Tin nông nghiệp Chủ Nhật ngày 29 tháng 05 năm 2016

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp Chủ Nhật ngày 29 tháng 05 năm 2016

Tương lai nông nghiệp Việt Nam: Chất lượng sản phẩm là “cứu cánh”

 

Nguồn tin:  VOV

 

Theo nhiều chuyên gia, để phát triển nông nghiệp Việt Nam bền vững, mấu chốt phải là tăng chất lượng nông sản, tăng lợi ích cho người làm nông nghiệp.

 

Tại hội thảo về triển vọng thị trường ngành nông nghiệp Việt Nam 2016, sáng nay (27/5), do Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp Nông thôn (IPSARD) và Vụ Kinh tế của Văn phòng Quốc hội tổ chức, các chuyên gia khuyến nghị Việt Nam cần đẩy mạnh thực hiện các đề án tái cơ cấu ngành, đặc biệt là chống các cú “sốc” từ thị trường thế giới.

 

Áp lực cạnh tranh tăng

 

Ông Nguyễn Trung Kiên, Trưởng Bộ môn Nghiên cứu Thị trường và ngành hàng (IPSARD), nhìn lại mấy năm gần đây cho thấy, giá nội địa nhiều mặt hàng nông sản chủ lực trong xu hướng giảm khiến giảm động lực sản xuất. Trong bối cảnh đó, hạn hán và xâm mặn gây thiệt hại nặng cho nông nghiệp. Tính đến cuối tháng 5/2016, hạn hán và xâm mặn gây ra: Sản lượng lúa đông xuân tại ĐBSCL giảm 1,13 triệu tấn; nước biển xâm nhập sâu hơn thông thường 10-25km; sản lượng tôm sú giảm 12%, tôm thẻ giảm 14%; một số diện tích cà phê chết khô, năng suất kém; năng suất trái cây có múi và dừa, hạt tiêu đều giảm mạnh.

 

Trước đó, năm 2015 xuất khẩu nhiều mặt hàng chủ lực cũng giảm, như: gạo, cà phê, cao su, thủy sản. Sang quý I/2016, dù một số mặt hàng xuất khẩu có tăng trưởng trở lại so với năm 2015 nhưng giá trị xuất khẩu các mặt hàng chủ lực có sự suy giảm. Trong đó, xuất khẩu gạo, cà phê giảm trên các thị trường lớn và truyền thống; cao su và thủy sản cũng tương tự. Một số sản phẩm khác có tăng trưởng xuất khẩu (gỗ, hồ tiêu, hạt điều, rau quả) nhưng cũng không bù đắp được suy giảm trên.

 

Nguyên nhân chính của giảm giá hàng hóa trên thị trường nông sản thế giới, theo ông Kiên, là do cung vượt cầu. Đơn cử, tồn kho gạo tại Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia, Philippines rất cao. Hay như với cao su, dù tiêu thụ vượt sản xuất, nhưng giá dầu giảm đã tác động tiêu cực giá cao su. Cà phê cũng trong cảnh cung vượt cầu.

 

Trong bối cảnh đó, các nước xuất khẩu lớn đã tăng cường hỗ trợ nông dân trong sản xuất – xuất khẩu, như: Giảm diện tích, giảm sản lượng sản xuất lúa, cao su (Thái Lan, Indonesia, Malaysia); tăng nhập khẩu gạo đảm bảo an ninh lương thực (Philippines, Indonesia); duy trì trợ cấp cao (gạo Ấn Độ, cao su Indonesia và Malaysia,…); hạ tiêu chuẩn chất lượng cà phê để duy trì xuất khẩu (cà phê Colombia); khu vực nhà nước và tư nhân Thái Lan hợp tác tăng đầu tư R&D thủy sản.

 

Còn tại Việt Nam, đã có nhiều giải pháp nhằm cải thiện tình hình như: Nhà nước khuyến khích tăng cung gạo khi tín hiệu thị trường tích cực; nỗ lực tái canh cà phê; điều chỉnh giảm thuế đối với doanh nghiệp cao su; tăng kiểm soát cung, giám sát chất lượng hồ tiêu; tiếp thu phản hồi; hỗ trợ tăng cường năng lực khai thác hải sản; tăng cường kiểm soát chất lượng thịt nhập khẩu, dịch bệnh; nỗ lực khơi thông thị trường xuất khẩu rau quả chất lượng cao.

 

Doanh nghiệp cũng đã chú ý nâng cao tiêu chuẩn chất lượng lúa gạo, cà phê, hồ tiêu, bò sữa; tăng kết nối, phản hồi thông tin thị trường, giảm thiểu rủi ro, giảm chi phí; tích cực đấu tranh pháp lý trong thương mại quốc tế… Còn nông dân thì chuyển đổi sản xuất ứng phó với biến động thời tiết – môi trường; đa dạng hóa mô hình sản xuất… Tuy nhiên, nhìn chung hiệu quả thực tiễn vẫn chưa cao, áp lực với ngành nông nghiệp ngày càng tăng. Quý I/2016, nông nghiệp đã tăng trưởng âm.

 

Mở rộng kinh doanh tại các thị trường tiềm năng

 

Trong năm 2016, El Nino tiếp diễn đến nửa đầu năm 2016 khiến giảm sản lượng lúa gạo Thái Lan, Phillippines; gây hạn hán, ảnh hưởng đến sản xuất cà phê tại Brazil, Colombia, Indonesia và Việt Nam. Đồng thời, nó ảnh hưởng đến sản xuất tôm tại Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia nhiều hơn Việt Nam. Giảm sản lượng cao su Thái Lan, Indonesia. Và khô hạn đầu năm 2016 cùng với La Nina vào cuối năm có thể ảnh hưởng đến sản xuất hồ tiêu Indonesia, Ấn Độ và Malaysia.

 

Bên cạnh đó, tỷ giá cũng có xu hướng hỗ trợ tích cực cho nông sản. Đó là sự phá giá mạnh của đồng Euro và Yên Nhật tăng giá so với đồng USD khiến tăng sức mua tại các thị trường lớn, truyền thống; đồng Bath Thái Lan, Rupee Ấn Độ, Real Brazil, Rupiah Indonesia, Ringgit Malaysia tăng giá so với USD đã hỗ trợ giá gạo, cà phê, cao su, thủy sản. Tuy nhiên, “cũng cần lưu ý, Mỹ có thể tiếp tục tăng lãi suất trong năm 2016 và đảo ngược chiều hướng tăng giá các đồng tiền trên thì cũng sẽ tác động mạnh đến giá nông sản”- ông Kiên nhấn mạnh.

 

Trước thực trạng này, nghiên cứu của IPSARD khuyến nghị: Việt Nam cần tiếp tục phát triển kinh doanh với các đối tác truyền thống có nhu cầu tăng trở lại, như: Lúa gạo (Philippines, Indonesia); Cao su, rau quả, hạt điều (Trung Quốc); Hồ tiêu, hạt điều (EU, Mỹ); Gỗ và sản phẩm từ gỗ (Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU); Thủy sản (Mỹ).

 

Đồng thời, cần mở rộng kinh doanh tại các thị trường tiềm năng: Lúa gạo (thị trường châu Phi và EU); Cà phê (Anh, Ba Lan, Séc, Hà Lan, Phần Lan, Bulgarie);

 

Cao su (Ấn Độ, Malaysia, Mỹ); Hồ tiêu, hạt điều (Trung Đông và châu Á); Thủy sản (châu Á (đặc biệt là Trung Quốc) và Mỹ Latin); Rau quả (Nhật Bản, Hoa Kỳ, Úc, NewZealand, Hàn Quốc, EU, Ấn Độ, Chilê); Gỗ và sản phẩm từ gỗ (Nga).

 

Đặc biệt, các chuyên gia của IPSARD khuyến nghị cần đẩy mạnh thực hiện các đề án tái cơ cấu ngành; linh hoạt hơn trong các chính sách về tỷ giá; quy định doanh nghiệp được phép xuất khẩu gạo sử dụng công nghệ cao, sản xuất gạo đặc sản, gạo chế biến; thắt chặt hơn quản lý về buôn lậu và gian lận thương mại, vệ sinh ATTP, chất lượng đầu ra.

 

Ông Kiên cũng đề nghị cần đẩy mạnh đàm phán, đấu tranh về các vấn đề rào cản kỹ thuật để đảm bảo tiêu chuẩn ở mức độ hợp lý, tạo điều kiện phát triển thương mại công bằng; tiếp cận các tập đoàn đa quốc gia, chuỗi siêu thị lớn, hệ thống bán lẻ; đặc biệt chú trọng tuyên truyền thông tin về các rào cản kỹ thuật và điều khoản có lợi cho Việt Nam trong các hiệp định đã ký kết; xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm đã thâm nhập vào các thị trường lớn, phát triển: lúa gạo, thủy sản, rau quả, hồ tiêu, hạt điều; phát triển thị trường nội địa: rau quả, cà phê, cao su.

 

Bà Nguyễn Nga, Việt kiều tại Pháp có thâm niên nhiều năm đầu tư, kinh doanh về nông nghiệp: Nói về nông sản Việt, chỉ xin dẫn câu chuyện của cà phê Việt Nam. Chúng ta xuất khẩu lượng cà phê nhiều, nổi tiếng là sản phẩm chất lượng thấp. Nhưng giá trị thu về ít. Trong khi tiềm năng, lợi thế thì rất nhiều. Do đó, muốn phát triển, không cứ gì cà phê mà nông sản nói chung cần phải đặc biệt chú ý tăng chất lượng sản phẩm, phát triển chế biến sâu./.

 

TS Võ Trí Thành: Mặc dù Việt Nam là một trong những nước hàng đầu về xuất khẩu nông sản, nhưng giá trị thu về còn khiêm tốn. Hiện Việt Nam mới đạt giá trị xuất khẩu của ngành nông nghiệp khoảng 30 tỷ USD, trong khi doanh số của thế giới 15.000 tỷ USD/năm. Rõ ràng, tiềm năng phát triển nông nghiệp rất nhiều nhưng Việt Nam chưa tận dụng được.

 

TS. Sergio René Araujo-Enciso của Tổ chức FAO tại Việt Nam:

 

Trong ngắn hạn, Việt Nam nên chú ý lợi thế để phát triển trái cây nhiệt đới như thanh long, chôm chôm, vải quả…. Tăng trưởng sản lượng được dự báo là tăng mạnh trong thập kỷ tới và bị chi phối bởi nhu cầu tăng từ việc tăng thu nhập và dân số tại các nước đang phát triển. Đồng thời, cơ hội tăng giá trị xuất khẩu chè, cà phê và quả nhờ thương mại các sản phẩm chế biến từ chúng, mặc dù điều này bị hạn chế bởi rào cản thương mại và tiêu chuẩn chất lượng.

 

TS. Nguyễn Đỗ Anh Tuấn, Viện trưởng IPSARD:

 

Năm 2016, ngành nông nghiệp Việt Nam cần nỗ lực khắc phục và chống lại tác động tiêu cực của hạn hán, xâm nhập mặn. Từ nay đến cuối năm cần chỉ đạo sản xuất kịp thời từ Bộ Nông nghiệp – PTNT để bù đắp phần nào thiệt do hạn hán, xâm nhập mặn từ đầu năm gây ra. Trong ngắn hạn, cần bám sát các dự báo về nhu cầu thị trường thế giới để điều chỉnh nguồn cung sản phẩm cho phù hợp. Đặc biệt, cần chú ý nhiều hơn đến thị trường nội địa. Khẩu vị người tiêu dùng Việt Nam cũng thay đổi dần, cơ cấu khẩu phần ăn có thay đổi với xu hướng giảm gạo và tăng thực phẩm khác và người dân đòi hỏi ngày càng cao hơn về chất lượng nông sản.

 

Xuân Thân/VOV.VN

 

Ninh Thuận: Nỗ lực vươn lên của nông dân vùng hạn

 

Nguồn tin:  Báo Ninh Thuận

 

Cứ tưởng hạn hán kéo dài 2 năm liền làm cho nông dân không còn cách nào sản xuất được. Nhưng những gì chúng tôi chứng kiến qua các lần về cơ sở tác nghiệp thì lại khác.

 

Ngược lên xã Phước Kháng, vùng tâm hạn của huyện Thuận Bắc (Ninh Thuận), tận mắt nhìn thấy màu xanh ở vùng chuyển đổi cây trồng quanh hồ Bà Râu mới biết sản xuất nông nghiệp vẫn có điều kiện phát triển. Cuộc sống của đồng bào Raglai nơi đây gắn liền với nương rẫy, rừng núi, thế nhưng, do nắng hạn làm mạch nước ở các suối cạn dần, liên tiếp 3 vụ liền không sản xuất được khiến bà con phải “xuống núi”. Hàng ngàn con gia súc được các hộ di chuyển về lòng hồ Bà Râu để tìm thức ăn, nước uống. Và nơi thung lũng bình lặng lâu nay giờ trở nên nhộn nhịp. Anh Chamaléa Thống, một trong hàng chục hộ dân đóng trại chăn nuôi tại đây, chia sẽ: Mùa nắng hạn bà con nghĩ đủ cách để duy trì sản xuất nhằm ổn định cuộc sống chứ. Toàn bộ khu vực lòng chảo hồ Bà Râu rộng chừng 100 ha được các hộ tận dụng triệt để trồng đậu xanh, bắp, cỏ chăn nuôi gia súc. Nước hồ rút đến đâu, màu xanh của cây trồng lan rộng đến đó.

 

 

Nhờ trồng cỏ phục vụ các hộ chăn nuôi, gia đình anh Dương Quốc Toàn (xã Phước Hậu, Ninh Phước) có thêm thu nhập trong mùa hạn hán.

 

Không riêng gì Phước Kháng, một số hộ dân ở xã Phước Đại, Phước Thành… (Bác Ái) cũng đã cất nhà tạm ở lòng hồ sông Sắt để thuận tiện cho sinh hoạt, sản xuất trong mùa nắng hạn. Anh Cao Thanh Phước, người địa phương, cho biết: Nắng hạn hoành hành nhưng tôi vẫn không nản chí, tìm mọi cách cứu đàn gia súc, tận dụng các khoảng đất gần nguồn nước trồng bắp, đậu, tạo thêm thu nhập. Tiếp nhận thông báo của cơ quan chức năng về tình hình nắng hạn còn kéo dài, nên tôi đã dựng chuồng bò ở bờ phía đông hồ Sông Sắt, di chuyển đàn bò 15 con trên rẫy xuống. Tại vùng “dã chiến”, anh Phước tổ chức sản xuất hợp lý, trồng xen kẽ các loại cây thích ứng với thời tiết khô hạn. Ngoài trồng cỏ chăn nuôi, anh còn sản xuất 2 sào bắp, đậu xanh. Đến nay, đậu đã hái xong, bắp bắt đầu thu hoạch, năng suất ước đạt 5 tạ/sào. Anh cho biết thêm: Tận dụng các khoảng đất quanh sông, suối, hồ, đập sản xuất là giải pháp tạo nguồn thu nhập trong mùa hạn của nhiều nông hộ vùng cao để đảm bảo cuộc sống không bị xáo trộn.

 

Trong mùa hạn hán, nông dân trong tỉnh mưu sinh bằng nhiều cách, từ đó xuất hiện thêm nhiều nghề. Trước đây, có nghề “lái rơm”, nay xuất hiện thêm nghề trồng cỏ bán cho các hộ chăn nuôi đang “ăn nên làm ra”. Anh Dương Quốc Toàn (ở xã Phước Hậu, Ninh Phước), cho biết, vụ hè - thu năm 2015, anh chuyển 1 sào đất lúa sang trồng cỏ bổ sung thức ăn cho 5 con bò, không nghĩ đến chuyện mua bán. Tuy nhiên, sau đó nhiều người hỏi mua, nên anh mở rộng quy mô sản xuất lên 2 sào. Trồng cỏ ít đầu tư, nhanh thu hoạch, cứ 10 ngày cắt bán 1 lần, tính ra mỗi tháng thu nhập từ 2 sào cỏ được 4 triệu đồng. Nhu cầu thức ăn cho gia súc trong mùa hạn hán là rất lớn. Mặc dù tỉnh đã vận động hộ chăn nuôi tận dụng phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn cho gia súc, quy hoạch vùng trồng cỏ, với tổng diện tích 300ha nhưng vẫn không đáp ứng đủ, do đó nghề trồng cỏ lại có “đất sống”. Hiện nay ở nông thôn, không ít hộ chuyển đất lúa kém hiệu quả sang trồng cỏ theo hướng sản xuất hàng hóa, coi đó là kế sinh nhai trong mùa nắng hạn. Nghề trồng cỏ chăn nuôi phát triển mạnh nhất là ở huyện Ninh Phước và Ninh Hải. Tại đây, các hộ quy hoạch vùng trồng cỏ bài bản, sử dụng công nghệ tưới nước tiết kiệm giảm được nhiều chi phí, năng suất đạt cao. Nhận thấy triển vọng của nghề trồng cỏ, đã có doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào lĩnh vực này. Đồng chí Nguyễn Hữu Đức, Phó Chủ tịch UBND huyện Ninh Phước, cho biết: Huyện có chủ trương kêu gọi doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà máy chế biến thức ăn gia súc tươi ở đất dự phòng khu vực hồ Bàu Zôn rộng 100ha. Khi nhà máy đi vào hoạt động sẽ thúc đẩy nghề trồng cỏ phát triển, tạo việc làm cho nhiều lao động.

 

Anh Tùng

 

Làm thực phẩm sạch khó trăm bề

 

Nguồn tin:  Người Lao Động

 

Trong làn sóng khởi nghiệp gần đây, lĩnh vực thực phẩm sạch được nhiều người quan tâm do nhu cầu thị trường lớn

 

Nhiều người vốn là “tay ngang”, xuất phát từ nhu cầu làm thực phẩm gia đình nhưng có khả năng mở rộng quy mô đã coi đây là cơ hội để làm giàu.

 

Làn sóng mới

 

“Tôi có 1ha đất bỏ không, giờ trồng gì thì bán được?”. “Tôi muốn làm rau thủy canh thì cần bao nhiêu vốn, thị trường ở đâu?”. “Mình có một trang trại gà ta, trước giờ toàn bán cho thương lái, nay muốn bán lẻ phải làm sao?”… Đó là những câu hỏi phổ biến tại nhiều diễn đàn cũng như các hội nghị về nông sản sạch tổ chức gần đây. Không chỉ vậy, trong những cuộc cà phê với bạn bè, nhiều người cũng có thể nghe được những câu chuyện như “mình sắp bán trái cây sạch, mọi người nhớ ủng hộ”…

 

Thế nhưng, anh Trần Văn Hùng - chủ một cửa hàng thực phẩm sạch ở quận 1, TP HCM - cho biết có làm thực tế mới thấy khó vô cùng. Nhiều loại trước khi trồng, khảo sát cho thấy nhu cầu rất lớn nhưng lúc thu hoạch thì việc tiêu thụ không như kỳ vọng.

 

 

Thực phẩm sạch có giá thành cao nên cần sự tiếp sức của người tiêu dùng để phát triển, hạ giá thành

 

“Đặc biệt, nhóm các sản phẩm thịt không hóa chất gặp khó ngay từ khâu chăn nuôi vì bệnh dịch nhiều, nếu không dùng kháng sinh thì rất dễ mất trắng cả đàn. Đến khâu giết mổ phải đưa đến lò đạt chuẩn ở xa, trong khi số lượng cung cấp nhỏ nên chi phí cao. Ngoài ra, thủ tục thú y phức tạp, phải mất nhiều tháng sản phẩm ra thị trường mới được xem là hợp pháp khiến nhiều người nản lòng” - anh Hùng dẫn chứng.

 

Theo ông Mai Quốc Thái, Phó Chủ tịch Hội Làm vườn và Trang trại TP HCM, muốn đầu tư vào nông nghiệp cần 4 yếu tố chính: đất, vốn, kỹ thuật và thị trường. Nếu chưa đủ 4 yếu tố này mà lao vào làm sẽ cầm chắc thất bại.

 

TS Đinh Minh Hiệp, Trưởng Ban Quản lý Khu Nông nghiệp công nghệ cao TP HCM (AHTP), cho biết qua nhiều năm theo dõi hoạt động ươm tạo doanh nghiệp (DN) công nghệ thì thời gian gần đây, lĩnh vực nông nghiệp có nhiều tín hiệu đáng mừng. Thực phẩm vốn là nhu cầu thiết yếu của con người nên thị trường luôn rộng mở. Đời sống càng phát triển thì yêu cầu về thực phẩm ngày càng cao.

 

“Thực tế, thị trường đang đòi hỏi một nền nông nghiệp có thể nói nôm na là xanh - sạch - đẹp và có lợi về mặt kinh tế. Tuy cách thức sản xuất nông nghiệp có thay đổi nhưng so với những lĩnh vực khác như công nghiệp, dịch vụ thì giá trị gia tăng không bằng. Người ta vẫn nói nông sản thực phẩm là “sáng rau, chiều rác” nên không thể đòi hỏi lợi nhuận cao” - ông Hiệp nhận xét.

 

Nên “làm từ từ”

 

Việc tiêu thụ nông sản sạch hiện gặp “điểm nghẽn” giữa sản xuất và thị trường do thiếu kênh phân phối riêng. Tình trạng sản xuất sạch nhưng phải bán như hàng chợ và bị trộn lẫn hàng sạch - bẩn khiến người tiêu dùng càng khó lựa chọn.

 

Đại diện Công ty TNHH Trang trại 3A (Bình Dương), chuyên nhóm hàng đặc sản (gà ri, tổ yến…) cho biết làm thực phẩm sạch không khó, cái khó là bán ở đâu. Nhiều DN khởi nghiệp nông nghiệp có quy mô nhỏ, thiếu vốn nên không thể kiêm luôn khâu phân phối. Vì vậy, rất cần những đơn vị kết nối các nhà sản xuất và nơi chuyên doanh thực phẩm sạch để cùng hỗ trợ nhau phát triển.

 

Theo thạc sĩ Vũ Tuấn Anh, Trưởng Dự án Khởi nghiệp Cộng đồng (Hoa Sen Group), những người muốn làm thực phẩm sạch không nên tiến hành một mình mà cần hình thành những nhóm hợp tác để tăng sức mạnh. Còn ông Lê Hiếu Hữu, cố vấn marketing Công ty CP Hóa chất Nông Việt, cho rằng bạn trẻ khi khởi nghiệp nên tìm cho mình thị trường ngách, ít cạnh tranh để bắt đầu. Với thực phẩm sạch thì nên “làm từ từ” để kiểm soát về chất lượng cũng như quản trị.

 

Đồng tình với ý kiến này, thạc sĩ Nguyễn Hoàng Cung, Giám đốc kinh doanh Công ty TNHH Sản xuất thương mại dịch vụ Vua Vi Sinh (Cần Thơ) - chuyên về gạo sạch, khuyên những ai mới bắt đầu vào lĩnh vực này nên làm từng bước, không nôn nóng. Bây giờ là thời của thực phẩm hữu cơ nhưng để làm được thì khó vô cùng, nhiều người đầu tư đến khi gần lấy được chứng nhận thì hết vốn, không thể phát triển tiếp. Các chuyên gia đến từ Mỹ, châu Âu, Nhật Bản chỉ chúng ta cách làm nông nghiệp hữu cơ nhưng thực tế tỉ lệ nông sản hữu cơ của họ cũng rất thấp.

 

“Theo quan điểm của tôi thì nên bắt đầu từ việc dùng hóa chất có kiểm soát (các tiêu chuẩn GAP) rồi hạn chế dần, sau đó là canh tác sinh học, cần phải có thời gian để đất đai đủ tiêu chuẩn sản xuất hữu cơ thật sự. Trong tương lai không xa, giá thành nông sản sạch theo tiêu chuẩn sinh thái, hữu cơ sẽ không còn cao do không tốn chi phí vật tư đầu vào từ phân bón, thuốc bảo vệ thực vật mà Việt Nam vốn phụ thuộc vào nhập khẩu” - ông Cung kỳ vọng.

 

TS Đinh Minh Hiệp, Trưởng Ban Quản lý Khu Nông nghiệp Công nghệ cao TP HCM (AHTP):

 

Đừng sợ hãi khi khởi nghiệp

 

Muốn khởi nghiệp thành công thì không chỉ chọn được đường đi đúng mà quan trọng là duy trì được niềm đam mê theo đuổi lâu dài. Bắt đầu từ nền giáo dục không khuyến khích việc sáng tạo, chủ động nên ngay từ nhận thức, phần lớn bạn trẻ thích sự an toàn, ít người có khát khao làm chủ. Vì vậy, ở Trung tâm ươm tạo DN nông nghiệp công nghệ cao thuộc AHTP, chúng tôi phải tập huấn tinh thần khởi nghiệp để họ biết và không còn sợ hãi chuyện khởi nghiệp.

 

Hiện tại, trung tâm có khả năng tiếp nhận hơn 10 DN nhưng rất thiếu ứng viên. Trung tâm có các điều kiện về đất đai, phòng thí nghiệm, kỹ thuật và khả năng kết nối thị trường, tìm nguồn vốn. Vì vậy, nếu các bạn có ý tưởng về dự án nông nghiệp công nghệ cao thì nên mạnh dạn đến tìm hiểu. Nên lao vào làm để biết mình cần gì, thiếu gì hơn là đứng ngoài ngần ngại rồi nghĩ “nếu tốt thế thì không đến lượt mình”. Như vậy các bạn đã thua ngay từ đầu.

 

Phải thay đổi thói quen tiêu dùng

 

Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, để làm ra thực phẩm sạch là rất khó. Muốn có nhiều thực phẩm sạch trên thị trường thì từng người phải thay đổi thói quen tiêu dùng. Như bản thân tôi, 7 năm nay không uống cà phê vỉa hè vì biết chắc là nó bẩn, chỉ uống cà phê bịch có nhãn hiệu. Cà phê này không hẳn là sạch nhưng chắc chắn là ít độc hại hơn cà phê vỉa hè.

 

Một người khi mắc bệnh ung thư thì chi phí điều trị từ 400 triệu đến 1 tỉ đồng nhưng rồi vẫn chết trong đau đớn. Vì vậy, ngay bây giờ, người tiêu dùng nên để dành chi phí mua thực phẩm sạch và không nên so đo tại sao rau sạch mắc hơn rau chợ. Nếu khởi nghiệp kinh doanh thực phẩm sạch, khi liên kết với nông dân thì nên mua với giá cao hơn để khuyến khích bà con làm tốt và cho họ thấy sẽ mất mát nhiều hơn nếu làm gian dối.

 

Niềm tin là chưa đủ

 

Hiện nay, có rất nhiều nhóm tham gia chuỗi cung ứng nông sản sạch dựa trên cơ sở “niềm tin” mà thiếu quy trình rõ ràng để kiểm soát chất lượng. Từ đó, việc hợp tác chỉ suôn sẻ ở giai đoạn đầu với quy mô nhỏ. Đến khi thị trường lớn hơn thì gặp hàng loạt vấn đề về quản trị dẫn đến mâu thuẫn, chia rẽ nội bộ.

 

Theo tôi, cần có sự hợp tác 3 bên giữa nhà sản xuất - nhà khoa học và nhà kinh doanh trong chuỗi cung ứng. Ở đó, nhà khoa học sẽ đồng hành cùng nông dân trong cả quá trình sản xuất để bảo đảm sản phẩm đầu ra có chất lượng như yêu cầu của đơn vị kinh doanh. Nông dân tham gia chuỗi không lo về đầu ra mà chỉ tập trung sản xuất theo yêu cầu về chất lượng, số lượng của nơi tiêu thụ. Người tiêu dùng cũng được lợi vì có sản phẩm sạch, không gặp những mối nguy về hóa chất, vi sinh… (Vương Ngọc ghi)

 

NGỌC ÁNH

 

Thoát nghèo từ mô hình kinh tế trang trại tổng hợp

 

Nguồn tin:  Báo Ninh Bình

 

Vượt hơn 30km đường đồi núi chúng tôi mới tìm được đến bản Xanh, xã Kỳ Phú, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Đón chúng tôi là trưởng bản Xanh, Đào Sỹ Đợi, thấy chúng tôi, ông vồn vã: Bản Xanh bây giờ có đến 50% là hộ khá giả, chỉ có hơn 10% là hộ nghèo, mà hộ nghèo ở thôn đều là những hộ neo đơn và bệnh tật. Điểm chung của các hộ có kinh tế khá giả ở bản Xanh là đều nuôi hươu và nuôi ong. Hai con nuôi này thực sự hợp với điều kiện tự nhiên nơi đây và đang có xu hướng phát triển rộng.

 

 

Mô hình kinh tế trang trại tổng hợp của anh Nguyễn Văn Yên. Ảnh: Đức Lam

 

Theo chỉ dẫn của trưởng bản, chúng tôi đến gia đình anh Nguyễn Văn Yên, chủ nhà là người đàn ông nhỏ thó, ăn mặc tuềnh toàng, kiệm lời, chỉ đến khi chúng tôi hỏi về cách nuôi hươu anh mới cởi mở. Anh Yên thủng thẳng: Khi tôi lấy vợ ra ở riêng bố mẹ cho đúng 1 tạ thóc.

 

Hai vợ chồng phải đi làm thuê, dành dụm mãi mới mua được cặp bò. Nhưng bò hay bị dịch bệnh nên được mấy năm nghe theo lời khuyên của anh em trong bản, gia đình tôi cũng chuyển sang nuôi hươu. Hươu khác hẳn trâu bò, chưa từng bị dịch. Chúng chỉ mắc hai bệnh phải đề phòng. Một là đi tướt khi vừa qua đông, do sang xuân được ăn những thức ăn tươi tốt, giàu chất. Không biết thì nó ốm và có thể chết, cho ăn xoan đắng là khỏi ngay.

 

Còn khi đông hàn về nó hay sưng phổi. Thấy lạnh, người nuôi phải che chắn ngay chuồng trại. Không để hươu nhiễm lạnh mà sưng phổi. Hươu ăn không nhiều như trâu bò, lại có thể ăn hơn 100 loại lá tạp trong rừng, kinh tế hơn. Chuồng trại nên có chỗ rộng cho nó chơi, chạy”.

 

Hiện nay đàn hươu nhà anh có 19 con hươu. Anh bảo nuôi hươu vừa kinh tế lại nhàn hơn nuôi trâu bò. Nhà chỉ có một mình anh là lao động chính, người vợ thường xuyên ốm đau không làm được việc nặng, 2 con đang tuổi đi học nhưng anh vẫn có thể hoàn thành tốt công việc ở trang trại.

 

Anh nói: Người nuôi hươu vừa để thoát nghèo, thậm chí làm giàu, công việc này còn mang lại niềm vui cho chính mình… Anh Yên nhẩm tính: mỗi năm một con hươu đực cho một cặp nhung. Nhung hươu thường bình quân 5 lạng, giá bán 1 lạng ở đây khoảng 1,5 triệu, mỗi năm riêng nhung hươu bán cũng được 100 triệu đồng. Khi hươu hết tuổi cho nhung thì có thể bán hươu thịt giá cũng rất cao so với các con nuôi khác.

 

Ngoài nuôi hươu, gia đình anh Yên còn kết hợp nuôi 100 đàn ong, 3 cặp nhím và trồng các loại cây ăn quả, mỗi năm cho thu nhập hơn 100 triệu đồng. Theo anh Yên, mặc dù mô hình kinh tế trang trại tổng hợp của gia đình anh quy mô nhỏ nhưng nhà vẫn khấm khá hơn các hộ thuần nông.

 

Chúng tôi nhẩm tính với mô hình trang trại tổng hợp như gia đình anh thì mỗi năm cũng cho thu nhập khoảng 200 triệu đồng. Có thể thấy đây là hướng đi đúng và rất phù hợp với người dân ở những xã vùng cao như Kỳ Phú.

 

Nguyễn Thơm

 

Hậu Lộc (Thanh Hóa): Phát triển kinh tế trang trại theo hướng an toàn, bền vững

 

Nguồn tin:  Báo Thanh Hóa

 

 

Trang trại gà của gia đình anh Đào Xuân Khoa, xã Triệu Lộc. Ảnh: Ngọc Anh

 

Về Minh Lộc (Hậu Lộc, Thanh Hóa), một xã ven biển đất chật, người đông, diện tích đất nông nghiệp sản xuất kém hiệu quả do thường xuyên bị nước mặn xâm thực.

 

Khó khăn trên đồng đất quê hương đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo xã phải có cách nghĩ, cách làm mới, linh hoạt, sáng tạo và đúng hướng mới có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. Nói đi đôi với làm, Minh Lộc đã tiên phong trong việc xây dựng các mô hình trang trại chăn nuôi theo hình thức liên kết với Công ty cổ phần CiPi Việt Nam chi nhánh Thanh Hóa. Toàn xã hiện có 33 trang trại và gia trại chăn nuôi gà hậu bị, gà thịt, lợn. Mỗi năm xuất bán ra thị trường hàng trăm nghìn con gà hậu bị, hàng chục nghìn tấn thịt lợn, thịt gia cầm.

 

Mô hình trang trại của gia đình anh Phạm Văn Minh là một ví dụ điển hình. Anh Minh cho biết, hiện trang trại của anh có qui mô 1.000 con lợn thịt. Từ năm 2010, anh đầu tư nuôi theo quy trình khép kín. Điều quan trọng là trong các công đoạn nuôi, vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, công tác kiểm dịch được kiểm soát theo qui trình rất nghiêm ngặt. Từ con giống, thức ăn, thuốc thú y, kỹ thuật nuôi cho đến khâu tiêu thụ đều được Công ty cổ phần Ci Pi Việt Nam chi nhánh Thanh Hóa bao tiêu trọn gói. Một năm gia đình anh nuôi được hai lứa. Anh còn tận dụng phân làm khí biôga và bón cho cây trồng. Trừ chi phí, gia đình anh thu lời khoảng 600 triệu mỗi năm, giải quyết việc làm thường xuyên cho từ 2-4 lao động với mức thu nhập 4 triệu đồng/người/tháng.

 

Đến Phú Lộc, một vùng quê có nhiều tiềm năng về sản xuất nông nghiệp, không chỉ đi đầu trong sản xuất ngành trồng trọt với các loại cây hàng hóa mới có giá trị kinh tế cao như ngô ngọt, dưa bao tử, cải chân vịt, ớt, bí xanh..., Phú Lộc còn là xã điển hình trong phát triển chăn nuôi, đặc biệt với khu trang trại chăn nuôi lợn nái ngoại quy mô lớn. Đó là trang trại của anh Nguyễn Văn Công, bình quân mỗi năm xuất hơn 25.000 con lợn giống cung cấp cho thị trường trong và ngoài tỉnh, tổng giá trị hàng hóa đạt trên 30 tỷ đồng/năm. Trừ chi phí mỗi tháng trang trại đạt 100 - 200 triệu đồng.

 

Về vùng đồi Triệu Lộc, một xã có tiềm năng phát triển về du lịch tâm linh, sinh thái, các mô hình cây ăn quả, cây lâm nghiệp và còn được biết đến với khu trang trại gà sinh sản quy mô 15.000 con, lớn tốp đầu của tỉnh, đó là trang trại của anh Đào Xuân Khoa. Năm 2010, anh nhận thầu 0,5ha đất ruộng sâu trũng không thuận lợi cho việc trồng lúa, đầu tư khoảng 2 tỷ đồng để chăn nuôi gà sinh sản và lấy trứng bán. Mỗi năm anh thu lãi từ 500 triệu đến 1 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 6 lao động thường xuyên với mức thu nhập 3,5 triệu/người/tháng, thời vụ lên tới 10 người với mức lương 150.000 đến 200.000 đồng/ngày công. Trong 15.000 con gà sinh sản, chủ yếu là gà Ai Cập, gà lông màu (giống gà do Công ty CiPi cung cấp), gia đình tự đầu tư chăn nuôi và tiêu thụ sản phẩm, gà được nuôi trên hệ thống lồng hiện đại, khép kín, đảm bảo an toàn về dịch bệnh. Mỗi năm trang trại của gia đình anh đã cung cấp ra ngoài thị trường trong và ngoài tỉnh trên 4 triệu quả trứng, tổng giá trị hàng hóa đạt trên 5 tỷ đồng, trừ chi phí mỗi tháng trang trại đạt trên 40 triệu đồng.

 

Trao đổi với chúng tôi, Trưởng phòng Nông nghiệp huyện Hậu Lộc Nguyễn Thị Liên, cho biết: Với mục tiêu đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp, Hậu Lộc đã định hướng phát triển trang trại chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học và bền vững, gắn với xây dựng nông thôn mới. Với việc triển khai đồng bộ các giải pháp như cơ chế, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện về quy hoạch đất, vốn, khoa học – kỹ thuật, huyện Hậu Lộc đã khuyến khích nhiều hộ dân chủ động khắc phục khó khăn, đổi mới tư duy, thay đổi thói quen sản xuất manh mún mạnh dạn đầu tư xây dựng các mô hình kinh tế trang trại, sản xuất hàng hóa chất lượng cao, quy mô lớn, bảo đảm các điều kiện phòng bệnh, vệ sinh thú ý, kiểm soát dịch bệnh. Tính đến tháng 5-2016, toàn huyện có 559 trang trại, trong đó có 82 trang trại đạt tiêu chí. Kinh tế trang trại là hướng đi bền vững, tạo đà thúc đẩy phát triển và tăng trưởng kinh tế ngành nông nghiệp nói chung và ngành chăn nuôi nói riêng của huyện trong thời gian tới.

 

Để kinh tế trang trại phát triển theo hướng an toàn, bền vững, huyện đã thực hiện tái cơ cấu ngành chăn nuôi, phát triển chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa ở cả 3 qui mô lớn, vừa và nhỏ, ưu tiên qui mô vừa và nhỏ. Để thực hiện mục tiêu đó, huyện đã chỉ đạo các xã, thị trấn thực hiện quy hoạch phát triển chăn nuôi gắn với xây dựng nông thôn mới. Ưu tiên chuyển đổi một số diện tích đất canh tác kém hiệu quả sang trồng cỏ chăn nuôi trâu, bò, thỏ và chuyển đổi một phần đất không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp sang phát triển mô hình kinh tế trang trại bền vững. Xác định rõ tiềm năng, lợi thế để khai thác có hiệu quả tối đa lợi thế của từng vùng. Đối với các xã vùng đồi, phát triển chăn nuôi bò, dê, gà theo hình thức bán chăn thả là chủ lực, nhằm tận dụng tối đa diện tích đất ven đồi, bìa rừng, đất bãi ven sông, quy hoạch phát triển theo mô hình chăn nuôi kết hợp: bò-dê-gà-thỏ. Với các xã ven biển, chú trọng phát triển chăn nuôi lợn và gia cầm là chủ lực, mô hình kết hợp là gia cầm-lợn. Còn với xã vùng đồng, đây là lợi thế cho phát triển đa dạng các loại vật nuôi, nhằm tận dụng nguồn nông sản sẵn có của địa phương để phát huy tối đa thế mạnh của vùng, mô hình chăn nuôi kết hợp là lợn-gia cầm-trâu, bò-thỏ.

 

Bên cạnh đó, huyện tiếp tục tuyên truyền sâu rộng để nhân dân nhận thức đầy đủ và hưởng ứng cao các chính sách của tỉnh, của huyện về phát triển kinh tế trang trại. Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Mở rộng và nâng cao chất lượng các chương trình tập huấn về kỹ thuật chăn nuôi gắn với thực tiễn sản xuất, các qui trình và biện pháp phòng, chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi. Tăng cường công tác quản lý nhà Nước về kiểm soát giết mổ và an toàn thực phẩm trong chăn nuôi... Lựa chọn cơ sở, xã, thôn xây dựng điểm để nhân rộng ra toàn huyện. Đặc biệt, tập trung xây dựng các cơ sở an toàn dịch bệnh, tạo ra sản phẩm chăn nuôi sạch phục vụ tiêu dùng nội địa và hướng tới xuất khẩu.

 

Ngọc Anh

 

Xuất khẩu nông sản yếu thế

 

Nguồn tin:  Báo Đồng Nai

 

Gần 5 tháng đầu năm 2016, xuất khẩu nông sản của Đồng Nai có 5/6 mặt hàng giá giảm sâu so với cùng kỳ năm trước. Thị trường xuất khẩu nông sản cũng đang chịu sự cạnh tranh gay gắt với hàng hóa của các nước khác. Theo nhiều dự đoán, thời gian tới giá xuất khẩu vẫn khó có khả năng tăng cao hơn.

 

 

Mì cắt lát khô tại Công ty TNHH Thành Đạt Phát (huyện Xuân Lộc).

 

Theo Cục Thống kê Đồng Nai, kim ngạch xuất khẩu cà phê, cao su, tiêu, nhân hạt điều, mì và sản phẩm từ mì giá giảm mạnh. Trong đó, 2 mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực là cà phê và cao su có giá giảm nhiều nhất, từ 150 - 200 USD/tấn.

 

* Xuất khẩu nhiều nhưng kém vui

 

Các doanh nghiệp Đồng Nai xuất khẩu gần 147,6 ngàn tấn cà phê với kim ngạch 238,2 triệu USD. Về số lượng thì tăng trên 62%, nhưng giá trị chỉ tăng 28,4%. Điều này cho thấy, tuy sản lượng xuất khẩu tăng khá cao nhưng giá xuất khẩu lại hạ rất nhiều nên lợi nhuận của người trồng cà phê cũng như doanh nghiệp xuất khẩu đều giảm.

 

Đại diện Tổng công ty Tín Nghĩa cho biết từ đầu năm đến nay, tổng công ty xuất khẩu hơn 60 ngàn tấn cà phê sang khoảng 60 quốc gia, tăng hơn 40% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, giá cà phê xuất khẩu bình quân chỉ đạt 1.700 USD/tấn, giảm khoảng 200 USD/tấn so với năm trước. Theo các doanh nghiệp, xuất khẩu cà phê của Đồng Nai ngày càng được mở rộng ra nhiều nước trên thế giới, không còn bị lệ thuộc vào một số thị trường như trước, nhưng chủ yếu xuất thô nên giá trị gia tăng thấp.

 

Từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh xuất khẩu gần 10,5 ngàn tấn cao su, kim ngạch 13,5 triệu USD. So với cùng thời điểm năm 2015, sản lượng tăng 17% nhưng giá trị chỉ gần xấp xỉ. Doanh nghiệp xuất khẩu cao su lớn nhất tại Đồng Nai là Tổng công ty cao su Đồng Nai, gần 5 tháng đầu năm xuất khẩu được 9,6 ngàn tấn mủ cao su thiên nhiên có giá bình quân khoảng 28 triệu đồng/tấn, giảm 4,5 triệu đồng/tấn so với năm trước. Trong nước, giá cao su chỉ còn 25-26 triệu đồng/tấn khiến nhiều người trồng cao su phải tạm ngưng khai thác vì giá bán mủ không đủ trả tiền công thuê thợ cạo mủ. Theo phân tích của các chuyên gia kinh tế, giá cà phê, cao su trên thế giới trong những tháng tới chỉ dao động ở những biên độ hẹp, khó có khả năng tăng cao đột biến.

 

* Cạnh tranh gay gắt

 

Dù mở rộng thêm được nhiều thị trường xuất khẩu, nông sản của Đồng Nai và cả nước vẫn chịu sự cạnh tranh gay gắt với nông sản của các nước trên thế giới, như: Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Campuchia, Trung Quốc, Ấn Độ... Khi giá xuất khẩu nông sản giảm, nhiều doanh nghiệp chú ý hơn đến thị trường trong nước bằng cách tìm các đối tác để cung ứng sản phẩm thô chế biến.

 

Đối với mì lát, trong gần 5 tháng đầu năm, doanh nghiệp Đồng Nai xuất khẩu 10,5 ngàn tấn mì được 3,6 triệu USD, chỉ bằng 1/4 so với cùng kỳ năm trước và giá xuất khẩu tiếp tục giảm. Ông Nguyễn Thành Công, Phó chủ tịch Hội Doanh nghiệp Xuân Lộc, Giám đốc Công ty TNHH Thành Đạt Phát (huyện Xuân Lộc) chuyên kinh doanh mặt hàng mì, chia sẻ: “Mì cắt lát khô hiện chỉ còn khoảng 3,6 ngàn đồng/kg, giảm trên 1 ngàn đồng/kg so với năm trước. Mì khô xuất khẩu lẫn tiêu thụ trong nước chịu sự cạnh tranh gay gắt của mì Campuchia và một số nước khác”. Cũng theo ông Công, giá tiếp tục giữ mức thấp như hiện nay thì vụ mì tới nông dân trong tỉnh sẽ giảm diện tích trồng để chuyển sang các cây trồng khác có giá trị cao hơn.

 

“Những năm trước, mì cắt lát khô có thời điểm lên đến gần 6 ngàn đồng/kg. Nhưng từ đầu năm 2016 đến nay giá hạ liên tục, xuống chỉ còn hơn 3 ngàn đồng/kg. Thị trường xuất khẩu giảm mạnh, một số doanh nghiệp quay về tiêu thụ trong nước lại gặp cạnh tranh với mì Campuchia giá rẻ tràn qua” - ông Hồ Sáu, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Việt Nông Lâm (huyện Trảng Bom), nói.

 

Riêng với hạt tiêu, nếu năm 2015 giá hạt tiêu xuất khẩu có những thời điểm đạt hơn 9 ngàn USD/tấn thì trong gần 5 tháng đầu năm 2016 liên tiếp hạ xuống, chỉ còn bình quân khoảng 8.400 USD/tấn. Việt Nam đang là nước xuất khẩu tiêu lớn nhất thế giới và sản lượng tiêu của nước ta có thể chi phối được thế giới, song về giá vẫn chưa làm chủ được vì số đông doanh nghiệp vẫn qua trung gian, chưa xuất khẩu trực tiếp sang những nước đang có nhu cầu lớn về mặt hàng này.

 

Nhân hạt điều là một trong ít mặt hàng nông sản Đồng Nai chế biến sâu trước khi xuất khẩu. Đây từng là mặt hàng có giá trị gia tăng cao vì phần lớn doanh nghiệp không xuất thô. Thế nhưng, mặt hàng này thời gian gần đây sản lượng xuất khẩu có sự sụt giảm mạnh do nguồn nguyên liệu trong nước bị thu hẹp, các doanh nghiệp phải nhập khẩu hạt điều thô về để chế biến. Nguyên liệu nhập khẩu liên tục tăng cao, giá xuất khẩu chỉ tăng nhẹ, doanh nghiệp không có lợi nhuận buộc phải thu nhỏ sản xuất.

 

Theo ông Iijima Isao, Cố vấn đặc biệt của Thủ tướng Nhật Bản, Việt Nam muốn nâng cao giá nông sản xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản và các nước khác thì sản xuất theo quy trình sạch cần chú ý đến khâu thu hoạch, bảo quản sau thu hoạch.

 

Hương Giang

 

Sản xuất đa cây, đa con, chống biến đổi khí hậu

 

Nguồn tin:  Báo Cà Mau

 

Hiện nay, nông dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau chú trọng phát triển các mô hình sản xuất đa cây, con trên cùng một đơn vị diện tích. Ðây là mô hình mang tính hiệu quả, bền vững trong điều kiện biến đổi khí hậu, thời tiết bất thường, giá cả bấp bênh như hiện nay.

 

Dựa vào tiềm năng của địa phương, huyện Phú Tân tập trung phát động nông dân tăng gia sản xuất đa cây, con. Trong đó, chú trọng các loại hình sản xuất kết hợp, như: nuôi tôm kết hợp cua, cá, sò huyết... trên bờ trồng cây ăn trái, hoa màu. Ðáng chú ý, là nhiều nông dân còn phát triển nuôi các loài thuỷ sản có giá trị kinh tế trên diện tích nhỏ, như: nuôi cá bống tượng, rắn ri tượng, nuôi ếch, các loại cá nước ngọt.

 

Ða canh để tăng thu nhập

 

Ông Trần Văn Mức, ấp Tân Nghĩa, xã Rạch Chèo, là một trong những hộ thực hiện có hiệu quả mô hình đa cây, con nước mặn và ngọt ở địa phương thời gian qua. Cùng với nuôi tôm công nghiệp và quảng canh cải tiến, ông Mức cải tạo lại và ngọt hoá diện tích đất vườn để trồng cây ăn trái, rau màu. Ông tận dụng ao nuôi, nuôi cá bống tượng các loại, đáng chú ý là mô hình nuôi rắn ri tượng trong bể xi- măng. Mấy năm qua, mô hình này cho thu hoạch khá, chủ yếu là bán rắn con, bình quân hằng năm hơn 25 triệu đồng.

 

 

Mô hình nuôi rắn ri tượng của ông Trần Văn Mức, ấp Tân Nghĩa, xã Rạch Chèo, rất hiệu quả.

 

Theo ông Trần Văn Mức, người nông dân bây giờ không chỉ con tôm, mà nhất thiết phải có vườn cây ăn trái, rau màu để tiêu dùng, có thể bán. Ngoài vuông thì nuôi tôm, cua, cá, nông dân phải sản xuất đa cây, con để xung quanh đều có nguồn thu, không nên bỏ trống đất đai, bỏ trống thời gian. Trời mát thì ra ruộng ra đồng, trời nắng thì vào vườn làm cỏ, tỉa cây, chăm sóc rau màu, ông nói, mình phải tận dụng đất đai mới có thu nhập được.

 

Tận dụng tốt diện tích đất đai, thời gian nhàn rỗi là yếu tố cần thiết đối với người nông dân trong điều kiện hiện nay, nhất là điều kiện biến đổi khí hậu, sản xuất ngày càng khó khăn, đòi hỏi người nông dân phải đa dạng hoá sản xuất, đa dạng hoá cây, con làm ra. Ðây cũng là điều kiện để có đầu ra ổn định trong điều kiện giá cả nông, thuỷ sản còn bấp bênh như hiện nay. Chính vì thế, nhiều nông dân luôn tìm ra những mô hình, các loại cây con mới, cùng với tính cần cù, chịu khó, nhiều mô hình bước đầu phát huy tốt hiệu quả.

 

Ông Huỳnh Chí Dũng, ấp Thọ Mai, xã Phú Mỹ, thực hiện mô hình nuôi trồng đa cây, con. Trong đó, nuôi chồn hương từ một vài con ban đầu đến nay sản sinh gần 50 con, ông cũng nuôi hơn 200 con rắn hổ hèo, với giá chồn hương và rắn như hiện nay, ông có thể xuất chuồng thu về hàng trăm triệu đồng. Ông Dũng còn trồng cây ăn trái, tạo cảnh quan thoáng mát và tăng thu nhập, chỉ riêng cây ăn trái đã cho thu nhập hằng năm hơn 15 triệu đồng. Ông Dũng còn nuôi ếch, nuôi cá tra và một số loại cá khác để tạo nên nguồn thu nhập tổng hợp cho gia đình.

 

Thích ứng với điều kiện sản xuất thay đổi

 

Cùng với đa cây, con, trong điều kiện sản xuất khó khăn, nông dân trong huyện cũng kịp thời chuyển đổi sang những mô hình phù hợp để thích ứng và sản xuất có hiệu quả, nuôi tôm công nghiệp gặp khó khăn, không để đất trống, một số hộ dân đã kịp thời chuyển sang nuôi cua, nuôi cá kèo có hiệu quả.

 

Anh Phan Trung Nghĩa, ấp Thanh Bình, xã Tân Hải, tận dụng đầm tôm công nghiệp bỏ trống, nuôi mỗi vụ hơn 3.000 con cua, sau 3 tháng, với hình thức chuyển đầm, anh Nghĩa có thu nhập sau khi trừ các khoản chi phí còn lời gần 40 triệu đồng.

 

Anh Nghĩa cho rằng, mô hình này thật sự bền vững và hiệu quả tốt nhưng phải chuyển hầm và tận dụng được loại thuỷ sản 2 mảnh, giống như con vòm để làm thức ăn cho cua, cái đáng nói là tận dụng được ao đầm nuôi tôm bỏ trống để có thu nhập trong điều kiện sản xuất khó khăn.

 

Cùng với nuôi cua, nhiều hộ dân còn tận dụng đầm tôm công nghiệp để nuôi cá kèo mang lại hiệu quả kinh tế khá. Ông Nguyễn Văn Thới, ấp Trống Vàm, xã Phú Thuận, tận dụng đầm tôm công nghiệp bỏ trống để nuôi cá kèo cho hiệu quả kinh tế khá. Ðến nay, ông Thới nuôi được 4 vụ trên diện tích 2 đầm nuôi gần 5.000m2, vụ đầu tiên ông có lời trên 250 triệu đồng, vụ vừa rồi lời hơn 300 triệu đồng. Ông Thới khẳng định, đây là mô hình bền vững, ít dịch bệnh, thu hoạch cũng gọn nhẹ, ít tốn chi phí hơn nuôi tôm.

 

Như vậy, không chỉ có con tôm mà đa cây, con mới chính là mô hình sản xuất hiệu quả nhất cho nông dân hiện nay. Theo đó, người dân còn biết chuyển đổi cây, con hợp lý để phát huy tiềm năng, tận dụng tốt diện tích đất đai một cách có hiệu quả. Ðây là yếu tố cơ bản cần có của người nông dân để sản xuất có hiệu quả và bền vững trong điều kiện biến đổi khí hậu như hiện nay./.

 

Quốc Hiệp

 

Mùa muối nhạt

 

Nguồn tin:  Báo Khánh Hòa

 

Đang giữa vụ thu hoạch, nhưng giá thu mua muối trên địa bàn thị xã Ninh Hòa (Khánh Hòa) xuống thấp kỷ lục, khiến diêm dân lỗ nặng.

 

Ông Trương Công Hiến - Chủ nhiệm Hợp tác xã (HTX) Muối 1-5 Ninh Diêm cho biết, giá muối thường cao trong khoảng từ tháng 3 đến tháng 6, cá biệt có thể giữ giá cao tới tháng 8. Nhưng từ đầu vụ đến cuối tháng 4 năm nay, giá thu mua muối đất (làm muối trên ruộng đất) ở phường Ninh Diêm chỉ khoảng 250 - 300 đồng/kg; sang đầu tháng 5 nhích lên 350 đồng/kg, nhưng dự đoán khó tăng nữa bởi đã giữa mùa. Giá này còn thấp hơn mức giá được coi là thấp của vụ năm ngoái (300 - 500 đồng/kg). Tại xã Ninh Thọ, tình hình cũng tương tự. Trung bình giá muối đất khoảng 200 - 220 đồng/kg; muối bạt (sản xuất muối trên ruộng trải bạt) khoảng 400 - 420 đồng/kg. Một số diêm dân cho biết, để hòa vốn và bắt đầu có lãi, giá thu mua muối đất phải đạt khoảng 500 đồng/kg, muối bạt khoảng 600 đồng/kg.

 

 

“Lợp mái” để cất trữ muối tại Ninh Diêm

 

Giá muối thấp, thu nhập của diêm dân cũng thấp theo. HTX Muối 1-5 Ninh Diêm có 44 tổ với 499 xã viên, trong đó 492 người làm trực tiếp trên diện tích 102ha. Tuy nhiên, một xã viên làm 12 ngày công/tháng chỉ thu nhập khoảng 350.000 đồng. Vụ năm nay, lương chủ nhiệm từ tháng 12 năm ngoái tới tháng 4 được hơn 1,7 triệu đồng. Cùng thời gian này, một tổ trưởng phụ trách kỹ thuật được tổng cộng hơn 2 triệu đồng. Hiện nay, đã có hơn chục xã viên xin rời HTX, chờ khi giá muối cao lên sẽ xin quay lại.

 

Không chỉ vậy, ở Ninh Hòa còn thấp thoáng nỗi lo tồn đọng muối. Bà Nguyễn Thụy Ban (tổ dân phố Phú Thọ 3, Ninh Diêm), người có gần chục năm thu mua muối cho biết, từ đầu năm tới nay, bà đã thu mua hơn 1.000 tấn muối, nhưng năm ngoái còn tồn đọng hơn chục tấn muối do giá thấp, bán ít lãi. Được biết, số muối mà các tư thương đã mua của HTX Muối 1-5 Ninh Diêm vụ năm ngoái nhưng chưa bán được ước tồn hàng ngàn tấn. Trên địa bàn toàn thị xã, ước tính từ năm 2015 đến nay còn tồn hơn 7.000 tấn muối.

 

Toàn thị xã có khoảng 724ha sản xuất muối, tập trung chủ yếu ở Ninh Diêm, ngoài ra còn ở Ninh Thủy, Ninh Hải, Ninh Thọ... Ông Đặng Cửu - Trưởng phòng Kinh tế thị xã Ninh Hòa thừa nhận, 2 năm nay, giá muối liên tục ở mức thấp nên diêm dân chưa có lãi, thậm chí còn lỗ. Để giảm bớt khó khăn cho diêm dân, năm ngoái, tỉnh đã quan tâm cho Công ty Muối Cam Ranh thu mua muối với giá cao hơn giá thị trường. Hiện nay, thị xã đã yêu cầu các xã, phường có diện tích làm muối nắm lại diện tích, sản lượng, giá thu mua để báo cáo, từ đó có cơ sở làm văn bản tham mưu UBND tỉnh tiếp tục cho chủ trương thu mua tạm trữ muối.

 

NGUYỄN THIỀU

 

Phú Yên: Nông dân Sông Cầu phát huy hiệu quả nguồn vốn vay ưu đãi

 

Nguồn tin:  Báo Phú Yên

 

 

Nhờ có nguồn vốn vay ưu đãi, nhiều nông dân ở TX Sông Cầu đầu tư nuôi tôm, mang lại hiệu quả kinh tế cao - Ảnh: H.TRUNG

 

Nhờ phát huy tốt nguồn vốn vay ưu đãi, nhiều hội viên, nông dân ở TX Sông Cầu (Phú Yên) đến nay không chỉ thoát nghèo bền vững mà trở thành những điển hình sản xuất kinh doanh giỏi các cấp.

 

Trao “cần câu” thiết thực

 

Theo Hội Nông dân TX Sông Cầu, hiện toàn thị xã có tổng diện tích nuôi trồng thủy sản 756ha. Trong đó, hơn 159ha nuôi tôm sú, 218ha nuôi tôm thẻ chân trắng, trên 378ha nuôi cá mú, cá chẽm, ốc hương, cua… Ngoài ra còn có 2.142 hộ trực tiếp nuôi tôm hùm với 979 bè nổi. TX Sông Cầu còn có những làng nghề sấy cá cơm ở xã Xuân Hòa, làng nghề muối mắm Gành Đỏ, làng nghề rượu Quán Đế… nên nhu cầu vay vốn để đầu tư vào sản xuất, kinh doanh là rất cần thiết đối với người dân các địa phương. Trước tình hình này, hàng năm, Hội Nông dân TX Sông Cầu đã có kế hoạch phối hợp Ngân hàng NN-PTNT và Ngân hàng Chính sách xã hội tạo điều kiện cho người dân dễ tiếp cận các nguồn vốn vay.

 

Phó Giám đốc Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội TX Sông Cầu Nguyễn Ngọc Hưng cho biết: “Tính đến cuối tháng 4/2016, thông qua Hội Nông dân, toàn thị xã đã có 2.382 hộ tại 64 tổ tiết kiệm được vay vốn với tổng dư nợ hơn 53,6 tỉ đồng. Đa số các hộ vay đều đầu tư vào nuôi tôm, cá, sản xuất, kinh doanh. Nhờ công tác quản lý, giám sát nguồn vốn tốt cũng như người dân làm ăn hiệu quả nên có nhiều xã, phường nhiều năm nay không có nợ quá hạn như xã Xuân Cảnh, phường Xuân Đài, phường Xuân Yên…”.

 

Ngoài tạo điều kiện cho người dân tiếp cận các nguồn vốn vay trên, Hội Nông dân TX Sông Cầu còn xây dựng dự án nuôi tôm xen cua với số tiền 350 triệu đồng từ nguồn quỹ Hỗ trợ nông dân của Trung ương Hội cho 12 hộ ở xã Xuân Lộc vay làm thí điểm; xây dựng dự án nuôi tôm hùm tại phường Xuân Đài cho 12 hộ nuôi với số tiền 600 triệu đồng và đang hoàn chỉnh hồ sơ để bà con vay nguồn vốn này. Chủ tịch Hội Nông dân TX Sông Cầu Võ Thanh Bình cho hay: Bên cạnh tạo điều kiện cho hội viên, nông dân tiếp cận các nguồn vốn vay, hàng năm, Hội Nông dân thị xã phối hợp với các ngành chức năng tổ chức hàng chục lớp tập huấn phòng trị bệnh trên tôm hùm nuôi cho hội viên, nông dân tại các xã, phường trọng điểm; tập huấn cho bà con quy trình tạm thời nuôi tôm nước lợ an toàn trong vùng dịch bệnh. Đồng thời phối hợp với các ngành tổ chức dạy nghề cho hàng trăm lao động nông thôn. Nhờ đó, nhiều hội viên, nông dân có cơ hội làm ăn vươn lên thoát nghèo bền vững, có hộ thu nhập tiền tỉ mỗi năm”.

 

Phát huy hiệu quả

 

Về các xã, phường ở Sông Cầu những ngày tháng 5 này, chúng tôi đi trên những tuyến đường bê tông thẳng tắp chạy vào các thôn, xóm, khu phố, chứng kiến được sự thay da, đổi thịt từng ngày của cuộc sống nơi đây. Nhiều ngôi nhà được bà con xây dựng kiên cố, khang trang. Như hiểu được sự ngỡ ngàng của khách, ông Lê Văn Dẻo, Chủ tịch Hội Nông dân xã Xuân Cảnh, giải thích: “Ở xã bây giờ nhiều nhà có tiền tỉ từ hai bàn tay trắng. Để có cuộc sống và nguồn thu nhập như vậy, bà con ở đây đều nhờ vào việc nuôi tôm sú, tôm thẻ chân trắng, tôm hùm, cá bớp, cá mú, ốc hương… đấy”. Ông Dẻo kể, gần 10 năm về trước, cuộc sống bà con ở địa phương này rất khổ cực, nhiều người đi làm thuê, lặn bắt tôm hùm giống về bán nhưng thu nhập rất bấp bênh, lúc có lúc không. Tuy nhiên, từ khi người dân tiếp cận được các nguồn vốn vay ưu đãi thì họ mới có điều kiện đầu tư nuôi tôm, cá, tăng gia sản xuất, kinh doanh làm ăn thoát nghèo. Cụ thể, những năm qua, thông qua Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội TX Sông Cầu, Hội Nông dân xã Xuân Cảnh đã thành lập được 6 tổ vay vốn, tính đến nay đã có 272 hộ vay, tổng dư nợ trên 6,1 tỉ đồng. Nhờ tiếp cận nguồn vốn vay mà đến nay toàn xã có đến 520 hộ hội viên, nông dân nuôi trồng hải sản trên vịnh Xuân Đài, thu nhập mỗi năm từ 100 triệu đồng đến 3 tỉ đồng/hộ nuôi.

 

Ông Nguyễn Minh Thông ở thôn Hòa Lợi, xã Xuân Cảnh là một điển hình vượt khó làm giàu. 10 năm về trước, gia đình ông Thông thuộc diện khó khăn của địa phương. Năm 2010, thông qua Hội Nông dân xã, ông Thông vay được 30 triệu đồng từ Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội TX Sông Cầu về đầu tư làm lồng nuôi tôm hùm. Ông Thông cho biết: “Vì không có vốn nên thời gian đầu tôi đi lặn bắt tôm hùm giống về thả nuôi, số tiền vay được tôi đầu tư làm lồng và mua thức ăn cho tôm. Đến nay, tôi phát triển được 8 lồng nuôi tôm hùm trên vịnh Xuân Đài. Hàng năm, nhờ tôm hùm bán được giá mà gia đình tôi thu nhập từ 100-150 triệu đồng. Bây giờ cuộc sống gia đình không còn vất vả như trước mà có điều kiện trả hết nợ cho ngân hàng”. Còn anh Võ Văn Thạch ở phường Xuân Phú, từ một gia đình khó khăn, năm 2008, anh Thạch vay 15 triệu đồng từ Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội về nuôi tôm hùm. Đến nay, mỗi năm anh thu nhập từ 500 triệu đồng đến 1 tỉ đồng từ nuôi tôm hùm.

 

Không chỉ ở Xuân Cảnh, Xuân Phú, nhiều người dân ở phường Xuân Đài và Xuân Yên cũng thoát nghèo từ việc tiếp cận các nguồn vốn vay thông qua Hội Nông dân xã, phường. Chủ tịch Hội Nông dân phường Xuân Đài Lương Trọng Trang cho biết: “Việc tạo điều kiện cho người dân làm ăn đã được Hội Nông dân phường cũng như chính quyền địa phương chú trọng từ nhiều năm qua. Đến nay, thông qua Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội TX Sông Cầu, chúng tôi đã hướng dẫn bà con làm thủ tục hồ sơ và thành lập được 8 tổ vay vốn, với 214 hộ vay, tổng dư nợ đến thời điểm này gần 5 tỉ đồng. Nhờ nguồn vốn vay trên, tất cả các hộ vay vốn đều có thu nhập cao, thoát nghèo bền vững và không có hộ nào nợ quá hạn”.

 

HIẾU TRUNG

 

Làm giàu trên đất nhà

 

Nguồn tin:  Báo Lâm Đồng

 

Huyện nghèo Đạ Huoai (Lâm Đồng) một thời nay đã có nhiều đổi thay nhanh chóng. Nơi đây đã xuất hiện không ít những hộ nông dân sản xuất giỏi, vươn lên làm giàu ngay trên mảnh đất nhà.

 

 

Trồng chè dưới tán điều tại xã Phước Lộc - Đạ Huoai

 

Làm giàu trên đất nhà

 

Là 1 trong 2 xã đạt chuẩn nông thôn mới của huyện Đạ Huoai cho đến nay, xã Đạ Oai có rất nhiều những nông dân sản xuất giỏi làm giàu trên đất nhà. Một trong những người đó là ông Nguyễn Văn Oanh, 57 tuổi, thôn 1, với mô hình trồng điều và sầu riêng.

 

Như rất nhiều người dân ở xã Đạ Oai, toàn bộ khu vườn nhà rộng 3,6ha của mình được ông Oanh trồng điều. Tiếng là một chủ trang trại (vườn ông đã lên trang trại từ năm 2007) nhưng thu nhập chẳng ra sao, ông chỉ đổi đời từ lúc chuyển toàn bộ diện tích điều hạt già cỗi này sang điều ghép và trồng xen vào sầu riêng DONA giống mới, đến nay đã được hơn 1ha sầu riêng. Là một người ham học hỏi, rất chịu khó, siêng năng chăm chút cho mảnh vườn của mình, ông là người tiên phong tại xã Đạ Oai thử nghiệm thành công sầu riêng cho ra trái nghịch vụ. Đến nay, phần lớn vườn sầu riêng giống mới của ông cho trái nghịch vụ, được ông bán với giá rất cao, khoảng 70 nghìn đồng/kg tại vườn. Niên vụ này ông ước tính thu được khoảng 30 tấn sầu riêng.

 

Không chỉ sản xuất giỏi, ông Oanh còn là một cán bộ Hội nông dân cơ sở nhiệt tình, sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm của mình cho mọi người. Đến nay, ông đã có 10 năm liền đạt danh hiệu nông dân sản xuất giỏi cấp cơ sở; 5 năm đạt danh hiệu sản xuất, kinh doanh giỏi cấp huyện, được Hội Nông dân huyện đề xuất là tấm gương sản xuất, kinh doanh giỏi cấp tỉnh và Trung ương.

 

Không chỉ có cây ăn trái mà gần đây, Đạ Huoai còn phát triển chăn nuôi đại gia súc với nhiều hộ dân hiện giàu lên nhờ trồng cỏ nuôi bò, điển hình như ông Nguyễn Chung, 36 tuổi, ở thôn 4, xã Đạ Tồn.

 

Vốn không có nhiều đất, ông Chung chỉ vỏn vẹn có 1ha trồng mía và duy nhất 1 con bò cái, cuộc sống trước đây còn rất nhiều khó khăn. Ông cho biết mía ông trồng mùa được mùa mất bởi nạn sùng trắng trong đất phá hoại. Trong nỗ lực vươn lên thoát nghèo, ông Chung đã đi nhiều nơi để học cách nuôi bò sao cho hiệu quả để về nuôi bò trên chính đất nhà mình. Nói là làm, ông Chung quyết định cải tạo giống bò cỏ mình đang nuôi sang giống bò lai Sind, chuyển 2 sào đất mía của mình sang trồng cỏ làm thức ăn nuôi bò, từng bước chuyển nuôi bò từ thả rông sang nhốt chuồng, bổ sung thêm dinh dưỡng, làm chuồng bò theo đúng chuẩn kỹ thuật, sạch sẽ.

 

Một điểm thuận lợi là trong quá trình chuyển đổi việc nuôi bò của mình, ông Chung được huyện hỗ trợ kỹ thuật rất nhiều. Ông được huyện hỗ trợ hệ thống tưới nước tự động cho ruộng cỏ của mình; hỗ trợ kỹ thuật chăm sóc bò, cách ủ phân chuồng, cách lên men ủ chua cỏ dự trữ cho mùa khô. Đến nay, ông Chung đã có 11 con bò lai, đàn bò ông đang phát triển rất tốt, dự kiến trong vài năm đến, ông sẽ tăng đàn lên khoảng 20 con, thu nhập rất ổn định, trừ chi phí mỗi năm cũng thu được trên 100 triệu đồng, những năm tới sẽ còn cao hơn.

 

Cùng với người Kinh, rất nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số trong huyện cũng thi đua vươn lên làm giàu, tiêu biểu như ông K’Brớt, 51 tuổi, người Mạ ở thôn Phước Dũng, xã Phước Lộc với mô hình trồng chè dưới tán điều.

 

Trên 4,5ha đất điều của mình K’Brớt theo sự vận động của xã, đã chuyển từng bước sang xen canh các loại cây ăn quả, trồng điều ghép và trồng xen chè dưới tán điều. Tại xã nghèo Phước Lộc với đông đảo cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu số, K’Brớt là một tấm gương tiên phong về giảm nghèo bền vững, vươn lên làm giàu trên đất nhà với thu nhập hằng năm trên 180 triệu đồng/ha đã trừ chi phí.

 

Trên 1.500 hộ nông dân sản xuất giỏi

 

Theo ông Phạm Hoàng Hạnh, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Đạ Huoai, phong trào nông dân sản xuất - kinh doanh giỏi, giúp nhau xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, được các cấp hội trong huyện chú ý đẩy mạnh. “Nói gì thì nói, công tác giảm nghèo bền vững, khuyến khích hội viên thi đua sản xuất giỏi, vươn lên làm giàu vẫn là nhiệm vụ hàng đầu, được chúng tôi quan tâm đặc biệt” - ông Hạnh nhấn mạnh.

 

Đến nay, theo báo cáo của Hội Nông dân huyện, số hộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi cả 3 cấp đều tăng nhanh hằng năm, toàn huyện hiện có 1.523 hộ, chiếm 20,3% hộ nông dân trong huyện, trong đó cấp trung ương có 2 hộ; cấp tỉnh có 138 hộ; cấp huyện có 368 hộ và cấp cơ sở có 1.115 hộ.

 

Không chỉ làm giàu cho mình, từ 2012 đến nay, các hộ nông dân sản xuất - kinh doanh giỏi trên địa bàn đã đóng góp 4.250 công hướng dẫn kỹ thuật, trên 2.320 con giống và 3.720 cây giống các loại cho các hộ nông dân thiếu vốn sản xuất.

 

Điều đáng nói, đến nay, cơ cấu cây trồng, vật nuôi của Đạ Huoai được chuyển dịch theo hướng tích cực, khai thác các lợi thế của huyện. Đạ Huoai từng bước khẳng định rõ bộ giống cây trồng, vật nuôi phù hợp với đặc điểm khí hậu và thổ nhưỡng địa phương gồm cây ăn quả, cây cao su, cây lâm nghiệp…, chăn nuôi đại gia súc. Giá trị sản xuất trên một ha đất canh tác cũng đang tăng nhanh, bình quân năm 2015 đạt 35,5 triệu đồng/ha. Các mô hình sản xuất điểm đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, tạo sự chuyển biến nhận thức của người dân về chuyển đổi cây trồng và ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp.

 

Từ phong trào nông dân sản xuất giỏi, Đạ Huoai đến nay xuất hiện rất nhiều điển hình với các mô hình sản xuất tiêu biểu trong cộng đồng; không chỉ ở những xã thuận lợi hơn Đạ Oai, Hà Lâm, Đạ M’ri… mà còn ở các xã trong vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số. Họ chính là những tấm gương sáng về tinh thần bền bỉ vượt khó, không cam chịu đói nghèo, quyết tâm làm giàu cho chính mình, giúp đỡ người khác cùng vươn lên làm giàu, thoát nghèo góp phần xây dựng quê hương Đạ Huoai ngày càng phát triển.

 

Theo ông Hạnh, Hội Nông dân huyện đang đặt ra mục tiêu phấn đấu trong cuối năm 2017 đến, Đạ Huoai sẽ có từ 35 - 40% hộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi so với tổng số hộ nông nghiệp.

 

Gia Khánh

 

Xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 12 tỷ USD

 

Nguồn tin:  Sài Gòn Giải Phóng

 

Ngày 25-5, Bộ NN-PTNT đã công bố bản tin về kết quả xuất khẩu nông lâm thủy sản sau 5 tháng với tổng kim ngạch ước đạt 12,18 tỷ USD, tăng 4,9% so với cùng kỳ năm 2015.

 

Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 6,05 tỷ USD, tăng 6,6% so với cùng kỳ năm 2015; giá trị xuất khẩu thủy sản ước đạt 2,43 tỷ USD, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm 2015; riêng giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 2,69 tỷ USD, giảm 1,8% so với cùng kỳ năm 2015. Theo báo cáo của Bộ NN-PTNT, các mặt hàng gồm cà phê, cao su, hạt điều, thủy sản… đang có triển vọng khởi sắc trở lại nhưng các sản phẩm gồm chè, gỗ, mì lại sụt giảm và gặp khó khăn về thị trường xuất khẩu.

 

VĂN PHÚC

 

Khuyến khích phát triển kinh tế gia trại

 

Nguồn tin:  Báo Quảng Ngãi

 

Cùng với việc đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất; trong thời gian đến, huyện Mộ Đức (Quảng Ngãi) sẽ tập trung khuyến khích, phát triển mô hình kinh tế gia trại để hình thành các vùng chăn nuôi, trồng trọt tập trung, đạt giá trị cao.

 

Hiệu quả cao

 

Mô hình trồng cây lâm nghiệp kết hợp chăn nuôi của ông Võ Sỹ Vàng ở xã Đức Phú, bà Phạm Thị Kim Anh ở thị trấn Mộ Đức, ông Trần Đạt ở xã Đức Lân và mô hình trồng cây ăn quả của ông Trần Minh Hiển, xã Đức Tân... là những mô hình gia trại mang lại hiệu quả cao cho hộ gia đình.

 

Đến thăm trang trại nuôi heo của bà Phạm Thị Kim Anh, ngoài trang trại nuôi heo theo kiểu công nghiệp, hằng năm xuất bán ra thị trường khoảng 200 con heo thịt, người phụ nữ nhạy bén này còn trồng thêm 4ha keo và xà cừ. Chăn nuôi tập trung kết hợp trồng trọt không chỉ giúp bà Anh có được thu nhập ổn định mà còn giúp bà có thể thoải mái nhân đàn, vì khu vực chăn nuôi của bà Anh nằm cách xa khu dân cư.

 

 

Quy hoạch khu vực phát triển gia trại cách xa KDC giúp người chăn nuôi tự tin nhân đàn.

 

Cũng phát triển kinh tế gia trại, anh Nguyễn Quang Vinh, thôn Phước Thuận, xã Đức Phú lựa chọn con dê làm vật nuôi chủ lực. Với đặc tính dễ nuôi, sinh sản nhanh, sau 10 năm thả nuôi, anh Vinh đã phát triển được đàn dê gần 100 con. Dê nuôi sau 6 tháng là có thể đạt trọng lượng 20kg, với giá mỗi ký dê hơi dao động từ 150 nghìn - 180 nghìn đồng. Vì vậy, không chỉ mô hình kinh tế gia trại của anh Vinh, mà rất nhiều nông dân trên địa bàn huyện Mộ Đức nhờ phát triển nghề nuôi dê mà có được nguồn thu nhập ổn định hằng tháng. Hiện tổng đàn dê trên toàn huyện giữ mức ổn định khoảng 1.500 con, gần bằng tổng đàn trâu trên địa bàn huyện.

 

Phát huy tối đa tiềm năng sẵn có

 

Để các mô hình kinh tế trang trại, gia trại phát triển ổn định, UBND huyện và các ngành chức năng hiện đang hoàn chỉnh các thủ tục giao đất sử dụng lâu dài cho các hộ dân đầu tư phát triển kinh tế trang trại theo vùng quy hoạch. Đơn cử như tại vùng quy hoạch xã Đức Phú, hiện địa phương này đã thực hiện xong công tác quy hoạch 25ha phục vụ cho phát triển gia trại. Các khu vực nằm trong quy hoạch như khu Vườn Đào, Gò Giữa – Ruộng Thượng (thôn Phước Lộc), Vườn Đào – Rẫy Lớn (thôn Phước Hòa) đều có diện tích tương đối bằng phẳng, hệ thống đường giao thông tương đối thuận lợi cho việc vận chuyển, lưu thông hàng hóa, lại cách xa khu dân cư nên rất thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi gia trại.

 

Bà Trần Thị Hồng Viên (thôn Phước Đức, xã Đức Phú) cho biết: “Nhà tôi có đàn trâu gần 10 con, nhưng nuôi trong khu dân cư thì rất khó để phát triển đàn. Vì vậy, khi nghe địa phương quy hoạch đất phát triển gia trại, tôi liền đăng ký thuê ngay 2ha trong thời hạn 30 năm để có thể mở rộng quy mô đàn hơn. Hiện, tôi đang chờ địa phương hoàn thành xong hệ thống điện, là sẽ dời ngay khu chăn nuôi vào đó”.

 

Nói về định hướng phát triển gia trại kiểu mẫu trong thời gian tới, ông Nguyễn Giáp Thìn - Phó Chủ tịch UBND xã Đức Phú cho biết: “Trên phần diện tích đã quy hoạch, xã sẽ vận động người dân dành 30% diện tích xây dựng chuồng trại chăn nuôi; 70% còn lại sẽ trồng cỏ, mì... làm thức ăn chăn nuôi và cây ăn quả lâu năm, để đảm bảo nguồn thu nhập bền vững cho người dân”.

 

Đồng hành cùng người dân, trong tháng 8 tới, Trung tâm Khuyến nông huyện Mộ Đức sẽ hỗ trợ cây giống bơ sáp cho gia trại tại xã Đức Phú, còn UBND xã Đức Phú thì hỗ trợ cây chôm chôm giống. Đồng thời nỗ lực hoàn thiện cơ sở hạ tầng về điện, nước để người dân yên tâm sản xuất.

 

Ý THU

 

Công bố kết quả phân tích muối biển miền Trung

 

Nguồn tin:  Báo Chính Phủ

 

Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản (Nafiqad), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa công bố kết quả phân tích mẫu muối biển tại các tỉnh miền Trung, về các chỉ tiêu kim loại nặng gồm As, Cd, Pb, Hg.

 

Các mẫu muối biển được phân tích được lấy từ các tỉnh ven biển có hiện tượng cá chết hàng loạt chưa rõ nguyên nhân gồm: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.

 

Nafiqad cho biết, tại Quảng Bình, địa phương đã thông báo tạm dừng sản xuất muối từ thời điểm xuất hiện cá chết bất thường đến nay.

 

Tại các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế thì không có vùng sản xuất muối.

 

Tại Hà Tĩnh, có cá biển chết bất thường, qua phân tích 3/3 mẫu muối từ 3 khu vực sản xuất muối niên vụ 2016 đều có kết quả phân tích đạt yêu cầu an toàn thực phẩm theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 8-2:2011/BYT, về mức giới hạn ô nhiễm kim loại nặng trong thực phẩm.

 

Còn ở các địa phương gần khu vực có cá chết bất thường như Nghệ An, Khánh Hòa và Ninh Thuận, qua phân tích 9 mẫu muối từ 9 khu vực sản xuất muối niên vụ 2016 đều có kết quả phân tích đạt yêu cầu an toàn thực phẩm theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 8-2:2011/BYT, về mức giới hạn ô nhiễm kim loại nặng trong thực phẩm.

 

Trước đó, Nafiqad đã có công văn gửi các địa phương nêu trên, yêu cầu các tỉnh lấy mẫu muối tại các cơ sở sản xuất muối niên vụ năm 2016, phân tích chỉ tiêu về kim loại nặng, để công bố rộng rãi cho người tiêu dùng.

 

Lan Phương

 

Tạo niềm tin cho người tiêu dùng

 

Nguồn tin: Báo Quảng Ngãi

 

Sau khi cá ở khu vực gần bờ biển bắc miền Trung chết hàng loạt, sức tiêu thụ cá biển tại Quảng Ngãi giảm hẳn. Thậm chí cá đánh bắt xa bờ không bị nhiễm độc, nhưng người tiêu dùng vẫn e ngại. Để góp phần xóa đi tâm lý ấy, UBND tỉnh đã kêu gọi nhà hàng, quán ăn đưa hải sản có nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm lên bàn ăn. Lời kêu gọi này đã nhận được sự ủng hộ của nhiều chủ nhà hàng và thực khách.

 

Bữa ăn ở đảo vẫn nhiều cá, mực

 

Tại cảng cá Lý Sơn vào tờ mờ sáng đủ loại cá, mực tươi được đưa vào bờ. Chợ không chỉ có người bán, người mua, mà còn có cả cán bộ đại diện cơ quan chức năng xác nhận hải sản an toàn cho những mẻ cá trước khi rời Lý Sơn.

 

 

Cá biển có nguồn gốc rõ ràng được quán cơm Gốc Gòn - TP. Quảng Ngãi đưa lên bàn ăn phục vụ thực khách.

 

Chị Đặng Thị Thức, thôn Tây, xã An Vĩnh (Lý Sơn) là người chuyên mua, bán cá ở Lý Sơn cho biết: "Ở Lý Sơn người dân vẫn mua cá, mực về ăn bình thường, không ngại gì cả. Mỗi sáng tôi bán cả tạ cá, mực. Cá tươi ngon, an toàn sao mà ế được!". Người dân ở đây vẫn giữ nhịp độ đưa cá, mực vào bữa ăn thường nhật.

 

Còn các quán ăn, nhà hàng ở Lý Sơn những ngày này cũng vẫn chỉ toàn cá, mực tươi ngon phục vụ du khách. Ông Phạm Tấn Oai - Giám đốc Khách sạn Mường Thanh Lý Sơn cho biết: "Thực đơn cho bữa ăn của khách vẫn được duy trì ít nhất hai món hải sản. Thực khách rất tin tưởng vào hải sản do Mường Thanh Lý Sơn phục vụ".

 

Các hàng quán ở Lý Sơn hiện vẫn giữ "đặc sản hải sản" phục vụ khách hàng. Lượng tiêu thụ hải sản tại đây ngày càng tăng cao do lượng khách du lịch ra đảo tăng. Trao đổi về giải pháp hỗ trợ tiêu thụ hải sản trên đảo, ông Nguyễn Thanh - Chủ tịch UBND huyện Lý Sơn cho biết: "Huyện tổ chức tuyên truyền đến người dân và khách du lịch; đồng thời chỉ đạo bộ phận chức năng kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, công nhận hải sản đảm bảo an toàn cho ngư dân trước khi cung cấp ra thị trường".

 

Chọn hải sản an toàn phục vụ thực khách

 

Những ngày này các nhà hàng, quán ăn trong tỉnh, đặc biệt là những quán quy mô lớn tại TP. Quảng Ngãi việc đưa hải sản lên bàn ăn được quan tâm hơn. Thực khách cũng đã hiểu và không e dè khi lựa chọn cá, mực, tôm khi gọi món.

 

Dùng cơm tại quán cơm Việt Nam (đường Hùng Vương), anh Nguyễn Đỗ Khánh Vinh là kỹ sư xây dựng cho biết: "Các món ăn chế biến từ cá, mực ở đây tươi ngon và được chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm nên mình vẫn sử dụng bình thường. Theo mình, quan trọng nhất là cho thực khách biết rõ về nguồn gốc hải sản thì họ sẵn sàng ủng hộ".

 

Ông Trần Văn Quý - Chủ quán cơm Gốc Gòn, TP. Quảng Ngãi cho biết: "Những hải sản mà quán mua về chế biến phải có nguồn gốc rõ ràng để cho khách yên tâm sử dụng. Khi khách vào quán, nhân viên giới thiệu kỹ về những món hải sản mà quán phục vụ. Cũng có trường hợp khách e ngại, nhưng sau khi nghe giải thích về nguồn gốc hải sản, họ đã chọn và sử dụng".

 

Song hành với ngư dân, người kinh doanh, các cơ quan chức năng của tỉnh đã tăng cường hoạt động chứng nhận hải sản đảm bảo an toàn, tạo ra sự an tâm cho người dân khi mua và sử dụng. Các chủ nhà hàng, quán ăn cũng đã quan tâm, chia sẻ khó khăn với ngư dân. "Mỗi ngày quán tôi tiêu thụ vài chục kilogam hải sản là không nhiều. Nhưng, các chủ quán khác cùng hành động thì sẽ tạo ra hiệu ứng tốt, giúp ngư dân ổn định cuộc sống" - chị Nguyễn Khánh Chi, chủ quán cơm bình dân đường Nguyễn Nghiêm cho biết.

 

Việc đưa hải sản lên bàn ăn hiện đã được nhiều người hưởng ứng. Song, điều quan trọng là phải tạo niềm tin cho người tiêu dùng. Vì vậy cần tăng cường kiểm tra, giám sát cũng như thông tin kịp thời những vấn đề người tiêu dùng quan tâm là việc cần làm, để việc tiêu thụ hải sản trở lại bình thường, giúp ngư dân an tâm bám biển.

 

THANH NHỊ

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop