt điều nhỏ để thay thế sức công nhân.

 

 

Anh Tiến (bên trái) giám sát công nhân tại xưởng chế tạo máy

 

Chiếc máy chẻ hạt điều nhỏ một đầu được anh Tiến liên tục cải tiến để phục vụ nhu cầu sản xuất. Sau 3 năm mày mò, năm 2013, anh cho máy 3 đầu chẻ chạy thử. Thấy máy cho kết quả tốt, ít sót, ít tốn nhân công, ít bể hạt, năng suất cao gấp nhiều lần, ít nhiễm dầu nên nhiều cơ sở mang điều đến nhờ anh chẻ. Sau đó có người đặt vấn đề mua máy. Và chiếc máy đầu tay được anh Tiến ra giá 500 triệu đồng, người mua vẫn chấp nhận!

 

Cùng thời điểm, anh có ý định chuyển sang sản xuất, chế tạo máy cắt tách vỏ cứng hạt điều thì ở TP. Hồ Chí Minh cũng xuất hiện máy chẻ của các hãng Khuôn máy Việt, Ngọc Châu, Đại Sương Thạch. Tuy nhiên, nhiều cơ sở chế biến hạt điều trong tỉnh cho rằng các loại máy đó vẫn không năng suất và hiệu quả như máy chẻ của anh Tiến. Anh Nguyễn Văn Đẳng, xưởng điều Trang Đẳng ở thôn 8, xã Long Hưng, huyện Phú Riềng cho biết: Xưởng của tôi hiện có 3 máy chẻ, 1 máy mua ở TP. Hồ Chí Minh, 2 máy mua của anh Tiến. Tôi thấy máy của anh Tiến hiệu quả vì năng suất cao hơn (1 tấn/ngày), sản phẩm sạch hơn, thậm chí không phải kiểm vỏ. Hơn nữa, máy của anh Tiến có thể chẻ được tất cả loại hàng to, vừa, nhỏ, còn máy mua ở TP. Hồ Chí Minh chủ yếu chẻ được hàng loại vừa.

 

Tỷ phú 8X

 

Năm 2014, anh Tiến thành lập Công ty Đại Hoàng Kim ở thôn 8, xã Long Hưng. Đến nay, công ty đã cung cấp cho thị trường 200 sản phẩm máy cắt, tách vỏ cứng hạt điều và nhận được nhiều phản hồi tốt từ khách hàng. Hiện hằng tháng, công ty nhận chế tạo, sản xuất khoảng 20 sản phẩm nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu khách hàng. Anh Tiến cho biết: Khách hàng chủ yếu trong tỉnh, một số ở Bình Định, Đắk Lắk, Gia Lai, Lâm Đồng. Hiện xưởng giải quyết việc làm cho khoảng 60 lao động địa phương với mức thu nhập từ 16-23 triệu đồng/ người/tháng. Máy gồm các bộ phận: cấp liệu, đầu máy chẻ, sàng nhân 1, lọc vỏ, sàng nhân 2, phân cấp sản phẩm còn sót lại và lọc xử lý sạch nhân. Công nhân của xưởng làm ăn theo sản phẩm nên ở khâu nào phải hoàn tất khâu đó. Trung bình mỗi ngày, xưởng xuất được 1 sản phẩm hoàn chỉnh.

 

Không chỉ thu hút khách hàng bằng chất lượng sản phẩm, Công ty Đại Hoàng Kim còn liên tục tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm và chia sẻ chi phí đầu tư với khách hàng. Bà Đinh Thị Hiền, chủ xưởng điều Thu Hiền ở thôn 8, xã Long Hưng cho biết: Từ ngày có máy chẻ hạt điều của anh Tiến, xưởng đã giảm được nhiều chi phí thuê nhân công, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Khi mua máy, công ty tạo điều kiện thanh toán từng đợt, cụ thể: Khi đặt cọc phải trả 40% giá trị máy, giao hàng trả tiếp 20%, còn lại sau khi nghiệm thu sẽ được trả dần trong 6 tháng. Bà Hiền cho rằng cách làm của anh Tiến tạo được uy tín với các cơ sở chế biến hạt điều. Mặt khác, khi máy có bất kỳ trục trặc gì liên hệ công ty sẽ có người đến tận nơi hướng dẫn, khắc phục sự cố.

 

Một máy cắt tách vỏ cứng hạt điều của Công ty Đại Hoàng Kim hoàn chỉnh xuất xưởng có giá 470 triệu đồng. Trung bình trước đây, để chế biến 1 tấn hạt điều phải cần đến 30 nhân công lành nghề, nay với máy chẻ của Công ty Đại Hoàng Kim, chỉ cần 7 nhân công cho các khâu. Hạt điều chẻ bằng máy ít bể, sót, ít phải kiểm vỏ, đa dạng chủng loại, ít nhiễm dầu, ít tiêu thụ điện năng, bền bỉ, sạch sẽ là những ưu điểm lớn mà khách hàng tìm đến với sản phẩm của Đại Hoàng Kim. Không chỉ vậy, anh Tiến còn chuẩn bị xuất xưởng sản phẩm tốt hơn, tăng năng suất từ 1 lên 1,5 tấn/ngày để phục vụ thị trường chế biến điều trong và ngoài tỉnh

 

Phương Dung

 

Thu nhập hơn 300 triệu nhờ mô hình kết hợp

 

Nguồn tin:  Báo Cần Thơ

 

Ông Dương Văn Thố, xã Tân Mỹ Chánh (TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang) từ nghèo khó đã vươn lên làm giàu chính đáng nhờ mô hình trồng bưởi da xanh ruột hồng kết hợp với chăn nuôi heo. Hàng năm, ông Thố "bỏ túi" hơn 300 triệu đồng nhờ mô hình này.

 

Tham gia nghĩa vụ quốc tế trên chiến trường Campuchia, xuất ngũ trở về vào năm 1989, ông Dương Văn Thố bắt đầu chiến đấu trên mặt trận mới: thoát nghèo. Sau bao ngày trăn trở, cuối cùng ông gom góp vốn xây chuồng nuôi heo nái. Chỉ 1 con gầy đàn, heo sinh sản tốt, mỗi lứa heo con xuất bán ông đều có lãi. "Thời điểm đó giá cả thức ăn rất rẻ, nuôi heo nái rất lời. Có đợt xuất bán 1 bầy heo con, tôi đã mua được 1 công đất" – ông Thố kể.

 

 

Vườn bưởi ông Thố đang ra hoa chuẩn bị cho trái vụ sau.

 

Nuôi heo sinh sản có hiệu quả, sau những lần xuất bán, tích lũy được vốn, ông tiếp tục xây chuồng tăng số lượng heo nái và nuôi thêm heo thịt. Cứ thế, mỗi lần xuất heo con, lẫn heo thịt có lãi, ông Thố lại mua thêm đất và cho đến hôm nay, gia đình ông đã có được hơn 2ha đất; lúc nào chuồng heo cũng không dưới 40 con heo nái, heo thịt.

 

Để chăn nuôi heo có hiệu quả, ông Thố phân công các thành viên trong gia đình chở các phế phẩm từ các quán ăn ở địa phương về nấu lại cho heo ăn. Theo ông Thố, cách làm này tiết kiệm được chi phí mua thức ăn công nghiệp, nhưng lại giúp heo mau lớn. Gắn bó với con heo gần 30 năm, ông Thố tích lũy được cho mình khá nhiều kinh nghiệm. Ông chia sẻ: "Tôi vẫn giữ giống heo nái từ mới gầy dựng đến nay. Nuôi heo thịt, thấy con nào ưng ý là để lại làm heo sinh sản, vừa có chất lượng, vừa kiểm soát được dịch bệnh. Heo con khi vừa sinh ra đến khi xuất bán phải đảm bảo tiêm ngừa đầy đủ và đúng liều lượng. Có như vậy heo sẽ an toàn, khỏe mạnh. Ngoài ra, chuồng nuôi heo cũng phải được xây dựng thoáng mát, nuôi với mật độ vừa phải. Các loại thức ăn phải được kiểm soát chặt chẽ".

 

Với 2ha đất mua được từ chăn nuôi heo, ông Thố trồng bưởi da xanh ruột hồng hết 13 công (trong đó 5 công đã cho trái ổn định, 7 công mới bắt đầu cho trái). Ông Thố phấn khởi cho biết: Vụ Tết vừa qua ông bán được hơn 60 triệu đồng tiền bưởi và ông cũng vừa thu hoạch được hơn 10 triệu đồng. Hiện tại, ông Thố tích cực chăm sóc cây để xử lý cho trái theo ý muốn. "Thông thường, muốn xử lý cho bưởi ra trái đúng vào dịp Tết thì ngay từ cuối tháng 4 đầu tháng 5 là cắt nước, sau đó thúc nước trở lại để cây ra chồi non và hoa. Phải thường xuyên kiểm tra vườn bưởi. Thấy trái vừa đủ lớn là bao lại để tránh bị sâu đục trái phá hoại và kịp thời phát hiện bệnh, rệp sáp hại cây, chết nhánh - đây là bệnh côn trùng phổ biến nhất trên cây bưởi hiện nay" – ông Thố chia sẻ.

 

Với diện tích đất còn lại, ông Thố trồng dừa xiêm đỏ và xen canh chanh không hạt. Đối với dừa, cứ 20 - 25 ngày ông thu hoạch 1 lần; chanh không hạt cứ 1 tuần thu hoạch 1 lần. Do ảnh hưởng của thời tiết khô hạn nên giá dừa khá cao, trung bình từ 4.000 - 6.000 đồng/trái và chanh không hạt lúc cao điểm hơn 30.000 đồng/kg, mang về cho gia đình ông nguồn thu đáng kể.

 

Nhờ chăm chỉ làm ăn, hàng năm, sau khi trừ các chi phí từ chăn nuôi heo và mô hình trồng bưởi da xanh kết hợp, ông Thố có nguồn thu hơn 300 triệu đồng. Ông đã xây dựng được nhà cửa khang trang, các con được học hành đến nơi, đến chốn và có việc làm ổn định. Nhiều năm liền, gia đình ông Thố được công nhận gia đình văn hóa tiêu biểu, được công nhận danh hiệu nông dân sản xuất giỏi cấp tỉnh.

 

MINH TOÀN

 

“Muối đắng” Cát Minh (Bình Định)

 

Nguồn tin:  Báo Bình Định

 

Những ngày tháng 6 này, mặc dù giá muối giảm mạnh, ảnh hưởng đến đời sống diêm dân, nhưng dưới cái nắng như đổ lửa trên những cánh đồng muối của xã Cát Minh (huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định), diêm dân vẫn miệt mài “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” nhằm làm ra hạt muối phục vụ cuộc sống.

 

 

Giá muối quá thấp, diêm dân Cát Minh phải giữ lại chờ giá lên. Ảnh: H.TRUNG

 

Ông Võ Văn Thế, Phó Chủ tịch UBND xã Cát Minh, cho biết: Cả xã có khoảng 530 hộ làm muối, tập trung ở 2 thôn Đức Phổ I và Đức Phổ II. Hiện diện tích đưa vào sản xuất khoảng 58ha (trong đó có 0,7ha muối trải bạt), giảm 7ha so với kế hoạch do giá muối quá thấp nên một số hộ diêm dân bỏ ruộng không sản xuất. Vụ muối năm nay bà con diêm dân đang gặp khó đủ bề bởi giá muối giảm mạnh. Tuy thời tiết thuận lợi, nhưng sản lượng muối làm ra đến cuối tháng 5 chỉ khoảng 5.000 tấn, thấp hơn cùng kỳ năm 2015, còn hiện tại giá muối chỉ khoảng 400 đồng/kg đối với muối thường, còn muối trải bạt là 600 đồng/kg, giảm từ 800 đến 1.000 đồng/kg, so với năm 2014.

 

Nhiều diêm dân ở đây cho biết: “Giá muối quá thấp thì giữ lại chờ giá lên để bán là chuyện năm nào cũng có, nhưng muối liên tục rớt giá suốt 2 năm qua, lại không bán được, thì lấy tiền đâu lo cho cuộc sống”. Khó khăn là vậy, nhưng diêm dân xã Cát Minh vẫn phải bám nghề, bởi bỏ nghề muối thì không biết làm nghề gì khác.

 

Chúng tôi thăm cánh đồng muối dưới cái nắng như đổ lửa, hai bên ruộng muối trắng xóa, cái nóng hầm hập bốc lên phả vào mặt nghe mặn chát. Nói đến làm muối, cái nghề tưởng chừng đơn giản chỉ cần bơm nước biển vào ruộng, chờ nắng làm nước bốc hơi là có thể thu hoạch đem bán lấy tiền, nhưng thực tế đòi hỏi không ít mồ hôi, công sức. Nếu không tính công làm ruộng, đắp bờ, để làm ra được hạt muối thì nước biển cũng phải được bơm sang 4 đám ruộng chứa nước mới đến ruộng kết tinh. Trong suốt thời gian mùa vụ, mỗi ngày diêm dân chỉ có thể nghỉ ngơi được chừng hơn hai đến ba tiếng đồng hồ, còn lại phải ở ngoài ruộng. Cái nghề chủ yếu lấy công làm lãi này dù cực khổ là vậy nhưng năm nào muối được giá mới xem như có dư dả chút ít.

 

Anh Nguyễn Văn Lượng, diêm dân ở thôn Đức Phổ 1, gia đình có 7 nhân khẩu, được nhận 300 m2 ruộng muối kết tinh, tâm sự: Những năm trước giá muối ổn định hơn, sản lượng làm ra nhiều hơn, nên cuộc sống cũng tạm ổn. Nhưng 2 năm trở lại đây giá muối quá thấp, mà rất khó tiêu thụ, hạt muối làm ra không đủ để đắp đổi chi phí và lo cho cuộc sống hàng ngày. Gia đình tui chỉ chuyên nghề làm muối không có nghề nào khác, nên thiếu ăn. Mặc dù vậy cũng phải làm muối.

 

Giá muối thấp, thương lái không mua, hoặc là mua ép giá, nhưng hầu hết diêm dân Cát Minh dù muốn hay không cũng phải bán sản phẩm để trả tiền thuê mướn nhân công, phần còn lại chi phí cuộc sống gia đình. Ông Nguyễn Thái Bình, Trưởng thôn Đức Phổ I, cho biết: Toàn thôn có 379 hộ sản xuất muối với 42 ha. Trước đây giá muối ổn định ở mức có lãi, nên cuộc sống bà con tạm ổn. Nhưng từ năm 2015 đến nay giá muối quá thấp, không có đầu ra, nên cuộc sống của đa phần diêm dân ở đây rất khó khăn.

 

HOÀI TRUNG

 

Chuẩn bị tốt cho tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2016

 

Nguồn tin:  Báo Cần Thơ

 

Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2016 (viết tắt là Tổng điều tra) được tiến hành trên phạm vi cả nước. Để thực hiện tốt cuộc tổng điều tra này, ngay từ khá sớm, TP Cần Thơ đã thành lập Ban chỉ đạo các cấp và khẩn trương tiến hành các công tác chuẩn bị để tiến hành đạt đúng tiến độ và yêu cầu đặt ra.

 

* Chủ động

 

Nước ta tiến hành Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản định kỳ 5 năm một lần và bắt đầu từ năm 1994. Năm 2016 là lần thứ 5 thực hiện công tác này nhằm thu thập thông tin cơ bản về nông nghiệp, nông dân và nông thôn phục vụ việc đánh giá và xây dựng kế hoạch, định hướng chính sách và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Theo Quyết định số 1225/QĐ-TTg ngày 31-7-2015 của Thủ tướng Chính phủ, Tổng điều tra được tiến hành trên phạm vi cả nước vào ngày 1-7-2016. Thời gian thực hiện thu thập số liệu của Tổng điều tra là 30 ngày, bắt đầu từ ngày 1-7 đến 30-7-2016. Số liệu sơ bộ công bố vào tháng 12-2016. Kết quả chính thức công bố vào quý III-2017.

 

 

Các hộ nuôi trồng thủy sản là một trong những đối tượng của cuộc Tổng điều tra. Trong ảnh: Thu hoạch cá đồng tại huyện Thới Lai, TP Cần Thơ.

 

Để thực hiện tốt Tổng điều tra, ngay từ cuối năm 2015 và các tháng đầu năm 2016, TP Cần Thơ đã thành lập Ban chỉ đạo các cấp và tiến hành các công tác chuẩn bị. Căn cứ vào các quyết định, kế hoạch và hướng dẫn của Trung ương, TP Cần Thơ ban hành Kế hoạch số 334/KH-BCĐ về tổ chức thực hiện phương án Tổng điều tra trên địa bàn thành phố (gọi tắt là Kế hoạch 334). Kế hoạch này nêu rõ các mục đích của Tổng điều tra và yêu cầu công tác tổ chức, thu thập thông tin, xử lý số liệu, tổng hợp, công bố và lưu trữ dữ liệu phải được thực hiện nghiêm túc, theo đúng quy định của Phương án điều tra. Việc điều tra phải đảm bảo thông tin điều tra đầy đủ, kịp thời, không trùng lắp, bỏ sót, phù hợp với điều kiện thực tế và có tính khả thi. Việc quản lý và sử dụng kinh phí của cuộc Tổng điều tra phải đảm bảo đúng chế độ hiện hành, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả.

 

Theo ông Lê Ngọc Bảy, Cục trưởng Cục Thống kê TP Cần Thơ, Phó Trưởng ban Ban chỉ đạo Tổng điều tra TP Cần Thơ, đối tượng của cuộc điều tra, gồm: lao động của hộ cư dân sống ở nông thôn và hộ có tham gia hoạt động nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp và thủy sản ở khu vực thành thị; điều kiện sản xuất của các đơn vị có tham gia hoạt động nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp và thủy sản; điều kiện sống của hộ nông thôn, hộ có tham gia hoạt động nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp và thủy sản ở khu vực thành thị; kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn. Theo đó, công tác điều tra sẽ được tiến hành tại các đơn vị điều tra, gồm: hộ nông thôn; hộ thành thị có tham gia hoạt động nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp và thủy sản; trang trại nông, lâm nghiệp và thủy sản; UBND xã; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; tổ chức chứng nhận sản phẩm thủy sản, trồng trọt, chăn nuôi được sản xuất, sơ chế phù hợp với VietGAP và tương đương…

 

* Làm tốt công tác nhân sự, tuyên truyền

 

Theo Ban chỉ đạo Tổng điều tra TP Cần Thơ, cùng với Ban chỉ đạo cấp thành phố, 6/9 quận, huyện của thành phố đã thành lập Ban chỉ đạo. Riêng 3 quận: Ninh Kiều, Bình Thủy và Cái Răng không đủ điều kiện thành lập Ban chỉ đạo vì có số hộ dân nông lâm nghiệp và thủy sản chưa vượt quá 30% số hộ dân trên địa bàn. Hiện nay, có 60 đơn vị phường, xã, thị trấn của thành phố đủ điều kiện cũng đã thành lập Ban chỉ đạo. Dự kiến, thành phố sẽ huy động trên 1.100 tổ trưởng, điều tra viên trực tiếp tham gia thu thập thông tin của khoảng 140.500 hộ có sản xuất nông nghiệp, gần 50 trang trại… trên toàn thành phố. Ông Lê Ngọc Bảy, Cục trưởng cục Thống kê, Phó Trưởng ban Ban chỉ đạo Tổng điều tra TP Cần Thơ, cho biết: "Kinh nghiệm từ các cuộc Tổng điều tra, trình độ các điều tra viên không đồng đều. Do vậy, cần phải làm tốt công tác lựa chọn lực lượng điều tra viên có trình độ, am hiểu địa bàn được phân công, có tinh thần trách nhiệm và được tập huấn kỹ lưỡng trước khi tiến hành phỏng vấn, ghi phiếu. Đặc biệt, coi trọng công tác tuyên truyền để nhân dân, tổ chức hiểu rõ mục đích của cuộc Tổng điều tra để cộng tác, cung cấp thông tin chính xác, kịp thời.

 

Nhiều ý kiến đồng tình với việc phải làm tốt việc lựa chọn người trực tiếp điều tra để đảm bảo cuộc Tổng điều tra đạt tốt các yêu cầu và tiến độ đề ra. Ông Lâm Hiền, Chi cục trưởng Chi cục Thống kê huyện Vĩnh Thạnh, cho rằng: "Chọn những người đáp ứng yêu cầu về trình độ năng lực, khả năng thông thạo địa bàn và có nhiệt tâm để tham gia Tổng điều tra là rất quan trọng. Rút kinh nghiệm từ các đợt điều tra trước, lần này, huyện Vĩnh Thạnh tận dụng những người có trình độ và sinh viên mới ra trường ở địa phương nhưng chưa có việc làm hoặc có thời gian rảnh rỗi để làm điều tra viên.

 

Tại Hội nghị triển khai phương án Tổng điều tra trên địa bàn TP Cần Thơ, ông Đào Anh Dũng, Phó Chủ tịch UBND, kiêm Trưởng Ban chỉ đạo Tổng điều tra TP Cần Thơ yêu cầu các sở ngành thành phố và địa phương, đơn vị có liên quan cần quan tâm tăng cường thông tin tuyên truyền, tập huấn và rà soát, thực hiện thật tốt các công tác chuẩn bị để tiến hành Tổng điều tra đạt tốt các yêu cầu. Do số lượng người tham gia tổng điều tra rất lớn, trên 1.100 người, do vậy cần tuyển lựa các điều tra viên và tổ trưởng thật tốt; đảm bảo người được lưa chọn phải có trình độ văn hóa, sức khỏe, nắm chuyên môn nghiệp vụ, am hiểu địa bàn và có tinh thần nhiệt huyết, trách nhiệm cao…

 

Khánh Trung

 

Nâng cao chất lượng vật nuôi, cây trồng trong điều kiện BĐKH

 

Nguồn tin:  Báo Chính Phủ

 

Sử dụng giống mới có sức kháng bệnh và chịu mặn, nuôi sò huyết xen cua và tôm, đầu tư hàng chục tỷ đồng phát triển sản xuất rau an toàn… là các giải pháp mà nhiều tỉnh đang áp dụng để nâng cao năng suất, chất lượng vật nuôi cây trồng trong điều kiện biến đổi khí hậu (BĐKH).

 

Bạc Liêu: Sử dụng giống mới có sức kháng bệnh và chịu mặn

 

Nhằm chủ động ứng phó với BĐKH, mới đây ngành nông nghiệp tỉnh Bạc Liêu đã đưa ra một loạt giải pháp dài hơi tập trung vào việc cơ cấu mùa vụ, sử dụng các giống mới có sức kháng bệnh và chịu mặn để có thể chống đỡ với tình trạng khắc nghiệt của thời tiết.

 

Cùng với đó, ngành nông nghiệp tỉnh cũng khuyến cáo nông dân nên thường xuyên theo dõi tình hình thời tiết để chủ động sản xuất và tuân thủ lịch thời vụ; quản lý rầy nâu, quản lý dinh dưỡng, sử dụng giống cấp xác nhận, sử dụng nước tiết kiệm và tích cực tham gia xây dựng cánh đồng mẫu lớn; trồng rừng phòng hộ suốt tuyến đê biển; các địa phương ven biển gia cố hệ thống cống, đập ngăn nước biển dâng...

 

Đặc biệt, năm nay tỉnh đã xây dựng thêm 2 cánh đồng tại huyện Vĩnh Lợi và Giá Rai với diện tích 1.000ha; tập trung mở rộng cánh đồng mẫu trong vụ Đông Xuân 2016 - 2017 tại 3 huyện còn lại là Hòa Bình, Phước Long và Hồng Dân với diện tích 600 ha, đưa tổng diện tích cánh đồng mẫu lớn lên hơn 6.000ha.

 

Hiện tại, tỉnh tiếp tục thực hiện dự án đầu tư xây dựng vùng lúa nguyên liệu và bao tiêu sản phẩm; tiếp tục mời gọi các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh thương thảo với nông dân để ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm trong cánh đồng mẫu lớn.

 

Kiên Giang nuôi sò huyết xen cua, tôm

 

Để thích nghi với BĐKH, bà con nông dân ở tỉnh Kiên Giang đã ứng dụng khoa học kỹ thuật chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, trong đó, mô hình nuôi sò huyết xen cua, tôm với vốn đầu tư thấp, ít rủi ro, hiệu quả mang lại cao tại vùng ven biển huyện An Minh đang là một điển hình.

 

Năm 2005, tỉnh Kiên Giang đã giao khoán đất rừng phòng hộ ven biển cho người dân. Hầu hết bà con ở huyện An Minh đều sử dụng 30% diện tích giao nhận khoán, cải tạo thành ao nuôi hải sản.

 

Thời gian đầu, do thiếu vốn, thiếu kỹ thuật trong canh tác, lại nuôi theo kiểu tự phát, nên hiệu quả nuôi trồng thấp. Mấy năm gần đây với sự hỗ trợ kỹ thuật của Trung tâm Khuyến nông, khuyến ngư tỉnh nên bài toán nuôi trồng của bà con đã tìm được đáp án.

 

Cụ thể từ năm 2013, Trung tâm Khuyến nông, khuyến ngư đã hỗ trợ con giống, dụng cụ thay đổi môi trường nước, có kỹ sư hướng dẫn kỹ thuật nuôi sò huyết xen tôm cua cho bà con. Nhờ áp dụng hiệu quả từ mô hình này, sản lượng sò huyết được nâng cao, nhiều hộ nông dân thoát nghèo vươn lên làm giàu chính đáng.

 

Đặc biệt, mô hình nuôi sò huyết cùng với cua, tôm dưới tán rừng còn góp phần hạn chế việc khai thác, xâm hại rừng, làm mất cân bằng sinh thái, giúp nông dân chủ động chuyển đổi cơ cấu thích ứng điều kiện BĐKH đang ngày càng diễn biến phức tạp như hiện nay.

 

Gia Lai khôi phục sản xuất sau hạn hán

 

Tỉnh Gia Lai đang chỉ đạo quyết liệt các địa phương tập trung khôi phục lại sản xuất sau khi bị ảnh hưởng hạn hán kéo dài trong thời gian qua, nhất là hai loại cây trồng kinh tế mũi nhọn cà phê và hồ tiêu.

 

Tùy theo mức thiệt hại sau khô hạn của từng vườn cây, các đơn vị chức năng đã hướng dẫn nông dân có cách chăm sóc phù hợp, nhất là về tăng cường nguồn phân bón, ủ gốc giữ độ ẩm và phòng ngừa sâu bệnh.

 

Bên cạnh đó, các địa phương cũng đã tiếp tục kiểm tra và chủ động nguồn nước tưới cho hai loại cây trồng này bởi hiện nay ở vùng Tây Nguyên đã có mưa, nhưng cũng chỉ là mưa đầu mùa và mang tính cục bộ.

 

Tỉnh cũng đã xây dựng chính sách và chiến lược sản xuất dài hạn nhằm bảo vệ và phát triển bền vững cho các loại cây trồng trên địa bàn nói chung và hai loại cây trồng kinh tế mũi nhọn cà phê và hồ tiêu nói riêng thích ứng với biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nguyên về lâu dài.

 

Đó là, chuyển hoá mạnh tập quán canh tác dựa vào thiên nhiên là chính, sang nền canh tác chủ động, tiến bộ trước tự nhiên; đồng thời đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ canh tác tiên tiến để giảm thiểu sự phụ thuộc vào các yếu tố về thiên nhiên.

 

Cùng với đó, địa phương cũng đẩy mạnh công tác trồng rừng tại các vùng đầu nguồn của lưu vực để điều tiết, giữ nguồn nước cho các sông suối và các hồ chứa thuỷ lợi.

 

Hơn 23 tỷ đồng phát triển sản xuất rau an toàn ở Bình Định

 

Tỉnh Bình Định đang triển khai dự án phát triển sản xuất rau an toàn tại 4 huyện Tuy Phước, An Nhơn, Tây Sơn và Vĩnh Thạnh với tổng diện tích gần 4.000ha.

 

Thời gian thực hiện từ năm 2016-2021 với tổng số vốn do Chính phủ New Zealand tài trợ trên 1,611 triệu NZD (tương đương 23 tỷ đồng), trong đó, vốn đối ứng của tỉnh Bình Định là gần 6 tỷ USD.

 

Về phân kỳ của dự án, từ năm thứ 5-6 có 7.400 nông dân được chứng nhận sản xuất rau an toàn với diện tích 740 ha và sản lượng 13.000 tấn/năm. Từ năm thứ 7-8 có 17.000 nông dân được chứng nhận sản xuất rau an toàn với tổng diện tích 1.740ha và sản lượng đạt 30.000 tấn/năm. Đến năm thứ 10 có 39.000 nông dân được chứng nhận sản xuất rau an toàn với tổng diện tích 3.990 ha và sản lượng đạt 69.000 tấn/năm.

 

Mục tiêu chính của dự án là cải thiện sự an toàn và tính bền vững về kinh tế và môi trường cho nông dân trồng rau, cũng như sự an toàn cho người tiêu dùng của tỉnh như một mô hình mẫu của Việt Nam.

 

Dự án cũng tập huấn cho người tham gia chuỗi giá trị về thực hiện sản xuất rau an toàn và hệ thống sau thu hoạch. Đồng thời, sử dụng thuốc trừ sâu có trách nhiệm và thực hành nông nghiệp tốt (GAP) để sản xuất rau tuân thủ với các quy định quốc gia về mức dư lượng thuốc bảo vệ thực vật cho phép và quy trình xử lý sau thu hoạch.

 

Anh Kiên (tổng hợp)

 

Tỷ phú thực phẩm sạch trên đỉnh đèo Lũng Lô

 

Nguồn tin:  VOV

 

Với trên 1.500 cây bưởi đang cho thu hoạch, hàng chục nghìn gia cầm xuất bán thường xuyên đã cho anh Hậu doanh thu trên 3 tỷ đồng/năm.

 

Trên đỉnh đèo Lũng Lô, thuộc bản Ban, xã Chiềng Cơi, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, mô hình trang trại tổng hợp của ông Đỗ Kiến Hậu càng nổi bật hơn giữa núi rừng xanh ngát. Trước thực tế thực phẩm bẩn tràn lan trên thị trường như hiện nay, mô hình trang trại với hàng ngàn cây con sạch này càng khẳng định hướng đi đúng và thỏa mãn niềm đam mê của ông chủ trang trại này.

 

 

Chuồng Chim bồ câu lai pháp tại trang trại của ông Hậu.

 

Không khí trong lành, mát mẻ, đất đai mầu mỡ như càng tiếp thêm nghị lực cho ông Đỗ Kiến Hậu, Giám đốc Công ty TNHH đầu tư xây dựng Hồng Long theo đuổi mô hình sản xuất nông nghiệp. Năm 2004, mặc dù là doanh nghiệp xây dựng, nhưng ông Hậu vẫn quyết tâm xây dựng thêm mô hình sản xuất nông nghiệp tổng hợp với trăn trở, làm sao có thực phẩm sạch và giá cả thực phẩm hợp lý đến tay người người dùng.

 

Với 17 ha đất được giao, ông đã đầu tư 1 hệ thống vườn cây ăn quả, truồng trại chăn nuôi với quy mô lớn. Các giống cây trồng, vật nuôi được ông chủ trang trại mò mầm về tận Viện Chăn nuôi Trung ương, các địa phương đã chăn nuôi hiệu quả để lấy giống.

 

“Muốn làm các mô hình này phải có tâm huyết, phải học hỏi mới làm được. Trang trại cùng lúc có nhiều vật nuôi phù hợp với nhu cầu trong vũng đồng thời giảm giá thành sản phẩm. Đây cũng là mô hình cho bà con đến thăm quan, học tập”, ông Đỗ Kiến Hậu nói.

 

Hiện trang trại tổng hợp của ông Hậu có 5.000 gốc cây cam, bưởi, trong đó trên 1.500 cây đã cho thu hoạch. 1.000 đôi bồ câu giống bố mẹ lai pháp; 4.500 con gà; hàng trăm con bò lai sin, dê, lợn rừng… Việc chăn nuôi và trồng trọt được thực hiện theo quy trình khép kín, thức ăn theo tiêu chuẩn đảm bảo an toàn tuyệt đối khi sản phẩm cung cấp ra thị trường.

 

Ông Hậu tâm sự, từ mô hình trang trại của mình, ông muốn hướng cho bà con nông dân trong vùng cùng học tập cách chăn nuôi, trồng trọt để sản xuất ra các sản phẩm sạch, bà con có thu nhập ổn định và đặc biệt là không đi phá rừng. Trên thực tế, ông Hậu đã hướng dẫn và cấp giống cây con cho rất nhiều bà con trong vùng để sản xuất. Vừa giúp bà con trong vùng tiếp cận được hướng sản xuất mới, vừa nhận hàng chục lao động địa bàn vào làm tại trang trại, ông Hậu đã góp phần bảo vệ hàng trăm ha rừng đầu nguồn.

 

“Trang trại đã tạo điều kiện cho 17 lao động làm việc thường xuyên, có thu nhập đảm bảo, để bà con khong đi phá rừng, không đi làm các điều phi pháp và tệ nạn xã hội. Đó là điều tôi mong muốn và tâm huyết của tôi”, ông Đỗ Kiến Hậu tâm sự.

 

Với trên 1.500 cây bưởi đang cho thu hoạch, hàng chục nghìn con gia cầm xuất bán thường xuyên, cùng bò lai sin, dê, lợn, doanh thu mỗi năm từ trang trại này hiện đạt trên 3 tỷ đồng. Dự kiến, trong 2, 3 năm tới, khi 5.000 cây cam, bưởi cho thu hoạch thì doanh thu đạt từ 8 - 10 tỷ đồng.

 

 

Đàn gà chuẩn bị xuất bán.

 

Trước hiệu quả rõ rệt từ mô hình trang trại của ông Đỗ Kiến Hậu, huyện Phù Yên xác định đây là mô hình sản xuất nông nghiệp để bà con trong vùng học tập. Từ kỹ thuật chăn nuôi, đến các giống cây trồng sẽ được nhân rộng để hướng tới Phù Yên sẽ có nhiều sản phẩm thực phẩm an toàn cung cấp ra thị trường.

 

Ông Đào Văn Nguyên, Chủ tịch UBND huyện Phù Yên cho biết, đầu ra sản phẩm của Công ty Hồng Long đã chiếm lĩnh được khách hàng trong và ngoài huyện. “Trong thời gian tới, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, cấp ủy chính quyền địa phương sẽ quan tâm rà soát quy hoach, bổ xung thêm quỹ đất nếu doanh nghiệp có nhu cầu. Đồng thời, chính quyền tiếp tục phối hợp với công ty để thực hiện các quy trình sản xuất thực phẩm sạch và quảng bá giới thiệu sản phẩm”, ông Nguyên cho biết.

 

Có nhiều sản phẩm thực phẩm sạch, an toàn cung cấp cho thị trường, mở ra hướng sản xuất mới cho bà con trong vùng là niềm đam mê cháy bỏng của ông chủ trang trại Đỗ Kiến Hậu. Niềm đam mê ấy đang tiếp tục được nhân lên khi sản phẩm ngày càng được người tiêu dùng đón nhận và nhiều mô hình sản xuất của bà con được mở ra./.

 

Tuyết Lan/VOV-Tây Bắc

 

Nỗi buồn nghề muối Sa Huỳnh (Quảng Ngãi)

 

Nguồn tin:  Báo Quảng Ngãi

 

Chưa có năm nào diêm dân Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) lại bỏ hoang ruộng muối nhiều như năm nay. Để diêm dân bám trụ lại đồng muối truyền thống, cần một chiến lược tổng thể cho ngành muối từ cấp có thẩm quyền.

 

 

Sa Huỳnh là vùng muối trứ danh có thương hiệu của tỉnh. Ảnh: Hiền Linh.

 

Nghỉ tay sau một hồi dập cái trang làm lại nền ruộng, ông Võ Tấn Phát thở than: “Giá muối bây giờ chỉ còn 300 đồng/kg mà còn bị thương lái mua nợ. Nhiều lúc không đủ tiền mua thức ăn hằng ngày”.

 

Hơn 20 năm gắn bó với đồng muối Sa Huỳnh, ông Phát chưa bao giờ thấy muối “mặn” như hôm nay. Giữa tháng 6, nắng gay gắt và nóng đến 40 độ C, ngày nào ông cũng cùng cô con gái ra đồng làm muối, nhưng đã mấy ngày liên tiếp chiều đổ mưa giông, thế là thành công dã tràng. Thời tiết bất thường càng làm ông và những diêm dân khác thêm nản lòng với những khó khăn đang trải qua.

 

Giá muối bấp bênh là câu chuyện đã được nói đến nhiều năm, nhưng có lẽ chưa bao giờ diêm dân Sa Huỳnh phải bỏ ruộng nhiều như lúc này. Theo thống kê của UBND xã Phổ Thạnh, có 150/557 hộ bỏ nghề, 20/116 ha muối bị bỏ hoang.

 

Rít một hơi thuốc dài, ông Phát ngậm ngùi: “Nghề truyền thống của ông bà ai mà không muốn giữ, nhưng vì mưu sinh thôi. Vợ tôi phải vào Sài Gòn kiếm việc, còn hai đứa con cũng vô đó làm thuê”. Cô con gái của ông Phát mới học lớp 11, nhưng nghỉ hè phải ra đồng phụ cha khi mẹ và các anh chị đi làm ăn xa.

 

Không bám trụ được đồng muối, nhiều diêm dân chuyển sang làm nông, làm cá, thợ đá, thợ đóng tàu…, một số khác phải ly hương như gia đình ông Phát. Đức Phổ nổi tiếng với nghề hủ tiếu, họ có thể là chủ nhân của một quán hủ tiếu nào đó ở TP. Hồ Chí Minh bạn vô tình ghé vào.

 

Năm 2010, khi Bộ Công Thương cho nhập khẩu 170.000 tấn muối, đã có ý kiến nhận định rằng, việc nhập khẩu muối trong lúc giá muối trong nước xuống thấp thì diêm dân sẽ khổ, thất nghiệp sẽ tràn lan.

 

Dự báo ấy giờ không còn là một nguy cơ là một thực trạng diễn ra ở nhiều nơi. Khó khăn của diêm dân Sa Huỳnh không nằm ngoài khó khăn chung, khi muối do diêm dân tự làm tồn kho khắp nơi, trong khi năm nào nước ta cũng phải nhập khẩu muối, với nguyên nhân được cho là muối sản xuất thủ công không đảm bảo yêu cầu về chất lượng.

 

Đó là nghịch lý với một đất nước có đường bờ biển dài hơn 3.200km. Nghịch lý ấy vẫn sẽ tồn tại nếu không có những bàn tay chìa ra giúp những diêm dân, vốn đã mỏi mệt khi mãi luẩn quẩn trong vòng tròn “tự sản, tự tiêu”.

 

 

Diêm dân lẩn quẩn trong vòng tròn "tự tiêu, tự sản" với giá muối bấp bênh. Ảnh: Hiền Linh.

 

Năm 2006, Nhà máy muối tinh chất lượng cao Sa Huỳnh được đầu tư 5 tỉ đồng đi vào hoạt động với bao nhiêu hứa hẹn, khiến diêm dân Sa Huỳnh khấp khởi hi vọng. Nhưng chỉ 4 năm sau, nhà máy đã phải đóng cửa sau thời gian hoạt động không hiệu quả.

 

Hình ảnh nhà máy muối bỏ hoang nói lên rằng, mối liên kết giữa nhà nước-doanh nghiệp-diêm dân vẫn chưa hiệu quả. Mà để diêm dân bám trụ với đồng muối, mối liên kết ba nhà hay rộng hơn là chính sách, chiến lược cho ngành muối là một yếu tố sống còn.

 

Tháng 9.2015, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất dự thảo Nghị định về sản xuất và kinh doanh muối. Số phận cái dự thảo ấy không biết giờ ra sao?

 

Những diêm dân cần cơ chế giá, cần được đầu tư hạ tầng để giảm giảm sức lao động, hạ giá thành sản phẩm, cần nơi tiêu thụ… vẫn đang kiên nhẫn bám nghề và ngóng chờ chính sách.

 

Trong khi đó, nhiều người vì mưu sinh đã bỏ hoang ruộng muối, một số người chọn giải pháp ly hương. Dòng người bỏ muối ly hương không còn là chuyện của ngành muối, mà có thể là những nhân tố khiến bài toán áp lực dân số ở các đô thị lớn thêm rắc rối.

 

Hiền Linh

 

Làm kinh tế hộ V-A-C trong vùng sinh thái mặn - lợ

 

Nguồn tin:  Báo Ảnh Đất Mũi

 

Nông dân ở các vùng tôm, bên cạnh phát triển nghề nuôi tôm, nếu biết cách canh tác nương theo sinh thái mặn - lợ theo mùa bằng những loại cây - con phù hợp, có thể làm giàu khi tận dụng được lợi thế “trời ban” cho đất Cà Mau mà ít địa phương nào trong vùng có được.

 

 

Thu hoạch cá ở U Minh. Ảnh: BẢO LÂM

 

Tỉnh Cà Mau có những điểm tự nhiên đặc thù: Có hơn 165 ngày mưa khá tập trung trong suốt 6 - 7 tháng mùa mưa, đủ cho hai vụ lúa ngắn ngày hay nhiều loại rau màu, cây trồng cạn; nhiều vùng gần cửa sông lớn hay ven biển cũng có chừng ấy tháng có được nguồn nước mặn - lợ vô tận từ biển, theo kênh rạch vào phục vụ tốt cho nuôi thủy sản. Đó chính là điều kiện thuận lợi.

 

Từ nhiều năm qua, nông dân Cà Mau luôn thể hiện tinh thần sáng tạo trong mọi hoàn cảnh bất lợi. Nhiều vùng tôm trước đây quanh năm nước mặn, sản xuất và sinh hoạt đều gặp khó, thì nay bà con đã biết bao ví khu vực giữ ngọt triệt để hay theo mùa riêng như những “tiểu ốc đảo ngọt” để nuôi trồng các loại cây con theo hệ sinh thái ngọt, hoặc biết chọn những đối tượng thích hợp để hình thành những mô hình V-A-C (vườn - ao - chuồng) hết sức độc đáo. Có người thu về hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu đồng/năm.

 

Qua những mô hình V-A-C thành công đó cho chúng ta rút ra được bài học là ngày nay con tôm không phải là “đối tượng độc tôn” để nông dân làm giàu, mà những người năng động, nhạy bén, sáng tạo có thể làm giàu bằng từ những đối tượng cây trồng vật nuôi hết sức bình thường, thích hợp đồng đất nhà mình, thời điểm thích hợp để bán được giá…

 

Quả thật đáng phấn khởi khi gần đây ngoài việc nhiều mô hình nuôi trồng thành công giữa vùng mặn, từ nhiều năm qua, trong các vùng tôm quanh năm mặn - lợ đầy khó khăn đã nổi lên nhiều điển hình nông dân làm kinh tế hộ thành công và rất có hiệu quả bằng mô hình V-A-C.

 

Đối với yếu tố vườn, chủ yếu bà con tận dụng nơi đổ đất bùn trong quá trình sên vét. Nhiều hộ đã cải tạo tốt phèn - mặn phần đất này để trồng: Bắp, đậu, bầu bí, thậm chí cả mía, dừa lùn, cây ăn trái thông thường, đặc biệt là các loại rau củ quả, cây gia vị dùng trong bữa ăn hàng ngày. Nhưng để phát triển tốt yếu tố V (vườn), nông dân nên quy hoạch khu đất ruộng và chọn bố trí V ở nơi tiện lợi, thích hợp nhất, đồng thời chia ra hai phần nhỏ: Phần chứa đất mới đổ và nước rỉ trong quá trình sên vét, dọn vệ sinh ao đầm nuôi thủy sản, do đất mới, ô nhiễm nhiều thứ, khó có thể trồng trọt ngay. Phần đã cải tạo tốt có thể trồng trọt được nhiều loại rau màu, cây ăn trái. Chú ý đối với những loại cây trái thời gian sinh trưởng dài, hưởng huê lợi lâu nên bố trí nơi đất ổn định, gần nguồn nước xả ngọt và có điều kiện nên kết hợp với hộ liền kề cùng ngăn phèn - mặn tốt để bảo vệ “ngọt cục bộ”, nhất là trong mùa khô bốn bề đều mặn.

 

Đối với yếu tố A (ao đầm), gồm tất cả diện tích mặt nước ao đầm được thiết kế, xây dựng hoàn chỉnh, mà mục đích trước đây chỉ để nuôi tôm sú, gần đây có thêm tôm thẻ chân trắng. Nhưng qua nhiều vụ thất bại vì dịch bệnh tôm, vì tôm mất giá… nhiều nông dân năng động, nhạy bén đã biết thay thế hoặc nuôi xen canh, hay luân canh với tôm bằng các loài thủy sản có giá trị khác và đã thu được hiệu quả kinh tế cao: Cua biển, cá kèo, sò huyết… Tuy nhiên, bà con vẫn chưa khai thác tốt yếu tố A vì còn bỏ sót khá nhiều đối tượng rất có giá trị kinh tế: Cá nâu, cá đối, cá chốt… Tuy nhìn chung chúng có giá không cao lắm, nhưng nếu biết bắt tỉa loại lớn sẽ bán được giá khá cao. Nếu linh hoạt, nhạy bén và ứng dụng tốt các tiến bộ khoa học kỹ thuật, chọn đúng đối tượng nuôi phù hợp theo mùa vụ, phù hợp nhu cầu thị trường, thì ngoài con tôm, những đối tượng khác vẫn có thể giúp nông dân tăng thêm thu nhập khá từ yếu tố A.

 

Còn phần C (chuồng chăn nuôi), trong vùng mặn - lợ do nuôi thủy sản nên cần giữ cho nguồn nước thanh sạch, ít bị ô nhiễm, chọn đối tượng nuôi là những loài ít chất thải để ít gây ô nhiễm. Đa số bà con không nuôi hay chỉ nuôi rất ít gia súc gia cầm, mà chuyển sang nuôi rắn ri tượng, cá sấu… để có thể tận dụng cá tạp của A, nhất là cá phi rẻ tiền làm thức ăn cho chúng, nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Nhưng dù nuôi đối tượng nào cũng phải có khu xử lý chất thải hoặc có thể dẫn nó kết hợp xử lý chung với chất thải sinh hoạt trong hệ thống biogas chung sẽ tiện lợi cả đôi đường. Yếu tố C sẽ có rất nhiều đối tượng rất phong phú và có giá trị cao tùy sở thích và điều kiện từng chủ hộ chọn: Trăn, bồ câu, rắn, dê, heo rừng… nếu chịu khó sẽ có lợi nhuận.

 

Để mô hình canh tác V-A-C có thể phát triển tốt và bền vững thành phong trào, nhằm khai thác hết tiềm năng đất đai, lao động sẵn có để sớm giúp nông dân vượt lên đói nghèo, thì về mặt tổ chức sản xuất, bà con nông dân nên vận động những hộ liền kề hình thành nhóm hộ liên kết cùng nhau thực hiện việc chọn vị trí đất, khoanh vùng giữ ngọt cục bộ cạnh nhau, cùng nhau bàn bạc chọn cây - con gì, mùa vụ nào nuôi trồng, bán ở đâu, ai bán?… Cần có tổ chức để dễ cùng thực hiện mô hình, dễ bảo vệ, chăm sóc sản phẩm và sản xuất sẽ thuận lợi, đạt kết quả tốt hơn, hiệu quả kinh tế, đời sống, môi trường cũng như tình làng nghĩa xóm sẽ gắn bó bền vững hơn.

 

MỤC ĐỒNG

 

800ha san hô Côn Đảo bị tẩy trắng

 

Nguồn tin: Báo Bà Rịa Vũng Tàu

 

 

Hình ảnh san hô bị tẩy trắng tại vùng biển huyện Côn Đảo. Ảnh: K.B

 

Ngày 16-6, tin từ Ban Quản lý Vườn Quốc gia (VQG) Côn Đảo cho biết, khoảng 800ha san hô thuộc vùng biển huyện Côn Đảo bị tẩy trắng, tỷ lệ có nơi lên đến 70%, có nguy cơ bị chết cao.

 

Trước đó, VQG Côn Đảo đã giám sát và phát hiện nhiều khu vực san hô tại Côn Đảo bị tẩy trắng từ giữa tháng 3-2016 đến nay. Hiện tượng san hô bị tẩy trắng diễn ra rất nhanh trên toàn bộ rạn san hô Côn Đảo và có nguy cơ chết cao. Các nhóm, loài san hô bị tẩy trắng chủ yếu là san hô khối, san hô cành, san hô phiến và san hô nấm. Nguyên nhân là do nhiệt độ nước biển nóng bất thường.

 

Ban Quản lý VQG Côn Đảo đã có báo cáo gửi UBND tỉnh và chỉ đạo Hạt Kiểm lâm, các Trạm Kiểm lâm trực thuộc tiếp tục theo dõi diễn biến của hiện tượng san hô bị tẩy trắng tại địa bàn, báo cáo tình hình thường xuyên để có hướng chỉ đạo ứng phó; đồng thời sẽ phối hợp với Viện Hải dương học Nha Trang điều tra chi tiết tỷ lệ san hô bị tẩy trắng, đề xuất những giải pháp nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến đa dạng sinh học trong khu bảo tồn biển VQG Côn Đảo.

 

THANH NGA

 

Thấy gì sau thiên tai hạn mặn?

 

Nguồn tin: Báo Đồng Khởi

 

 

Phó tổng Thư ký Liên Hiệp quốc Jan Eliasson và Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát trong chuyến làm việc tại huyện Ba Tri.

 

Các nhà khoa học, các chuyên gia về lĩnh vực nông nghiệp và chính quyền đều cho rằng đợt hạn mặn lịch sử lặp lại sau 90 năm là “cú sốc cần thiết” để người dân tích cực, chủ động hơn nữa trước vấn đề biến đổi khí hậu, nước biển dâng, đặc biệt là những biến cố xảy ra trên thượng nguồn sông Mekong, gây ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng đến đời sống, sản xuất của người dân lưu vực đồng bằng sông Cửu Long.

 

Trong đó, tỉnh Bến Tre chịu ảnh hưởng nghiêm trọng nhất do nằm ở cuối nguồn. Vì vậy, hơn bao giờ hết, người dân Bến Tre cần có thức chủ động trong phòng, chống thiên tai.

 

1. Khi thiên tai hạn mặn đi qua, điều dễ thấy nhất đó là có khoảng 353 ngàn người dân tỉnh nhà bị thiếu nước ngọt sử dụng; hơn 20 ngàn héc-ta lúa bị mất trắng, hàng chục ngàn héc-ta gồm cây ăn trái, cây giống, hoa màu bị ảnh hưởng nghiêm trọng; hàng ngàn vật nuôi điêu đứng vì thiếu nước ngọt và hệ quả là giá cả của chúng bị giảm phân nửa trên thị trường… Có thể nhiều hộ còn phải lao đao trong vài năm tiếp theo mới khắc phục xong hậu quả, ổn định được cuộc sống.

 

Trong bối cảnh khốc liệt đó, khoảng 1,3 triệu dân Bến Tre ngoài việc nuối tiếc số tài sản khổng lồ bị thiên tai cướp đi còn ước ao về những công trình thủy lợi hoành tráng đủ sức chống lại với thiên nhiên khắc nghiệt. Cũng đã có dư luận rằng: nếu khoảng 15 năm trước, lúc cống đập Ba Lai mới hoàn thành, không có những ý kiến dư luận trái chiều thì có lẽ hệ thống thủy lợi của tỉnh đã được đầu tư hoàn chỉnh từ lâu. Nhưng, vấn đề mà nó mang lại vẫn chưa chắc được như kỳ vọng…

 

2. Chắc nhiều người còn nhớ chuyện 20 năm về trước, tứ giác Long Xuyên và vùng Đồng Tháp Mười đã được đắp thành 2 khu vực đê bao khép kín để ngăn lũ, đồng thời trữ ngọt. Việc này đã giúp đồng bằng sông Cửu Long tăng rất nhiều diện tích canh tác lúa 3 vụ/năm, sản lượng lúa nhờ đó tăng đáng kể. Tuy nhiên, điều đó làm nước trên thượng nguồn sông Mekong khi chảy đến bị đê bao ngăn lại, không thể tràn vào tứ giác Long Xuyên, Đồng Tháp Mười mà đành cuồn cuộn mang dòng phù sa quý giá đổ nhanh ra biển. Điều đó làm cho đất đai vùng này ngày càng bạc màu hơn và còn tệ hại hơn khi đối mặt với quá trình diễn tiến khô hạn của khí hậu và mặn từ biển xâm nhập lên tích tụ mà khó xả được.

 

Câu chuyện tương tự nhưng vi mô hơn cũng đã xảy ra ở huyện Ba Tri, Giồng Trôm - chúng ta đã đào hệ thống đập và các kênh nhỏ để trồng lúa. Thực tế ở nhiều xã, lúa đã trồng được 3 vụ nhưng các hệ thống kênh đã “ngốn” đất của cánh đồng Ba Tri từ hơn 19 ngàn héc-ta chỉ còn khoảng hơn 14 ngàn héc-ta và hàng ngàn ngày công lao động. Mặt khác, hàng trăm hộ dân đã tốn tiền xây cầu bê-tông qua kênh mới có thể tham gia giao thông đường bộ được. Trong khi đó, nước ngọt cũng phải thuận theo mùa vì hệ thống đê chưa đủ chắc chắn nên từ lâu chỉ có thể trồng được giống lúa OC10 - một loại lúa cho ra gạo vừa khô quánh vừa nở “tẹt ga” chỉ có thể thích hợp làm bánh, làm bún nên giá bán luôn thấp.

 

Trong khi đó, vùng đất Thạnh Phú vốn không có những dự án thủy lợi đình đám nhưng người dân đã tích cực chuyển đổi mô hình sinh kế sản xuất phù hợp với điều kiện tự nhiên và đã được cuộc điều tra xã hội độc lập của Thạc sĩ Hồ Phi Long - Giám đốc Trung tâm Quản lý nước và biến đổi khí hậu (thuộc Trường Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh) kết luận: “Vùng đất huyện Thạnh Phú vốn khó khăn vì xâm nhập mặn hơn huyện Ba Tri nhưng sự chuyển đổi mô hình sinh kế để phù hợp với điều kiện sống của người dân Thạnh Phú nhanh hơn nên hiện nay đa số họ có cuộc sống ổn định hơn và tiềm lực kinh tế đã cao hơn dân Ba Tri…”.

 

Thạc sĩ Long cũng không quên nhắc nhở rằng sau đợt thiên tai này, chính quyền Bến Tre nói riêng, đồng bằng sông Cửu Long nói chung nên xác định rạch ròi giữa các vùng mặn, ngọt, lợ để áp dụng các mô hình sinh kế phù hợp, chứ vẫn chạy theo các dự án thủy lợi đình đám sẽ khó mang lại lợi ích như mong muốn.

 

3. Xác định được 2 vấn đề quan trọng nhất để ứng phó lâu dài với xâm nhập mặn và biến đổi khí hậu, đó là nguồn nước ngọt cung cấp đủ cho người dân sử dụng và mô hình sinh kế hiệu quả thích ứng, các nhà khoa học đã chỉ rõ Bến Tre sẽ bị xâm nhập mặn trên toàn bộ đất đai trong thời gian không xa nữa! Là tỉnh có hệ sinh thái cù lao sông biển nên có tiềm năng thủy sản phong phúvà thích hợp để phát triển chăn nuôi hơn là trồng lúa. Tỉnh có thể tính lại bài toán quy hoạch vùng và tìm ra mô hình sinh kế phù hợp với diễn biến của điều kiện tự nhiên theo từng thời điểm cụ thể.

 

Cống đập “má khỉ” kiểu Thái Lan, vận động nhân dân chủ động trữ nước mưa đủ dùng, nhân rộng các mô hình sinh kế thích ứng với biến đổi khí hậu… có lẽ là những việc cần thiết phải làm trước mắt.

 

Việt Phương

 

Làng tỷ phú trên đảo Bình Ba

 

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

 

Bình Ba là một trong 2 đảo thuộc xã đảo Cam Bình (TP Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa) được mệnh danh là “vương quốc” tôm hùm. Không chỉ vì con tôm đem lại cuộc sống giàu có cho dân đảo, mà cách người dân giữ cho nghề nuôi tôm phát triển bền vững là điều đáng nói hơn.

 

Thương hiệu đảo tôm

 

Bình Ba nằm biệt lập với đất liền. Từ cảng Đá Bạc (TP Cam Ranh, Khánh Hòa) ra đảo Bình Ba khoảng 7 hải lý, mất khoảng 1 giờ 20 phút đi đò. Xã Cam Bình có 2 đảo và 4 thôn, riêng đảo Bình Ba đã có 3 thôn. Từ xưa đến nay, do giao thương cách trở nên kinh tế Bình Ba chậm phát triển, mọi hoạt động giao thương giữa đảo với đất liền, đa phần chỉ là trao đổi hàng hóa, nhu yếu phẩm cho đảo nên Bình Ba ít được biết đến. Thế nhưng, từ khi con tôm hùm nuôi bén duyên với Bình Ba, bộ mặt xã đảo đã khác. Bình Ba dần hình thành nên những làng nuôi tôm hùm quy mô lớn, chuyên nghiệp. Trên đảo, nhà cao tầng, quán sá nhanh chóng mọc lên. Bình Ba trở thành một địa điểm giao thương tấp nập, sầm uất. Bởi vậy, người dân xứ trầm hương Khánh Hòa có câu: “Yến sào Hòn Nội/ Vịt lội Ninh Hòa/Tôm hùm Bình Ba/Nai khô Diên Khánh” để nói về những đặc sản từng vùng quê trù phú.

 

 

Một góc đảo Bình Ba

 

Theo ông Trần Văn Hóa, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND xã Cam Bình, Bình Ba được gọi là đảo tôm hùm bởi xưa nay Bình Ba có rất nhiều tôm hùm tự nhiên. Nhưng nhiều đến mấy khai thác quá mức rồi cũng hết. Tôm tự nhiên ít dần, người dân Bình Ba quay sang học cách nuôi tôm hùm với triết lý đơn giản: Nếu ở Bình Ba có tôm hùm tự nhiên nhiều, hẳn đó là nơi có môi trường sống tốt của loài tôm hùm. Vậy là, từ khi tôm hùm nuôi xuất hiện tại các vùng biển Nam Trung bộ, người dân Bình Ba đã nhanh chóng tiếp cận kỹ thuật nuôi loài tôm có giá trị cao này. Ông Nguyễn Trọng Kha, một trong những người tiên phong nuôi tôm tại Bình Ba cho biết, ban đầu ở Bình Ba chỉ vài người nuôi thử nghiệm, nhưng sau khoảng 3 vụ nuôi, thấy ai cũng thắng lớn nên hàng trăm hộ dân Bình Ba xoay xở vốn nuôi tôm. Trong 4 - 5 năm liền, người nuôi tôm trên đảo đều trúng lớn, tích lũy được nhiều tiền và hơn hết là làm giàu thương hiệu “Đảo tôm Bình Ba” càng bay xa.

 

Hiệu quả và bền vững

 

Nhiều thương lái chuyên kinh doanh tôm hùm cho biết, ở miền Trung có nhiều nơi nuôi tôm hùm, nhưng không có nơi nào nuôi tôm hiệu quả và bền vững như ở Bình Ba. Nói như ông Trần Văn Hóa, hiện người dân có tiền tỷ trong tay chiếm đến 20% dân số xã đảo, còn có vài trăm triệu đến một tỷ đồng thì vô kể. Để minh chứng, ông Hóa chỉ tay về phía mép biển, nơi có những khách sạn 1-2 sao và các nhà hàng nổi nằm chi chít và cho biết, những khách sạn, nhà hàng đó đều do dân xã đảo xây dựng từ việc nuôi tôm hùm. Vậy nên, chẳng có gì khó hiểu khi Bình Ba là xã đảo đạt chuẩn nông thôn mới đầu tiên của Khánh Hòa, với mức thu nhập trên 50 triệu đồng mỗi người/năm.

 

Bình Ba đã và đang giàu lên từng ngày nhờ việc nuôi tôm hùm. Nhưng vì sao trong khi nhiều vùng nuôi khác thất bại nhưng ở Bình Ba lại thành công? Điều này được anh Trần Ngọc Huy, một tỷ phú tôm hùm nuôi lồng tại Bình Ba, lý giải: “Tôm hùm nuôi cần môi trường sống sạch, chăm sóc như đưa đứa trẻ sơ sinh. Cách đây hơn 5 năm, chính việc phát triển “nóng” lồng bè nuôi tôm khiến nguồn nước ở đây ô nhiễm nghiêm trọng nên có người nuôi trắng tay. 3 năm qua, nhờ chủ trương hạn chế lồng bè, giữ môi trường sạch trên đảo bằng các tổ tự quản trên bè tôm đã được chính quyền địa phương đề ra, người dân đảo hưởng ứng ngay. Với 1.000 hộ nuôi, mỗi tháng đóng góp 300.000 đồng/hộ đã cho ra đời 20 tổ thu gom rác thải. Hàng ngày họ đi thu gom thức ăn thừa, rác thải tại các vị trí nuôi tôm để đem đi xử lý tập trung. Kết quả, trong 3 vụ nuôi tôm gần đây, tôm hùm mắc bệnh hầu như giảm rõ rệt nên những mùa bội thu đã đến với dân Bình Ba.

 

Đến với “làng tỷ phú Bình Ba” những ngày này là màu xanh ngắt của biển, của những hàng cây xanh mát và khắp trên đảo là những bè nuôi hải sản đem lại nguồn lợi tiền tỷ…

 

VĂN NGỌC

 

Phát triển kinh tế từ mô hình trồng bưởi kết hợp vườn du lịch

 

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

 

Tham quan tại nhà vườn Thành Tâm ở khu du lịch Cồn Sơn, thuộc phường Bùi Hữu Nghĩa - quận Bình Thủy, nhiều người thích thú với vườn bưởi Năm Roi kết hợp vườn du lịch của anh Nguyễn Thành Tâm, vườn bưởi đã có thâm niên 11 năm với 340 gốc bưởi trồng trên diện tích hơn 8.400 m2. Hằng năm, anh bán ra thị trường từ 10 đến 11 tấn bưởi với giá bán dao động từ 25.000 - 30.000 đồng/kg. Đặc biệt, vào dịp Tết giá bưởi lên đến 60.000 - 70.000 đồng/kg. Sau khi trừ tất cả chi phí, mỗi năm vườn bưởi đã mang lại lợi nhuận cho anh từ 100.000.000 đến 150.000.000 đồng. Ngoài ra, đây còn là điểm dừng chân của nhiều du khách khi đến với khu du lịch Cồn Sơn.

 

 

Khách tham quan du lịch tại vườn bưởi Thành Tâm, khu du lịch Cồn Sơn, phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy.

 

Từ đầu năm đến nay, vườn bưởi của anh Tâm đã thu hút gần 500 lượt khách đến tham quan, thưởng thức những trái bưởi ngon, ngọt, du khách còn được trải nghiệm kỹ thuật tưới cây, tát mương bằng gào sòng của người nông dân, đi cầu khỉ hay nghỉ trên những chiếc võng miền quê. Đây là mô hình kinh tế kết hợp vườn du lịch đã và đang mang lại hiệu quả cho nhiều nông dân ở quận Bình Thủy hiện nay.

 

THANH XUÂN

 

Hiếu Giang tổng hợp

 

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop