Tin nông nghiệp Chủ Nhật ngày 26 tháng 06 năm 2016

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp Chủ Nhật ngày 26 tháng 06 năm 2016

Làng quê “nguyên vẹn” giữa phố Hội An

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Có một làng quê với không gian, cảnh quan đặc trưng thuần nông còn lại nguyên vẹn giữa phố cổ Hội An (Quảng Nam) đang xây dựng chuỗi du lịch trải nghiệm bảo tồn nét văn hóa vùng nông thôn, đó là làng An Mỹ ở phường Cẩm Châu…

Trải nghiệm du lịch tâm linh, sinh thái

Làng An Mỹ được bao bọc bởi tuyến đê Đế Võng và sông Cổ Cò và vẫn còn lưu giữ những nét văn hóa đặc trưng thuần nông. An Mỹ có hơn 4.300m đường bê tông và những mái nhà khuất dưới hàng cau thẳng tắp, chỉ cách phố cổ Hội An khoảng 15 phút chạy xe máy. Làng quê An Mỹ với hệ thống đền thờ, đình chùa còn lưu giữ hồn dân tộc. Trong đó, đình An Mỹ xây thời Gia Long (năm 1804) được công nhận di tích cấp tỉnh, đến nay vẫn giữ được kiến trúc ba gian, hai chái, mái lợp ngói âm dương, là nơi thờ Thành Hoàng, tiền hiền của làng. Với nét văn hóa nông nghiệp, làng An Mỹ còn là nơi duy nhất thờ ba thần nông mục đồng.

Làng An Mỹ đang chuyển hướng phát triển du lịch; tại đây, du khách có thể trải nghiệm học trồng rau hữu cơ, thực hiện các dịch vụ làng quê. Bà Nguyễn Thị Đông, 52 tuổi, ở khối An Mỹ, có 500m2 đất trồng rau hữu cơ, tham gia mô hình du lịch sinh thái cuối năm 2015 với khu vườn trồng bí đao, rau xanh các loại, cà chua, mướp… Mỗi ngày bà Đông bán được 10kg rau, thu nhập 100.000 đồng và hướng dẫn du khách tham quan, trải nghiệm làm nông dân được thêm 30.000 đồng/khách.

Trồng rau tham gia mô hình du lịch sinh thái ở làng An Mỹ

Không chỉ trải nghiệm, du khách còn được thư giãn dịch vụ “massage làng” bình dân với cây lá trong vườn như sả, gừng, ngải cứu, lá chanh… nấu thành nước ngâm chân cho khách. Ngoài ra, nhiều hoạt động như đạp xe dạo quanh đường làng, nấu ăn với gia chủ, trồng lúa nước… cũng được triển khai.

Bảo tồn “gốc” làng quê Việt

Làng An Mỹ có 104,92ha đất tự nhiên, trong đó 45ha trồng lúa và hơn 35ha sản xuất rau, màu. Làng có 269 hộ với hơn 1.000 nhân khẩu, có gần 150 hộ sản xuất nông nghiệp, 22 hộ nuôi trồng thủy sản, 50 hộ chăn nuôi gia súc, gia cầm. Chính những yếu tố này đã làm nên một An Mỹ đậm chất nông nghiệp của thành phố cổ Hội An. Ông Lương Sơn, Chủ tịch UBND phường Cẩm Châu, cho biết để đảm bảo trọn vẹn phong cảnh làng quê, An Mỹ là địa điểm duy nhất có chủ trương “không xây khách sạn”, hiện trong làng chỉ có 1 cơ sở Spa, 4 nhà cho người nước ngoài thuê, 2 dịch vụ lưu trú homestay và cũng không có nhà hàng.

Trăn trở lớn nhất hiện nay của làng An Mỹ là dù mỗi ngày có 200 - 300 lượt khách ghé thăm, nhưng hầu hết chỉ đạp xe ngang qua, chưa dừng chân lâu ngày bởi các dịch vụ du lịch kèm theo chưa phát triển mạnh.

PHÚ NHIÊU

Làm giàu từ trang trại tổng hợp

Nguồn tin:  Báo Bình Định

Đó là ông Nguyễn Xuân Ánh, ở thôn Thuận Phong, xã Cát Lâm, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Bằng sự cần cù, siêng năng, sáng tạo cộng với việc khai thác tối đa lợi thế về điều kiện đất đai ở địa phương và biết chọn cây trồng, vật nuôi thích hợp, ông đã xây dựng trang trại trồng trọt kết hợp chăn nuôi, tạo nguồn thu nhập đáng kể.

Ông Ánh chăm sóc đàn bò. Ảnh: TRƯỜNG GIANG

Từ năm 1995, ông khai hoang, cải tạo 6,2 ha đất đồi gò để trồng điều. Nhờ biết áp dụng tiến bộ KHKT vào thâm canh, chăm sóc, bón phân, tỉa cành, tạo tán, tưới nước cho cây điều, nên vườn điều sinh trưởng, phát triển tốt, cho năng suất cao, bình quân 2 tấn hạt/ha/năm. Với 6,2 ha điều, gia đình ông thu nhập trên 300 triệu đồng/năm, trừ chi phí còn lãi trên 240 triệu đồng. Vườn điều của ông đã tạo việc làm thời vụ cho 12 lao động ở địa phương với mức thu nhập 140 ngàn đồng/người/ngày.

Ông còn nuôi bò dưới tán điều nhằm tăng thu nhập và tạo nguồn phân chuồng tại chỗ để bón cho cây điều. Hiện tại, đàn bò của ông có 13 con, trong đó có 8 bò cái sinh sản, mỗi năm đẻ từ 6 đến 8 bê con, mỗi bê con sau một năm nuôi có giá từ 10 đến 15 triệu đồng. Ngoài ra, ông còn nuôi 200 con gà ta dưới tán điều, là gà thả vườn, ăn thức ăn tự nhiên nên thịt gà thơm ngon, luôn có người đặt mua, mỗi lứa gà sau khi trừ chi phí còn lãi trên 15 triệu đồng. Từ vườn điều và chăn nuôi, gia đình ông thu lãi trên 350 triệu đồng/năm.

Theo ông Ánh, để vườn điều và vật nuôi phát triển tốt thì khâu chăm sóc đóng vai trò quan trọng. Riêng về chăn nuôi thì khâu chọn giống và phòng trừ dịch bệnh quyết định đến sự thành công hay thất bại. Ông chia sẻ: “Có được như ngày hôm nay là kết quả của cả một quá trình lao động và phấn đấu của tôi và các thành viên trong gia đình. Theo tôi, muốn thành công thì trước hết phải chọn hướng đi đúng, kết hợp với sự năng động, cần cù và quan trọng nhất là phải có niềm đam mê”.

Với vốn hiểu biết và kinh nghiệm của mình, ông luôn sẵn sàng chia sẻ để mọi người học tập áp dụng vào sản xuất, nâng cao hiệu quả và thu nhập. Trong nhiều năm liên tục, ông được công nhận là nông dân sản xuất giỏi cấp tỉnh, được Chủ tịch UBND tỉnh, các cấp Hội Nông dân tặng nhiều Bằng khen, giấy khen và hiện đang đề nghị công nhận nông dân sản xuất kinh doanh giỏi cấp trung ương.

TRƯỜNG GIANG

Phòng vệ thực phẩm: Khái niệm mới trong sản xuất và phân phối thực phẩm hiện đại

Nguồn tin:  Nông Nhiệp VN

Phòng vệ thực phẩm (PVTP) là một hệ thống mà doanh nghiệp hoàn toàn có thể chủ động ứng dụng xuyên suốt quá trình chế biến, sản xuất...

Ông Phạm Hồng Dương - Chủ tịch Ủy ban Mía đường Tập đoàn TTC thuyết trình ở Hội thảo Phòng vệ thực phẩm tại Bình Dương

Phòng vệ thực phẩm (PVTP) là một hệ thống mà doanh nghiệp hoàn toàn có thể chủ động ứng dụng xuyên suốt quá trình chế biến, sản xuất để hạn chế tối đa các tác động vào thực phẩm nếu có bằng cách sử dụng hóa chất, tác nhân sinh học hoặc các chất có hại khác một cách cố ý.

Mục tiêu của những tác động này có thể nhằm làm hại sức khỏe người sử dụng, làm giảm uy tín sản phẩm, nhãn hàng, doanh nghiệp, hủy hoại một ngành sản xuất, và gây ảnh hưởng lớn đến trật tự, an ninh xã hội.

Sự khác biệt giữa “Phòng vệ thực phẩm” và “An toàn thực phẩm”

Có thể hiểu, an toàn thực phẩm đề cập đến nguy cơ nhiễm bẩn ngẫu nhiên của sản phẩm thực phẩm trong quá trình sản xuất, lưu trữ, phân phối và tập trung vào các tác nhân sinh học, hóa học hoặc các nguy cơ vật lý. Các yếu tố chính của sự mất an toàn thực phẩm là vi khuẩn, hóa chất và các tác nhân bên ngoài.

Thực tế, sản phẩm có thể bị ô nhiễm thông qua sự bất cẩn, cẩu thả và ô nhiễm xảy ra trong quá trình sản xuất, lưu trữ và vận chuyển. Còn đối với PVTP, đây là một hệ thống giúp ngăn ngừa và làm giảm các tác động cố ý vào thực phẩm như việc sử dụng hóa chất, tác nhân sinh học hoặc các chất có hại khác.

Tại Việt Nam, khái niệm PVTP còn khá mới mẻ và chưa được áp dụng rộng rãi trong cộng đồng các doanh nghiệp sản xuất thực phẩm. Thậm chí, ngay tại Hoa Kỳ, một quốc gia đứng đầu thế giới với những tiêu chuẩn rất khắt khe áp dụng cho toàn bộ quá trình từ sản xuất, chế biến và phân phối đến tay người tiêu dùng cũng mới áp dụng khái niệm này hơn một thập niên vừa qua.

Trước những diễn biến ngày càng phức tạp và khó lường của khủng bố, đặc biệt sau vụ khủng bố ngày 11/9/2001, Hoa Kỳ đã đặt mọi lĩnh vực, ngành nghề trong tình trạng cần phải được bảo vệ ở mức cao nhất; trong đó lần đầu tiên đưa ra thông cáo về việc phải áp dụng hệ thống PVTP trên toàn lãnh thổ.

Xây dựng một kế hoạch PVTP có thể giúp doanh nghiệp xác định các bước để giảm thiểu nguy cơ các sản phẩm thực phẩm trong doanh nghiệp mình có khả năng bị ô nhiễm do cố ý hoặc thay đổi. Nhất là khi doanh nghiệp không thể tiên đoán được hành vi cố ý này nên khả năng loại trừ 100% tác động rất khó đảm bảo.

Do vậy, một hệ thống PVTP đặc biệt rất hữu ích trong trường hợp khẩn cấp; đặc biệt khi có khủng hoảng, khi doanh nghiệp đối mặt với tình trạng căng thẳng cao độ và thời gian giải quyết hạn chế. Việc xây dựng một hệ thống PVTP hiệu quả không chỉ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí mà còn tạo ra một môi trường làm việc an toàn cho nhân viên, cung cấp sản phẩm được kiểm soát và bảo vệ giá trị thương hiệu .

Xây dựng hệ thống Phòng vệ thực phẩm thế nào cho hiệu quả?

Yếu tố quan trọng đầu tiên trong việc xây dựng hệ thống PVTP chính là vai trò của các nhân viên sản xuất trực tiếp. Đây là những người phòng vệ ngay ở “tuyến đầu” trong toàn bộ quá trình sản xuất.

Vai trò của người sản xuất trực tiếp không chỉ là tham gia vào quá trình tạo ra sản phẩm, đảm bảo chất lượng như quy định mà còn là người đảm bảo các quy trình phòng vệ được thực thi và phát hiện các nguy cơ tiềm ẩn đầu tiên. Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã đưa ra 5 quy tắc quan trọng FIRST cho phòng vệ “tuyến đầu” này để ngăn ngừa các nguy cơ có thể xảy ra trong quá trình sản xuất.

Đó là F (follow): tuân thủ kế hoạch và quy định bảo vệ thực phẩm của công ty; I (Inspect): kiểm tra khu vực làm việc và khu vực chung quanh; R (Recognize): phát hiện bất kỳ dấu hiệu nào bất thường); S (Secure): bảo vệ tất cả các chất phụ gia, vật liệu và thành phẩm; T (Tell): báo cáo cho cấp trên thấy dấu hiệu bất thường hay khả nghi.

Nếu các nhân viên sản xuất trực tiếp bảo đảm phòng vệ “tuyến đầu” thì người đứng đầu doanh nghiệp đóng một vai trò quyết định trong việc triển khai thành công hệ thống PVTP. Bởi lẽ, một trong những đặc thù của hệ thống PVTP là không có một mô hình mẫu hay các tiêu chuẩn rõ ràng như ISO (hệ thống quản lý chất lượng), 5S (phương pháp quản lý sản xuất của Nhật Bản) hay có các chứng chỉ được cấp bởi các tổ chức thẩm định.

Hiệu quả của quá trình thực hiện phụ thuộc vào ý chí của doanh nghiệp trên cơ sở triển khai các nguyên tắc cơ bản được khuyến nghị bởi cơ quan có thẩm quyền (như Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ USDA). Do vậy, ý chí của người đứng đầu doanh nghiệp gần như quyết định sự thành công của hệ thống.

Với tầm quan trọng như vậy, hệ thống PVTP được xem là kim chỉ nam để doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như hình ảnh thương hiệu của mình. Trước xu thế hội nhập toàn cầu ngày càng sâu rộng, từ năm 2010, Tập đoàn TTC đã tiên phong trong việc nghiên cứu và xây dựng hệ thống PVTP; đồng thời kết hợp với Công ty TNHH MTV Việt Nam Kỹ nghệ Súc sản (VISSAN) và Trường Đại học Công nghệ Thực phẩm Tp.HCM thực hiện chuỗi Hội thảo nâng cao nhận thức về PVTP.

Trong năm 2016, các buổi hội thảo PVTP được triển khai tại Tây Ninh (tháng 3/2016), Tp.HCM (tháng 4/2016), Bình Dương (tháng 5/2016) với sự tham dự của hàng trăm doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực sản xuất, và phân phối sản phẩm thực phẩm. Chương trình hội thảo này sẽ tiếp tục được tổ chức đến cuối năm 2016 tại nhiều tỉnh thành khác như: Đồng Nai, Đà Lạt, Gia Lai, Phan Thiết, Nha Trang, Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng…

Thông qua các buổi hội thảo, các doanh nghiệp không chỉ được cung cấp các kiến thức nền tảng mang tính học thuật mà còn học hỏi cách thức triển khai thực tế thông qua những ví dụ điển hình trong quá trình xây dựng và áp dụng hệ thống PVTP vào sản xuất của Công ty Cổ phần Mía đường Thành Thành Công Tây Ninh (TTCS), Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa (BHS) và các đối tác của TTC.

Như lời chia sẻ của ông Phạm Hồng Dương, Chủ tịch Hội đồng Quản trị TTCS: “Bên cạnh các giải pháp đa dạng hóa sản phẩm, cắt giảm giá thành…, đã đến lúc các doanh nghiệp cần phải nghiêm túc nhìn nhận về tầm quan trọng của công tác PVTP nhằm mang đến các sản phẩm an toàn, vì sức khỏe người tiêu dùng. Việc xây dựng hệ thống PVTP cũng là một chiến lược để phát triển và mở rộng thị trường khi hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay”.

ĐOÀN LÊ NGUYÊN

Bình Định: Giá muối thấp, tiêu thụ khó khăn, toàn tỉnh tồn đọng 4.235 tấn muối

Nguồn tin:  Báo Bình Định

Ngày 23.6, ông Hồ Phước Hoàn, Chi cục trưởng Chi cục Quản lý Chất lượng Nông, lâm sản và thủy sản (Sở NN&PTNT), cho biết: Từ đầu vụ sản xuất đến nay, nhờ thời tiết thuận lợi, diêm dân trên địa bàn tỉnh Bình Định được mùa lớn. Đến thời điểm này, toàn tỉnh có gần 200 ha ruộng được diêm dân cải tạo để đưa vào sản xuất muối. Sản lượng muối thu hoạch được đến nay đạt 14.870 tấn, tăng hơn 3.000 tấn so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, diêm dân các xã khu Đông huyện Phù Cát thu hoạch được 8.100 tấn; Phù Mỹ: 6.542 tấn, Tuy Phước: 228 tấn.

Diêm dân sản xuất muối trên đồng muối thôn Diêm Vân, xã Phước Thuận (Tuy Phước).

Tuy nhiên, do giá muối từ đầu vụ đến nay ở mức quá thấp, việc tiêu thụ khó khăn nên hiện toàn tỉnh còn tồn đọng 4.235 tấn muối. Theo tìm hiểu, giá muối được thương lái thu mua tại đồng muối Đề Gi, xã Cát Minh, Cát Khánh (Phù Cát) chỉ dao động từ 400 - 550 đồng/kg; muối sạch từ 600 - 800 đồng/kg, giảm từ 10 - 20% so với cùng kỳ năm trước. Tại thôn Diêm Vân, xã Phước Thuận (Tuy Phước), giá muối hiện chỉ ở mức 300 đồng/kg.

Tình hình tiêu thụ muối khó khăn, giá thấp đã ảnh hưởng không nhỏ đến thu nhập và đời sống của bà con diêm dân. Hiện, Sở NN&PTNT đã kiến nghị các doanh nghiệp chế biến muối xúc tiến việc thu mua tạm trữ muối cho diêm dân theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ; đồng thời, đề nghị UBND tỉnh có chính sách hỗ trợ lương thực cho các hộ diêm dân…

NGUYỄN HÂN

Hướng tới phát triển bền vững từ mô hình nông lâm kết hợp

Nguồn tin:  Báo Đắk Nông

Năm 2014, gia đình ông Nguyễn Văn Hoàng, ở thôn Đắk Lập, xã Đắk D’rô (Krông Nô, Đắk Nông) được Dự án phát triển lâm nghiệp để cải thiện đời sống cho người dân vùng Tây Nguyên (Flitch) do Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tài trợ đã hỗ trợ hơn 400 cây sầu riêng, 250 cây bơ, 3.000 cây muồng, 5 tấn phân để xây dựng mô hình nông lâm kết hợp trên diện tích hơn 10 ha cà phê của gia đình.

Tham gia dự án, ông Hoàng được tập huấn kỹ thuật trồng xen canh sao cho phù hợp, đến thời điểm hiện tại, cây muồng hồ tiêu leo đã sắp phủ trụ, sầu riêng, bơ phát triển tốt.

Ông Hoàng cho biết: “Năm thứ nhất và thứ hai, cây trồng xen bắt đầu cho bóng mát, chắn gió đến năm thứ 3 cây bắt đầu cho thu nhập. Các cây trồng không có sự cạnh tranh về không gian, chất dinh dưỡng mà thay vào đó cộng sinh, hỗ trợ nhau phát triển. Lấy nền tảng từ cây cà phê, các cây trồng khác tạo thu nhập dàn trải ở nhiều mùa, thuận lợi để tái đầu tư”.

Năm 2014, trong quá trình cải tạo lại vườn cà phê, gia đình ông Hoàng Ngọc Bộ, ở thôn Đắk Lập, xã Đắk D’rô, được Dự án Flitch hỗ trợ 40 cây bơ, 40 cây sầu riêng, 200 cây muồng, phân bón để xây dựng mô hình nông lâm kết hợp. Vườn cà phê cải tạo lại bằng giống mới được giãn hàng từ 3m khoảng cách giữa 2 hàng lên 3,5m và trồng một hàng hồ tiêu ở giữa, cách 4 hàng cà phê trồng một hàng bơ, sầu riêng. Đến thời điểm hiện tại, các loại cây trồng phát triển tốt, cây bơ đã cho trái bói đầu mùa, cây muồng hồ tiêu đã leo phủ trụ.

Mô hình nông lâm kết hợp của gia đình ông Bộ, bơ đã có trái bói sau 2 năm trồng, chăm sóc

Ông Bộ cho biết: “Đất đai không nhiều nên tìm cách tăng thu nhập trên cùng một đơn vị diện tích bằng cách kết hợp này, tôi thấy hiệu quả. Việc trồng xen lợi nhuận, hiệu quả sẽ cao hơn, người nông dân có nhiều nguồn thu nhập trên cùng một đơn vị diện tích theo từng mùa vụ. Để có hiệu quả và lâu dài, gia đình tôi chú ý nắm rõ các loại cây trồng và sự ảnh hướng của các loại cây trồng với nhau để cộng sinh”.

Mô hình nông lâm kết hợp được Dự án Flitch triển khai kết hợp trồng xen cây nông lâm nghiệp giúp tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích. Mô hình áp dụng từ diện tích 0,3 ha trở lên. Toàn huyện Krông Nô có 862 hộ tham gia mô hình nông lâm kết hợp với tổng diện tích hơn 1.365 ha tập trung chủ yếu tại 3 xã Nâm Nung, Đắk D’rô, Nam N’Đir.

Ông Ngô Trần Vinh, Phó Ban quản lý Dự án Flitch huyện Krông Nô cho biết: “Dự án giúp người nông dân trồng được nhiều cây hơn, có nhiều nguồn thu nhập trên cùng một đơn vị diện tích, các loại cây trồng được chọn sẽ cộng sinh với nhau trên cùng một đơn vị diện tích. Ngoài thu hoạch cà phê thì các mùa khác nông dân có thêm nguồn thu, tạo nguồn lực để đầu tư phát triển kinh tế. Việc thực hiện mô hình nông lâm kết hợp sẽ góp phần đạt 2 mục tiêu kinh tế và môi trường. Phần lớn nông dân đều đã quen thuộc với các loại cây trồng được kết hợp, biết cách chăm sóc nên hầu như cây phát triển tốt”.

Mô hình nông lâm kết hợp là mô hình canh tác đa canh trên một đơn vị diện tích đất, các loại cây trồng được chọn trồng theo không gian và thời gian sẽ cộng sinh với nhau, giữ được độ che phủ mặt đất, chống xói mòn rửa trôi và bạc màu đất.

Dự án Flitch được thực hiện tại 60 xã thuộc 22 huyện của 6 tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng, Phú Yên; trong đó có 3 xã của huyện Krông Nô là Nâm Nung, Đắk D’rô, Nâm N’Đir.

Đức Hùng

Liên kết bao tiêu nông sản giữa doanh nghiệp và nông dân: Xác định rõ, thực hiện đúng trách nhiệm mỗi bên

Nguồn tin:  Báo Hải Phòng

Trong 5 năm gần đây nông nghiệp Hải Phòng có bước phát triển khá toàn diện theo hướng sản xuất hàng hoá. Nhiều sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản được thị trường đón nhận. Tuy nhiên, nông sản vẫn chủ yếu lưu thông nhỏ, lẻ qua thương lái hoặc tự tiêu thụ, việc liên kết giữa doanh nghiệp (DN) với nông dân trong bao tiêu sản phẩm còn lỏng lẻo, số DN tham gia bao tiêu nông sản còn ít.

Các doanh nghiệp và ngành chức năng khảo sát quy trình trồng dưa Kim hoàng hậu ở xã Tân Hưng (Vĩnh Bảo).

Thiếu liên kết, nông sản vẫn bí đầu ra

Vụ hè năm nay, nông dân xã Tân Hưng, huyện Vĩnh Bảo hối hả thu hoạch giống dưa Kim Hoàng hậu ruột vàng với chất lượng quả ngon… Là địa phương đi đầu trồng giống dưa này, hiện toàn xã Tân Hưng có gần 100 ha ruộng chuyển đổi canh tác sang trồng giống dưa Kim Hoàng hậu. Bởi hợp thổ nhưỡng địa phương, chất lượng quả ngon, tạo hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, vào kỳ thu hoạch, nông dân Tân Hưng cũng chỉ bán dưa Kim Hoàng hậu thông qua cánh thương lái, số ít len chân được vào các siêu thị của thành phố. Theo ông Nguyễn Văn Hải, Bí thư Đảng ủy xã Tân Hưng, do không gặp được DN liên kết tiêu thụ, giá bán dưa trên thị trường khá bấp bênh. Đầu vụ, nông dân bán được giá 17 - 18 nghìn đồng/kg. Vào thời điểm thu hoạch chính vụ, giá dưa giảm mạnh, có lúc còn 8 – 10 nghìn đồng/kg, song sức tiêu thụ chậm.

Đó cũng là tình trạng chung đối với nhiều loại nông sản tại Hải Phòng, Anh Nguyễn Sỹ Chiến, hộ nuôi gà ở xã Đặng Cương (An Dương) cho biết, có lúc sức mua của người tiêu dùng hạ thị trường ế ẩm, tư thương ép giá quá thấp, nên các trang trại nuôi gà không bán được sản phẩm, gà để quá lứa xuất chuồng, có trang trại thiệt hại hàng trăm triệu đồng. Ở các vùng nuôi thủy sản nước ngọt với các loại cá truyền thống tại An Lão, Kiến Thụy, An Dương, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, phần lớn nông dân xuất bán sản phẩm hàng ngày cho các chợ dân sinh trong và ngoài thành phố.

Thời gian qua, mặc dù việc phối hợp “liên kết giữa 4 nhà” đã được cải thiện so với trước, nhưng số doanh nghiệp tích cực tham gia liên kết tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp vẫn ít. Theo thống kê của ngành Nông nghiệp-PTNT, toàn thành phố mới có hơn 20 doanh nghiệp ký hợp đồng bao tiêu nông sản cho nông dân với số lượng hạn chế, khiến nông sản tiêu thụ bấp bênh trên thị trường.

Cần sự gặp nhau giữa doanh nghiệp và nông dân

Theo đại diện quản lý các DN siêu thị lớn ở Hải Phòng như Metro, Coop. Mart, Big. C, Intimex..., doanh nghiệp mong muốn hợp tác cùng nông dân ổn định, lâu dài. Với hệ thống quản lý chất lượng của các siêu thị, đòi hỏi sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn VIETGAPH và có giấy chứng nhận sản xuất an toàn. Ông Nguyễn Văn Xiển, Giám đốc Công ty CP thực phẩm Bình Minh chia sẻ, với công suất của nhà máy có thể liên kết tiêu thụ sản phẩm chế biến của doanh nghiệp cho nông dân thuận lợi. Tuy nhiên, nông sản của nông dân cung ứng cho DN không ổn định về số lượng, chưa đáp ứng yêu cầu của nhà máy vào từng thời vụ, ý thức sản xuất của nông dân theo hợp đồng mang nông sản bán ra thị trường khi được giá cao hơn, đặt DN vào tình thế khó khăn một khi đã ký kết với bạn hàng.

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư Hải Phòng Đào Thị Hà đánh giá, liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản là xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển của ngành Nông nghiệp-PTNT theo hướng hiện đại hóa và bền vững. Thực tế, khi liên kết với các DN thu mua nông sản, bà con nông dân sẽ có lợi bởi ổn định giá, đầu ra cũng yên tâm hơn. Thời gian tới, phải xóa bỏ được những rào cản giữa DN và người sản xuất, để cùng hướng tới mục tiêu liên kết bền vững, chặt chẽ. Đặc biệt giữa người sản xuất và doanh nghiệp cần xác định rõ hơn và thực hiện đúng trách nhiệm mỗi bên để phát triển mối liên kết cùng có lợi này.

Phó trưởng Phòng Tư vấn và giới thiệu sản phẩm Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Hải Phòng Lê Minh Hoàng cho biết, hiện nay có một số DN trong và ngoài thành phố mong muốn thu mua nông sản Hải Phòng, liên kết hình thành các chuỗi sản xuất - tiêu thụ khép kín. Vì vậy, nông dân tổ chức sản xuất nông nghiệp cần bảo đảm đa dạng hóa sản phẩm, ưu tiên các mặt hàng sản xuất quanh năm, sản phẩm trái vụ, đáp ứng yêu cầu DN. Các quy trình sản xuất an toàn cần được chú trọng tuân thủ, bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm. Đặc biệt, cần nông dân được tập huấn khoa học kỹ thuật, bảo đảm an toàn vệ sinh, ý thức hợp tác sản xuất nông sản hàng hóa theo quy mô lớn. Về phía DN, có biện pháp hỗ trợ nông dân trong đào tạo, tập huấn nâng cao kiến thức, ý thức sản xuất, hỗ trợ kỹ thuật để bảo đảm sản phẩm đạt yêu cầu DN. Đồng thời, doanh nghiệp khảo sát, đánh giá thực trạng các vùng sản xuất của nông dân, từ đó bảo đảm ký kết hợp đồng tiêu thụ ổn định, lâu dài với mức giá hai bên cùng có lợi. Đối với các doanh nghiệp thực hiện liên kết bao tiêu nông sản, thành phố có cơ chế chính sách, khuyến khích, hỗ trợ DN vào cuộc mặn mà hơn.

Theo Trung tâm Khuyến nông – Khuyến ngư, diện tích sản xuất nông nghiệp có hợp đồng tiêu thụ sản phẩm khoảng 800 - 1000ha; sản lượng nông sản có hợp đồng bao tiêu sản phẩm trên địa bàn Hải Phòng đạt 3000 – 3500 tấn/năm, chiếm 7% - 8% tổng sản lượng của các vùng sản xuất tập trung.

Hải An

Rộng đường cho nông sản vào EU

Nguồn tin:  Báo Công Thương

Theo thống kê của Liên minh châu Âu (EU), doanh số tiêu thụ các mặt hàng có chứng nhận Thương mại công bằng (TMCB) tại EU ngày càng tăng, nhất là đối với hàng nông sản. Do đó, việc các doanh nghiệp (DN) Việt Nam có thêm chứng nhận TMCB sẽ càng làm cho người tiêu dùng EU tin tưởng và lựa chọn hàng hóa Việt Nam.

Chứng nhận TMCB sẽ giúp ngành chè đẩy mạnh xuất khẩu

Mở rộng “cửa” xuất khẩu

Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, ông Vũ Đức Bộ - Chủ nhiệm Hợp tác xã (HTX) Phước Hưng, huyện Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước - cho biết, trước đây điệp khúc “được mùa mất giá, được giá mất mùa” cứ ám ảnh mãi, nhưng từ khi tham gia sản xuất theo tiêu chí TMCB của Tổ chức nhãn hiệu thương mại công bằngquốc tế (FLO), mọi chuyện đã thay đổi. Theo đó, việc trồng điều tại HTX phải tuân thủ theo một quy trình ngặt nghèo do FLO quy định như: Không sử dụng hóa chất độc hại, không để tồn dư thuốc bảo vệ thực vật và các quy trình chăm sóc theo từng thời điểm phát triển của cây điều.

Nhờ đó, vườn điều không chỉ cho năng suất cao (trung bình 3 tấn/ha), chất lượng đáp ứng yêu cầu xuất khẩu mà thị trường đầu ra luôn ổn định. Để giúp người dân bán được sản phẩm, Tổ chức FLO với hệ thống trải rộng ở các thị phần lớn trên thế giới đã đứng ra đảm nhiệm chào hàng, giới thiệu sản phẩm đến các đơn vị có nhu cầu. HTX cũng đã ký hợp đồng với hai công ty bao tiêu điều cho nông dân. Giá điều đạt chứng nhận FLO cũng cao hơn so với sản xuất truyền thống (hiện cao hơn khoảng 7.000 đồng/kg).

“Hiện nay, HTX có 1.400ha điều sản xuất theo tiêu chuẩn của FLO với khoảng 4.000 tấn điều thô sản xuất ra mỗi năm, xuất khẩu chủ yếu sang các thị trường châu Âu như Đức, Hà Lan…”- ông Bộ hồ hởi.

Là một trong hai DN cà phê đầu tiên đạt chứng nhận TMCB ở Việt Nam, ông Đào Duy Tùng - Phó Giám đốc Công ty Cà phê Nguyễn Huy Hùng - cho hay, khi các đối tác nước ngoài biết sản phẩm của công ty có chứng nhận TMCB thì khả năng ký kết hợp đồng thành công rất cao. Năm 2015, công ty đã xuất khẩu 20 tấn cà phê đạt chứng nhận TMCB với mức giá 2.700 USD/tấn vào thị trường châu Âu.

Nâng cao nhận thức

Tại buổi tọa đàm “Phát triển TMCB tại Việt Nam” diễn ra mới đây, ông Trần Ngọc Quân - Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu (Bộ Công Thương) - khẳng định, người tiêu dùng châu Âu ngày càng yêu cầu cao đối với hàng hóa, dịch vụ. Chứng nhận TMCB đã trở thành một trong những vấn đề mà người tiêu dùng EU quan tâm và ưu tiên lựa chọn các mặt hàng có chứng nhận này.

Tuy nhiên, ông Tùng thừa nhận, vẫn chưa có nhiều người tiêu dùng và người sản xuất biết đến TMCB nên số lượng các đơn vị tham gia sản xuất theo tiêu chí này tại Việt Nam còn khiêm tốn. Theo Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam, mới chỉ có 13 HTX và 2 DN xuất nhập khẩu cà phê được cấp chứng nhận này. Lượng cà phê xuất khẩu được chứng nhận TMCB chỉ khoảng 2.000 - 4.000 tấn/năm, còn ít so với hàng triệu tấn cà phê xuất khẩu mỗi năm. Do đó, cần tuyên truyền rộng rãi và có những hỗ trợ thiết thực để người tiêu dùng, DN thấy được lợi ích của việc sản xuất, tiêu dùng hàng hóa có chứng nhận TMCB.

Đại diện Hiệp hội Chè Việt Nam đồng tình, hiện nay chứng nhận TMCB chưa phổ biến ở Việt Nam, hiểu biết của DN chè về tiêu chí này còn hạn chế. Do vậy, năm 2016, ngành chè phấn đấu có 2-3 mô hình HTX đạt chứng nhận TMCB. Dự kiến trong 2 - 3 năm tới ngành chè Việt Nam có 3 - 5 DN đạt chứng nhận TMCB. Vùng sản xuất chè có khả năng đạt chứng nhận TMCB tiềm năng là Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Thái Nguyên, Hà Nội…

Theo FLO, trong một cuộc điều tra dư luận tại thị trường châu Âu, 3/4 số người được hỏi trả lời họ sẽ mua sản phẩm đạt chứng nhận TMCB và 30% trong số họ đồng ý mua sản phẩm này với giá cao hơn 10% so với giá hiện tại.

Quỳnh Nga - Lan Anh

Kiên Giang: Nhiều dự án đầu tư ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp

Nguồn tin:  Báo Cần Thơ

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) tỉnh Kiên Giang, dù không có trong Quy hoạch tổng thể khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 575/QĐ-TTg ngày 4-5-2015), nhưng thời gian qua địa phương đã nhận được nhiều dự án đầu tư từ các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh. Điển hình: Dự án đầu tư xây dựng "Trung tâm nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học công nghệ cao trong sản xuất giống cây trồng nông nghiệp" tại cánh đồng lớn ấp Kinh 9, xã Bình Giang, huyện Hòn Đất của Công ty TNHH Kiên Dũng. Dự án thành lập Khu thực nghiệm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại xã Nam Thái Sơn, huyện Hòn Đất của Trường Đại học Kiên Giang. Dự án nuôi tôm công nghiệp công nghệ cao tại cụm công nghiệp Lình Quỳnh của Công ty cổ phần Kiên Hùng. Dự án Nông nghiệp công nghệ cao tại các huyện có quy hoạch phát triển cánh đồng lớn của Công ty TNHH ADC. Đề nghị công nhận doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao của Công ty cổ phần Trung Sơn… Trước nhu cầu của địa phương và các tổ chức, doanh nghiệp, tỉnh Kiên Giang đã có công văn kiến nghị Bộ NN&PTNT bổ sung vào Quy hoạch tổng thể khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Song song đó, Sở NN&PTNT tỉnh Kiên Giang tiếp tục nghiên cứu và tham mưu UBND tỉnh ban hành chính sách khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ ứng dụng công nghệ cao, tạo sản phẩm nông nghiệp an toàn… khi quy hoạch khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Kiên Giang được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Thời gian qua, việc ứng dụng công nghệ cao (sử dụng giống cây trồng vật nuôi có năng suất, chất lượng sản phẩm cao; áp dụng quy trình sản xuất tiên tiến, như: "3 giảm, 3 tăng", "1 phải, 5 giảm", sản xuất lúa sạch, lúa hữu cơ, VietGAP…) mang lại nhiều lợi ích cho ngành nông nghiệp tỉnh Kiên Giang. Theo đó, giá trị sản xuất nông nghiệp của tỉnh không ngừng gia tăng, sản lượng lúa, thủy sản luôn dẫn đầu cả nước, lúa chất lượng cao chiến 67 - 68% diện tích. Cơ cấu nông nghiệp của tỉnh chuyển dịch đúng hướng, chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản tập trung ở các huyện vùng U Minh Thượng; hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sản xuất ngày hoàn thiện, bước đầu hình thành các vùng nông nghiệp sản xuất tập trung lớn, ứng dụng công nghệ cao…

T. Đạt

Khuyến nông "2 trong 1"

Nguồn tin:  Báo Vĩnh Long

Hai nhiệm vụ quan trọng mà ngành khuyến nông xác định “bổ trợ” các địa phương thực hiện thời gian qua là khuyến nông phục vụ tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Qua đó, xuất hiện nhiều mô hình làm ăn hiệu quả, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống nông dân.

Thực hiện các mô hình chuyển đổi phải phù hợp địa phương.

Từ năm 2014 đến nay, hệ thống khuyến nông đã có những đổi mới cả về nội dung và phương pháp hoạt động.

Cụ thể, để phục vụ xây dựng nông thôn mới, hệ thống khuyến nông cả nước tham gia cùng các cấp chính quyền địa phương thực hiện quy hoạch sản xuất nông nghiệp, vùng chuyên canh sản xuất lúa, bắp, rau, cây ăn trái…

Lực lượng cán bộ khuyến nông cũng trực tiếp tham gia hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cho nông dân ứng dụng khoa học kỹ thuật mới đạt năng suất, chất lượng hiệu quả kinh tế cao.

Theo Trung tâm Khuyến nông quốc gia, trên lĩnh vực trồng trọt, trung tâm đã triển khai thực hiện dự án “3 giảm, 3 tăng” và kỹ thuật trồng lúa SRI tại 13 tỉnh ĐBSCL.

Dự án đã hướng dẫn nông dân giảm lượng giống từ 50 - 100kg giống/ha, bón phân cân đối, giảm sử dụng phân đạm, thuốc bảo vệ thực vật,… Lĩnh vực chăn nuôi, trung tâm đã triển khai mô hình nuôi tôm sú, thẻ chân trắng theo hướng VietGAP, nuôi tôm càng xanh an toàn trong ruộng lúa,…

Tại Vĩnh Long, theo Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông- Trần Văn Sơn, trong 19 tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới, có 4 tiêu chí liên quan đến khuyến nông.

Do đó, trung tâm luôn tích cực đẩy mạnh các hoạt động như đề xuất xây dựng và thực hiện các mô hình, dự án sản xuất nông nghiệp có hiệu quả, đồng thời tham gia đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Kết quả, từ năm 2014 - 2015, trung tâm thực hiện 3 dự án: “Hỗ trợ phát triển chăn nuôi vịt chuyên trứng an toàn sinh học”; “Xây dựng mô hình cánh đồng mẫu lớn sản xuất cây màu luân canh trên vùng nền đất lúa” và “Nuôi cá ruộng lúa ở vùng có hệ thống thủy lợi phục vụ nuôi thủy sản” với tổng kinh phí trên 3 tỷ đồng. Giai đoạn 2015 - 2017, trung tâm có kế hoạch thực hiện 6 dự án, với kinh phí trên 11 tỷ đồng.

Cũng theo ông Trần Văn Sơn, các mô hình đáp ứng tốt mục tiêu tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới thời gian qua, lợi nhuận mỗi mô hình chuyển đổi đều cao hơn từ 2 - 3 lần.

Còn theo TS Phan Huy Thông - Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia, hoạt động khuyến nông giờ khác trước rất nhiều. Từ năm 2014, công tác xây dựng kế hoạch, triển khai, nghiệm thu được lên lịch ngay từ đầu năm. Trung tâm đặt ra mục tiêu rất rõ ràng.

Trong công tác tuyên truyền, đào tạo của khuyến nông có rất nhiều đổi mới, sáng tạo mang lại hiệu quả rất cao. Chọn những đơn vị có năng lực để triển khai chứ không làm tràn lan như trước.

Các chương trình, dự án, mô hình trình diễn có sự phối hợp, hỗ trợ rất nhuần nhuyễn nên phát huy tính tương tác, đem lại kết quả rất tích cực. Hoạt động thông tin tuyên truyền của khuyến nông thay đổi mạnh mẽ.

Gắn chặt với chủ trương tái cơ cấu nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới theo chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp - PTNT.

Trong đó, bản tin và website của Trung tâm Khuyến nông quốc gia xây dựng riêng chuyên mục về tái cơ cấu và xây dựng nông thôn mới.

Với các chương trình phối hợp với 20 cơ quan báo đài Trung ương cũng được tăng thời lượng và tần suất nhằm hỗ trợ, tuyên truyền đắc lực cho chủ trương tái cơ cấu.

Ngoài những hoạt động tuyên truyền truyền thống, trung tâm tiến hành các hình thức tuyên truyền thông qua file điện tử, đĩa hình nhằm phục vụ đa lợi ích, giảm các tài liệu in ấn, tiết kiệm chi phí. Xây dựng tủ sách khuyến nông tại các xã nông thôn mới.

Thực tế, rất nhiều mô hình khuyến nông mà các địa phương triển khai mang lại hiệu quả, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống nông dân. Tuy vậy, theo ghi nhận nhiều địa phương lo ngại việc khó nhân rộng những mô hình khuyến nông sau khi những dự án kết thúc.

Bên cạnh, đầu tư các mô hình đòi hỏi cần có giải pháp phát triển bền vững. Ông Trần Văn Sơn cho rằng, cần phải có sự phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể; mô hình thực hiện phải đúng yêu cầu, phù hợp với trình độ người dân. Nhiều địa phương còn cho rằng, mỗi địa phương cần chọn cây- con chủ lực phát triển, mô hình phải phù hợp quy hoạch, sức dân, thị trường.

Mặt khác, các mô hình cần tập trung, nhất là phải có sự tham gia của các doanh nghiệp đầu tư từ đầu vào đến đầu ra, đảm bảo sản phẩm người nông dân làm ra tiêu thụ thật thuận lợi.

Nhiều địa phương đề nghị cần tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động tư vấn khuyến nông bằng nhiều hình thức và xây dựng các mô hình dịch vụ tư vấn khuyến nông; có sự phân công trong liên kết sản xuất vùng để thực hiện quy hoạch chuyển đổi cây trồng trên đất lúa và có chính sách hỗ trợ hướng ưu tiên giống cây trồng, đầu tư cơ sở hạ tầng…

HOÀNG MINH

Truyền thông tác động đến nông nghiệp cũng như thời tiết

Nguồn tin:  Nông Nghiệp VN

Doanh nhân nói chung và doanh nhân nông nghiệp nói riêng cũng cần vai trò của truyền thông, tác động của truyền thông để thúc đẩy phát triển sản xuất.

Sản xuất nông nghiệp cần có thời tiết mưa thuận, gió hòa để phát triển. Doanh nhân nói chung và doanh nhân nông nghiệp nói riêng cũng cần vai trò của truyền thông, tác động của truyền thông để thúc đẩy phát triển sản xuất.

Tuy nhiên, nếu gặp thời tiết cực đoan thì nông nghiệp sẽ bị ảnh hưởng, thậm chí là thiệt hại rất nặng nề. Truyền thông sai lệch, thiếu kiểm chứng, nhất là những tin đồn thất thiệt gây thiệt hại đến sản xuất nông nghiệp, đời sống của người nông dân cũng không kém.

Đó là chia sẻ của ông Nguyễn Trung Tín, Giám đốc Cty CP Nông lâm nghiệp Phan Minh Kiên Giang, đơn vị đầu tư làm cánh đồng lớn rộng ngàn ha tại vùng Tứ giác Long Xuyên.

Theo ông Tín, trong thời buổi hiện nay, thông tin bùng nổ và có tác động rất lớn đến đời sống xã hội. Nhờ có vai trò của truyền thông, các cơ chế, chính sách của nhà nước đến với người dân nhanh hơn, góp phần thúc đẩy sản xuất, phát triển đời sống xã hội.

Truyền thông cũng có vai trò to lớn trong việc định hướng thị trường, giúp người sản xuất nắm bắt được thông tin, đưa ra kế hoạch sản xuất phù hợp, phát triển doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh.

Tuy nhiên, truyền thông cũng có mặt trái của nó nếu đưa phiến diện, một chiều, thông tin sai lệch không được kiểm chứng cẩn thận. Chỉ cần một đoạn thông tin ngắn nhưng sai sự thật được lan truyền trên mạng xã hội thôi là lập tức đã gây thiệt hại rồi.

Nhưng nếu những thông tin này lại được các tờ báo ngành, báo chính thống đưa tin thì thiệt hại càng nặng nề hơn. Vì bạn đọc đặt niềm tin rất lớn vào những tờ báo này. Ví dụ như thông tin thất thiệt về túi bao trái cây; cá rô, cá điêu hồng nuôi lồng bè bị nhiễm chất cấm… đã làm cho nhà nông ở ĐBSCL lao đao vì sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, giá rớt thê thảm. Thiệt hại gây ra bởi những vụ thông tin thất thiệt này có khi còn lớn hơn cả thời tiết cực đoan như hạn hán hay mưa bão.

Vì thời tiết cực đoan qua đi, nông dân có thể bắt tay khôi phục sản xuất lại ngay. Nhưng tác động của những thông tin tiêu cực có khi kéo dài rất lâu sau đó. Có người coi đó là tác phẩm “bút máu” hay “ngòi bút có độc” vì nó không chỉ “giết chết” nhà nông mà còn làm mất lòng tin của người tiêu dùng về nông sản Việt.

Người sản xuất là nông dân hay doanh nhân đều cần đến vai trò của truyền thông để nắm bắt thông tin, định hướng phát triển, làm ra sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường. Nhưng cái mà họ cần hơn cả là cái tâm trong sáng của những người người đưa tin.

Đ.T.CHÁNH

Hiệu quả từ những mô hình kinh tế ở Bình Thủy (TP.Cần Thơ)

Nguồn tin:  Báo Cần Thơ

Trong số hơn 100 mô hình kinh hộ làm ăn hiệu quả ở quận Bình Thủy (TP.Cần Thơ) có nhiều mô hình được nông dân mạnh dạn đầu tư, áp dụng khoa học kỹ thuật… mở ra hướng phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng đô thị.

Trong quá trình tìm hiểu vật nuôi phù hợp với điều kiện khí hậu tại địa phương và mang lại hiệu quả kinh tế, anh Nguyễn Quang Bình, khu vực 3, phường Trà An làm quen với gà Đông Tảo hay còn gọi là gà tiến vua. Nuôi thử nghiệm từ năm 2013 và bắt đầu nuôi chính thức vào đầu năm 2014, đến nay anh Bình đã thành lập Cơ sở gà Đông Tảo Quang Bình chuyên cung cấp con giống và gà thương phẩm cho các nhà hàng ở Cần Thơ và các tỉnh ĐBSCL. Theo anh Bình, gà Đông Tảo có đặc điểm nổi bật là đôi chân rất to, xù xì, da đỏ hồng, dáng vẻ oai vệ, khi trưởng thành gà trống có thể nặng đến 6kg, gà mái từ 3,5 - 5kg. Giá bán loại gà này tại trang trại của anh là 500.000 đồng/kg với gà trống và 300.000 đồng/kg với gà mái. Giá gà con mới nở một ngày là 120.000 đồng/con. Còn loại 1 tháng tuổi từ 220.000 - 250.000 đồng/con. Đặc biệt, một con gà trống Đông Tảo thuần chủng, 8 tháng tuổi trở lên, dáng đẹp có giá từ 5 - 7 triệu đồng, thậm chí hàng chục triệu đồng, còn thông thường cũng phải 1,2-1,5 triệu đồng/con. Gà Đông Tảo là loài quen chạy nhảy, không quen nuôi nhốt, nên chuồng trại càng rộng càng tốt, gà sẽ nhanh lớn và thịt đảm bảo chất lượng hơn. Một trong những khâu cần chú ý là tiêm vắc-xin cho gà con ngay khi vừa mới nở. Hiện tại cơ sở của anh Bình có lượng gà Đông Tảo bán thịt và gà sinh sản trên 400 con. Mỗi năm, sau khi trừ chi phí anh Bình có lợi nhuận trên dưới 200 triệu đồng.

Anh Nguyễn Quang Bình với con gà Đông Tảo thuần chủng có giá bán trên 15 triệu đồng.

Đến khu vực Bình Phó B, phường Long Tuyền, quận Bình Thủy, hỏi ông Huỳnh Văn Hải với biệt danh "Hải Phong Lan", gần như ai cũng biết. Bởi ông là một trong những người đi đầu trong nghề trồng và kinh doanh lan cắt cành tại địa phương. Từ niềm đam mê hoa lan, ông Hải học hỏi, đầu tư hơn 500m2 đất vườn trồng hoa lan cắt cành hơn 4 năm nay. Với giống lan Dendrobium sonia dễ thích nghi khí hậu, dễ trồng và chăm sóc, ra hoa quanh năm, có thời điểm, mỗi ngày ông cắt bán cho thương lái vài trăm cành với giá 800 đồng/bông, thu nhập trên 6 triệu đồng/tháng. Hiện nay, ông Hải tiến hành thay thế các gốc lan Dendro già cỗi bằng giống lan Mokara, bước đầu nhận được sự ủng hộ tích cực từ các đầu mối tiêu thụ. Ngoài bán lan cắt cành, ông Hải bán thêm lan nguyên giỏ cho các khách hàng yêu thích loài hoa này. "Nghề trồng lan quan trọng nhất là khâu chọn giống và xử lý môi trường. Để có vườn lan tốt người trồng phải luôn giữ vườn lan sạch, hệ thống tưới tiêu đầy đủ và giăng lưới bao che bảo vệ. Bên cạnh đó, mật độ trồng lan cũng không nên quá dày để lan có không gian thoáng đãng". Ông Hải chia sẻ.

Quận Bình Thủy hiện có trên 1.200ha đất trồng lúa, trên 2.300ha trồng cây ăn trái, với trên 4.000 hộ sản xuất nông nghiệp. Hằng năm, Bình Thủy có 57%/số hộ nông dân đăng ký được công nhận "Nông dân sản xuất kinh doanh giỏi". Thời gian qua, quận Bình Thủy đã tạo điều kiện giúp cho các nông hộ phát triển sản xuất kinh doanh như hỗ trợ vốn, tổ chức chuyển giao khoa học kỹ thuật, làm giao thông, thủy lợi… từng bước hình thành các vùng chuyên canh rau màu, nuôi thủy sản, hoa kiểng, cây ăn trái… Từ đó, có trên 100 mô hình kinh tế hộ làm ăn có hiệu quả, thu nhập bình quân hằng năm trên 200 triệu đồng. Điển hình như: Mô hình chăn nuôi bò sữa và kinh tế vườn của hộ ông Võ Thanh Cần, khu vực Bình Yên A, phường Long Hòa; Mô hình trồng hoa kiểng của hộ ông Nguyễn Văn Dành, khu vực Bình An, phường Long Hòa…

Để tìm hướng đi phù hợp với điều kiện đất đai, thổ nhưỡng của địa phương, thời gian qua, nông dân quận Bình Thủy dần cải tạo đất, chọn giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, mang lại hiệu quả để sản xuất, góp phần nâng cao cuộc sống người nông dân. Để giúp bà con nông dân sản xuất hiệu quả, hằng năm, ngành nông nghiệp quận còn tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật trồng cây ăn trái, rau màu, chăn nuôi…; hỗ trợ giống cây ăn trái chất lượng cao, rau màu, hoa kiểng cho bà con. Qua các lớp học tập, người dân học theo các gương điển hình về phát triển kinh tế một cách sáng tạo, linh hoạt. Họ vận dụng để phù hợp với điều kiện gia đình mình. Bà Nguyễn Thị Ngọc Yến, Trưởng phòng Kinh tế quận Bình Thủy, cho biết: Hằng năm, những mô hình hiệu quả kinh tế cao của quận đều tăng lên về số lượng và chất lượng. Đặc biệt trong đó xuất hiện nhiều mô hình mới đáp ứng với nhu cầu thị trường. Thời gian tới, Phòng Kinh tế có các biện pháp hỗ trợ bà con về kỹ thuật, nguồn vốn, tháo gỡ khó khăn về đầu ra sản phẩm. Một hướng làm ăn mới ở Bình Thủy hiện nay là người dân đầu tư mở rộng quy mô sản xuất theo hướng du lịch sinh thái, thu hút khách tham quan, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn trên cùng một diện tích đất sản xuất.

NGUYỄN TÍN

Hội chợ xúc tiến đầu tư giống nông nghiệp

Nguồn tin:  Sài Gòn Giải Phóng

Tại buổi họp báo ngày 15-6, Ban tổ chức Hội chợ Triển lãm và xúc tiến đầu tư giống nông nghiệp TPHCM cho biết sự kiện sẽ diễn ra từ ngày 23 đến 26-6 tại Trung tâm Công nghệ sinh học TPHCM (quốc lộ 1A, phường Trung Mỹ Tây, quận 12).

Nét mới của hội chợ lần này là hội nghị xúc tiến đầu tư nông nghiệp công nghệ cao vào các Khu nông nghiệp công nghệ cao mở rộng ở 3 huyện ngoại thành (Củ Chi, Bình Chánh và Cần Giờ) cho nhiều loại cây, con và thủy sản lợi thế của TP. Đây sẽ là hạt nhân để nhân rộng diện tích áp dụng công nghệ cao. Ngoài ra, còn có buổi tọa đàm giới thiệu một số giống cây trồng, vật nuôi mới phục vụ tái cơ cấu nông nghiệp; triển lãm cá cảnh, hội thi hoa lan và bonsai.

Dự kiến có 150 tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước với 310 gian hàng tham gia hội chợ lần này.

CÔNG PHIÊN

Áp dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất, chế biến: Hướng đi tất yếu

Nguồn tin:  Báo Long An

Việc ứng dụng khoa học và công nghệ (KH&CN) đạt những kết quả nhất định trong sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Long An trong những năm qua. Theo các nhà khoa học, đây cũng là hướng đi tất yếu của nền nông nghiệp trên con đường hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Cách đây mấy năm, ông Võ Quan Huy, ở ấp 3, xã Mỹ Bình, huyện Đức Huệ quyết định đầu tư trang trại chăn nuôi bò Úc vỗ béo. Theo ông, quyết định này nhằm thỏa mãn nhu cầu của thị trường thích thưởng thức các sản phẩm mới lạ, nhưng phải có chất lượng. Để có thể chăm sóc được đàn bò Úc vỗ béo, ông phải đi đến nước bạn học hỏi kinh nghiệm. Hiện nay, đàn bò được chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật và được thị trường tín nhiệm, tin dùng.

Trang trại chăn nuôi bò ở huyện Đức Huệ của ông Võ Quan Huy theo quy trình công nghệ hiện đại

Hiện tại, trang trại nuôi bò vỗ béo của ông Võ Quan Huy đang thực hiện nuôi nhốt vỗ béo với quy mô khoảng 5.000 con trâu, bò. Trong đó, đàn trâu chiếm số lượng xấp xỉ bằng 1/10 đàn bò. Toàn bộ số trâu, bò trên được nhập về từ nước bạn và tiến hành vỗ béo khoảng 3 tháng, trước khi xuất bán ra thị trường.

Có đến trang trại chăn nuôi do ông Quan Huy làm chủ mới thấy hết quy mô và cách chăm sóc đàn bò vỗ béo theo quy trình công nghệ hiện đại. Đó là một trang trại chăn nuôi rộng lớn, nằm cách ly khu dân cư và các khu vực khác. Trước tiên, đàn trâu, bò được nhập vào trang trại phải qua khâu tiêm ngừa các loại thuốc phòng trừ dịch bệnh. Nguồn thức ăn cho trâu, bò là hàng chục hécta cỏ trồng tại trang trại cộng với nguồn thức ăn, nước uống được kiểm tra nghiêm ngặt, sàn trang trại được lót bằng đệm lót sinh học và định kỳ thay mới. Thức ăn cho trâu, bò được phối trộn theo tỷ lệ thích hợp và được đưa đến từng dãy chuồng bằng xe chuyên dùng. Riêng nguồn nước cung cấp cho trâu, bò uống đều qua hệ thống ống tự động,...

Lý giải về trang trại khá quy mô, ông Quan Huy cho rằng, chăn nuôi, nuôi trồng sản phẩm theo hướng sản xuất hàng hóa là xu hướng tất yếu trên thị trường hiện nay. Doanh nghiệp (DN) thu mua hàng hóa, đại diện cho người tiêu dùng luôn đòi hỏi những tiêu chí nhất định về sản phẩm như: Năng suất, chất lượng và giá cả cạnh tranh,... Vì vậy, đòi hỏi phải áp dụng KH&CN mới phù hợp. Các công nghệ được ứng dụng còn tạo nên những sản phẩm đạt chất lượng, đồng loạt nên phù hợp nhu cầu của thị trường.

Với sản phẩm lúa, gạo, hiện diện tích sản xuất lúa của tỉnh khoảng 519.000ha, sản lượng bình quân hàng năm từ 2,8 - 2,9 triệu tấn lúa. Trong đó, sản lượng lúa hàng hóa khoảng từ 2,1 - 2,2 triệu tấn lúa, tương đương khoảng 1 - 1,1 triệu tấn gạo. Bên cạnh đó, Long An có 21 DN tham gia xuất khẩu gạo với mức bình quân từ 800.000 - 1 triệu tấn gạo. Cùng với việc tích cực xây dựng vùng nguyên liệu, việc đầu tư trang thiết bị, áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất hàng hóa cũng được DN chú trọng nhằm mang sản phẩm hàng hóa chất lượng đến tay người tiêu dùng.

Năm 2006, DNTN Công Bình, xã Bình Tịnh, huyện Tân Trụ đi vào hoạt động trong lĩnh vực xay xát và chế biến lương thực, thực phẩm với sản phẩm chính là lúa gạo, đặc biệt chú trọng gạo đặc sản cao cấp. Điều này cũng làm nên nét đặc trưng riêng cho DN Công Bình so với các DN khác ở Long An. Với tâm huyết xây dựng thương hiệu cho hạt gạo Việt Nam, DNTN Công Bình mạnh dạn đầu tư nhà máy, trang bị hệ thống máy móc, thiết bị hiện đại, xây kho chứa, liên kết cùng nông dân trồng lúa, đẩy mạnh ứng dụng KH&CN vào sản xuất, chế biến,... Hiện tại, DN sở hữu các loại máy móc, thiết bị hiện đại để phục vụ 4 khâu chính: Sấy, chế biến (xát trắng, đánh bóng), phân loại, đóng gói,... Các sản phẩm của DN đều tuân thủ các tiêu chuẩn, quy trình kiểm soát trong chế biến, an toàn vệ sinh thực phẩm, những đánh giá tiêu chuẩn của ISO 2000 hoặc các công bố chất lượng khác.

Chính nhờ quá trình sản xuất khép kín nên DNTN Công Bình tạo ra sản phẩm gạo có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Từ 1 dây chuyền ban đầu, đến nay, DNTN Công Bình có 3 dây chuyền sản xuất, công suất từ 24.000 tấn/năm nâng lên 120.000 tấn/năm. Giám đốc DNTN Công Bình - Phan Công Bình cho biết thêm, hiện DN ứng dụng quy trình sản xuất gạo dựa trên những tiến bộ của KH&CN để theo dõi, kiểm soát toàn bộ quy trình sản xuất bảo đảm tất cả yêu cầu của khách hàng. Năm 2015, DN ước tính xuất khẩu 70.000 tấn gạo với doanh số hơn 1.200 tỉ đồng. Mục tiêu phát triển của DN đến năm 2020 phấn đấu đạt doanh số xuất khẩu 100.000 tấn gạo/năm, mở rộng quy mô sản xuất gấp 3 lần hiện tại.

Theo Phó Cục trưởng Cục Công nghệ phía Nam-Bộ Công Thương - Tiến sĩ Vương Đức Tuấn, hiện nay, sản phẩm nông nghiệp Việt Nam chỉ có một số ít có thể cạnh tranh với sản phẩm nước ngoài. Trong khi đó, yêu cầu cạnh tranh quốc tế đòi hỏi phải tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh cao, nhất là các thị trường khó tính. Từ đó, việc ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới trong sản xuất, kinh doanh thông qua việc ứng dụng KH&CN, nhất là công nghệ mới là hướng đi tất yếu, giúp sản phẩm nông nghiệp Việt Nam kết nối giữa thị trường trong và ngoài nước, góp phần phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước./.

Gia Hân

Vào TPP, rau quả tự tin, chăn nuôi chịu nhiều sức ép

Nguồn tin:  Báo Chính Phủ

Đó là nhận định của một số chuyên gia về sản phẩm của 2 ngành hàng này của Việt Nam khi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương có hiệu lực.

Xuất khẩu rau quả nhiều triển vọng

Theo TS. Nguyễn Hữu Đạt, Ủy viên Ban chấp hành Hiệp hội Rau quả Việt Nam, ngay từ năm 2004, Nhà nước đã bắt đầu chú ý tới việc xuất khẩu hoa quả vào những thị trường “khó tính” vốn có yêu cầu tiêu chuẩn cao về chất lượng hàng hóa.

Tại thị trường Mỹ, chúng ta đã xuất khẩu được 4 loại trái cây là thanh long, chôm chôm, nhãn, vải. Dự kiến tới đây sẽ xuất khẩu quả vú sữa. Còn với thị trường Nhật Bản, quả xoài và thanh long; thị trường Australia là quả thanh long, vải, xoài, đã có chỗ đứng.

Ông Đạt cũng cho biết hầu hết các thị trường “khó tính” đều là các nước tham gia TPP. Các mặt hàng rau quả xuất khẩu tới thị trường các nước là thành viên của TPP đều tăng đều qua các năm, giá trị thu được cao hơn 4-6 lần so với thị trường thông thường.

Do đã quen với thị trường của nhiều nước là thành viên của TPP nhiều năm qua, nên trong thời gian tới, doanh nghiệp (DN) xuất khẩu rau quả Việt Nam rất tự tin với nhiều triển vọng mới.

Những thành công bước đầu từ việc xuất khẩu một số mặt hàng nông sản sang các thị trường “ khó tính” sẽ tạo tiền đề tốt cho nhiều mặt hàng nông sản khác. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng, ngành trồng trọt Việt Nam muốn phát triển bền vững trong quá trình hội nhập, cần phải có những giải pháp mang tính tổng thể.

Ông Lương Văn Tự, Chủ tịch Hiệp hội Cà phê ca cao Việt Nam (Vicofa) cho rằng, chúng ta cần đẩy mạnh quy hoạch vùng trồng, hỗ trợ giống, hướng dẫn kỹ thuật, chính sách tín dụng cho vay ưu đãi.

Bên cạnh đó, theo các chuyên gia nông nghiệp, muốn nâng cao được giá trị cho các mặt hàng nông sản của Việt Nam nói chung, việc hướng tới sản xuất và chế biến sâu sẽ giúp nâng cao giá trị hàng hóa, tránh được tình trạng dư thừa và phụ thuộc vào thị trường do các nông sản có tính thời vụ.

Sức ép với ngành chăn nuôi

TS. Đoàn Xuân Trúc, Phó Chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Việt Nam cho biết tham gia TPP, ngành chăn nuôi sẽ được tiếp cận nhanh hơn với công nghệ mới, giống vật nuôi mới và các hình thức sản xuất tiên tiến. Bên cạnh đó, ngành chăn nuôi cũng được hưởng lợi (thuế về 0%) khi nhập khẩu nguyên liệu thức ăn, thuốc thú y, con giống, trang thiết bị chăn nuôi, góp phần giảm chi phí đầu vào trong chăn nuôi.

Tuy nhiên, hai thách thức lớn mà ngành đang phải đối mặt khi tham gia TPP là giá thành và chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.

Theo đó, giá thành sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam đang cao hơn khoảng 25-30% so với các nước cùng tham gia TPP (như Hoa Kỳ, Canada, Australia, New Zealand). Nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là do chăn nuôi nhỏ lẻ, chất lượng con giống thấp, chi phí đầu vào cao, năng suất lao động thấp, dịch bệnh thường xuyên đe dọa, liên kết chuỗi trong chăn nuôi yếu, qua nhiều khâu trung gian và lãi suất ngân hàng quá cao.

Cùng với đó, chất lượng sản phẩm và an toàn thực phẩm còn kém do lò mổ thủ công, còn nhiều nông hộ, trang trại chưa thực hành chăn nuôi theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và bảo đảm an toàn sinh học.

Theo ông Trúc, ngành chăn nuôi cần đẩy nhanh tái cơ cấu và tổ chức lại sản xuất, tùy theo sản phẩm (thời gian ít nhất là từ 2 năm).

Trong quá trình này, phát triển liên kết chuỗi giá trị trong chăn nuôi là giải pháp rất quan trọng, giúp loại bỏ các khâu trung gian, hạ giá thành, tạo sản phẩm bảo đảm chất lượng và an toàn thực phẩm, giúp truy suất nguồn gốc, hạn chế nguy cơ dịch bệnh và có điều kiện khi cần vay vốn ngân hàng.

Ông Trúc cho biết, qua khảo sát thực tế (tháng 9/2015) tại một số DN tại TPHCM, Hà Nội, Đồng Nai cho thấy liên kết chuỗi giá trị khép kín trong chăn nuôi đã góp phần giảm chi phí sản xuất từ 12 - 22%. Chủ thể chính để xây dựng và phát triển các liên kết chuỗi sản xuất chăn nuôi là các DN. Ở đây, DN vừa là nhà đầu tư, người tổ chức sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và vừa bảo đảm thị trường tiêu thụ.

Theo các DN ngành chăn nuôi, để giảm bớt khó khăn cho ngành chăn nuôi giai đoạn hội nhập và góp phần hạ giá thành sản xuất, cấp thẩm quyền có thể cho áp dụng cơ chế tín dụng đặc biệt cho ngành chăn nuôi như được vay lãi suất ưu đãi theo chu kỳ sản xuất và theo mùa vụ với các cơ sở sản xuất con giống, chăn nuôi thương phẩm, giết mổ, chế biến, bảo quản sản phẩm và các hoạt động. DN cũng mong Chính phủ sớm ban hành Nghị định về HTX nông nghiệp kiểu mới, trong đó có HTX, tổ hợp tác chăn nuôi.

Bộ NN&PTNT cùng Bộ Tài chính tiếp tục rà soát và xóa bỏ các khoản phí, lệ phí chăn nuôi, thú y không hợp lý, chồng chéo.

Lê Anh

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop