Khác với miệt sông nước, xứ núi coi việc trồng rẫy ăn Tết là vụ sản xuất phụ, do thiếu nguồn nước tưới gặp nhiều khó khăn khi mùa khô đi dần vào cao điểm. Song, cư dân vẫn tranh thủ thời vụ xuống giống, gieo trồng nhiều loại hoa màu thích hợp, với kỳ vọng kiếm thêm thu nhập cho gia đình.
Nỗ lực giữa mùa khô
Từ tháng mười một, khi thời vụ thu hoạch lúa đặc sản, lúa vụ 3 (ngắn ngày) vừa xong, nông dân nhiều xã, thị trấn miền núi tranh thủ khai thác độ ẩm mặt ruộng, lập tức xuống giống ngay các loại cây ngắn ngày và rau dưa để kịp ăn Tết. Ông Chau Sa Im (ấp Phước Lợi, xã Ô Lâm, Tri Tôn, An Giang) giải thích: Đối với đất núi, bà con mần như vậy do không có nước tưới dồi dào, vừa tranh thủ thời tiết, vừa hạn chế rủi ro do khô hạn”. Đó là những cây mè, đậu phộng, đậu xanh, khoai lang, rau dưa… được Trạm Khuyến nông, Trạm Bảo vệ thực vật hướng dẫn kỹ thuật canh tác.
Thu gom dây khoai lang làm thức ăn chăn nuôi
Ruộng trên ít, mỗi hộ chừng vài công nên ai nấy tranh thủ gieo trồng, chăm chút từng miếng rẫy. Bà Neáng Nho (ấp Tô An, xã Cô Tô, Tri Tôn) cho biết, trồng được 2 công khoai lang, dự tính sau thu hoạch sẽ lấy dây làm thức ăn cho bò và có thêm thu nhập gia đình. Còn bà Neáng Thi (ấp Tô Thuận, xã Núi Tô, Tri Tôn) trồng được hơn 1 công dưa gang ở kẹt Cần Đước, nhờ có ao chứa nước nhỏ (vài mét khối) để tưới cầm chừng. Bà Thi kể, tới Tết là nắng gay gắt nên dưa gang, dưa hấu… sẽ bán chạy.
Theo ông Chau Phonh (ấp Tô Thuận, xã Núi Tô), dù mùa khô (vụ đông xuân) thiếu nước tưới, nhưng bà con ở đây vẫn trồng nhiều loại hoa màu và rau dưa thu hoạch dịp Tết, né lúc cao điểm hạn. Bấy giờ, mặt đất cũng không còn giữ được độ ẩm, khả năng cung cấp cây trồng sẽ kém hơn. “Hàng năm, từ sóc Tà Hu, Sóc Chrôi vô tới kẹt Cần Đước, bà con trồng đủ thứ đón Tết. Ai thích cây gì cứ việc gieo trồng. Người nào có ao, hồ chứa nước, trồng mấy thứ bán được nhiều tiền” – ông Phonh nói. Đối với đất núi, chỉ ăn được có vụ này, nếu trễ thì phải chờ mưa.
Màu xanh trên đất núi
Đầu tháng Chạp, cánh đồng ruộng trên 450 héc-ta (xã An Hảo, Tịnh Biên) lên xanh, với cây họ đậu và nhiều loại rau dưa… đón Tết. Anh Si Sô Váth, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã An Hảo cho hay, với 2 tổ hợp tác trồng đậu xanh nổi tiếng từ nhiều năm nay, hàng chục nông dân hưởng ứng tham gia. “Trồng màu mùa khô trở thành tập quán canh tác mới, bởi không đủ nước để sản xuất lúa. Vả lại, bỏ đất trống thì uổng, bà con tranh thủ mần thêm” – anh Váth nói. Mô hình “1 vụ màu + 2 vụ lúa” khá thành công ở địa phương, đem lại nhiều lợi ích cho bà con.
Nối tiếp từ Trạm bơm điện Châu Lăng, cánh đồng Rò Leng cũng trở nên xanh tươi, với những đám rau dưa, đậu xanh, mè… nổi bật hai bên Hương lộ 17B. Theo anh Chau Hên (cư dân sở tại), bằng nhiều cách dẫn nước, như: Bơm chuyền, đào hồ, đắp đập chứa nước… nông dân mạnh dạn ứng dụng kỹ thuật vào sản xuất. “Mấy năm gần đây, bà con trồng nhiều thứ dưa leo, dưa gang bởi ngắn ngày, thu hoạch ngay Tết và có bạn hàng tới mua tại ruộng” – anh Hên kể. Từ cách làm này, gia đình anh trở nên khấm khá. Bên chân núi Cấm, nhiều hộ còn đào hồ tích nước, trồng cả bông bán dịp Tết tới.
Khu vực Sóc Tức – Trung An cũng được xem là thế mạnh của rau màu, trồng bông… đón Tết ở Lê Trì (Tri Tôn). Nông dân tận dụng cả bờ vườn, ven mương, chân ruộng trên… để sản xuất hoa màu đón Tết, tạo nên màu xanh trên khu vực đất núi. Theo ông Chau In (ấp Sóc Tức, xã Lê Trì), hễ thời tiết dứt mưa thì cây trái, rau màu Tà Lọt, bến Bà Chi… cạn nguồn. Trong khi, nhu cầu bạn hàng Campuchia lúc nào cũng cần, mà mùa khô thì sản lượng không dồi dào. Do vậy, bà con xứ núi trồng hoa màu đón Tết rộng đường tiêu thụ, các chợ nội địa và xuất khẩu tiểu ngạch.
Box: “Thực tế cho thấy, đất núi có điều kiện trồng hoa màu đón Tết rất hiệu quả do cây hấp thu phát triển tốt và nước thoát nhanh. Đặc biệt, hoa màu xứ núi có đặc thù riêng, mùa khô hút hàng, giá cả cũng được lợi nhiều hơn” – ông Dương Ánh Đông, Trưởng trạm Bảo vệ thực vật Tịnh Biên, cho biết.
TRỌNG ÂN
Nhân rộng mô hình khuyến nông hiệu quả
Nguồn tin: Kinh Tế Đô Thị
Bằng việc triển khai các mô hình khuyến nông hiệu quả, Trung tâm Khuyến nông (TTKN) Hà Nội đã góp phần quan trọng vào thực hiện mục tiêu phát triển các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, giúp nông dân tăng thu nhập và làm giàu.
Hiệu quả kinh tế cao
Vụ Xuân năm 2015, TTKN triển khai mô hình khoai tây giống tại xã Hương Ngải, huyện Thạch Thất. Mô hình cho năng suất đạt 20,8 tấn/ha, lợi nhuận trên 135 triệu đồng/ha, với 70% tỷ lệ củ đủ tiêu chuẩn làm giống. Không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân, mô hình còn tận dụng được nguồn rơm rạ dư thừa, hạn chế thói quen đốt rơm của người dân địa phương, giúp nông dân chủ động được nguồn giống khoai tây cho vụ Đông. Hay như mô hình nuôi gà lai Đông Tảo theo hướng an toàn sinh học quy mô 50.000 con triển khai tại 6 huyện ngoại thành cho kết quả khả quan. Gà xuất bán có trọng lượng trung bình đạt 2,1 - 2,3 kg/con, lợi nhuận từ 15.000 - 20.000 đồng/con. Đáng chú ý là thông qua việc chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học đã giúp giảm chi phí thức ăn, hạn chế dịch bệnh, cung ứng được một phần nhu cầu thực phẩm an toàn cho thị trường.
Các đại biểu thăm quan, đánh giá mô hình khoai tây.
Theo số liệu thống kê của TTKN, trong năm 2015, Trung tâm đã xây dựng 16 dạng mô hình trồng trọt, 7 dạng mô hình chăn nuôi - thủy sản tại 102 điểm trình diễn với gần 6.500 hộ tham gia. Ông Ngô Đình Giang - Phó Giám đốc TTKN Hà Nội chia sẻ, các mô hình khuyến nông triển khai phù hợp với chủ trương, định hướng của ngành và phù hợp với điều kiện sản xuất tại cơ sở. Đáng chú ý, khả năng đối ứng, tiếp thu tiến bộ kỹ thuật của nông dân ngày càng được nâng cao, nên quá trình triển khai rất thuận lợi. Để có được kết quả này, các phòng chức năng của Trung tâm đã phối hợp chặt chẽ với các xã, thị trấn minh bạch, công khai trong cấp kinh phí, giống, vật tư cho nông dân tham gia mô hình.
Cần được hỗ trợ để nhân rộng
Hiện nay, huyện Thanh Oai có 2 mô hình khuyến nông nuôi cá ghép và trồng hoa ly rất hiệu quả. Từ kết quả trên, không chỉ có số hộ nông dân tham gia mô hình mà còn nhiều nông dân trên địa bàn huyện đến tham quan mong muốn được TTKN hỗ trợ thực hiện mô hình. Ông Trần Xuân Quân – Trạm trưởng Trạm Khuyến nông Thanh Oai đề xuất, TTKN nên triển khai đa dạng các dạng mô hình để thúc đẩy hơn nữa việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Cùng với đó, Trung tâm nên chuyển từ tập huấn ngắn ngày sang tập huấn chuyên sâu gắn kiến thức thị trường cho nông dân.
Theo ông Nguyễn Văn Hà - Trưởng phòng Trồng trọt, TTKN, việc chọn điểm, chọn hộ đúng sẽ quyết định sự thành - bại của mô hình. Do đó, khâu chọn điểm, chọn hộ cần được thực hiện cẩn trọng, kỹ lưỡng. Mặt khác, để thuận lợi cho công tác quản lý, hàng tháng, các trạm nên gửi báo cáo chi tiết tiến độ mô hình cho Trung tâm. "Báo cáo sẽ phản ánh kịp thời những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện mô hình, nhất là mô hình trồng trọt rất dễ phải chịu ảnh hưởng thời tiết" - ông Hà nhấn mạnh. Cần phải nói thêm, hiện nay, lực lượng cán bộ khuyến nông trẻ chiếm số đông, bằng cấp học vấn tốt nhưng kinh nghiệm thực tiễn, kỹ năng giao tiếp còn hạn chế. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả của các chương trình, mô hình khuyến nông. Vì vậy, Trung tâm cần tạo điều kiện cho cán bộ, nhân viên tăng cường trao đổi, học tập kinh nghiệm thao giảng để từ đó tăng kỹ năng chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân.
Theo kế hoạch, năm 2016, TTKN Hà Nội lựa chọn mô hình cơ giới hóa đồng bộ là mô hình điểm. Được biết, để đạt hiệu quả cao nhất, Trung tâm sẽ đầu tư cho cải tiến chất lượng thực hiện mô hình. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Hồng Anh - Giám đốc TTKN Hà Nội, hiện nay, định mức mô hình vẫn bị bó hẹp, giới hạn nên chưa phát huy được hiệu quả. Do đó, Sở NN&PTNT cần xây dựng chính sách đặc thù của TP cho lĩnh vực khuyến nông nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho triển khai mô hình sản xuất hàng hóa tập trung, mô hình theo chuỗi sản xuất – tiêu thụ khép kín, mô hình ứng dụng công nghệ cao.
Để tăng hiệu quả và sức lan tỏa của mô hình khuyến nông, TTKN Hà Nội cần thực hiện nhiều dạng mô hình, tránh tình trạng trùng lặp, tập trung tại một điểm. Đồng thời, kiểm tra, giám sát chặt chẽ nguồn vốn đối ứng của các hộ tham gia mô hình. (Ông Ngô Đại Ngọc - Phó Giám đốc Sở NN&PTNT)
Ánh Ngọc
Mô hình kinh tế hiệu quả ở vùng gò đồi
Nguồn tin: Báo Quảng Trị
Vượt qua con đường đất đỏ bùn lầy, chúng tôi tìm đến trang trại của anh Nguyễn Thanh Xuân, 41 tuổi, ở thôn Nhật Lệ, xã Cam Thủy, huyện Cam Lộ (Quảng Trị). Sinh ra và lớn lên tại vùng quê nghèo, từ nhỏ anh Xuân đã phụ giúp gia đình làm ăn, từ việc đồng áng đến các công việc nặng nhọc. Dù đã cố gắng rất nhiều nhưng cái nghèo vẫn đeo bám gia đình anh. Thấy các hộ gia đình khác làm ăn khấm khá, anh Xuân cũng nuôi trong mình ước mơ đổi đời. Và bây giờ ước mơ của anh đã thành sự thật. Anh đã là ông chủ của một trang trại có hiệu quả kinh tế cao.
Giống ổi lê Đài Loan được anh Xuân trồng thử nghiệm
Nằm tách biệt khu dân cư, trang trại của gia đình anh Xuân nức tiếng khắp vùng. Nhưng ít ai biết anh phải trải qua bao khó khăn gian khổ mới gặt hái được thành công như ngày hôm nay. Bước đầu khởi nghiệp anh gặp rất nhiều khó khăn, nhiều lúc nản lòng muốn từ bỏ vì mô hình đạt hiệu quả không như mong muốn, không có lãi, vốn thiếu hụt.
Anh Xuân chia sẻ: “Ngày đầu khi mới bắt tay vào làm, tôi triển khai mô hình nuôi cá, nhưng do địa hình không phù hợp nên thất bại. Tôi bắt đầu nuôi gà, gà vừa mới lớn thì có đợt dịch bệnh, thiệt hại lên đến hàng chục triệu đồng, tiền mất, nợ nần ngày càng chồng chất”.
Tưởng chừng như những khó khăn đó sẽ làm anh ngã gục, nhưng rút kinh nghiệm từ những lần thất bại anh đã quyết tâm tìm tòi từ sách, báo, mạng internet và những lần đi dự hội thảo, học hỏi về kỹ thuật chăn nuôi, cách xây dựng chuồng trại hợp lý, tìm hiểu về giống nuôi. Cuối cùng anh đã rút ra những kinh nghiêm và kiến thức chăn nuôi để mở mô hình phát triển tổng hợp. Năm 2005 anh vay 80 triệu đồng và từng bước mở rộng mô hình chăn nuôi.
Sau gần 10 năm phát triển, hiện trang trại của anh Xuân đã có hơn 1.500 con gà, 20 con dê, trong đó có 15 con bò vừa mới bán, thu về hàng trăm triệu đồng. Trang trại anh là nơi đáp ứng các nguồn thực phẩm sạch như thịt, trứng cho người dân trong vùng, thu lãi hàng năm trên 300 triệu đồng. Đặc biệt, anh Xuân quan tâm phát triển giống cây trồng mới, đó là cây ổi lê Đài Loan. Đây là giống ổi tán thấp, cho quả nhiều, ngon, có vị ngọt, hơi xốp, giòn, mùi thơm đặc trưng. Hiện trang trại của anh trồng hơn 400 cây, lứa thu hoạch đầu tiên cho thu nhập khoảng 5 triệu đồng. Cây ổi từ lúc trồng cho đến khi ra hoa chỉ khoảng 8 tháng, từ khi ổi ra hoa đến khi thu hoạch khoảng 2 đến 2,5 tháng. Bằng cách bấm ngọn có thể điều chỉnh chiều cao cây ổi không quá 2 mét để tiện cho việc bao quả trái trên cây và thu hoạch.
Anh Xuân cho biết: “Ổi lê Đài Loan là giống ổi mới, lúc đầu đưa vào trồng cần tìm hiểu kỹ càng thì mới mong phát triển giống ổi này. Cây đã cho thu hoạch một vụ, rất được thị trường ưa chuộng. Tôi hy vọng trong tương lai giống ổi này sẽ đem lại nguồn lợi kinh tế khá”.
Với tinh thần dám nghĩ, dám làm, đến nay gia đình anh Xuân đã khấm khá hơn nhờ mô hình phát triển kinh tế trang trại.
VÕ THA - LÊ KIỀU
Gia Lai: Ép giá nông sản: Chuyện dài trên những cánh đồng…
Nguồn tin: Báo Gia Lai
Ép giá nông sản lâu nay vẫn là câu chuyện muôn thuở. Dù thời đại công nghệ thông tin ngồi đâu người ta cũng có thể nắm bắt được giá cả, cập nhật đến từng giờ, từng ngày nhưng ép giá vẫn là căn bệnh chưa có thuốc chữa và tư thương ngày càng có những biến tấu tinh vi hơn để ép giá nông dân.
Giá tại ruộng và thị trường: Một trời một vực
Với những người trồng mía, phải mất 10 tháng đến một năm mới đến kỳ thu hoạch, nông dân phải lo từ “a tới z” các chi phí vật tư, công sức chăm sóc, đồng thời phải gánh chịu mọi nguy cơ thất thu có thể xảy ra. Tuy nhiên, giá mía thu mua tại ruộng của thương lái đối với sản phẩm mía của bà con chỉ khoảng một nửa so với giá thu mua tại nhà máy. Một nửa còn lại rơi vào chi phí dành cho tư thương: thu gom, vận chuyển và bán mía cho nhà máy. Thiệt thòi là thế song người trồng mía nếu muốn phá vỡ những quy tắc này, tức là tự sản xuất và tự tiêu thụ sẽ bị “xử ép” đủ đường, không dễ gì bán được mía trực tiếp cho nhà máy.
Nông dân xã Ia Lâu thu hoạch mì. Ảnh: L.H
Hiện đang là thời kỳ cao điểm mùa thu hoạch mía niên vụ 2015 - 2016 tại các huyện phía Đông tỉnh Gia Lai. Nhìn vào giá thu mua tại nhà máy cho sản phẩm mía nguyên liệu đạt 10 chữ đường là 1.000 đồng/kg nhưng tại các cánh đồng mía, giá mía nông dân bán cho các đại lý chỉ dao động quanh mức 500 đồng/kg. Một ha mía cho năng suất trung bình 60 - 70 tấn, nông dân chỉ thu về 30 triệu đồng đến 35 triệu đồng chưa trừ chi phí đầu tư, chăm sóc và công cán trong suốt một năm trời ròng rã. Phần chênh lệch còn lại tư thương hưởng lợi sau khi trừ đi các chi phí liên quan như: nhân công chặt mía, phí vận chuyển (phần này tư thương vẫn được hưởng hỗ trợ từ nhà máy)… Sự chênh lệch quá lớn giữa giá mía thu gom tại ruộng và giá bán thực tế cho nhà máy khiến rất nhiều nông dân bức xúc, song chẳng có cách nào thay đổi được những “luật bất thành văn” trên đồng ruộng này. “Chúng tôi phải chịu tất cả các khoản đầu tư để cho ra sản phẩm nhưng khi bán lại chỉ được phân nửa giá trị thực của nó, thiệt thòi lắm! Nếu không bán qua đại lý, nông dân chúng tôi sẽ bị làm khó đủ kiểu, từ kéo dài thời gian chặt mía, chờ cân… Chờ lâu, mía khô hết, hao hụt trọng lượng rất nhiều. Cứ xoay vòng vậy nên thành cái “luật”, nông dân chịu thiệt giá để bán qua đại lý cho bớt mệt”-ông Nguyễn Văn Bạn (thôn An Hòa, xã Phú An, huyện Đak Pơ) chia sẻ nỗi khổ của người nông dân bị tư thương ép giá mía.
Không có nhà máy thu mua đặt mức giá công khai để so sánh như cây mía, người làm nghề trồng rau củ phải chấp nhận mức giá cả được gọi chung chung là thị trường thì việc ép giá càng diễn ra gay gắt hơn. Mức giá thu mua tại ruộng luôn thấp hơn rất nhiều lần so với giá rau củ được bán ra thị trường, tới tay người tiêu dùng. Với những mặt hàng này, chuyện tư thương bắt tay nhau “làm giá”, “ép giá” nông dân là chuyện không mấy khó khăn. Thực tế trong những ngày này, nếu về các vùng trồng bí đỏ tại Kông Chro, Kbang, Đak Pơ… bà con đang đau đầu, bởi giá bí đỏ tư thương thu mua tại ruộng rất thấp, chỉ 3.000 đồng đến 3.500 đồng/kg bí tuyển và giảm xuống một nửa đối với bí loại 2. Nhưng thực tế tại tất cả các điểm bán rau củ ở các chợ, giá bán bí đỏ ngay tại thị xã An Khê hay xa hơn là TP. Pleiku, dao động từ 8.000 đồng đến 10.000 đồng/kg. Với các loại rau củ khác, mức độ chênh lệch giá giữa mua gom ở ruộng tới tay người tiêu dùng luôn ở mức gấp ba, thậm chí cao hơn…
Đã bị xử ép còn chịu ơn
Với những người nông dân khó khăn về vốn thì chuyện ép giá còn trắng trợn hơn thông qua hình thức vay vốn ngoài-một trong những hình thức tín dụng đen với lãi suất rất cao (dao động 3 - 5%). Người nông dân chỉ lấy công làm lời khi chấp nhận rủi ro vay vốn đầu tư tính theo “lãi ngoài” và chỉ khi được mùa, được giá mới mong dư ra chút đỉnh. Nếu thất thu, kém giá coi như vụ ấy làm không công cho đại lý. Thực tế đã từng có không ít trường hợp nông dân làm quần quật vài tháng, tới vụ thu hoạch tính ra vẫn còn… nợ tiền đầu tư của đại lý, tức là lỗ cả công liền vốn.
Đơn cử như trường hợp của anh Đinh Minh Hoàng (xã Ia Lâu, huyện Chư Prông). Vì hai vợ chồng tay trắng từ miền Bắc vào Gia Lai lập nghiệp nên cuộc sống rất khó khăn. Thiếu vốn, vợ chồng anh chấp nhận ký nợ đầu tư của các đại lý phân bón trên địa bàn. “Chúng tôi mua chịu phân bón, thuốc bảo vệ thực vật… sẽ luôn phải chịu mức giá cao hơn người khác mua trả tiền liền. Kèm vào đó, các đại lý lại tính tiếp phần lãi suất, thường thì 3 - 5%/tháng. Vụ mì vừa qua, 4 ha mì của nhà tôi phải mua chịu tổng cộng 70 triệu đồng tiền phân bón, thuốc, chi phí cày bừa… Tới vụ thu hoạch, tính ra tôi đã mất hơn 25 triệu đồng tiền lãi trong vòng một năm. Kèm theo đó, đại lý bắt buộc phải bán lại nông sản cho họ. Giá mì thu mua của đại lý luôn thấp hơn 2 - 3 giá so với các điểm thu gom khác. Chúng tôi vất vả nhưng chỉ còng lưng làm giàu cho đại lý thôi. Biết vậy nhưng nghèo, thiếu vốn nên đành phải chịu”-anh Hoàng nói.
“Bao giờ nông dân hết cảnh ép giá?” có lẽ vẫn là câu hỏi lớn chưa có lời đáp. Thiết nghĩ, để cân đối lại mức chênh lệch này lại không thể chỉ một vài người làm được, càng không thể chỉ trông chờ từ phía duy nhất người nông dân mà nhất thiết phải có sự tham gia quản lý và điều tiết của chính quyền, ngành chức năng, nhà máy, tư thương và người nông dân.
Lê Hòa
Long An: Làm giàu từ nông nghiệp
Nguồn tin: Báo Long An
Những năm qua, kinh tế nông nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng toàn diện, cơ cấu cây trồng, vật nuôi chuyển dịch nhanh, theo hướng nâng cao chất lượng. Theo đó, đào tạo nghề cho lao động nông thôn được đẩy mạnh, ứng dụng khoa học-kỹ thuật vào sản xuất đạt hiệu quả, các vùng sản xuất hàng hóa tập trung hình thành ngày càng nhiều, đời sống nông dân được cải thiện. Mỗi nông dân có cách làm giàu khác nhau, nhưng họ đều có cùng điểm chung là sự cần cù, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm...
Bờ kênh KT9 là con đường giao thông dẫn vào ngôi nhà của bà Trương Thị Hương, một nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi ở ấp Hà Tân, xã Hưng Hà, huyện Tân Hưng, tỉnh Long An. Bén duyên với vùng đất này từ những năm 2000, vượt qua bao khó khăn, vất vả, đến nay, bà Hương có khoảng 40ha đất để làm lúa, mỗi năm 2 vụ, sau khi trừ chi phí, lợi nhuận thu về từ 600 triệu đến 1 tỉ đồng. Ngoài ra, gia đình bà còn tạo việc làm thường xuyên và ổn định cho khoảng 10 lao động, còn khi vào vụ sản xuất thì có khoảng 40 lao động làm việc.
Không chỉ vậy, bà Hương còn là người đóng góp tích cực cho công tác phúc lợi xã hội như đóng góp hơn 100 triệu đồng để nạo vét mương nước phục vụ tưới tiêu cho các hộ dân trong ấp, hiến gần 1ha đất để làm đường giao thông nông thôn, mỗi năm ủng hộ quỹ phúc lợi xã hội của xã trên 30 triệu đồng để tặng quà cho người nghèo, người già bệnh tật, khó khăn, học sinh hiếu học...
Ông Trương Văn Sáng chăm sóc vườn thanh long của gia đình
Không làm lúa như bà Hương, ông Trương Văn Sáng, ngụ ấp Cầu Đôi, xã An Lục Long, huyện Châu Thành là hộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi cấp Trung ương, 2 lần được nhận bằng khen của Thủ tướng Chính phủ vào năm 1996 và 2014. Với trên 20 năm trồng thanh long, gia đình ông trở thành hộ khá, giàu. Ông Sáng chủ yếu trồng thanh long ruột trắng với năng suất bình quân từ 80 - 100 tấn/ha. Ngoài ra, gia đình đang trồng thêm 1,3ha thanh long ruột đỏ và thời gian tới sẽ cho thu hoạch. Bên cạnh đó, ông Sáng còn là hộ dân tiên phong trong các phong trào hoạt động của địa phương. Ông tham gia vận động người dân trong ấp hiến đất làm đường, riêng gia đình ông hiến khoảng 600m2.
Ông Thi Văn Chói bên đàn bò sữa của mình
Về với xã Đức Lập Hạ, huyện Đức Hòa, cuộc sống người dân nơi đây thoát nghèo nhanh chóng và vươn lên làm giàu nhờ vào mô hình nuôi bò sữa nhiều năm nay. Tiêu biểu là hộ ông Thi Văn Chói, ngụ ấp Chánh, với mô hình trồng cỏ nuôi bò sữa. Với 1,5ha đất trồng cỏ, ông nuôi trên 30 con bò sữa, lợi nhuận từ 500 triệu đến 1 tỉ đồng mỗi năm.
Theo ông Chói: “Nuôi bò sữa, kỹ thuật không khó lắm nhưng đòi hỏi người nuôi phải siêng năng, chịu khó. Mỗi ngày tắm cho bò ít nhất 3 lần vào buổi sáng, trưa, chiều và cần làm vệ sinh chuồng trại sạch sẽ trước khi vắt lấy sữa vào buổi sáng và buổi chiều. Đặc biệt chú trọng việc chăm sóc, cho ăn hằng ngày, ngoài thức ăn chính như cỏ, rơm, cây bắp, vào buổi trưa, tôi cho bò uống nước pha với cám xay để tăng dinh dưỡng. Mỗi ngày, gia đình tôi thu được 10 - 12kg sữa/con”.
Nông dân Bùi Văn Khắp bên vườn chanh
Nhờ kinh nghiệm chăn nuôi, từ năm 2010 đến nay, mỗi năm, ông Thi Văn Chói thu lãi gần 1 tỉ đồng từ tiền bán sữa và bán bò giống, bò thịt. Bên cạnh đó, ông cũng được công nhận nông dân sản xuất giỏi cấp tỉnh trong 7 năm liền, được nhận bằng khen của Thủ tướng Chính phủ và là nông dân duy nhất của tỉnh được nhận bằng khen của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vì “Đã có thành tích xuất sắc trong các phong trào thi đua yêu nước góp phần vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2011 - 2015”.
Những năm gần đây, đời sống người dân xã Thuận Bình, huyện Thạnh Hóa ngày càng phát triển nhờ chanh không hạt. Cây chanh đang là cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao. Và cũng từ cây chanh, ông Bùi Văn Khắp, ngụ ấp Gãy, xã Thuận Bình đã vươn lên và đạt danh hiệu nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi. Ông hiện là Chủ nhiệm Hợp tác xã (HTX) Sản xuất-dịch vụ nông nghiệp Thuận Bình. Đặc biệt, chanh không hạt của HTX được vinh danh là sản phẩm tiêu biểu cấp quốc gia năm 2014. Với hơn 6ha trồng chanh không hạt, mỗi năm, ông thu lợi trên 600 triệu đồng.
Ông Khắp cho biết: “Có được những kết quả như hôm nay là cả quá trình phấn đấu. Vượt qua những khó khăn, thử thách, học hỏi, tích góp kinh nghiệm từ những thành công của người đi trước, cũng có khi từ trải nghiệm của chính mình, đó là nhân tố làm nên sự thành công, vươn lên làm giàu cho bản thân và xã hội. Bên cạnh đó, chúng tôi còn được sự hỗ trợ, giúp đỡ rất nhiều của các cấp, các ngành và chính quyền địa phương”.
Họ, những nông dân cần mẫn và luôn có những sáng tạo, linh động trước thị trường, biết ứng dụng khoa học-kỹ thuật vào sản xuất. Những người nông dân ấy đang làm giàu chính đáng trên chính mảnh đất quê hương và góp phần vào sự phát triển chung của tỉnh./.
Lê Huỳnh - Thanh Mỹ
Lạc quan hợp tác xã kiểu mới
Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng
ĐBSCL được xem là vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm của cả nước, nhưng tình trạng “được mùa, mất giá” thường xuyên xảy ra, bởi sản xuất và tiêu thụ rời rạc. Để nông nghiệp phát triển bền vững thì liên kết là hướng đi tất yếu, ở đó HTX kiểu mới đóng vai trò quan trọng trong việc tập hợp nông hộ lại để hợp tác cùng doanh nghiệp. Mô hình mới này dù còn khó khăn, nhưng thực tế đã xuất hiện nhiều HTX làm ăn hiệu quả, tạo niềm tin cho nông dân mạnh dạn thay đổi tập quán sản xuất…
Hiệu quả… bước đầu
Trên cánh đồng hành lá rộng hơn 30ha của HTX Rau củ quả Tân Bình, huyện Bình Tân (Vĩnh Long), các thành viên tất bật chăm sóc để kịp tiêu thụ vào dịp Tết Bính Thân 2016. Ông Nguyễn Ngọc Thạnh, ngụ ấp Tân Thới, xã Tân Bình hớn hở: “Càng gần đến tết thì nhiều thương lái, doanh nghiệp… về đặt mua hành lá nên giá nhích lên từng ngày khiến nông dân rất mừng. Hiện giá hành lá dao động từ 700.000 - 800.000 đồng/tạ, tăng gấp đôi so thời điểm giữa năm 2015, giá này đảm bảo nông dân thắng đậm”. Cùng niềm vui trên, nông dân Nguyễn Thành Trung tiết lộ: “Vụ này cùng trúng giá còn trúng mùa, năng suất đạt tới 40 tạ/công. Tôi vừa bán 3 công hành, sau khi trừ chi phí còn lời gần 40 triệu đồng, dư tiền mua sắm tết”. Theo ông Nguyễn Cao Miên, Giám đốc HTX Rau củ quả Tân Bình, để hành lá vùng này có chỗ đứng như hôm nay phải trải qua quá trình gian khó. “Ngày trước bà con trồng hành nhỏ lẻ, tự phát không theo thời vụ, nên thua lỗ hoài. Thấy sản xuất như vậy bấp bênh quá, nên chính quyền và ngành chức năng xúc tiến thành lập HTX Rau củ quả. HTX ra đời và chúng tôi tập hợp bà con lại, liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ một cách bài bản. Song song đó, cậy nhờ ngành chuyên môn hỗ trợ xây dựng mô hình canh tác VietGAP vào năm 2014. Khi hành lá sản xuất đạt tiêu chuẩn thì HTX chủ động liên kết với nhiều doanh nghiệp ở ĐBSCL, TPHCM… ký hợp đồng tiêu thụ. Nhờ đó mà đầu ra ổn định, xã viên trồng hành đạt lợi nhuận cao gấp nhiều lần trồng lúa”, ông Miên kể.
Nông dân trồng khoai lang xuất khẩu ở Vĩnh Long cần HTX kiểu mới đủ mạnh để tránh rớt giá
Chuyện HTX Đức Huệ, ở xã Mỹ Quý, huyện Tháp Mười (Đồng Tháp) đứng ra thuê đất của nhiều nông dân để hình thành vùng sản xuất lớn, được xem là bước đột phá táo bạo. Giám đốc HTX Đức Huệ - Huỳnh Thanh Thắm, bộc bạch: “Thấy bà con làm lúa vất vả bởi diện tích ít và cứ mãi canh tác theo kiểu cũ. Năm 2014, HTX đứng ra vận động hơn 50 hộ có đất liền canh liền cư nhau với tổng diện tích khoảng 100ha, cho HTX thuê trọn gói. Nông dân chỉ cần giao đất, kèm chi phí đầu tư 22 triệu đồng/ha/vụ, sau đó cứ đi làm chuyện khác và tới khi thu hoạch thì HTX sẽ trả lại cho nông dân đúng 7 tấn lúa/ha/vụ. Nếu tính giá lúa khoảng 5.400 đồng/kg, nông dân lời không dưới 15 triệu đồng/ha mà không tốn một ngày công nào”. Theo ông Thắm, thực tế vụ đông xuân năng suất trên 7 tấn, nhưng vụ hè thu thì thấp hơn nhiều; tuy nhiên HTX vẫn thuê bình quân 7 tấn/ha là nhờ HTX sản xuất quy mô lớn, canh tác bằng máy móc… nên giảm được chi phí đầu tư. Ngoài ra, HTX liên kết với các doanh nghiệp trong việc mua vật tư số lượng lớn, giá ưu đãi; bán lúa chất lượng cao, cùng giống nên được giá… Đối với những nông dân khi cho thuê đất có thể quay lại làm công cho HTX, với mức lương từ 150.000 - 200.000 đồng/ngày. Cách làm này giúp các bên cùng có lợi.
Cánh đồng rau bán tết của HTX Rau củ quả Tân Bình - Vĩnh Long
Ông Trương Quang An, Giám đốc HTX Thanh long Tầm Vu, huyện Châu Thành (Long An) nói: “Ngày trước bà con than về giá lên xuống thất thường, rồi bị thương lái ép… Khi HTX ra đời đã giải quyết hàng loạt bất cập. Chủ trương của HTX là sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP và đẩy mạnh tìm thị trường tiêu thụ; trong đó đăng ký thành công nhãn hiệu độc quyền thanh long Tầm Vu đi Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore và Pháp. Ngoài ra, còn xây kho lạnh, 2 nhà xưởng sơ chế, hệ thống sấy, đóng gói… nhờ đó mà thanh long của HTX luôn hút hàng, xã viên có nguồn thu cao”.
Nâng tầm hợp tác xã
GS-TS Nguyễn Thiện Nhân, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam, cho rằng: “Phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới là khâu đột phá để tái cơ cấu nông nghiệp và nâng cao thu nhập bền vững cho nông dân”. Hiện tại, các địa phương đang đẩy mạnh đề án tái cơ cấu nông nghiệp và vai trò của HTX càng được đề cập. Đồng chí Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp, nhìn nhận: “Từng hộ nhỏ lẻ sẽ khó mà xây dựng được sản xuất nông nghiệp theo hướng quy mô lớn, bởi gặp khó khăn về tín dụng, năng lực sản xuất và nhiều yếu tố khác. Trong khi HTX sẽ có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn đủ lớn để đầu tư hạ tầng, xây dựng lò sấy, kho bãi, cơ sở chế biến, đóng gói bao bì... HTX “mua chung” vật tư đầu vào, “dùng chung” dịch vụ, máy móc sẽ giảm chi phí, tăng lợi thế cạnh tranh và lợi nhuận cho nông dân. Ngoài ra, hộ riêng lẻ sẽ khó tiếp cận thị trường, nhưng HTX sẽ có đủ điều kiện tiếp cận doanh nghiệp, bởi có lượng hàng hóa đủ lớn và có điều kiện xây dựng thương hiệu…”.
Sự cần thiết là vậy, tuy nhiên việc phát triển và nhân rộng HTX kiểu mới vẫn còn khó. Nguyên nhân do nhiều người còn nhận thức khác nhau về HTX, nguồn nhân lực cho HTX chưa được đào tạo đúng tầm, năng lực quản trị còn yếu, thiếu vốn hoạt động, khả năng ứng dụng khoa học công nghệ, tư duy xây dựng chiến lược phát triển còn hạn chế… Để khắc phục những điểm yếu trên, nhiều ý kiến cho rằng cần xác định đúng vai trò, vị trí và tầm quan trọng của HTX để có cách ứng xử phù hợp. Nếu xem HTX hoạt động không chỉ theo đuổi mục đích lợi nhuận, mà là đem lại lợi ích cho nhiều nông dân - xã viên, thì cần tăng cường hỗ trợ HTX đủ mạnh. Xây dựng HTX hoạt động đa dịch vụ như: cung ứng vật tư đầu vào, thu mua, tồn trữ, bảo quản, chế biến, tiêu thụ... Để làm được như vậy rất cần cơ chế, chính sách đủ mạnh để đầu tư đường dài.
Theo ông Nguyễn Văn Thịnh, Phó Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam, cùng tái cơ cấu nông nghiệp nên gắn hoạt động HTX với xây dựng nông thôn mới. Nông dân trong các HTX sau khi liên kết với doanh nghiệp sẽ được đào tạo kỹ năng sản xuất, kiến thức nông nghiệp, quy trình canh tác VietGAP, GlobalGAP… “Phải đưa nông dân vào guồng máy sản xuất trong nền nông nghiệp hiện đại, nhằm phát triển kinh tế hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị sản phẩm. Nên có chính sách ưu tiên cho HTX về quy hoạch đất đai, ưu đãi tín dụng, nâng trình độ quản lý của cán bộ HTX; đồng thời phát huy tối đa vai trò của HTX là cầu nối giữa doanh nghiệp và nông dân trong mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để phát triển thêm những HTX kiểu mới đủ mạnh, đáp ứng trong tình hình mới…”, ông Nguyễn Văn Thịnh nói.
HUỲNH PHƯỚC LỢI
Khi khoa học - kỹ thuật đi vào sản xuất
Nguồn tin: Báo Cà Mau
Trồng lúa theo mô hình IPM, nuôi heo sử dụng đệm lót sinh học và ủ thức ăn bằng men vi sinh, nuôi gà an toàn sinh học, hay mô hình nhân nuôi nấm xanh cộng đồng phòng trừ rầy nâu, sâu cuốn lá trên lúa... giờ đây không còn xa lạ đối với nhiều nông dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau thông qua những lớp tập huấn chuyển giao kỹ thuật canh tác được mở thường xuyên ngay tại nhà người dân theo kiểu cầm tay chỉ việc.
Một trong những điển hình áp dụng thành công sản xuất lúa theo mô hình IPM là gia đình ông Ba Thiền (Lâm Văn Thiền, ấp 6, xã Trần Hợi). 20 năm trước, vợ chồng ông Thiền và bốn đứa con từ xã Lợi An dắt díu nhau đến ấp 6 lập nghiệp. Tài sản quý giá nhất của gia đình là chiếc xuồng ba lá cũ kỹ, một người bơi thì một người phải tát nước.
Ông Châu Văn Thuận đang chăm sóc đàn gà nuôi theo mô hình an toàn sinh học.
Không có đất, gia đình ông Ba Thiền phải cắm lều tạm bợ làm nơi trú ngụ cho các con. Khi đến mùa lúa, ông đi cấy mướn, gặt mướn cho bà con trong ấp, đêm thì giăng câu bắt cá…
Quyết tâm thay đổi cuộc sống, ông nhận khoán 4 ha đất của Nông trường Quốc doanh U Minh để canh tác. “Hồi đó, ở đây đất phải kê lên mới trồng lúa được, ban đất cực khổ lắm. Năng suất lúa rất thấp, một công chỉ chừng mười mấy giạ”, ông Ba Thiền nhớ lại. Ngày làm ruộng, tối đào đìa nuôi cá, gần chục cái đìa xung quanh nhà được vợ chồng ông đào để thả cá mong cải thiện cuộc sống gia đình. Vợ chồng ông làm ngày, làm đêm, chắt chiu từng đồng để sang thêm đất.
Ông Ba Thiền ham học hỏi, hễ ở đâu nghe có lớp tập huấn trồng lúa là ông đăng ký ngay để thoả cơn khát được thu nạp nhiều kiến thức bổ ích cho mình. Chính vì vậy, khi nghe có đề án triển khai nhân rộng chương trình quản lý dịch hại tổng hợp IPM do Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh phối hợp với Trạm Bảo vệ thực vật huyện Trần Văn Thời mở tại các xã trên địa bàn huyện, trong đó có ấp 6, ông không đắn đo đăng ký ngay. Mục tiêu của đề án này là giảm 50% lượng thuốc trừ sâu và 10% lượng phân hoá học trong canh tác vụ lúa.
Lần đầu tiên được tiếp cận với phương pháp trồng lúa mới, còn xa lạ với nông dân, ông Ba Thiền vẫn bán tính bán nghi về hiệu quả sản xuất lúa theo mô hình mới này, ông sử dụng 1 ha đất trồng lúa theo mô hình IPM, 1 ha trồng theo kiểu truyền thống.
So sánh hiệu quả giữa hai cách làm, ông bộc bạch: “Tôi thấy làm theo IPM được rất nhiều cái lợi. Thứ nhất, giảm một nửa so với cách làm cũ về chi phí phân bón, thuốc men. Thứ hai, không ô nhiễm môi trường. Thứ ba, quan trọng nhất là không ảnh hưởng đến sức khoẻ con người. Hơn nữa, tôi để ý thấy nguồn cá đồng tự nhiên phát triển nhiều hơn trước. Lớp học này hay lắm. Tôi không cần hỗ trợ tiền bạc gì đâu, chỉ cần được học thôi”.
“Người nông dân không bao giờ nản lòng với vùng đất khó. Trồng trọt không hiệu quả, không đi tìm phương thức canh tác đúng, lại bỏ ruộng vườn ra đi là thất sách”, đó là cách nghĩ của ông. Từ một người không đất sản xuất, giờ ông Ba Thiền có đến 7 ha ruộng vườn nhờ cách nghĩ này.
Do ít sử dụng thuốc hoá học và sử dụng thuốc không hại đến môi trường nên mặc dù làm lúa vụ hai, đến mùa khô, cá đồng vẫn về đìa cả tấn. Năng suất lúa cao, cộng thêm trồng hoa màu, chăn nuôi nên đời sống kinh tế của gia đình ông Ba giờ khấm khá hẳn lên.
Không riêng cây lúa, hiện nay những lớp tập huấn hiện trường chăn nuôi heo, gà áp dụng kỹ thuật mới đã lan toả rộng khắp trong bà con nông dân. Đầu năm 2015, Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư tỉnh phối hợp với Phòng Nông nghiệp huyện Trần Văn Thời mở nhiều lớp tập huấn hiện trường về nuôi heo sử dụng đệm lót sinh học, ủ thức ăn bằng men vi sinh tại xã Khánh Lộc và các xã khác trong huyện. Gia đình ông Trần Minh Tàu (ấp Rạch Ruộng B, xã Khánh Lộc) là một trong những hộ được chọn làm nơi thực hiện thí điểm mô hình này. Được Nhà nước hỗ trợ ba con heo giống, mỗi con 20kg, 150kg thức ăn, thuốc men, kỹ thuật thì có cán bộ khuyến nông - khuyến ngư của tỉnh mỗi tuần/lần đến hướng dẫn trực tiếp.
Kết quả, heo lớn nhanh, đều, khoẻ mạnh, rút ngắn thời gian xuất chuồng so với trước, chỉ trong vòng ba tháng đạt trọng lượng trên 100 kg/con. “Từ trước giờ tôi mới được tham gia lớp tập huấn nuôi heo này lần đầu tiên. Theo tôi thấy, nuôi heo sử dụng đệm lót sinh học nhiều lợi ích, ít tốn công chăm sóc, ít tốn điện, nước, nhân công hơn kiểu nuôi truyền thống trước đây”, ông Tàu phấn khởi nói.
Hoà cùng niềm vui với bà con trồng lúa, nuôi heo thì những hộ nuôi gà giờ đây cũng được chuyên môn hoá qua những lớp tập huấn nuôi gà an toàn sinh học tại hiện trường. “Tôi nuôi gà trên chục năm rồi nhưng trước giờ nuôi theo kiểu truyền thống, cũng có xem ti-vi học hỏi kinh nghiệm nhưng chỉ học lóm thôi, làm không đúng quy trình nên gà lớn không đều”, ông Châu Văn Thuận, ấp Kinh Cũ, xã Trần Hợi, chia sẻ.
Sau khi tham gia lớp tập huấn nuôi gà an toàn sinh học, ông Thuận nhận xét: “Nuôi theo cách mới này tiện lợi, ít rủi ro hơn. Gà bệnh thì có thú y ở xã, huyện kịp thời chữa trị. Vừa rồi nếu không nhờ thú y kịp thời phát hiện và điều trị đúng thuốc thì bầy gà tôi chết hết rồi. Dùng thuốc đơn giản, rẻ tiền mà mình không biết. Thêm nữa, nuôi theo mô hình mới này ít tốn công chăm sóc và vệ sinh chuồng trại hằng ngày”.
Bà Đinh Thị Hạnh là một trong những hộ ở xã Trần Hợi được tập huấn nuôi gà an toàn sinh học, so sánh: “Lúc trước nuôi theo kiểu truyền thống, thấy gà có biểu hiện bệnh là tôi ra tiệm thuốc tây mua thuốc rồi đổ vô nước cho uống. Còn nuôi theo mô hình này có cán bộ thú y đến tiêm phòng đúng định kỳ”.
“Thời gian qua, huyện Trần Văn Thời kết hợp với các ngành chức năng mở nhiều lớp tập huấn hiện trường cho nông dân. So với năm 2009 thì hiện nay trên lĩnh vực cây lúa, chăn nuôi, trồng màu có trên 90% người dân được tiếp cận với khoa học - kỹ thuật. Sắp tới, chúng tôi sẽ tiếp tục phối hợp mở nhiều lớp tập huấn như thế này nhằm giúp nông dân áp dụng khoa học - kỹ thuật tiến bộ vào trồng trọt, chăn nuôi đạt hiệu quả hơn nữa”, ông Sử Văn Minh, Phó Chủ tịch UBND huyện, kiêm Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Trần Văn Thời, chia sẻ./.
Kiều Oanh
"Công nhân nông nghiệp"
Nguồn tin: Báo Quảng Ninh
Khái niệm “công nhân nông nghiệp” đã và đang hình thành tại Quảng Ninh khi lĩnh vực nông nghiệp có sự tham gia của các doanh nghiệp lớn. Tại đây, nông dân được làm việc trong môi trường nông nghiệp an toàn, có kỹ thuật và kỷ luật để làm ra những sản phẩm nông nghiệp đảm bảo chất lượng, an toàn, có thương hiệu.
Công nhân nông nghiệp làm việc trong khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tại xã Hồng Thái Tây, TX Đông Triều.
Chúng tôi có dịp được đến thăm Khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tại xã Hồng Thái Tây, TX Đông Triều của Tập đoàn Vingroup làm chủ đầu tư. Bắt đầu động thổ từ 1-10-2015 song đến 7-11-2015, doanh nghiệp này đã có sản phẩm đầu tiên đưa lên kệ của hệ thống trung tâm thương mại VinMart. Khu sản xuất rộng 43ha với những thửa trồng cà chua bi, cà chua đen, bầu, su su, cà tím… xanh tốt và đều sắp cho thu hoạch. Trước mắt đơn vị đang sản xuất ngoài trời song tất cả đều tuân thủ chặt chẽ quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP để có những sản phẩm rau, củ, quả an toàn khi đến tay người tiêu dùng. Trung bình mỗi ngày, khu sản xuất này cung cấp cho hệ thống VinMart từ 2,5 - 3 tấn rau, củ, quả. Trong quý I-2016, Tập đoàn sẽ tiếp tục đầu tư khoảng 20 tỷ đồng để xây dựng nhà kính trên diện tích 10ha. Theo đó, để đảm bảo tiêu chuẩn Khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trung tâm thu mua, sơ chế, bảo quản sản phẩm và chuyển giao công nghệ, Tập đoàn đang tập trung triển khai ứng dụng các công nghệ tiên tiến của Nhật Bản, Irsaren, Hàn Quốc vào quy trình trồng trọt theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGap và hữu cơ.
Chính vì vậy, những người lao động làm việc tại đây phải có tác phong công nghiệp, tuân thủ nghiêm các quy trình sản xuất. Họ chính là những công nhân chuyên nghiệp, làm chủ công nghệ sản xuất. Hiện khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao của Tập đoàn Vingroup đang tạo việc làm ổn định cho gần 200 lao động địa phương với mức tiền lương 130.000 đồng/ngày. Chị Trịnh Thị Thuỷ, một lao động làm việc tại đây cho biết: Làm việc cho doanh nghiệp thu nhập rất ổn định. Tuy chúng tôi làm công việc nhà nông nhưng hầu như không nặng nhọc gì vì những việc nặng thì đã có các loại máy móc làm thay mình. Lao động như chúng tôi chỉ làm những việc như ươm hạt, tỉa cây, làm giàn, thu hái, sơ chế… Môi trường làm việc ở đây cũng rất an toàn vì doanh nghiệp tuân thủ chặt chẽ quy trình kỹ thuật.
Đại diện Vingroup cho biết: Chúng tôi đánh giá cao sự chịu khó, cần cù và kinh nghiệm của lao động địa phương. Đây là những người gắn bó với doanh nghiệp từ lúc khó khăn nhất và họ rất tâm huyết với công việc. Hiện có khoảng 200 lao động địa phương đang mong muốn được xin vào làm việc cho Công ty nhưng vì diện tích còn nhỏ nên chúng tôi chưa thể nhận thêm người. Chúng tôi mong muốn phía chính quyền địa phương sẽ sớm hoàn thành việc giải phóng mặt bằng, hạ tầng điện lưới để doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ mở rộng dự án 200ha theo đúng lộ trình và góp phần tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động.
Còn tại Quảng Yên, sự vào cuộc của doanh nghiệp Việt Long cũng đã từng bước làm thay đổi căn bản hình thức sản xuất nông nghiệp lâu đời tại phường Cộng Hoà. Doanh nghiệp đã thuê đất của các hộ nông dân và thuê lao động là chủ đất làm công nhân cho Công ty. Hơn 20 “công nhân nông nghiệp” ở đây cũng được hưởng lương và làm việc theo đúng quy trình kỹ thuật của Công ty đưa ra như các công nhân làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp. Bà Trần Thị Dung, khu Đường Ngang, phường Cộng Hoà, TX Quảng Yên vừa nhanh tay làm đất vừa chia sẻ với chúng tôi: “Chỗ tôi đang làm đây là ruộng của gia đình tôi cho doanh nghiệp thuê lại để sản xuất nông nghiệp quy mô lớn. Chúng tôi làm việc cho doanh nghiệp, ngày làm 8 tiếng đồng hồ, lương tháng đều đặn 3 triệu đồng. Nếu so với làm nông như trước đây thì chưa chắc thu nhập đã ổn định được như thế”.
Trong mục tiêu tái cơ cấu ngành nông nghiệp, việc thu hút đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh nông nghiệp đã và đang được tỉnh và ngành nông nghiệp quan tâm. Chỉ có sự tham gia của doanh nghiệp lớn có tiềm lực kinh tế, có tâm huyết với nông nghiệp mới có thể giúp nông dân sản xuất hàng hoá, áp dụng KHKT, công nghệ tiên tiến vào sản xuất quy mô lớn để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của nông sản tỉnh nhà. Tuy nhiên trong quá trình triển khai, nguồn lao động để phục vụ cho mục tiêu tái cơ cấu ngành nông nghiệp cũng là yếu tố quan trọng. Cần một quá trình để đào tạo những người nông dân trở thành “công nhân nông nghiệp” thực thụ, làm việc có kỹ thuật và kỷ luật. Qua đó, từng bước thay đổi tập quán canh tác manh mún, nhỏ lẻ hướng đến sản xuất hàng hoá nông sản chất lượng cao.
Phương Thuý
Vĩnh Long: Phát triển mới 693 mô hình VAC
Nguồn tin: Báo Vĩnh Long
Toàn tỉnh Vĩnh Long có gần 412 ha nuôi thủy sản trong ao, mương vườn.
Thực hiện phong trào phát triển VAC do Hội Làm vườn tỉnh Vĩnh Long phát động, năm 2015, toàn tỉnh đã xây dựng được 963 mô hình VAC, đạt 115,5% chỉ tiêu, nâng tổng số có gần 14.300 mô hình VAC khép kín.
Trong năm, đã trồng mới gần 430 ha vườn; cải tạo gần 340 ha vườn; trong đó có nhiều vườn chuyên canh đạt lợi nhuận trên 100 triệu đồng/ha/năm. Hội viên, nông dân cũng phát triển chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học, thực hiện trên 110.300 liều vacxin phòng bệnh trên gia súc, gia cầm.
Bên cạnh, còn phát triển gần 450 ha nuôi thủy sản thâm canh, nuôi cá tra xuất khẩu, nâng tổng diện tích nuôi trồng thủy sản là 7.730 ha; trong đó 93 ha được chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế và VietGAP.
Năm 2016, hội đề ra chỉ tiêu phát triển chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản, xây dựng 700 mô hình VAC và có kế hoạch tu bổ những mô hình VAC đã có.
NGUYỄN XUÂN
Chủ động chuyển dịch, đạt hiệu quả cao
Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng
Diện tích đất nông nghiệp sụt giảm từng năm, bị manh mún do công nghiệp hóa và đô thị hóa, nhưng ngành nông nghiệp TPHCM năm 2015 vẫn duy trì đà tăng trưởng 5,9%, cao hơn bình quân cả nước hơn 2 lần (2,4%).
1ha đất nông nghiệp đạt 375 triệu đồng/năm
Trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp cả nước nói chung đều gặp khó khăn cả về thị trường và giá cả, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm sụt giảm dần từ năm 2011 đến 2015, nhưng với ngành nông nghiệp TP, tốc độ phát triển vẫn duy trì đà tăng trưởng. Giá trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp TP năm 2015 tăng 6%, bằng 2,3 lần so mức tăng cả nước (2,62%). Trong đó: Trồng trọt tăng 4,4%; chăn nuôi tăng 4,9%; dịch vụ nông nghiệp tăng ấn tượng với 2 con số - 11,8%; thủy sản tăng 8,6%. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp TP tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm diện tích trồng lúa một vụ, kém hiệu quả sang các cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao như hoa lan, cây kiểng, cá cảnh, rau an toàn… Qua chuyển dịch cơ cấu, năm 2015 trồng trọt chiếm tỷ trọng 23,3%, chăn nuôi 41,4%, thủy sản 28,3%.
Ngành nông nghiệp TP đã tổ chức và xây dựng mô hình, hướng dẫn sản xuất rau theo quy trình VietGAP cho các hộ sản xuất rau. Kết quả, năm 2015, TP chứng nhận VietGAP cho 89 tổ chức, cá nhân, lũy kế tổng số được chứng nhận VietGAP còn hạn là 721 tổ chức, cá nhân với diện tích 448ha, sản lượng trên 47.000 tấn/năm. Ngoài ra, 2.250ha hoa, cây kiểng hàng năm cung ứng khoảng 6,7 triệu chậu và 68,9 triệu cành lan, 74 triệu chậu mai và kiểng bon sai… Nhờ đó, giá trị sản xuất đất nông nghiệp của TP năm 2015 đạt 375 triệu đồng/ha, so với 83 triệu đồng/ha của cả nước. Có thể nói, đây là kết quả của quá trình chuyển dịch sản xuất từ nông nghiệp truyền thống sang nông nghiệp đô thị mà TPHCM đã chủ động thực hiện từ rất sớm, hơn 10 năm trước.
Trồng hoa - một mô hình nông nghiệp thích hợp tại TPHCM. Ảnh: cao Thăng
Thu hút đầu tư bằng chính sách
Phát biểu tại buổi triển khai kế hoạch ngành nông nghiệp TP năm 2016, Phó Chủ tịch UBND TPHCM Lê Thanh Liêm nhấn mạnh, GDP ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ nhỏ so với ngành khác của TP nhưng lại có vai trò quan trọng trong việc ổn định xã hội, nâng cao đời sống và sự an sinh của người dân ngoại thành; thu nhập người dân ngoại thành (theo con số thống kê 2 năm/lần) năm 2014 bằng 80,1% thu nhập người dân nội thành, so với năm 2008 là 55,4%. Đó là kết quả quá trình 5 năm cùng cả nước, TPHCM chung sức xây dựng nông thôn mới. Hiện đã có 3 huyện (Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè) được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới; huyện Cần Giờ đã đạt, đang chờ phê duyệt; hy vọng năm 2016, huyện Bình Chánh đạt chuẩn và TPHCM trở thành địa phương đầu tiên cả nước hoàn thành xây dựng nông thôn mới toàn vùng nông thôn. Nhưng như đồng chí Lê Thanh Liêm nhắc nhở, điều quan trọng là phải giữ vững tiêu chí nông thôn mới và nâng chất các tiêu chí với yêu cầu nâng cao thu nhập một cách bền vững, cải thiện cuộc sống người dân nông thôn.
5 năm tới, ngành nông nghiệp TP phấn đấu giữ vững sự ổn định trong việc phát triển nông nghiệp đô thị theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, ứng dụng công nghệ cao và công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp nhiều hơn để có thể nâng cao giá trị sản xuất. Để làm được điều này, bên cạnh sự đầu tư cơ sở hạ tầng vùng nông thôn của TP, điều quan trọng là phải thu hút được doanh nghiệp về vùng nông thôn đầu tư. Thực tế những năm qua cho thấy, từ sự tư vấn của ngành nông nghiệp, UBND TP đã có chủ trương và chính sách phù hợp, kịp thời sửa đổi, bổ sung các quy định theo từng giai đoạn. Nhờ đó mà thời gian qua, với 1 đồng vốn ngân sách (vốn mồi, hỗ trợ lãi vay 256,9 tỷ đồng) đã huy động 30 đồng vốn xã hội (hơn 7.700 tỷ đồng), trong đó huy động từ ngân hàng là 19 đồng (trên 4.600 tỷ đồng) và huy động trong dân là 11 đồng (trên 3.100 tỷ đồng). Tỷ lệ giá trị sản xuất trên vốn đầu tư đạt 150%. Tổng số việc làm tạo ra thông qua các phương án được hỗ trợ lãi vay là hơn 42.500 lao động.
Năm 2015, các doanh nghiệp nông nghiệp của TP sản xuất khoảng 16.200 tấn hạt giống, phục vụ cho hơn 1 triệu hécta diện tích gieo trồng. Trong đó, giống rau năng suất đạt 25 tấn/ha/vụ. TP có 35 phòng cấy mô, hàng năm sản xuất được khoảng 9,5 triệu cây giống (chủ yếu là các giống lan) để cung ứng, mở rộng diện tích trồng hoa, cây kiểng trên địa bàn TP và các tỉnh. Về giống cây lâm nghiệp, có 15 hộ gia đình, cá nhân và 1 công ty sản xuất, kinh doanh với tổng diện tích vườn ươm là 1,8ha.
Các doanh nghiệp TP còn xuất khẩu 262 tấn hạt giống (gồm 1,4 tấn bắp giống, 260 tấn rau giống) sang Mỹ, Nhật, lãnh thổ Đài Loan, Israel, châu Âu. Ngoài ra, còn có 22 doanh nghiệp xuất khẩu rau, quả với trên 11.100 tấn, thị trường chủ yếu là Trung Quốc, Nhật và châu Âu; xuất khẩu 12 triệu cá cảnh, kim ngạch xuất khẩu khoảng 11 triệu USD, tăng 12% so năm 2014.
CÔNG PHIÊN
Bằng sự kiên trì học hỏi, từ một gia đình nghèo khó, nông dân Hà Tấn Tâm vươn lên thành hộ khá giả, thu nhập mỗi năm từ 14 - 15 tỉ đồng
Đang chăm sóc vườn cam sành đang cho trái, ông Hà Tấn Tâm (53 tuổi, ngụ Phường Thới An, quận Ô Môn, TP Cần Thơ) cho biết: “Mấy năm nay, cam sành rất có giá nên tôi tập trung trồng. Tôi cho lứa cam này qua Tết mới thu hoạch vì lúc đó trái cây hút hàng”. Khu vườn của ông rộng 3 ha trồng toàn cam sành và cam xoàn, dự kiến sẽ thu hoạch hàng trăm triệu đồng.
Vạn sự khởi đầu nan
Kể lại chuyện khởi nghiệp, ông Tâm không khỏi bùi ngùi: “Khi còn nhỏ, nhà tôi rất nghèo, với vài công đất vườn, làm quanh năm vẫn không đủ ăn. Nhà có 2 anh em, do không có tiền nên học hết lớp 10, tôi phải nghỉ học để người em được học tiếp. Tôi nghĩ trên vùng đất phù sa trù phú do sông Hậu bồi đắp mà mình đang sống, trồng cây ăn trái và nuôi thủy sản chắc chắn sẽ có ăn. Vậy là năm 2002, tôi lao vào làm ăn”.
Ông Hà Tấn Tâm chăm sóc vườn cam sành
Nghĩ là làm, bằng nguồn vốn ít ỏi và vay thêm, ông Tâm trồng nhãn, cam và nuôi cá tra. “Vạn sự khởi đầu nan, nhiều lần thất bại, vườn cây bị dịch bệnh tàn phá, giá cá tra xuống thấp làm tôi lỗ nặng nhưng không bỏ cuộc, tôi vẫn kiên trì tìm hướng đi mới” - ông Tâm tâm sự.
Để cây có năng suất cao, hạn chế dịch bệnh, ông tham dự đầy đủ các lớp tập huấn chuyên ngành do địa phương tổ chức. Từ đó, khi có kiến thức mới về nông nghiệp, ông liền áp dụng trên vườn cây của mình. Nhờ vậy, lúc nào vườn nhà ông cũng sai trái, cho thu nhập cao. Tích thiểu thành đa, đến nay, ông có đến 8 ha trồng nhãn, xoài và cam.
Thấy phong trào nuôi cá tra ở Thới An phát triển, ông bàn với gia đình đào ao nuôi. Tuy nhiên, do thiếu kinh nghiệm, vốn ít nên ông thất bại liên tục. Sau nhiều đêm tự ngẫm, ông quyết định phải học hỏi kinh nghiệm nuôi cá tra của một số công ty lớn ở An Giang, Đồng Tháp.
“Bây giờ, làm gì cũng phải có kiến thức, nhất là lĩnh vực nông nghiệp. Sau khi đi nhiều nơi học hỏi, áp dụng kỹ thuật chăn nuôi mới, ao cá nhà tôi luôn cho thu nhập cao. Đến năm 2007 - 2008, giá cá tra xuống thấp, người nuôi lỗ nặng, tôi chuyển sang nuôi gia công cho một công ty ở Đồng Tháp. Nhờ vậy, thu nhập từ nuôi cá của tôi luôn ổn định. Đến nay, gia đình tôi có gần 5 ha mặt nước nuôi cá tra gia công”.
Nhờ biết cách làm ăn và tích lũy, dần dần gia đình ông có của ăn của để. Thấy lợi thế của giao thông thủy, ông mạnh dạn đầu tư 12 chiếc ghe, tổng tải trọng khoảng 1.200 tấn, vận tải thuê thức ăn thủy sản, mang lại nguồn thu đáng kể.
Tấm lòng thiện nguyện
Với mô hình vườn - nuôi thủy sản - dịch vụ vận tải đã mang về cho gia đình ông Tâm hàng tỉ đồng mỗi năm sau khi trừ các chi phí. Năm 2015, lợi nhuận của gia đình ông lên đến 15 tỉ đồng. Mô hình này thường xuyên giải quyết việc làm cho 50 - 60 người, thu nhập mỗi người từ 4 - 6 triệu đồng/tháng.
“Từng khốn khổ nên tôi hiểu sự khó khăn của người nghèo. Khi khá giả, tôi tự nhủ sẽ dùng tiền của mình để giúp đỡ họ. Số tiền tuy không lớn nhưng phần nào giúp người nghèo bớt lo toan” - ông Tâm bộc bạch. Năm năm qua, ông đã ủng hộ trên 1 tỉ đồng xây nhà đại đoàn kết, nhà tình thương, làm đường, đóng góp cho quỹ khuyến học, giúp công nhân nghèo…
Ông Tâm vinh dự được nhận nhiều bằng khen của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam và Hội Nông dân TP Cần Thơ, UBND TP Cần Thơ về thành tích nông dân sản xuất giỏi. Đặc biệt, cuối năm 2015, ông được đại diện cho nông dân cả nước báo cáo tại Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ IX và nhận Huân chương Lao động Hạng nhì do Chủ tịch nước trao tặng.
Ông Nguyễn Văn Giàu, Phó Chủ tịch Hội Nông dân phường Thới An, nhìn nhận: “Ông Tâm là một nông dân điển hình, làm giàu từ 2 bàn tay trắng. Bằng sự học hỏi và nỗ lực không ngừng, gia đình ông đã trở thành hộ khá giả lại có tâm thiện nguyện, giúp đỡ người nghèo”.
Làm giàu chân chính
Nông dân Hà Tấn Tâm cho rằng thành công là nhờ kiên trì, chịu khó học hỏi, biết phát huy nội lực và làm ăn chân chính. Những năm tới, ông dự kiến mở rộng mô hình sản xuất, kinh doanh, ứng dụng khoa học công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng, sản phẩm đạt tiêu chuẩn VietGAP. “Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào kinh tế khu vực và thế giới nên bắt buộc sản phẩm phải đạt chuẩn” - ông Tâm đúc kết.
Ca Linh