Tin nông nghiệp CN ngày 28 tháng 7 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp CN ngày 28 tháng 7 năm 2019

Bà Rịa - Vũng Tàu: Những cánh đồng đã sạch bao bì thuốc BVTV

Nguồn tin:  Báo Bà Rịa - Vũng TàTrong những năm qua, việc xây dựng bể thu gom rác thải, bao bì thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) đã được triển khai tại nhiều địa phương như An Nhứt (Long Điền), Hòa Hiệp (Xuyên Mộc), Long Phước (TP.Bà Rịa)… Hoạt động này đã góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bảo vệ sức khỏe nông dân, thực hiện có hiệu quả tiêu chí môi trường trong chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

Các đơn vị trên địa bàn xã phối hợp cùng Tập đoàn Lộc Trời thu gom rác thải thuốc BVTV tại xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc. Ảnh: QUỐC HIẾU

Hơn nửa năm nay, từ khi được hỗ trợ xây dựng bể thu gom rác thải, bao bì thuốc BVTV tại địa phương, bà Phạm Thị Hoa (ấp Phú Quý, xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc) luôn duy trì thói quen sau mỗi lần phun thuốc BVTV cho cây trồng liền thu gom bao bì, chai lọ bỏ vào bể thu gom rác. “Trước đây, xung quanh các rẫy trồng hồ tiêu, bắp, lúa, mỗi khi phun thuốc BVTV xong, người dân vứt vỏ, bao bì ra xung quanh. Nhiều hộ dù biết tác hại của các vỏ thuốc BVTV đối với sức khỏe và môi trường nhưng cũng không biết vứt đi đâu. Từ ngày có bể thu gom rác thải, mỗi lần sử dụng thuốc BVTV cho cây trồng xong tôi và các hộ dân đều thu gom bỏ vào bể thu gom rác thải BVTV. Nhờ đó mà đến nay không còn tình trạng bao bì, vỏ thuốc BTVT vứt tràn lan như trước nữa”, bà Hoa cho hay.

Còn tại An Nhứt - một xã thuần nông của huyện Long Điền, mỗi vụ gieo trồng trên 220ha diện tích lúa, vì vậy lượng thuốc BVTV sử dụng hàng năm là khá lớn. Để hạn chế lượng rác thải từ các vỏ bao bì, chai, lọ đựng thuốc tại các cánh đồng, trong thời gian qua, xã An Nhứt đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động bà con nông dân thu gom rác thải vào bể thu gom tại đồng ruộng theo quy định. Theo ông Huỳnh Trung Thành, Chủ tịch HĐQT HTX Nông nghiệp Dịch vụ An Nhứt, sau hơn 5 năm thực hiện, hiện nay, trên địa bàn xã có 6 bể chứa rác thải vỏ bao bì, chai lọ thuốc BVTV tại các vùng trồng lúa. Những bể thu gom này được đặt ở những vị trí phù hợp, phân bố hợp lý, thuận lợi cho bà con nhưng đặt xa khu dân cư, không ảnh hưởng môi trường. Điều dễ nhận thấy là bà con đã dần có ý thức trong việc bảo quản và sử dụng thuốc BVTV.

Ông Nguyễn Văn Bửu (ấp Phước Trung, xã An Nhứt) cho biết: “Trước đây, tôi thường bỏ bao bì thuốc trừ sâu lại trên bờ kênh. Sau khi tham gia các lớp tập huấn, tôi biết việc đó có thể gây hại cho nguồn đất, nguồn nước, ảnh hưởng đến sức khỏe nên sau mỗi lần phun thuốc, bón phân tôi đều thu gom bao bì, bỏ vào bể chứa. Bây giờ ra đồng, đường đi lối lại sạch sẽ không có vỏ bao bì của thuốc sâu”.

Hiện nay, huyện Long Điền đã có 19 bể chứa bao bì, vỏ chai lọ đựng thuốc BVTV được xây dựng. Định kỳ, mỗi năm 2 lần, bể chứa bao bì thuốc BVTV được đơn vị thu gom, xử lý theo quy định.

Tương tự, ở nhiều địa phương những nông dân canh tác các loại cây trồng khác cũng đã chú trọng việc thu gom, xử lý bao bì thuốc BVTV nhằm bảo vệ môi trường. Ông Đình Vân (thôn 2, xã Suối Rao, huyện Châu Đức) đang trồng 5,5ha với hơn 4000 gốc tiêu, trung bình đến thời điểm phun thuốc trừ sâu cho cây ông sử dụng khoảng hơn 15-20 lít thuốc BVTV các loại, lượng rác thải khá lớn. “Thay vì vứt bừa bãi trong vườn như trước đây, hiện nay sau khi sử dụng xong, gia đình tôi thường thu gom bao bì thuốc BVTV và mang đến điểm tập kết để xử lý đúng quy trình, vừa sạch sẽ lại an toàn. Bên cạnh đó, tôi đang bắt đầu chuyển sang sử dụng các chế phẩm sinh học thân thiện với môi trường, cho ra sản phẩm tiêu sạch và giảm lượng thuốc và phế thải thuốc BVTV”, ông Đình Vân chia sẻ.

Thu gom hơn 900kg rác thải thuốc BVTV

Sáng 25/7, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (BVTV) tỉnh phối hợp Tập đoàn Lộc Trời tổ chức thu gom hơn 900kg rác thải thuốc BVTV trên địa bàn xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc. Phần lớn rác thải là bao bì thuốc BVTV được bà con nông dân tại các địa phương sử dụng từ năm 2018 đến nay. Số lượng rác thải BVTV sau khi thu gom được chuyển về nhà máy xử lý rác thải Insee Ecocycle Vietnam (tỉnh Kiên Giang) xử lý.

Hoạt động thu gom, tiêu hủy rác thải BVTV nói trên nằm trong chương trình “Cùng nông dân bảo vệ môi trường” do Trung tâm BVTV phía Nam và Tập đoàn Lộc Trời thực hiện tại 22 tỉnh, thành phố khu vực phía Nam, trong đó có BR-VT.

Tại huyện Châu Đức, với diện tích trồng trọt lên tới 35,2 ngàn ha, bình quân mỗi năm phát sinh khoảng 20 tấn bao bì thuốc BVTV. Để đáp ứng nhu cầu xử lý bao bì thuốc BVTV an toàn, ngoài số lượng bể chứa bao bì mà nông dân các địa phương tự xây dựng, hiện nay, Phòng NN-PTNT đã lên kế hoạch xây dựng thêm 20 bể chứa, dự kiến kinh phí cho dự án khoảng 1,4 tỷ đồng.

Có thể thấy rằng, bể chứa rác thải trên địa bàn tỉnh đã góp phần hạn chế được nguy cơ tiềm ẩn về tình trạng ô nhiễm môi trường và an toàn cho người dân khi sản xuất trên đồng ruộng. Đây chính là cơ sở quan trọng giúp bà con nông dân hướng đến một nền sản xuất nông nghiệp xanh, sạch an toàn và bền vững, góp phần nâng cao các tiêu chí trong chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Ông Nguyễn Chí Đức, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và BVTV tỉnh cho biết: Thuốc BVTV có vai trò quan trọng trong việc giữ vững năng suất, chất lượng cây trồng, bảo đảm an ninh lương thực. Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc BVTV không đúng chủng loại, liều lượng, thiếu trang bị bảo hộ hoặc lạm dụng thuốc và thói quen vứt bao bì, vỏ chai thuốc BVTV ra môi trường đã gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người, ô nhiễm môi trường. Do đó thời gian qua, việc xây dựng các bể chứa rác thải trong sản xuất nông nghiệp hiện đã được thực hiện tại các huyện Long Điền, Châu Đức, Xuyên Mộc, TX.Phú Mỹ và TP.Bà Rịa, với sự tham gia của hơn 1.000 hộ nông dân. Chương trình đã giúp bà con nông dân nâng cao ý thức bảo vệ môi trường từ việc không vứt bao bì, vỏ chai thuốc BVTV trong quá trình canh tác, sản xuất bừa bãi mà đem đến bỏ vào các hố tập trung. Sau 6 năm, các đơn vị, địa phương đã thu gom được hơn 3 tấn bao bì thuốc BVTVqua sử dụng, mang đi tiêu hủy.

KIM HỒNG

Sử dụng thuốc sinh học trên cây rau

Nguồn tin: Khoa Học Phổ Thông

 

Ứng dụng bẫy sinh học trên rau.

Theo khuyến cáo của Viện bảo vệ thực vật (Viện khoa học nông nghiệp Việt Nam), thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) sinh học có ưu điểm không làm tăng tính kháng cho các loài sâu, bệnh hại, thời gian cách ly sau khi phun thuốc sinh học ngắn hơn so với thuốc hóa học. Do đó, phòng trừ sinh vật hại trên rau bằng biện pháp sinh học rất an toàn, hiệu quả và thân thiện với môi trường.

Thuốc BVTV sinh học không thể “tiêu diệt’” ngay tức thì đối tượng gây hại như thuốc BVTV hóa học. Trong giải pháp bảo vệ cây trồng, ngoài việc sử dụng thuốc BVTV sinh học, sử dụng thiên địch được xem là xu hướng hữu hiệu để diệt sinh vật gây hại, đảm bảo an toàn cho cây trồng. Các thiên địch có thể triệt tiêu hoặc kiềm chế sự phát triển của sâu bệnh.

Có thể sử dụng các loại thiên địch như: nấm đối kháng Trichoderma, nấm bột Nomurae rileyi, NPV, bọ rùa 8 chấm, bọ xít nâu viền trắng, chuồn chuồn cỏ, ong cự, ong kén trắng, ruồi ăn rệp… để diệt sinh vật gây hại. Ngoài ra, sử dụng chế phẩm nấm Trichoderma trộn với phân chuồng ủ hoai dùng bón lót cho cây trồng có tác dụng hạn chế nguồn nấm bệnh trong đất.

Biện pháp khác là nhân nuôi và phóng thích một số loại thiên địch có khả năng bắt mồi cao, sức sống mạnh, dễ thích nghi với điều kiện ngoại cảnh như: bọ xít hoa gai vai nhọn Cantheconidae furcellata, bọ xít cổ ngỗng, bọ rùa 8 chấm Harmonia octomaculata, chuồn chuồn cỏ Chrysopa sp. Cũng có thể sử dụng một số loại bẫy sinh học như: bẫy dính màu vàng, bẫy fly kill dẫn dụ ruồi đục trái, bẫy pheromone dẫn dụ sâu tơ - sâu khoang trên rau ăn lá. Sử dụng bẫy pheromol treo trên ruộng rau để thu hút con trưởng thành cái đến các bẫy mà không giao phối được, không đẻ được trứng và không hình thành được sâu.

Pheromol là hợp chất hóa học có hoạt tính sinh học rất cao, đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sinh sản của các loài sâu hại. Bẫy pheromol đặc biệt có hiệu quả đối với các loại sâu hại không thể phát hiện sớm bằng phương pháp thông thường, như sâu khoang, sâu xanh bướm trắng, sâu tơ, sâu keo da láng trên các loại rau, hoa, đậu, nho, bông… Đặt bẫy pheromol bằng cách sử dụng hũ nhựa hoặc chén nhựa đã dùng một lần, có đường kính 18 - 22 cm, buộc mồi vào dây thép, sau đó đổ nước 1/3 thể tích chén có pha thêm một ít xà bông, xà bông có tác dụng khi bướm bay vào bẫy, rơi xuống nước, sẽ bị bịt lỗ thở lại và chết rất nhanh.

Tùy từng loại rau mà treo bẫy khác nhau. Đối với loại cây thấp như su hào, bắp cải, hành… đặt bẫy ở vị trí cao hơn bề mặt tán cây trên ruộng chừng 20 - 30 cm. Đối với cây trồng như đậu leo, cà chua, dưa chuột… thì treo bẫy ở vị trí sát mặt giàn cây để tạo thuận lợi cho pheromol lan tỏa rộng. Các loại mồi pheromol có hiệu quả hấp dẫn sâu hại trong thời gian ít nhất là 21 - 24 ngày, tùy theo điều kiện thời tiết và theo từng vùng thì thay bả, tốt nhất thay mồi pheromol mới theo định kỳ 20 ngày kể từ ngày sử dụng.

PHÚC TẦN

Tiêu thụ rau an toàn theo chuỗi: Thêm hỗ trợ để phát triển

Nguồn tin: Hà Nội MớI

Phát triển chuỗi tiêu thụ rau an toàn là hướng đi tất yếu của nông nghiệp Thủ đô. Yêu cầu đặt ra hiện nay là cần có thêm các cơ chế, chính sách hỗ trợ trực tiếp, hiệu quả hơn nữa.

Sơ chế, đóng gói rau an toàn tại Hợp tác xã Sản xuất và dịch vụ nông nghiệp Thanh Hà (huyện Thường Tín). Ảnh: Thái Hiền

Lượng tiêu thụ khiêm tốn

Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Lĩnh Nam (quận Hoàng Mai) là một trong những đơn vị sản xuất rau an toàn có khối lượng lớn trên địa bàn thành phố. Hiện trung bình mỗi ngày hợp tác xã cung cấp khoảng 10 tấn rau cho thị trường Hà Nội. Tuy nhiên, số lượng được tiêu thụ theo chuỗi chỉ khoảng 2 tấn/ngày, số còn lại các hộ phải tự lo đầu ra.

Chia sẻ về thực trạng này, ông Nguyễn Hồng Minh, Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Lĩnh Nam thừa nhận: “Hiện chuỗi liên kết khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ rau an toàn của hợp tác xã vẫn gặp khó khăn bởi các siêu thị, cửa hàng thực phẩm sạch ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm chậm thanh toán, trong khi nông dân cần nguồn vốn để xoay vòng sản xuất nên họ không mặn mà tham gia chuỗi”.

Trong khi đó, đối với những cơ sở quy mô nhỏ hoặc hộ gia đình, việc tiêu thụ rau an toàn cũng gặp không ít trở ngại. Bà Bùi Thị Thanh Hà, hộ chuyên trồng rau an toàn ở xã Ninh Sở (huyện Thường Tín) cho biết, mặc dù gia đình đã đầu tư sản xuất theo hướng công nghệ cao, sản phẩm đồng đều nhưng việc tiêu thụ rau an toàn theo chuỗi của gia đình không phải lúc nào cũng thuận lợi do việc tìm kiếm thị trường khó khăn, trong khi chi phí đầu tư xe chuyên dụng vận chuyển rau cùng nhà sơ chế, đóng gói… đòi hỏi phải có tiềm lực tài chính lớn.

Còn ông Nguyễn Trung Dậu, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Chu Quyến, xã Chu Minh (huyện Ba Vì) nêu thêm bất cập: Do chưa có quy định về thông tin tem nhãn đối với thực phẩm tươi sống bán lẻ để truy xuất nguồn gốc xuất xứ dẫn đến tình trạng cạnh tranh không công bằng, người tiêu dùng cũng khó phân biệt rau an toàn theo tiêu chuẩn chất lượng với rau sản xuất đại trà.

Theo Sở NN&PTNT Hà Nội, hiện thành phố đã hình thành 101 vùng trồng rau an toàn tập trung với quy mô từ 20ha trở lên/vùng; 35 chuỗi tiêu thụ rau an toàn có truy xuất nguồn gốc sản phẩm đến từng hộ gia đình trồng rau; số doanh nghiệp ký hợp đồng bao tiêu rau an toàn là 208 đơn vị, với số lượng tiêu thụ trung bình khoảng 42 tấn/ngày. Tuy nhiên, so với sản lượng rau an toàn của thành phố sản xuất khoảng 400.000 tấn/năm thì lượng tiêu thụ trên vẫn là con số khiêm tốn.

Liên quan đến vấn đề nêu trên, ông Nguyễn Mạnh Phương, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Hà Nội cho hay: Các vùng trồng rau xanh của Hà Nội hiện nay chủ yếu là do nông hộ sản xuất, quy mô sản lượng nhỏ lẻ, trong khi đó các siêu thị khi ký hợp đồng đưa ra những tiêu chuẩn, quy định chỉ phù hợp với các mô hình trồng rau an toàn quy mô lớn.

Cùng quan điểm, ông Lê Văn Tuấn, Tổng Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Đầu tư và Phát triển nông nghiệp Hà Nội phân tích thêm: “Các quầy bán rau an toàn trong các cửa hàng, siêu thị nếu tính chi tiết các loại chi phí sẽ rất khó có lãi, bởi đặc thù của rau là “sáng tươi, chiều héo, tối bỏ đi”, nên việc lựa chọn đầu tư vào lĩnh vực này nếu không có đủ tiềm lực sẽ rất khó trụ vững trong giai đoạn đầu”.

Hỗ trợ hơn nữa cho khâu tiêu thụ

Đề cập hướng tháo gỡ, ông Nguyễn Hồng Minh, Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Lĩnh Nam (quận Hoàng Mai) cho biết: Xác định trong sản xuất, tiêu thụ rau an toàn theo chuỗi phải tuân theo nguyên tắc thị trường, do vậy, hợp tác xã đang tiếp tục tiếp cận với các cơ quan, đơn vị có bếp ăn tập thể, trường học, bệnh viện trên địa bàn thành phố để có thêm kênh tiêu thụ sản phẩm...

Khách mua rau sạch tại một cửa hàng ở thị trấn Văn Điển (huyện Thanh Trì). Ảnh: Bá Hoạt

Tương tự, với Hợp tác xã Rau, quả sạch Chúc Sơn (huyện Chương Mỹ), sau khi huyện Chương Mỹ đề nghị các bếp ăn tập thể, nhất là các trường học tổ chức bán trú trên địa bàn sử dụng rau an toàn có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, thì việc tiếp cận, tiêu thụ rau an toàn của hợp tác xã đã thuận lợi hơn.

Từ thực tế sản xuất, tiêu thụ rau an toàn trên địa bàn, theo Chủ tịch UBND quận Hà Đông Vũ Ngọc Phụng, quận sẽ tiếp tục xem xét hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã... có mặt bằng kinh doanh nông sản an toàn, trong đó có sản phẩm rau an toàn tại các chợ truyền thống, khu đông dân cư. Bởi sau nhiều năm, được quận Hà Đông hỗ trợ mặt bằng kinh doanh, lượng tiêu thụ rau an toàn của các hợp tác xã tại chợ Hà Đông đã ổn định. Cụ thể, hiện khoảng 80% sản lượng rau an toàn được tiêu thụ thông qua hợp đồng và bán tại cửa hàng nông sản sạch...

Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Chu Phú Mỹ khẳng định: Việc phát triển chuỗi sản xuất, tiêu thụ rau an toàn gắn với truy xuất nguồn gốc xuất xứ đến hộ, có sự tham gia của người sản xuất, người kinh doanh và người tiêu dùng là hướng đi tất yếu của nông nghiệp Hà Nội. Thực tế, những năm gần đây, sản xuất rau an toàn có những bước phát triển mạnh, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao phục vụ người tiêu dùng Thủ đô.

Vì vậy, thời gian tới, ngoài việc định hướng để nông dân sản xuất tập trung chuyên canh rau an toàn trên quy mô lớn, Sở NN&PTNT sẽ tiếp tục hỗ trợ kết nối, liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp trong bao tiêu sản phẩm, bảo đảm hai bên cùng có lợi. Sở NN&PTNT cũng tham mưu UBND thành phố bổ sung cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển rau an toàn theo chuỗi, theo hướng hỗ trợ hơn nữa cho khâu tiêu thụ, trực tiếp là người bán hàng.

“Về lâu dài, Hà Nội hình thành các chợ chuyên bán hàng nông sản an toàn, trong đó có sản phẩm rau an toàn ở cả chợ điện tử và chợ đầu mối. Ðồng thời, tăng cường tập huấn, hướng dẫn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP để tạo niềm tin cho người tiêu dùng”, ông Chu Phú Mỹ nhấn mạnh.

BẠCH THANH

Chú ý bón phân cho rau ăn trái

Nguồn tin: Khoa Học Phổ Thông

Theo khuyến cáo của GS. Nguyễn Thơ, phó chủ tịch Hội bảo vệ thực vật Việt Nam, không phải bón nhiều phân là tăng hiệu quả phân bón bởi nếu nền đất trồng không tốt, đất thoái hóa, nghèo hữu cơ, pH thấp…thì việc bón nhiều phân vô cơ cũng tăng chi phí mà hiệu quả không đạt bao nhiêu, thậm chí còn gây tác dụng ngược lại.

Trên một số cây rau ăn trái, khi cây suy yếu, nhiễm nấm bệnh, bị úng ngập… thì bón nhiều phân hóa học giai đoạn này càng làm tăng rủi ro và bệnh hại có nguy cơ nặng thêm. Nhóm phân hóa học như DAP, NPK 20-20-15, NPK 16-16-8 thường được dùng cho rau ăn trái hoặc nhóm phân NPK có bổ sung vi lượng hay calci, Bo… tuy nhiên cần bón đúng thời điểm, đúng liều lượng mới phát huy hiệu quả tốt cho cây trồng.

Khi nền đất được chuẩn bị tốt, bón nhiều hữu cơ thì việc bón bổ sung phân hóa học phát huy hiệu quả cao hơn. Các cây thuộc họ bầu bí có thể trồng trên nhiều loại đất, tuy nhiên phát triển tốt nhất trên đất tơi xốp, độ phì cao, giàu dinh dưỡng, pH trong khoảng 6 - 7. Trước khi trồng, tiến hành cày xới, bón vôi bột rồi phơi ải đất trong khoảng thời gian tối thiểu 5 - 7 ngày để diệt mầm bệnh, nhất là các loại ấu trùng, sâu, nấm bệnh có trong đất. Bón phân lân, phân hữu cơ (phân chuồng hoai mục, phân hữu cơ qua xử lý), bổ sung thêm mụn dừa, tro trấu, trấu mục vào mặt liếp trồng.

Bón phân đạm giúp cây phát triển thân, cành, lá. Giai đoạn cây nhỏ không nên bón trực tiếp nguyên hạt mà pha loãng phân vào nước tưới cho cây sẽ tăng hiệu quả hấp thu tốt hơn. Có thể sử dụng phân urê hay DAP, liều lượng 1 chén hòa tan 20 lít nước sạch, tưới quanh gốc, khoảng 3 - 5 ngày/lần. Nên tưới phân vào buổi tối, sáng hôm sau tưới thêm nước xả. Khi cây bắt đầu lên giàn (bầu, bí, mướp, khổ qua…) thì bắt đầu bón thúc theo tỷ lệ: 3:1:1 (đạm - lân - kali), bổ sung phân trung vi lượng, acid Humit, Fluvic giúp cây tăng khả năng ra hoa, đậu trái. Trộn đều hỗn hợp: 3 chén lân, 1 chén đạm , 1 chén kali vào nhau rồi hòa tan trong bình 25 - 30 lít tưới quanh gốc.

Về sau có thể bón thúc bằng phân hạt không cần pha loãng, giai đoạn này bón phân phức NPK 20-20-15 hoặc NPK 16-16-8 để cân đối lượng đạm, lân, kali. Giai đoạn sinh trưởng cần nhiều đạm nhưng khi nuôi trái cần đạm và kali giúp cây đậu trái, tăng chất lượng trái thu hoạch.

ANH ĐỨC

Hiệu quả từ những mô hình xen canh

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Nhằm tăng giá trị kinh tế trong sản xuất cây cà phê, những năm qua, nhiều hộ dân trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng đã mạnh dạn chuyển đổi hình thức canh tác, đa dạng hóa cây trồng. Trong đó, phương thức trồng xen canh được nhiều nông dân áp dụng thực hiện, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Mô hình trồng xen canh bơ Hass, Pinkerton của gia đình ông Xuất cho thu thập cao gấp nhiều lần so với trồng thuần cà phê

Cây trồng phụ, thu nhập chính

Bên cạnh việc tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật và sử dụng các giống mới chất lượng nhằm nâng cao năng suất, nông dân tại các vùng chuyên canh cà phê trong tỉnh đã và đang tiến hành tái canh và ghép cải tạo số diện tích cà phê già cỗi. Cùng với đó thì câu hỏi đặt ra là làm thế nào để nâng cao thu nhập trên một đơn vị diện tích trong bối cảnh giá cà phê đang xuống thấp như hiện nay luôn là mối trăn trở với hàng ngàn hộ nông dân. Và, lời giải xen canh được nông dân lựa chọn bởi ngoài việc đem lại hiệu quả kinh tế cao còn mang lại lợi ích môi trường bền vững.

Chúng tôi đến thăm mô hình xen canh cà phê của gia đình ông Trần Văn Xuất (Tổ dân phố Chi Lăng 3, thị trấn Nam Ban) trong tiếng nói cười rộn rã, mỗi người mỗi việc, từ dọn cỏ, cắt tỉa cành tạo tán cà phê, sầu riêng, thu hoạch bơ… Ông bảo không vui sao được khi gia đình lại sắp có thêm một mùa bội thu các loại cây ăn trái trồng xen canh trong vườn cà phê đang có giá khá cao.

Trên diện tích 3 ha cà phê đã tiến hành tái canh, ghép cải tạo, ông Xuất trồng xen 600 gốc bơ Hass, Pinkerton, Booth và 300 cây sầu riêng. Niên vụ năm 2018, do cây bơ, sầu riêng còn nhỏ, mới bước đầu cho thu bói, nên gia đình ông chỉ thu được 200 - 300 triệu đồng, cùng với năng suất cà phê ổn định ở mức 4 tấn/ha. Đặc biệt, nhờ áp dụng canh tác cà phê theo quy trình sản xuất sạch cùng với chất lượng cà phê được nâng cao (tăng độ đường nhờ có cây ăn trái che bóng) nên sản phẩm cà phê nhân của gia đình ông luôn được đối tác trả thêm từ 10.000 - 12.000 đ/kg so với giá thị trường. Năm nay, với 600 cây bơ bước vào giai đoạn kinh doanh, ông Xuất dự kiến thu về khoảng 30 tấn trái, nếu bán với giá 50.000 đồng/kg thì thu về trên 1,5 tỷ đồng.

Không chỉ riêng gia đình ông Xuất mà hiện nay mô hình trồng xen canh bơ, sầu riêng trong vườn cà phê cũng đang được rất nhiều hộ dân tại thị trấn Nam Ban thực hiện. “Năng suất cà phê được cải thiện mà chất lượng cũng được nâng lên trong khi công chăm sóc lại được tiết kiệm, nhất là việc tưới nước trong mùa khô. Mặc dù chỉ là cây che bóng nhưng trong tương lai bơ, sầu riêng sẽ lại là cây cho thu nhập chính nên gia đình đang ra sức chăm sóc cẩn thận, tỉ mỉ để đảm bảo yếu tố hài hòa, bền vững cho tất cả các loại cây trồng không bị chết và cho nhiều quả”, ông Xuất cho biết thêm.

Hướng phát triển kinh tế bền vững

Tại huyện Di Linh, mô hình trồng xen cây ăn trái cũng đang được rất nhiều hộ nông dân thực hiện, chủ yếu là giống bơ 034. Ông Đặng Văn Khá, Phó Phòng Nông nghiệp huyện Di Linh cho biết: Theo thống kê sơ bộ, toàn huyện hiện có gần 2.100 ha bơ trồng thuần lẫn xen canh cà phê với sản lượng hiện khoảng 15.000 tấn/năm. Con số này ở sầu riêng là 2.082 ha, sản lượng ước đạt 11.000 tấn.

Theo ông Khá, trong bối cảnh cây cà phê đang giảm giá mạnh, hiệu quả kinh tế mang lại cho người dân thấp thì giải pháp trồng xen canh nhiều loại cây trồng, trong đó tập trung vào cây ăn quả như bơ, sầu riêng không chỉ giúp người nông dân vượt qua thời kỳ khó khăn mà còn dễ dàng “bỏ túi” từ vài trăm đến cả tỷ đồng lợi nhuận/ha.

Thực tế sản xuất cho thấy, cà phê là cây ưa bóng và cần chắn gió, chính vì vậy khi người Pháp thành lập các đồn điền cà phê tại Tây Nguyên họ bao giờ cũng trồng cây che gió, che bóng. Còn bây giờ trên Tây Nguyên bạt ngàn những rẫy cà phê, nhưng việc trồng cây che bóng, che gió cho cà phê chưa được người dân quan tâm, đã đẩy những rẫy cà phê nhanh chóng bị suy kiệt, tốn nước tưới trong mùa khô.

“Việc đưa cây bơ, sầu riêng vào trồng xen bên cạnh bài toán kinh tế thì yếu tố bền vững từ môi trường cũng sẽ được giải quyết và hướng tới đa canh trên địa bàn huyện cũng đã có lời giải”, ông Khá cho hay.

Theo số liệu của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, diện tích trồng xen cây ăn quả trên diện tích cà phê toàn tỉnh đạt 15.425 ha. Trong đó, diện tích trồng xen cây sầu riêng đạt 6.499 ha, cây bơ có diện tích 4.232 ha, cây hồng ăn quả 1.614 ha, chuối 940 ha, mít 802 ha, măng cụt 564 ha, chôm chôm 554 ha và các loại cây ăn quả khác 230 ha.

Theo đánh giá của ông Lại Thế Hưng, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, việc trồng xen cây lâu năm trong vườn cà phê ở tỉnh hiện nay đều có chức năng là lấy quả, thêm thu nhập, sau đó mới đến chức năng che bóng và chắn gió.

Với hiệu quả kinh tế gấp từ 2 - 3 lần so với cà phê trồng thuần trên cùng đơn vị diện tích, sản xuất cà phê xen cây ăn trái là hướng đi mang tính bền vững, phù hợp để khuyến cáo bà con nông dân phát triển sản xuất. Tuy nhiên, việc khuyến cáo trồng xen mô hình này tùy thuộc vào điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, khí hậu từng nơi, tránh phát triển diện tích cây ăn trái ồ ạt, phá vỡ quy hoạch.

HỒNG THẮM - HOÀNG SA

Vĩnh Long: Triển khai dự án quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý cho bưởi Năm Roi Bình Minh

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Sở Khoa học- Công nghệ vừa phối hợp với UBND TX Bình Minh (tỉnh Vĩnh Long) tổ chức hội thảo triển khai dự án quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm bưởi Năm Roi Bình Minh.

Hội thảo đã giới thiệu sơ lược về tình hình trồng bưởi trên địa bàn. Đồng thời giới thiệu tóm tắt nội dung dự án quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm bưởi Năm Roi Bình Minh; kế hoạch triển khai nội dung năm 2019 cũng như những kinh nghiệm triển khai các dự án chỉ dẫn địa lý ở các địa phương khác.

Dự án nhằm vào các mục tiêu thiết lập và vận hành được mô hình quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý, góp phần đảm bảo chất lượng, phát huy danh tiếng của sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh tế cho sản phẩm bưởi Năm Roi mang chỉ dẫn địa lý “Bình Minh”. Qua đó kiểm soát được nguồn gốc và chất lượng sản phẩm bưởi Năm Roi bảo hộ chỉ dẫn địa lý.

Đây là dự án đầu tiên trên địa bàn tỉnh thực hiện các nội dung quản lý và phát triển tài sản trí tuệ cho sản phẩm nông nghiệp theo hướng chuyên nghiệp và bền vững. Dự án thực hiện thành công thì kết quả có giá trị tham khảo rất lớn cho các thương hiệu khác của tỉnh như khoai lang Bình Tân, cam sành Tam Bình, tàu hủ ky Mỹ Hòa…

KHÁNH DUY

Bến Tre: Hộ chăn nuôi heo gặp khó vì giá xuống thấp

Nguồn tin: Báo Đồng Khởi

Sau đợt khủng hoảng giá kéo dài từ năm 2017, 2018, người chăn nuôi heo tiếp tục thua lỗ do dịch bệnh lở mồm long móng. Mới đây vài tháng, giá heo rục rịch lên được trên dưới 4 triệu đồng/tạ, nhiều hộ chưa kịp lấy vốn thì dịch tả heo châu Phi (DTHCP) ập đến. Lâm vào hoàn cảnh chung của cả nước, người chăn nuôi heo cũng đang rơi vào khó khăn.

Chăm sóc đàn heo trước dịch tả heo châu Phi. Ảnh: Thạch Thảo

Ảnh hưởng đời sống người dân

Ông Nguyễn Văn Chờ - Chủ tịch UBND xã Thạnh Phú Đông (Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre) - nơi xảy ra DTHCP đầu tiên trên địa bàn tỉnh, cho hay: Hiện nay, xã còn đọng lại một số đàn heo chuẩn bị xuất chuồng. Xã đã hướng dẫn các cơ sở chăn nuôi liên hệ cơ quan thú y lấy mẫu xét nghiệm DTHCP, tạo điều kiện cho các hộ buôn bán bình thường. Tuy nhiên, tình hình dịch bệnh đang ảnh hưởng trực tiếp rất lớn đến kinh tế, đời sống người dân, đặc biệt là công tác giảm nghèo của xã. Trên địa bàn có 203 hộ chăn nuôi heo, tổng đàn là 7.113 con, tập trung tại ấp 1A, 2A và Ấp 3.

“Số lượng đàn heo tăng lên nhiều trong thời gian gần đây một phần là do giá dừa không ổn định, người dân phải tìm cách để nuôi xen, nuôi thêm, với mong muốn góp phần tăng thêm hiệu quả trên cùng diện tích đất canh tác. Dịch bệnh đến đang làm ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế của người dân, đặc biệt là việc đóng góp thực hiện các phong trào tại địa phương...”, ông Chờ nói thêm.

Vừa qua, địa phương tích cực tuyên truyền bà con phối hợp với cơ quan thú y lấy mẫu xét nghiệm. Nếu có giấy xét nghiệm âm tính với DTHCP thì vẫn xuất chuồng, trong thời gian 10 ngày. Chi phí lấy mẫu xét nghiệm bệnh DTHCP dưới 100 con là 1,188 triệu đồng. Đối với hoạt động bán lẻ thịt heo ngoài chợ, thịt heo có giấy xét nghiệm âm tính với DTHCP thì vẫn được buôn bán bình thường. Chính quyền địa phương cũng có vận động người dân không nên quay lưng với thịt heo sạch.

Ông Nguyễn Văn Chờ cũng cho biết, tình hình thương lái ép giá người chăn nuôi đang xảy ra trên địa bàn xã. “Hiện thương lái mua giá bằng giá Nhà nước hỗ trợ. Như vậy, người nuôi heo lỗ trên dưới 1 triệu đồng/tạ. Thời điểm này, người dân đang tiếp tục liên hệ cơ quan thú y để lấy xét nghiệm rất nhiều”, ông Chờ nói.

Lo thương lái “đạp giá”

Hiện nay, người chăn nuôi heo phần lo sợ dịch bệnh đến bất kỳ lúc nào, phần lo sợ bị thương lái tùy tiện “đạp giá”. Giá heo hơi trên thị trường thời điểm đầu tháng 7-2019 có giá 3,1 - 3,4 triệu đồng/tạ, nhưng sau khi xảy ra ổ dịch đầu tiên trên địa bàn xã Thạnh Phú Đông, thương lái lập tức hạ giá còn ngoài 2 triệu đồng/tạ, bằng với mức giá mà chính sách hỗ trợ người chăn nuôi tiêu hủy heo bị dịch bệnh.

Sau khi công bố dịch bệnh và có một số phải tiêu hủy, thì có khoảng 18 ngàn hộ chăn nuôi cũng đang rơi vào tình trạng “chết đứng” chẳng khác nào những hộ có heo bị dịch bệnh buộc phải tiêu hủy. Những hộ chăn nuôi dù heo chưa bị dương tính với DTHCP và heo đã vô tạ, nhưng giá ngày càng rớt xuống thê thảm vẫn phải tốn các chi phí thức ăn, chăm sóc…

“Từ khi có DTHCP, ngoài cung cấp xét nghiệm âm tính với DTHCP, thương lái heo còn đòi hộ nuôi cung cấp giấy xét nghiệm lở mồm long móng, nếu không có thì trừ 20 ngàn đồng/con. Tại sao trước đây không đòi giấy này, hộ nuôi tiêm phòng chứ không lưu giữ giấy nên bây giờ yêu cầu thì lấy đâu mà đưa. Điều này cũng không đúng vì bệnh lở mồm long móng đã qua lâu rồi”, ông Nguyễn Văn Ân ở xã Hòa Lộc, huyện Mỏ Cày Bắc bức xúc.

Ông Ân cho rằng, hộ nuôi bị thương lái lợi dụng “cơ hội” DTHCP, làm người nuôi hoảng sợ, để ép giá heo hơi. “Như trường hợp của tôi, lúc giá heo ngoài thị trường đang 3,2 triệu đồng/tạ. Nghe tôi kêu bán, lái trả chỉ còn 2,9 triệu đồng. Lái đặt cọc 4 ngày mới bắt. Thời gian này, một số xã tung tin có dịch, thương lái lập tức “đạp xuống” còn 2,3 - 2,4 triệu đồng. Trong khi thịt heo ngoài chợ không có xuống giá”, ông Ân tâm sự.

“Thời gian qua, mặc dù ngành nông nghiệp phối hợp với các địa phương tăng cường công tác phòng chống nhưng dịch đã xảy ra ở nhiều địa bàn. Nếu như không có giải pháp đồng bộ thì sẽ còn tiếp tục lây lan. Đề nghị các địa phương tiếp tục quan tâm công tác phòng chống dịch. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng và cấp bách. Những hộ chăn nuôi xảy ra DTHCP đều hủy hết đàn heo, thiệt hại kinh tế rất lớn. Tới đây, nếu như dịch xảy ra nhiều nơi thì khả năng chôn lấp heo bệnh cũng gặp nhiều khó khăn do địa hình đồng bằng sông Cửu Long. Do đó, mong các địa phương hết sức quyết tâm trong công tác phòng chống dịch, không để phát sinh những ổ dịch mới”. (Ông Bùi Văn Lâm - Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)

Cẩm Trúc

Lãi hơn 100 triệu đồng/năm từ nuôi ong ruồi lấy mật

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Tận dụng diện tích hơn 40m2 đất vườn, anh Trần Minh Niềm, ở ấp 5, xã Xà Phiên, huyện Long Mỹ (tỉnh Hậu Giang), nuôi ong ruồi lấy mật từ đầu năm 2018. Anh Niềm cho biết, ban đầu anh chỉ nuôi vài thùng ong, sau đó thấy hiệu quả nên tiếp tục nhân rộng, hiện được 20 thùng, mỗi thùng từ 5-12 kèo ong. Với giá bán mật ong ruồi khoảng 500.000 đồng/lít, sau khi trừ chi phí, mỗi năm anh thu về trên 100 triệu đồng.

Nhờ nuôi ong ruồi lấy mật đã giúp kinh tế gia đình anh Niềm ngày càng phát triển. Nuôi ong ruồi lấy mật khá nhẹ công chăm sóc, quan trọng là người nuôi cần phải am hiểu về đặc tính của ong, như: xây tổ, chia đàn, các loài hoa, mùa hoa nở, mùa ong đi lấy mật, cách luân chuyển đàn ong tìm kiếm những nơi có nguồn mật hoa dồi dào để ong cho mật tốt và chất lượng.

MINH TIẾN

Sản xuất - kinh doanh thức ăn chăn nuôi: Lao đao vì dịch bệnh

Nguồn tin: Hà Nội Mới

Hiện nay, bệnh Dịch tả lợn châu Phi vẫn diễn biến phức tạp, không những người chăn nuôi thiệt hại mà các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi cũng sụt giảm doanh số. Nhiều đại lý lao đao bởi không đòi được nợ mà vẫn phải trả khoản lãi vay ngân hàng để duy trì hoạt động…

Theo ông Nguyễn Quang Thắng - Giám đốc Công ty TNHH Thiên Quang (huyện Chương Mỹ), nếu trước đây, mỗi tháng, công ty cung cấp cho thị trường khoảng 3.000 tấn thức ăn chăn nuôi thì nay giảm, chỉ còn khoảng 1.500-1.800 tấn/tháng. Để kích cầu, công ty đã hạ giá bán 5.000-10.000 đồng/bao nhưng tiêu thụ vẫn kém. Do đó, công ty sản xuất cầm chừng, bán đến đâu sản xuất đến đó nhằm tránh bị tồn kho và thua lỗ…

Do bệnh Dịch tả lợn châu Phi, hoạt động kinh doanh thức ăn chăn nuôi cũng lâm vào cảnh khó khăn. Ảnh: Thái Hiền

Trong khi đó, bà Trần Thị Hạnh, chủ đại lý thức ăn chăn nuôi ở huyện Đan Phượng cho biết, khi chưa có dịch, mỗi tháng đại lý bán được khoảng 100 tấn, có tháng 120 tấn; nay chỉ còn 50-60 tấn. Phần lớn các hộ chăn nuôi mua chịu, quay vòng 4-6 tháng, khi bán đàn lợn mới trả tiền. "Số tiền hộ chăn nuôi nợ đại lý khoảng 1,5-2 tỷ đồng, chiếm 30% số vốn hoạt động của đại lý. Do nợ cũ vay ngân hàng chưa trả hết, đại lý phải vay thêm 100-200 triệu đồng với lãi suất khoảng 0,8%/tháng, thậm chí là vay lãi cao bên ngoài để duy trì hoạt động kinh doanh..." - bà Hạnh lo lắng nói.

Theo ông Phạm Đức Bình - Phó Chủ tịch Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam, cả nước có hơn 200 doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi. Trong đó, 20 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; còn lại 180 doanh nghiệp của Việt Nam. Khi bệnh Dịch tả lợn châu Phi xảy ra, sản lượng của các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi giảm 30-50%, các đại lý rơi vào cảnh lao đao, đóng cửa hoặc bán cầm chừng. Nguyên nhân chủ yếu do các đại lý và người chăn nuôi vẫn duy trì kiểu bán hàng cung ứng trước - thu tiền sau (khi xuất bán lợn).

Thời gian tới, theo dự báo của Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Nội, người chăn nuôi chưa hết khó khăn, chưa thể tái đàn khi bệnh Dịch tả lợn châu Phi chưa được khống chế. Theo Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Nội Nguyễn Ngọc Sơn, giải pháp quan trọng nhất hiện nay là các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi chia sẻ khó khăn với người chăn nuôi, cắt giảm tối đa chi phí sản xuất để giảm giá bán sản phẩm. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần đa dạng hóa sản phẩm như cám gà, vịt, thủy sản... cho phù hợp với cơ cấu chuyển đổi chăn nuôi hiện nay.

Ở góc độ kinh doanh, ông Nguyễn Văn Quân - chủ đại lý thức ăn chăn nuôi Luân Hương (huyện Ba Vì) cho rằng, các ngành chức năng cần sớm có giải pháp hỗ trợ nguồn vốn vay ưu đãi hoặc khoanh nợ, giãn nợ cho các đại lý trong thời gian chờ thu hồi nợ đọng từ người chăn nuôi…

Để khắc phục khó khăn và dần ổn định thị trường, theo Quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) Nguyễn Xuân Dương, các bộ, ngành cần phối hợp chặt chẽ trong khống chế bệnh Dịch tả lợn châu Phi. Các doanh nghiệp sản xuất, chế biến thức ăn cần thực hiện theo chuỗi khép kín, tăng cường sử dụng nguồn nguyên liệu nội địa, hạn chế nguyên liệu nhập khẩu để giảm giá thành sản phẩm; tạo điều kiện về vốn hoặc giãn nợ cho các đại lý kinh doanh thức ăn chăn nuôi, giúp họ duy trì hoạt động.

NGỌC QUỲNH

Gà tăng trưởng chậm: giải pháp kết hợp giữa chăn nuôi và trồng trọt hữu cơ

Nguồn tin: Khoa Học Phổ Thông

Gà siêu thịt.

Việc phát triển đàn gà “chậm lớn” sẽ giúp cải thiện hệ sinh thái, chất lượng thịt và cả sức khỏe của người tiêu dùng. Gà lớn quá nhanh tiềm ẩn nhiều nguy hiểm

Trải qua nhiều thế hệ, ngành chăn nuôi gà siêu thịt trên thế giới đã dần trở nên chuyên nghiệp, sở hữu nhiều giống gà siêu thịt cao sản. Những tiến bộ của khoa học và công nghệ như tối ưu hóa lượng vitamin và kháng sinh, đã giúp tối đa hóa sự phát triển của đàn gà.

Việc nhốt hết gà vào sau những cánh cửa chuồng trại đã trở thành phương thức hiệu quả, thay vì để cho chúng bay nhảy nơi vườn ruộng. Thêm vào đó, việc chọn lọc di truyền đã giúp tạo ra một giống gà thịt năng suất cao, đạt trọng lượng xuất chuồng trong 42 ngày, nhanh gấp đôi, lớn gấp đôi và chỉ tốn một nửa lượng thức ăn so với giống loài thời hàng chục, hàng trăm năm về trước.

Vì vậy, sự tăng trưởng mạnh mẽ của gà siêu thịt không khiến người tiêu dùng ngạc nhiên. Từ những năm đầu thập niên 1950, lượng cung gà siêu thịt cao sản ở Mỹ đã vượt mặt gà thường (vốn được nuôi để lấy thịt và lấy trứng). Lượng cung tăng dần, đạt tỷ lệ 9:1 vào khoảng 10 năm trước và hiện nay là gần 99%. Vì lẽ đó, gà là nguồn cung thịt số 1 tại thị trường Mỹ, là nguồn nguyên liệu đầu vào cho nhiều thương hiệu gà rán nổi tiếng như KFC, McDonald hay Texas Chicken.

Chính sự phát triển của khoa học và công nghệ đã tạo ra một thế hệ gà “đau khổ”. Sự phát triển quá nhanh về mặt cân nặng khiến các bộ phận như chân, xương và cả nội tạng của gà không theo kịp. Từ đó, rất nhiều vấn đề về cơ, xương, nhiễm trùng… dần dần khiến chất lượng thịt gà suy giảm, trở nên nhạt nhẽo.

Gà tăng trưởng chậm.

Gà tăng trưởng chậm: sự “quay đầu” đầy mạo hiểm

Để thay đổi nhận thức của người tiêu dùng trong việc lựa chọn thịt gà, một số công ty đã có những hành động nhằm thay đổi thói quen sử dụng giống gà siêu thịt. Cooks Venture đang muốn cách mạng hóa ngành công nghiệp thịt gà bằng cách áp dụng nhiều yếu tố: cho gà tự do vào đồng cỏ tươi tốt và chú ý đến môi trường sống cùng hệ sinh thái. Tuy không phải là công ty duy nhất đang theo đuổi giấc mơ này, nhưng với quy mô và tầm vóc của mình, Cooks Venture là người dẫn đầu cho phong trào mới.

Trang trại chăn nuôi gà tăng trưởng chậm rộng hơn 3 km vuông của Cooks Venture ở bang Arkansas (Hoa Kỳ) thậm chí đã mở cửa đón du khách tham quan. Ngay sau khi cửa chuồng mở ra, hàng ngàn con gà tự do chạy như bay vào đồng cỏ xanh mướt.

Việc chăn nuôi gà tăng trưởng chậm trên đồng cỏ với số lượng lớn là một quyết định vô cùng mạo hiểm, bởi đây là giải pháp hoàn toàn khác biệt với phương thức nuôi gà siêu thịt, lại không biết liệu rằng người tiêu dùng có sẵn sàng chi tiêu cho loại thịt “sống chậm” hay không, thậm chí có ý kiến còn nghi ngờ rằng gà tăng trưởng chậm có thể bị can thiệp vào di truyền nhằm đảm bảo lợi nhuận cho công ty chăn nuôi.

“Người ta có quan niệm sai lầm rằng thực phẩm tốt cho sức khỏe sẽ phải có chi phí cao hơn rất nhiều”, ông Mathew Wadiak – đại diện Cook Ventures nhấn mạnh. Thực tế, nếu người tiêu dùng chấp nhận trả thêm 1 hoặc 2 USD, chỉ bằng mức giá 1 ly cà phê Starbucks, chúng tôi có thể tạo ra một hệ thống sản xuất thịt gà tốt hơn, ngon hơn, cũng như nhân đạo hơn cho những con gà”.

Hướng đến việc nuôi dưỡng những giống gà có khung xương và chân khỏe mạnh, hệ miễn dịch mạnh mẽ, chất lượng thịt cao hơn, Cooks Venture đã lựa chọn giống gà phát triển chậm, từ 55 - 62 ngày mới xuất chuồng so với tiêu chuẩn 42 ngày như gà siêu thịt. Giống gà này không tăng trọng quá nhanh trong những tuần đầu tiên, giúp cho hệ thống khung xương của gà theo kịp đà phát triển. Đặc biệt, với trọng lượng không quá lớn (từ 1,5 - 2 kg), gà có thể chạy nhảy như bình thường ở trong môi trường sống. Hơn thế, với điều kiện được nuôi thả tại vườn và không sử dụng kháng sinh, tỷ lệ sống sót của giống gà này vẫn đạt đến 97%, không mắc phải các dịch bệnh về lông, da hay cơ xương.

“Chúng tôi đã mất đến nhiều tháng liền để lai tạo ra giống gà này, bởi phải làm nhiều vòng từ các đời gà khác nhau, mới đạt đủ điều kiện chăn thả gần như tự nhiên”, chuyên gia di truyền Richard Udale chia sẻ. “Thay vì chỉ có bắp và đậu nành, thức ăn cho gà tăng trưởng chậm cần thêm đậu lăng, gai dầu và nhiều loại cây trồng luân canh theo phương thức hữu cơ khác. Khi đó, môi trường đất và nước liên tục được cải thiện, giúp môi trường sống trở nên tốt hơn rất nhiều khi kết hợp giữa chăn nuôi và trồng trọt hữu cơ”.

Không chỉ riêng Cooks Venture, những nhà chăn nuôi lớn cũng đang chuyển hướng sang các giống gà tăng trưởng chậm này. Hai gã khổng lồ Aviagen và Cobb-Vantress, cũng đang phát triển những giống gà riêng. Aviagen đưa ra giống gà Rowan Range, được giới thiệu là “cung cấp chất lượng thịt xuất sắc và có nhiều đặc tính vượt trội”, trong khi Cobb-Vantress luôn tuyên bố sẽ đầu tư mạnh vào tương lai của ngành gà.

Việc tạo ra một thế hệ gà tăng trưởng chậm có chất lượng thịt ngon và được chăn nuôi hữu cơ đồng nghĩa với tăng giá bán, khiến giá trị cạnh tranh có phần suy giảm. Tuy nhiên, người tiêu dùng ngày càng đòi hỏi cao về an toàn vệ sinh thực phẩm, tốt hơn cho sức khỏe và xu hướng tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp bảo vệ môi trường, nên ngay cả khi giá cả sẽ gia tăng, các sản phẩm thịt gà “sống chậm” vẫn có khả năng được hoan nghênh đón nhận.

Bài, ảnh: Hoàng Khánh

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop