Tin nông nghiệp ngày 01 tháng 12 năm 2020

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 01 tháng 12 năm 2020

Kế Sách (Sóc Trăng): Niềm vui từ trái vú sữa đầu mùa

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Sóc Trăng

Trái ngược với niềm vui từ trái vú sữa đầu mùa của năm 2019, thời điểm này, không khí thu hoạch vú sữa tại nhiều tỉnh, thành khu vực đồng bằng sông Cửu Long có phần trầm lắng hơn khi giá được thu mua tại vườn thấp hơn từ 5 đến 7 nghìn đồng/kg. Một điều đáng mừng là câu chuyện buồn này đã không xảy ra đối với nhà vườn trồng vú sữa tại tỉnh Sóc Trăng; đó cũng chính là kết quả mang lại từ quá trình xây dựng chuỗi giá trị liên kết trên cây ăn trái mà ngành nông nghiệp Sóc Trăng đã nỗ lực triển khai trong thời gian qua.

Nếu như trong năm 2019, vú sữa đầu mùa được thương lái thu mua tại vườn từ 25 đến 30 nghìn đồng/kg thì hiện nay đã giảm chỉ còn trên dưới 20 nghìn đồng. Neo vườn để chờ giá đang là giải pháp mang tính may rủi mà rất nhiều nhà vườn đang áp dụng. Riêng tại huyện Kế Sách, địa phương chiếm hơn 80% diện tích trồng cây vú sữa của toàn tỉnh Sóc Trăng, nông dân nơi đây vẫn hăng hái tiến hành thu hoạch khi trái vừa đủ độ chín. Bởi kể từ khi được kí kết hợp đồng xuất khẩu với công ty, họ đã có thể ước tính được lợi nhuận sản xuất ngay từ đầu vụ mà không cần phải quan tâm, lo ngại về giá cả thị trường như nhiều năm về trước. Ông Lê Văn Hoàng – thành viên Hợp tác xã nông nghiệp Trinh Phú phấn khởi cho biết: “Tham gia hợp tác xã được kí kết tiêu thụ nên vô cùng an tâm. Giá ngoài thị trường dù có giảm thế nào thì bà con ở đây cũng được công ty thu mua với giá ổn định 30 nghìn đồng/kg. Nói chung là chỉ lo chăm sóc cho cây tốt, trái ngon chứ không phải lo lắng gì nữa hết”.Năm 2017, Hoa Kỳ chấp nhận Việt Nam là quốc gia duy nhất được xuất khẩu mặt hàng vú sữa vào thị trường này. Đến năm 2018, Sóc Trăng cũng chính thức xuất khẩu lô hàng vú sữa tím đầu tiên sang thị trường khó tính như Hoa Kỳ. Niềm vinh dự này đã thúc đẩy hơn nữa quá trình liên kết hợp tác giữa các hợp tác xã trồng vú sữa trên địa bàn huyện Kế Sách. Tính đến nay, toàn huyện đã có 03 hợp tác xã có công ty liên kết tiêu thụ và 01 hợp tác xã đang trong giai đoạn đàm phán kí kết.

Nếu như liên kết hợp tác là xu thế tất yếu để phát triển nông nghiệp bền vững trong thời hội nhập thì tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm lại là vấn đề cần đặt lên hàng đầu. Bởi việc xây dựng vùng vú sữa sạch đạt tiêu chuẩn xuất khẩu được bắt đầu từ hợp tác xã. Vì chỉ có sức mạnh tập thể mới giúp chuyển đổi nhanh hơn, tạo mối liên kết vững chắc trong sản xuất và tiêu thụ. Tín hiệu lạc quan từ liên kết hợp tác cũng đã giúp hầu hết nông dân trồng vú sữa tại tỉnh đã có ý thức hơn trong mọi khâu canh tác như thực hiện mã code vùng trồng, kỹ thuật bao trái, bón phân, tuân thủ đúng quy trình VietGAP trong canh tác.

Nông dân thu hoạch vú sữa

Ông Sử Quốc Lộc – Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp Lộc – Mãi thông tin thêm: “Trong năm 2020, chúng tôi kí kết tiêu thụ mỗi tuần 3 chuyến, mỗi chuyến như vậy là 3 tấn. Phải đảm bảo trái không có sâu, dồi, dư lượng thuốc trừ sâu cũng như phân hóa học phải tuyệt đối hạn chế, trái phải bảo quản ngay từ trên cây bằng việc thực hiện bao trái, trồng toàn bộ theo hướng VietGAP hết, bà con nói chung rất đồng tình”.

Diện tích trồng vú sữa toàn tỉnh gần 1.900 ha, sản lượng thu hoạch hằng năm trên 28.000 tấn. Để nâng tầm chất lượng trái vú sữa Sóc Trăng, hướng đến mục tiêu đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, Ban Quản lý Dự án cây ăn trái đặc sản của tỉnh cũng đã xây dựng 62,3 ha trồng vú sữa VietGAP tại xã Xuân Hòa và Trinh Phú; đồng thời cấp 19 mã code cho 140 hộ với diện tích 125, 49 ha. Nhà vườn nỗ lực chăm sóc trái, chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn của tỉnh thì chú trọng công tác kêu gọi, xúc tiến quảng bá, sản phẩm. Nói cách khác, ngành nông nghiệp Sóc Trăng đã lo đầu ra trước khi sản phẩm đạt chuẩn và tìm nơi tiêu thụ ngay khi trái vẫn chưa được hái khỏi cành. Điều này thể hiện rõ sự quyết tâm liên kết của cả 4 nhà: nhà nước – nhà nông – nhà khoa học và doanh nghiệp. Tất cả không nằm ngoài mục đích chung là ổn định lợi nhuận kinh tế, giúp nhà vườn an tâm sản xuất.

Ông Vũ Bá Quan – Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Kế Sách cho biết: “Thời gian tới, ngành nông nghiệp huyện sẽ tiếp tục phối hợp cùng các cơ quan chuyên môn cũng như một số đầu mối tiêu thụ để có thể tiêu thụ trái vú sữa cả trong và ngoài nước. Chúng tôi phân thành nhiều phân khúc khác nhau để có thể đưa trái vú sữa vào trong siêu thị, các chợ đầu mối nhằm đảm bảo số lượng trái vú sữa được kí kết tiêu thụ xứng tầm với sản lượng thu hoạch hằng năm”.

Một khi liên kết trong sản xuất thật sự chặt chẽ và chữ tín giữa nông dân với doanh nghiệp được đề cao thì nhà vườn mới có thể tự hoạch toán được giá trị sản phẩm; và khi đó, giá tiêu thụ cũng sẽ không do tư thương quyết định. Câu chuyện bảo toàn được lợi nhuận kinh tế trước tình trạng biến động về giá đối với trái vú sữa của các hợp tác xã sản xuất vú sữa trên địa bàn huyện Kế Sách là một minh chứng rõ nhất về lợi ích của mô hình phát triển kinh tế tập thể và liên kết tiêu thụ. Chỉ khi cùng hợp sức, người nông dân mới có thể làm chủ được thị trường và nỗi buồn được mùa mất giá hay được giá mất mùa sẽ không còn là câu chuyện đáng bận tâm vào mỗi mùa vụ.

Ngọc Thơ

Hà Giang: Bắc Quang phát triển thương hiệu cam VietGAP

Nguồn tin: Báo Hà Giang

Hiện nay tại Hà Giang, cây cam Sành VietGAP được trồng nhiều tại các xã: Vĩnh Hảo, Việt Hồng, Tiên Kiều,… với tổng diện tích 2.422,99 ha. Do phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương và được trồng theo tiêu chuẩn VietGAP, cam Sành Bắc Quang mang hương vị đặc trưng riêng, có vị ngọt thanh, mọng nước và mùi thơm dễ chịu, không chứa hàm lượng thuốc bảo vệ thực vật. Hơn nữa, cam Sành là loại quả có giá trị dinh dưỡng cao, trên 10% hàm lượng đường có nhiều vitamin C tốt cho sức khỏe, chính vì vậy, cam VietGAP đã được người tiêu dùng tin tưởng sử dụng.

Người dân xã Vĩnh Phúc thu hoạch cam Sành.

Vĩnh Hảo là một trong những xã có diện tích trồng cam Sành VietGAP lớn của huyện. Nay, nơi đây đã “thay da đổi thịt” nhờ trồng cam. Đồng chí Lã Hồng Việt, Phó Chủ tịch UBND xã Vĩnh Hảo, cho biết: Xã có 539 ha cam, trong đó có 2 HTX, 240 hộ trồng cam Sành VietGAP, thu nhập trung bình từ 400 đến 500 triệu đồng/vụ; những hộ có diện tích lớn thu nhập trên 1 tỷ đồng. Đến thăm HTX trồng cam VietGAP, thôn Vĩnh Sơn chúng tôi nhận thấy niềm vui trên khuôn mặt ông Hoàng Quyết Thắng, Giám đốc HTX. Ông Thắng chia sẻ: Những năm gần đây, cam Sành VietGAP được quảng bá rộng rãi và được nhiều người biết đến là sản phẩm cam sạch, không có thuốc bảo vệ thực vật, phù hợp với sở thích của người tiêu dùng, nhờ vậy, sản phẩm cam của HTX chúng tôi được nhiều người biết đến, được bán ở các siêu thị và điểm dừng chân trong và ngoài tỉnh.

Để giữ vững và nâng tầm thương hiệu cam Sành VietGAP Bắc Quang, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng về chất lượng, UBND huyện chỉ đạo các ngành, xã, thị trấn phân công cán bộ chuyên trách đến từng hộ trồng cam, hướng dẫn người dân chăm sóc, cắt cam theo đúng kỹ thuật; khuyến khích thực hiện biện pháp bảo quản cam truyền thống tại vườn. Phối hợp với Viện Nghiên cứu rau quả ứng dụng các biệp pháp bảo quản tiên tiến đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật phục vụ xuất khẩu và nâng cao giá trị sản phẩm cam.

Với mục tiêu đưa thương hiệu cam Sành VietGAP Bắc Quang quảng bá rộng rãi tới người tiêu dùng, UBND huyện Bắc Quang đã tổ chức cho HTX và các hộ trồng cam tham gia 2 Hội chợ do tỉnh Quảng Ninh và Hà Nội tổ chức; tổ chức 2 Hội nghị xúc tiến tại Quảng trường Vincom Mega Mall Royal City, 72A Nguyễn Trãi, Thanh Xuân (Thành phố Hà Nội). Hội nghị đã có 9 hợp đồng tiêu thụ sản phẩm cam được ký kết. Nhờ vậy, sản phẩm cam Sành VietGAP Bắc Quang đã có mặt tại các siêu thị lớn như: Vin mart; Big C; Đức Thành và chợ đầu mối các tỉnh miền Trung, miền Nam…

Bài, ảnh: NGUYỄN NGÂN

Vĩnh Phúc: Hiệu quả lớp học IPM trên cây chuối

Nguồn tin: Báo Vĩnh Phúc

Hạn chế tối đa sâu bệnh gây hại, cây chuối sinh trưởng phát triển tốt, tăng năng suất, chất lượng quả, tiết kiệm chi phí sản xuất... là những kết quả đạt được từ lớp học quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây chuối do Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh tổ chức tại huyện Yên Lạc.

Lớp học IPM thực hành điều tra sâu bệnh trên cây chuối tại xã Đại Tự.

Những năm gần đây, mô hình trồng chuối phát triển mạnh ở các xã ven sông Hồng của huyện Yên Lạc như: Liên Châu, Hồng Châu, Hồng Phương, Trung Kiên, Đại Tự…, mang lại hiệu quả kinh tế cao, mở ra hướng đi mới cho nông dân vươn lên làm giàu.

Với những ưu thế vượt trội như mẫu mã quả vàng đẹp, hương vị thơm ngon, khi chín vỏ quả dày và rắn, không nhũn nên quả chuối Yên Lạc không chỉ được tiêu thụ trong tỉnh mà còn vươn ra các tỉnh, thành phố lân cận như: Bắc Ninh, Hà Nội và các tỉnh miền Trung.

Đặc biệt, tháng 11/2018, lô hàng đầu tiên 216 tấn chuối tiêu hồng của người dân huyện Yên Lạc đã được xuất khẩu sang thị trường Nga và Trung Quốc.

Tháng 4/2019, chuối tiêu hồng Yên Lạc chính thức được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH&CN) cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu.

Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh, phòng trừ sâu bệnh trong sản xuất chuối của nhiều hộ còn hạn chế, dẫn đến năng suất thấp, chất lượng quả không cao.

Để gia tăng năng suất, tạo ra sản phẩm chuối an toàn đáp ứng đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, Chi cục Trồng trọt và BVTV tỉnh đã tổ chức khai giảng lớp FFS về quản lý dịch hại tổng hợp trên cây chuối tại huyện Yên Lạc nhằm huấn luyện nông dân thực hiện các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới để quản lý dịch hại hiệu quả.

Tham gia mỗi lớp học có 35 học viên; thời gian học kéo dài một 1 vụ sản xuất chuối từ tháng 3-11/2020.

Với phương pháp vừa trao đổi kiến thức trên lớp, vừa thực hành ngoài đồng ruộng, lớp học IPM đã phát huy tính sáng tạo, tự nghiên cứu đồng ruộng của nông dân, giúp nông dân nâng cao kiến thức hệ sinh thái vườn chuối như:

Đặc điểm sinh trưởng, phát triển của cây chuối qua từng giai đoạn; kỹ thuật nhân giống chuối từ tách chồi và củ cây mẹ; thời điểm bón phân hợp lý, liều lượng bón và phương pháp bón; quy luật phát sinh và gây hại của sâu, bệnh như sâu đục thân, rầy mềm, sâu cuốn lá, nhện, bệnh đốm lá, thán thư, héo rũ, chùn đọt, tuyến trùng hại chuối; sử dụng thuốc BVTV an toàn, hiệu quả theo nguyên tắc “4 đúng” không ảnh hưởng đến môi trường.

Đồng thời trở thành “chuyên gia” hướng dẫn và chuyển giao kiến thức cho các hộ nông dân khác từng bước hình thành vùng sản xuất chuối hàng hóa tập trung và có thương hiệu.

Chị Nguyễn Thị Vui, xã Đại Tự chia sẻ: Trước đây, gia đình trồng chuối chủ yếu làm theo kinh nghiệm nên nhiều cây chuối bị bệnh héo rũ, đốm lá (cháy lá), nghẹt rễ.

Vừa qua, được tham gia lớp học IPM do Chi cục trồng trọt và BVTV tỉnh tổ chức, gia đình đã áp dụng ngay tại diện tích trồng chuối của gia đình.

Nhờ được chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật, nên những quả chuối có mẫu mã rất đẹp và được khách hàng ưa chuộng.

Ông Đàm Đình Lương, xã Đại Tự là hộ có diện tích trồng chuối lớn của địa phương với gần 1ha. Vừa qua, được tham gia lớp học IPM của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh, tư duy sản xuất của ông đã thay đổi.

Ông cho biết: "Sau khóa học, tôi đã hiểu được từng giai đoạn sinh trưởng của cây chuối, xử lý dịch hại bằng cách sử dụng chế phẩm sinh học có nguồn gốc từ nấm Trichoderma trị bệnh vàng lá, thối rễ, tăng sức đề kháng cho cây trồng; sử dụng nấm Metarhizium diệt tuyến trùng, bọ hung hại rễ; sử dụng chế phẩm sinh học BVTV có nguồn gốc thảo mộc như thuốc trừ sâu vi sinh BT, thuốc trừ sâu hoạt chất Abamectin.

Qua đó góp phần cải tạo đất, giải độc hữu cơ giúp cây chuối sinh trưởng, phát triển tốt nâng cao chất lượng nông sản, bảo vệ môi trường, hệ sinh thái, tiết kiệm chi phí sản xuất".

Nói về hiệu quả của IPM, đại diện lãnh đạo Chi cục trồng trọt và BVTV khẳng định: Đã là cây trồng thì phải sử dụng vật tư nông nghiệp, trong đó có hai thành phần rất quan trọng là phân bón và thuốc BVTV.

Để vừa nâng cao năng suất, vừa bảo đảm chất lượng cây trồng và quan trọng nhất bảo đảm sức khỏe cho cả người sản xuất lẫn người tiêu dùng, các lớp học IPM do Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh tổ chức đã truyền tải được những tiến bộ kỹ thuật mới đến nông dân, đáp ứng tiêu chí đầu tư ít nhưng mang lại gia tăng lợi nhuận; giảm đến mức thấp nhất việc sử dụng hóa chất trên đồng ruộng, nhất là thuốc BVTV, góp phần bảo vệ sức khỏe con người, môi trường sống và phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững.

Thời gian tới, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh tiếp tục mở các lớp học IPM trên cây trồng, trong đó có cây chuối; đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về hiệu quả áp dụng IPM vào sản xuất; xây dựng các mô hình ứng dụng các biện pháp kỹ thuật để quản lý dịch hại bền vững, từng bước tiến dần đến sử dụng thuốc trừ cỏ sinh học được chiết xuất từ cây cỏ, thảo dược góp phần xây dựng nền nông nghiệp an toàn, bền vững.

Bài, ảnh: Mai Liên

Đắk Lắk: Lập nghiệp trên mảnh đất quê hương

Nguồn tin:  Báo Đắk Lắk

Với sự năng động nhạy bén và được sự trợ lực cần thiết, nhiều thanh niên vùng nông thôn đã tận dụng những thế mạnh của địa phương, phát huy nội lực để phát triển đa dạng mô hình kinh tế, làm giàu cho bản thân và quê hương.

Hướng tới mô hình sản xuất thân thiện với môi trường

Anh Vũ Đăng Minh (SN 1986, ở xã Tân Hòa, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk) cũng đã thu những "quả ngọt" đầu tay khi mạnh dạn khởi nghiệp bằng sản xuất nông nghiệp sạch. Sau khi tốt nghiệp đại học, anh Minh trở về quê hương để lập nghiệp. Anh thấy đất đai, thổ nhưỡng ở đây phù hợp trồng cây cam, quýt, nên quyết định dùng 2 ha đất của gia đình để trồng loại trái cây này. Để có thu nhập trang trải cuộc sống cũng như chăm sóc cây ăn trái, anh Minh lựa chọn phương thức lấy ngắn nuôi dài; trồng những loại cây ngắn ngày nhanh thu như sả, gừng, nghệ… và nuôi cá, gia cầm để lấy chất thải bón cho cây, cải tạo đất trồng, hạn chế dùng phân hóa học.

Khi cam, quýt vào mùa thu hoạch, thương lái thu mua với giá rất rẻ. Đặc biệt, đợt cả nước giãn cách phòng chống dịch Covid-19 vào tháng 4-2020, việc tiêu thụ nông sản của người dân càng khó khăn gấp bội. Cũng là người trồng cây, anh Minh thấu hiểu sự khó khăn đó nên đã tìm ra phương án hỗ trợ tiêu thụ trái cây cho người dân thông qua mô hình “Thanh niên Tân Hòa hỗ trợ tiêu thụ nông sản”. Theo đó, anh Minh đã kết nối với Công ty Cổ phần Nông nghiệp Minh Anh và Trung tâm Hỗ trợ phụ nữ (TP. Hà Nội) bao tiêu trái cây cho người dân ở huyện Buôn Đôn với mức giá mua tại vườn ở thời điểm đó là 5.000 - 10.000 đồng/kg. Trong hơn một tháng, từ mô hình này, hơn 30 tấn trái cây các loại như: xoài, cam, quýt… được đưa đi tiêu thụ tại nhiều thị trường như: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội…

Anh Vũ Đăng Minh (bên trái) tham quan mô hình cây ăn trái tại địa phương.

Qua đợt tiêu thụ trên, để đảm bảo chất lượng sản phẩm phù hợp với tiêu chí của công ty cho những đợt hàng sau này, anh đã đến tận vườn của bà con để hỗ trợ hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc cây đúng quy trình, sử dụng phân bón, thuốc đúng liều lượng, ghi rõ ngày tháng năm vào bảng và đính lên cây… Việc làm này không chỉ bảo vệ sức khỏe cho người tiêu dùng mà cho chính những người nông dân; từ đó tạo nền tảng để phát triển nông nghiệp một cách bền vững trên vùng đất Buôn Đôn.

Hiện nay, anh Minh tạm rời xa vườn cây của gia đình, chuyển giao công nghệ cho người bạn chăm sóc, chỉ hỗ trợ từ xa và tập trung vào việc bao tiêu sản phẩm. Anh dành phần lớn thời gian để đi học, trải nghiệm công nghệ nông nghiệp của Israel qua các nông trại trên khắp cả nước; học hỏi mô hình công nghệ IMO (là mô hình tận dụng nguồn vi sinh bản địa để canh tác, tạo nên thương hiệu riêng biệt cho sản phẩm tại vùng quê; giảm tối thiểu chi phí và nâng cao được chất lượng sản phẩm kết hợp với sinh thái tự nhiên, tạo ra môi trường sinh thái tự nhiên). Anh dự định đến đầu năm 2021 sẽ trở về quê hương, tiếp tục thực hiện ước mơ từ những kiến thức đã được lĩnh hội.

Nâng cao giá trị nông sản

Những tấm gương thanh niên giàu ý chí, khát vọng lập nghiệp không chỉ mang lại giá trị cho bản thân mà còn giải quyết việc làm cho nhiều lao động nông thôn, giúp nhiều đoàn viên thanh niên có điều kiện giao lưu, học hỏi để cùng nhau phát triển kinh tế. Qua đó, tiếp sức cho phong trào khởi nghiệp của thanh niên Đắk Lắk, góp phần phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương.

Anh Nguyễn Đình Hùng (SN 1987, ở thôn Nam Anh, xã Cư Kpô, huyện Krông Búk) sau gần 4 năm khởi nghiệp đã thành công với mô hình trồng nấm sạch, mang lại thu nhập ổn định cho gia đình; đồng thời tạo việc làm thời vụ cho 5 lao động tại địa phương và chuyển giao công nghệ cho người dân chăm sóc nấm tại gia đình. Anh Hùng là giáo viên công tác tại Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên (GDNN-GDTX) huyện Krông Búk. Vốn yêu thích nông nghiệp theo hướng hữu cơ, anh chọn nấm để trồng thử nghiệm. Năm 2017, anh Hùng bắt đầu tranh thủ thời gian để tìm hiểu và học nghề, phụ làm việc tại các trại, HTX nấm tại nhiều địa phương trên cả nước, kết hợp với tự tìm hiểu thêm trên Internet. Sau gần 2 năm học hỏi cùng với sự giúp đỡ của tập thể Trung tâm GDNN-GDTX huyện, anh Hùng đã bắt tay thử nghiệm quy trình trồng nấm tại đơn vị và đã có những thành công ban đầu. Đến giữa năm 2019, anh bắt tay xây dựng nhà trồng nấm tại gia đình có diện tích 600 m2 với sự giúp đỡ của Hội Nông dân huyện, Phòng NN-PTNT huyện và bạn bè. Anh chủ yếu trồng nấm sò, nấm bào ngư, loại nấm có giá trị kinh tế cao; ngoài ra còn sản xuất phôi nấm để tự cung cấp cho gia đình và chuyển giao cho những người có nhu cầu. Với diện tích trên, mỗi ngày anh thu khoảng 15 kg nấm, mỗi đợt trồng nấm kéo dài khoảng 4 tháng, sau khi trừ hết chi phí sản xuất, anh có lãi hơn 20 triệu đồng. Hiện anh đang chuẩn bị mở rộng quy mô sản xuất để cung cấp đủ số lượng cho các doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm.

Anh Nguyễn Đình Hùng tại cơ sở sản xuất nấm của gia đình.

Để nâng cao giá trị của nấm nói riêng và các sản phẩm nông nghiệp tại địa phương nói chung, anh cùng các thành viên thành lập Hợp tác xã Nông nghiệp Hưng Phát, ngoài sản phẩm nấm còn có các sản phẩm rau, nông sản của các hộ nông dân khác… Vừa qua, sản phẩm nấm bào ngư tươi của HTX Hưng Phát là một trong những sản phẩm đạt tiêu chí OCOP, hạng 3 sao cấp huyện, hiện đang chuẩn bị hồ sơ đánh giá cấp tỉnh. Anh Hùng cho hay, HTX Hưng Phát đang dần tiến tới sản xuất chủ yếu là sản phẩm nông sản sạch, liên kết với các hộ dân, tìm đầu ra cho sản phẩm, mang lại thu nhập ổn định cho gia đình và các thành viên trong HTX.

Mai Sao

Long Hồ (Vĩnh Long): Phát triển mô hình nông nghiệp kỹ thuật cao

Nguồn tin:  Báo Vĩnh Long

Thời gian gần đây, huyện Long Hồ chú trọng phát triển nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp (NN) mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, kỹ thuật cao vào sản xuất NN đã tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, góp phần thay đổi bức tranh NN của địa phương.

Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh- Lê Quang Trung cùng đoàn giám sát của Tỉnh ủy tham quan trực tiếp mô hình nuôi lươn tại trang trại lươn giống Thanh Tân (xã Đồng Phú).

Liên kết phát triển NN địa phương

Thực hiện Nghị quyết Huyện ủy năm 2020, kinh tế huyện Long Hồ tiếp tục phát triển ổn định, tổng giá trị sản xuất ngành NN- thủy sản tăng 1,48%, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội tăng 3,69%; giá trị sản xuất nông- lâm nghiệp và thủy sản ước cả năm trên 2.575 tỷ đồng, đạt 100,31% so với nghị quyết đề ra.

“Xác định ngành NN giữ vai trò trọng yếu trong cơ cấu kinh tế của huyện, những năm qua, huyện tập trung phát triển các mô hình sản xuất hiệu quả kinh tế cao, nâng cao thu nhập cho người dân, góp phần giảm nghèo bền vững và đẩy nhanh xây dựng nông thôn mới”- đồng chí Hồ Văn Minh- Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Long Hồ- cho biết.

Đến nay, huyện đã triển khai 12 mô hình, dự án hỗ trợ nông dân sản xuất với tổng kinh phí trên 1,5 tỷ đồng, đạt nhiều kết quả tích cực trong liên kết phát triển sản xuất NN. Việc đẩy mạnh thực hiện mô hình chuyển đổi cây trồng ở các xã cù lao mang lại dấu hiệu khả quan. Cụ thể, đã thành lập tổ hợp tác trồng nhãn Ido xã Hòa Ninh, tổ hợp tác trồng nhãn xuồng cơm vàng xã An Bình.

Song song đó, nhiều mô hình kinh tế cho hiệu quả kinh tế ổn định như mô hình trồng nấm bào ngư (xã Long Phước) với lợi nhuận đạt từ 15- 16 triệu đồng/1.000 phôi; mô hình nuôi cá tai tượng ở xã Đồng Phú, lợi nhuận trên 8,5 triệu đồng/2.000 con; mô hình nuôi lươn không bùn (xã Bình Hòa Phước) được nhiều địa phương đến tham quan, học tập, thu lợi nhuận từ 30- 32 triệu đồng/2.000 con; mô hình nuôi ếch trong vèo (xã An Bình và Tân Hạnh) được duy trì, thu lợi nhuận trên 4,6 triệu đồng/hộ/2.000 con; mô hình nuôi dê (xã Bình Hòa Phước và Thanh Đức); mô hình nuôi gà trên đệm lót sinh thái được thực hiện ở các xã, lợi nhuận 3,8 triệu đồng/100 con.

“Xem NN- nông dân- nông thôn là cơ sở, lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế xã hội, các mô hình kinh tế có tiềm năng phát triển, đem lại lợi nhuận cao cho người dân sẽ tiếp tục được huyện Long Hồ triển khai nhân rộng trong thời gian tới”- Trưởng Phòng NN- PTNT huyện Long Hồ- Hồ Thế Nhu cho biết.

Ứng dụng kỹ thuật cao, phát triển NN bền vững

Thực hiện xây dựng nền NN sinh thái phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, nhiều mô hình kinh tế trên địa bàn huyện đã có bước chuyển mình mạnh mẽ nhờ tích cực chuyển đổi cơ cấu, ứng dụng rộng rãi kỹ thuật công nghệ cao trong chăn nuôi, mang lại hiệu quả thiết thực.

Công nhân tại trang trại lươn giống Thanh Tân (xã Đồng Phú) đang tích cực thu hoạch lươn giống dù đã vào cuối mùa lươn sinh sản. Chia sẻ về kỹ thuật ươm lươn giống thành công ngay cả khi “trái mùa”, chị Phạm Thị Diệu- Chủ trang trại lươn giống Thanh Tân- cho biết: “Hiện tại trang trại lươn Thanh Tân đã ứng dụng các phương pháp kỹ thuật mới, cho lươn bố mẹ sinh sản và tỷ lệ ấp nở đạt đầu con giống lên đến 90%”.

Với diện tích 1,9ha, trung bình mỗi tháng trang trại cung cấp cho thị trường hơn 800.000 con lươn giống. Hoạt động ổn đinh, trang trại đang tạo việc làm cho 40 lao động tại địa phương với thu nhập 6- 6,5 triệu đồng/người/tháng. Bên cạnh ươm lươn giống, Trang trại lươn giống Thanh Tân còn nuôi lươn thịt thương phẩm. So sánh mô hình nuôi lươn thịt thương phẩm với vườn cây ăn trái cùng diện tích trên 1 năm, hiệu quả kinh tế mang lại từ nuôi lươn cao hơn gấp 8 lần.

Sau thành công của trang trại, chị Diệu cho biết đang chuẩn bị cho việc thành lập công ty được đầu tư quy mô lớn, chuyên sản xuất cung cấp lươn giống, lươn thương phẩm và sản phẩm thực phẩm từ lươn. Dự tính khi hoàn thành vào năm 2021, công ty sẽ cung cấp cho thị trường 8-10 triệu con giống chất lượng và 100 hồ nuôi lươn thương phẩm.

Theo anh Nguyễn Thanh Long- Phó Chủ tịch UBND xã Đồng Phú, mô hình nuôi lươn giống của hộ gia đình Phạm Thị Diệu đến nay đã cho hiệu quả kinh tế ổn định, góp phần giải quyết lao động tại địa phương. Đồng thời, thực hiện nhân rộng mô hình, đã thành lập được Chi hội Nuôi lươn xã Đồng Phú với 20 thành viên tham gia sản xuất.

Mô hình nuôi lươn thương phẩm đã được nhân rộng góp phần phát triển kinh tế địa phương.

Đến thăm mô hình nuôi lươn thương phẩm của hộ gia đình anh Nguyễn Hoàng Lâm (xã Bình Hòa Phước), những con lươn thương phẩm đạt chuẩn đang chuẩn bị xuất bán. Với 25 hồ nuôi lươn hiện tại, anh Nguyễn Hoàng Lâm nuôi 7,5 tấn lươn thương phẩm/đợt/10 tháng. Giá lươn thương phẩm dao động từ 175.000- 185.000 đ/kg.

“Nghề nuôi lươn thương phẩm vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Tôi mong muốn tỉnh hỗ trợ thành lập tổ hợp tác liên kết sản xuất đồng thời mở các lớp tập huấn, hỗ trợ khoa học kỹ thuật cho các hộ gia đình đang nuôi lươn trên địa bàn xã”- anh Nguyễn Hoàng Lâm kiến nghị.

Ông Lê Văn Dũng- Phó Giám đốc Sở NN- PTNT đề nghị UBND huyện Long Hồ, UBND xã tiếp tục nhân rộng mô hình nuôi lươn giống, lươn thương phẩm chất lượng cao. Đồng thời, sẽ nghiên cứu ứng dụng kế hoạch sản xuất lươn giống do sở làm đề tài, để nuôi lươn trở thành mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với việc chuyển đổi vật nuôi cho nhiều nông hộ, góp phần phát triển kinh tế địa phương.

Ông Lê Quang Trung- Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh- yêu cầu huyện Long Hồ tiếp tục phát huy những mặt tích cực, ưu thế của huyện, biến khó khăn thách thức thành cơ hội để phát triển kinh tế. Cần có đánh giá tổng thể các mô hình chuyển đổi cơ cấu sản xuất NN, hỗ trợ tập trung và nhân rộng các mô hình hiệu quả và định hướng cho người dân sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu.

Bài, ảnh: YẾN- NGA

Rau an toàn sẵn sàng phục vụ thị trường Tết

Nguồn tin: Báo Vĩnh Phúc

Càng cận Tết, nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng rau, củ, quả càng tăng cao. Nắm bắt xu hướng tiêu dùng của thị trường cũng như việc chú trọng các sản phẩm an toàn, đảm bảo vệ sinh thực phẩm của người dân, hiện nay, trên những cánh đồng trồng rau an toàn, rau hữu cơ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, người lao động đang dồn sức chuẩn bị nguồn cung, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng của thị trường dịp cuối năm.

Công ty cổ phần Nông lâm nghiệp môi trường Vĩnh Hưng, phường Hội Hợp (Vĩnh Yên) mở rộng diện tích sản xuất, chuẩn bị cung ứng tốt nguồn hàng cho dịp cuối năm. Ảnh: Chu Kiều

Giai đoạn 2017- 2020, để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của từng vùng và thúc đẩy phát triển sản xuất, tái cơ cấu ngành nông nghiệp, UBND tỉnh đã quyết định hỗ trợ đầu tư cho 3 doanh nghiệp có dự án sản xuất về rau an toàn trong nhà lưới theo quy trình VietGAP là: Công ty cổ phần Nông, lâm nghiệp và Môi trường Vĩnh Hưng, Công ty TNHH Thương mại và Dịch vụ Nông nghiệp Trung Kiên, Công ty TNHH MTV Sản xuất và Thương mại Phát Đạt.

Hiện nay, các doanh nghiệp phát triển ổn định, cung cấp nguồn thực phẩm an toàn cho người dân trên địa bàn trong và ngoài tỉnh, từng bước thay đổi thói quen canh tác truyền thống và tạo việc làm cho nhiều lao động tại địa phương.

Có mặt tại Công ty cổ phần Nông lâm nghiệp và Môi trường Vĩnh Hưng, phường Hội Hợp, thành phố Vĩnh Yên những ngày này, nhận thấy người lao động như bận rộn, tất bật hơn trong việc thu hoạch, chăm sóc cây trồng.

Dẫn chúng tôi thăm quan những ruộng mướp đắng, bí đao xanh ngắt đang vươn mình leo lên những giàn cao và cho quả trĩu nặng, Ông Trần Hải Nam, Giám đốc công ty chia sẻ:

Năm nào cũng vậy, cứ trước và sau Tết Nguyên Đán, nhu cầu rau, củ, quả tăng hơn 1,5-2 lần so với ngày thường.

Để đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường, công ty đang tập trung chăm sóc các loại cây trồng để thu hoạch đúng khung thời vụ.

Hiện nay, với tổng diện tích gần 5 ha, toàn bộ rau, củ, quả của công ty được trồng theo tiêu chuẩn Viet GAP. Trung bình 1 ngày, công ty cung cấp gần 4 tấn rau gồm: Su hào, cà chua, bí đao, mướp nhật, bí đỏ, su su, bắp cải... cho hệ thống siêu thị Vinmart và một phần cho các cửa hàng thực phẩm sạch.

Cùng với đó, công ty còn liên kết và là đầu mối tiêu thụ nông sản an toàn cho một số hộ nông dân trên địa bàn tỉnh thuộc các xã Tam Quan (Tam Đảo), Kim Long (Tam Dương) và ngoài tỉnh như Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu.

Thời gian tới, công ty sẽ tiếp tục đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm rau an toàn đến người tiêu dùng, đồng thời lựa chọn các đơn vị, nhà cung cấp giống, vật tư nông nghiệp uy tín, chất lượng tốt để đáp ứng tốt hơn nhu cầu rau, củ, quả an toàn, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người dân.

Được biết đến là đơn vị chuyên canh rau ăn lá các loại, hiện nay, công tác chuẩn bị nguồn rau phục vụ thị trường Tết cũng được Công ty TNHH Sản xuất và Phân phối nông sản sạch OFP, xã Liên Châu (Yên Lạc) quan tâm, thực hiện. Anh Phạm Văn Dũng, Quản lý công ty cho biết:

Với hình thức luân canh gối vụ, chuyên sản xuất rau ăn lá, thời gian từ lúc gieo hạt đến khi thu hoạch không dài (khoảng 1 tháng) nên công ty không chỉ đảm bảo đúng các đơn hàng theo hợp đồng đã ký mà luôn sẵn sàng đáp ứng tốt nhu cầu tăng lên của người tiêu dùng trước và sau Tết Nguyên Đán.

Những năm qua, với kỹ thuật canh tác theo hướng hữu cơ, hệ thống quản lý chất lượng chặt chẽ và được cấp Giấy chứng nhận theo tiêu chuẩn Viet GAP, hiện nay, công ty đang cung cấp trên 5 tạ rau an toàn/ngày cho hệ thống các siêu thị, cửa hàng thực phẩm sạch trên địa bàn trong và ngoài tỉnh như: Big C, Copmart, Mega Market...

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có trên 1.640 ha sản xuất rau, quả an toàn theo quy trình VietGAP, trong đó, 987 ha rau an toàn được cấp chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm và 695 ha rau sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, sản lượng rau an toàn và rau được cấp giấy chứng nhận VietGAP ước đạt 40 nghìn tấn/năm (bằng 25% tổng sản lượng rau toàn tỉnh).

Cùng với đó, toàn tỉnh đã vận hành 8 nhà sơ chế rau an toàn tại các vùng thuộc dự án QSEAP, liên kết chuỗi với Công ty Vineco Tam Đảo; một số vùng chuyên canh sản xuất rau, quả hàng hóa tập trung, quy mô lớn như: Dưa chuột 70 ha tại An Hòa (Tam Dương); Su su 110 ha tại huyện Tam Đảo và Tam Dương; Cà chua 40 ha tại huyện Yên Lạc; Ớt quả 12 ha tại huyện Yên Lạc và Bình Xuyên; Thanh long ruột đỏ 120 ha tại huyện Lập Thạch...

Việc ban hành, thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển nông nghiệp của các cấp, các ngành, đặc biệt là sự nỗ lực áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đảm bảo các quy trình trong việc trồng và chăm sóc rau an toàn như hiện nay sẽ ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng thực phẩm an toàn, thực phẩm sạch của người tiêu dùng hàng ngày cũng như dịp trước và sau Tết Nguyên Đán.

Hồng Liên

Thu nhập hàng trăm triệu đồng từ cây mắc ca

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Nhờ nhạy bén trong sản xuất, ông Ngô Quang Phương (thôn 9, xã Cư Bao, TX. Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk) đã tạo ra nhiều sản phẩm từ mắc ca, phù hợp với xu hướng thị trường và mang lại nguồn thu nhập ổn định.

Gia đình ông Phương có gần 1 ha đất sản xuất nông nghiệp, chủ yếu trồng tiêu, cà phê, nhưng qua nhiều năm thu hoạch, năng suất các loại cây trồng này ngày càng giảm. Mong muốn chuyển đổi cơ cấu cây trồng hiệu quả, ông Phương đã tích cực tìm hiểu thông qua mạng Internet, sách, báo và nhận thấy cây mắc ca phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng địa phương, có giá trị kinh tế cao. Năm 2013, ông mạnh dạn chặt bỏ tiêu, cà phê và mua 300 cây giống mắc ca của Công ty Cổ phần Vina Macca tại TP. Buôn Ma Thuột về trồng trên diện tích đất nhà mình.

Ông Ngô Quang Phương (bên trái) giới thiệu về mô hình trồng mắc ca của gia đình.

Do thời điểm này cây mắc ca chưa phát triển tại địa phương nên kinh nghiệm chăm sóc của người dân còn hạn chế. Để phát triển thành công loại cây trồng này, ông Phương đã tham quan, học hỏi nhiều mô hình trong và ngoài tỉnh. Sau ba năm cần cù chăm sóc, diện tích mắc ca của gia đình đã cho thu bói, đến năm thứ 6, mắc ca bắt đầu cho thu vụ chính. Trung bình mỗi năm ông thu hoạch được hơn 2,5 tấn quả tươi. Tuy nhiên, việc bán mắc ca tươi giá cả không ổn định, lợi nhuận thấp, trong khi thị trường TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội… lại rất ưa chuộng sản phẩm mắc ca sấy khô. Do đó, để nâng cao giá trị và chất lượng sản phẩm, ông đã đầu tư máy sấy, máy tách hạt… và bắt đầu cho ra sản phẩm mắc ca sấy. Nhớ lại thời kỳ mới đưa hệ thống sấy vào hoạt động, ông Phương chia sẻ, do không nắm vững kỹ thuật, kiến thức sấy mắc ca nên nhiều lần thử nghiệm, ông đều thất bại. Sau mỗi lần thất bại, ông tự đúc rút kinh nghiệm để tìm được phương pháp sấy và cho ra sản phẩm hoàn chỉnh. Mắc ca do gia đình sản xuất có độ giòn, thơm ngon, đều và chắc hạt nên được khách hàng đánh giá cao về chất lượng. Hiện tại, mắc ca sấy của gia đình được bán với giá 180 – 220 nghìn đồng/kg, nhờ vậy ông lãi gần 400 triệu đồng/năm.

Không dừng lại ở sản phẩm mắc ca sấy, ông còn lựa những hạt nhỏ không đủ tiêu chuẩn sấy khô để ép lấy dầu, làm mỹ phẩm phục vụ nhu cầu làm đẹp của khách hàng. Một lít dầu mắc ca (được ép từ 7 – 8 kg sọ nhân), ông bán ra thị trường với giá 2 triệu đồng/lít, gia đình ông cũng có thêm nguồn thu nhập từ sản phẩm này.

Năm 2018, gia đình ông càng vui mừng hơn khi 171 cây mắc ca trong vườn đã được Hiệp hội Mắc ca Việt Nam công nhận là cây đầu dòng, có thể sử dụng làm giống ghép. Trong đó, có 4 loại giống mắc ca là: A38; 246; 800 và QN có tỷ lệ nhân cao khoảng 33 – 36%, nên rất được ưa chuộng, những cây đầu dòng đều được treo bảng ghi rõ tên từng loại giống.

Sau khi được công nhận cây mắc ca đầu dòng, Công ty Cổ phần HD Đắk Lắk đã xuống thu mua cành giống của gia đình ông. Cành được thu mua phải khỏe mạnh, xanh tốt, có chiều dài khoảng 60 cm trở lên. Trung bình một năm công ty sẽ thu mua ba đợt, với tổng 1,5 tấn cành tươi. Gia đình ông bán với giá 450.000 đồng/kg cành. Chỉ tính riêng việc bán cành giống, sau khi trừ chi phí, ông thu lãi thêm 400 triệu đồng/năm.

Theo ông Phương, yếu tố hàng đầu giúp gia đình ông sản xuất hiệu quả cây mắc ca là nhờ giống trồng. Vì tìm hiểu kỹ lưỡng và mua được loại giống mắc ca đạt chuẩn nên gia đình đã có những cây đầu dòng chất lượng cao, cho năng suất ổn định. Những cây này, sau khi thu hoạch cành, ông vẫn chăm sóc như các cây mắc ca khác, chủ yếu bón phân vi sinh, phân hữu cơ, chế phẩm sinh học. Đồng thời, ông còn đào hố ở những khoảng trống giữa các cây để chôn lá mắc ca khô, tạo độ mùn, tơi xốp cho đất, giúp cây phát triển xanh tốt.

Từ thành công của gia đình, ông Phương đã nhiệt tình chia sẻ kỹ thuật chăm sóc, kinh nghiệm trồng và cung cấp một số giống mắc ca cho người dân trong vùng. Mô hình sản xuất của gia đình ông đã góp phần tích cực vào sự chuyển đổi cây trồng ở địa phương, nhiều người dân đã chủ động trồng xen mắc ca vào vườn tiêu, cà phê, giúp tăng thu nhập trên một diện tích đất sản xuất.

Phương Thảo

Thu nghìn tỷ từ chăn nuôi bò thịt chất lượng cao

Nguồn tin: VOV

Theo tính toán, sau hơn 5 năm thực hiện Đề án chăn nuôi thâm canh thịt bò chất lượng cao, người chăn nuôi ở Bình Định đạt doanh thu khoảng hơn 13.000 tỷ đồng, lợi nhuận ước đạt hơn 3.000 tỷ đồng.

Tháng 5/2020, Cục Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cấp Chứng nhận đăng ký sở hữu trí tuệ bò thịt chất lượng cao Bình Định. Đây là tiền đề để người dân mạnh dạn đầu tư chăn nuôi theo hướng bền vững, không chỉ mang lại thu nhập ổn định mà còn có thể làm giàu.

Từ năm 2015, tỉnh Bình Định triển khai Đề án chăn nuôi bò thịt chất lượng cao giai đoạn 2015-2020. Sau 5 năm thực hiện đề án, tỉnh Bình Định đã xây dựng được 43 mô hình ở 7 huyện, thị xã và thành phố trong tỉnh. Theo đó, mỗi gia đình tham gia mô hình được hỗ trợ 1 phần chi phí mua bò giống và tập huấn kỹ thuật chăn nuôi, trồng cỏ làm thức ăn… Chương trình nhằm tăng cường phối giống các giống bò chất lượng cao như bò BBB (bà lang trắng- xanh Bỉ), Red Angus để từng bước cải thiện chất lượng đàn bò, thay đổi thói quen chăn nuôi của người dân.

Nuôi bò lai cũng dễ như nuôi bò ta.

Ông Nguyễn Huy - hộ chăn nuôi ở thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định cho biết, thu nhập của gia đình nhiều năm qua chủ yếu từ nuôi bò thịt. Trước đây ông nuôi bò cỏ cũng có thu nhập đều nhưng không cao. Từ khi được hỗ trợ chuyển đổi sang nuôi bò BBB thu nhập khá lên rõ rệt. 1 con bò BBB nuôi khoảng 17 tháng tuổi đến 2 năm đạt trọng lượng bình quân 5 tạ hơi.

“Con BBB hiện nay nuôi 3 tháng hoặc 4 tháng bán 25, 27 triệu đổ lên. Còn con bò thường 4 tháng bán chỉ được nửa tiền so với con BBB. Hiện nay con bò BBB chất lượng cao, thịt đạt, dân các nơi như Gia Lai, Kon Tum, Đà Nẵng hay Phú Yên mua về nuôi" - ông Nguyễn Huy cho biết.

Đề án chăn nuôi bò thịt chất lượng cao của tỉnh Bình Định khởi động năm 2015. Trong năm đầu chỉ có 20.000 con bò được phối các giống chất lượng cao như BBB và Red Angus. Bê lai sinh ra trọng lượng khoảng 30kg, khả năng thích nghi, sinh trưởng tốt, chất lượng cao được thị trường ưa chuộng. Bê lai bán được giá nên những năm sau, số bò được phối các giống này tăng lên gấp 3 lần.

Đến nay, tổng đàn bò ở Bình Định tăng lên gần 300.000 con, tỷ lệ bò lai đạt trên 87%. Trong đó có 120.000 con bò cái giống, là nền tảng để tiếp tục đẩy mạnh công tác lai tạo đàn bò trong thời gian tới

Nhiều gia đình vẫn nuôi xen kẽ bò lai BBB và bò ta. (Ảnh minh họa: nongnghiep.vn)

Ông Ngô Văn Ngọc, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định cho biết: “Giai đoạn trước trên địa bàn An Nhơn triển khai giống bò Bratman, giai đoạn sau này đưa giống bò thịt chất lượng cao như Red Angus và BBB. Qua quá trình phối giống, chăm sóc nuôi dưỡng bà con chăn nuôi đã thấy con Red Angus và BBB sau khi nuôi bê từ 4 đến 6 tháng tuổi thì bán bê lai, bò thịt chất lượng cao thì có giá cao hơn so với bò Bratman từ 3 đến 6 triệu đồng/con. Và trong giai đoạn tới thì vẫn triển khai trên địa bàn giống bò BBB và Red Angus".

Theo tính toán, sau hơn 5 năm thực hiện Đề án chăn nuôi thâm canh thịt bò chất lượng cao, người chăn nuôi ở Bình Định đạt doanh thu khoảng hơn 13.000 tỷ đồng, lợi nhuận ước đạt hơn 3.000 tỷ đồng. Đây là nguồn thu cao và bền vững, thúc đẩy người chăn nuôi tiếp tục gắn bó với giống bò chất lượng cao.

Năm ngoái, tỉnh Bình Định xuất bán bò hơi đạt trên 33.000 tấn, trong đó 80% bán cho thị trường TP HCM và các tỉnh Nam Bộ, Tây Nguyên.

Ông Đào Văn Hùng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bình Định cho biết, với chứng nhận bò thịt chất lượng cao được Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận là tiền đề để Bình Định tiếp tục đẩy mạnh đề án này, mang lại sự phát triển bền vững trong chăn nuôi.

“Các nhà doanh nghiệp đã bắt đầu cùng với bà con liên kết vừa sản xuất vừa tiêu thụ và hình thành HTX nông nghiệp chuyên về chăn nuôi bò thịt. Đặc biệt con bò thịt chất lượng cao đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận là con bò thịt chất lượng cao của tỉnh Bình Định là điều rất quý, rất thành công của chương trình này" - ông Hùng nhấn mạnh./.

Thành Long/VOV-Miền Trung

Hà Nội đứng đầu cả nước về tổng đàn gia cầm

Nguồn tin: Hà Nội Mới

Ngày 27-11, Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Nội tổ chức hội nghị tập huấn phổ biến, tuyên truyền nội dung của Luật Chăn nuôi 2018 và các văn bản hướng dẫn Luật Chăn nuôi cho các tổ chức, cá nhân hoạt động chăn nuôi, sản xuất, kinh doanh giống vật nuôi.

Theo báo cáo của Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Nội, tổng đàn gia súc, gia cầm của Hà Nội đang phát triển mạnh với đàn trâu bò đạt 158.000 con, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước; đàn gia cầm đạt 39,5 triệu con, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2019 và đang đứng đầu cả nước về tổng đàn gia cầm; đàn lợn đạt 1,4 triệu con.

Tại hội nghị, các trang trại, công ty chăn nuôi, sản xuất giống vật nuôi đã được các chuyên gia phổ biến những quy định của Luật Chăn nuôi 2018, có hiệu lực từ ngày 1-1-2020, trong đó có những quy định như: Cấm chăn nuôi nhỏ lẻ trong khu dân cư, nông dân phải ghi chép sổ sách nhật ký chăm sóc để truy xuất nguồn gốc xuất xứ…

Tuy nhiên, sau một thời gian triển khai Luật Chăn nuôi, còn tồn tại một số khó khăn như: Chăn nuôi của Hà Nội nhỏ lẻ chiếm 60% số hộ; toàn thành phố còn 738 cơ sở giết mổ nhỏ lẻ rất khó kiểm soát; việc kê khai hoạt động chăn nuôi của các cá nhân, hộ gia đình và cơ sở chăn nuôi với UBND xã là quy định bắt buộc, nhưng mới thực hiện được với những trang trại chăn nuôi lớn, các hộ dân chưa thực hiện, gây khó khăn cho việc quản lý dịch bệnh...

Phát biểu tại hội nghị, Chi Cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Nội Nguyễn Ngọc Sơn nhấn mạnh, để Luật Chăn nuôi áp dụng vào thực tiễn có hiệu quả, Chi cục tiếp tục phối hợp với các huyện, thị xã tập trung triển khai những điểm mới của Luật như: Thu phí, điều kiện chăn nuôi; xây dựng 29 cơ sở giết mổ tập trung đã được thành phố quy hoạch; tiếp tục phát triển chăn nuôi theo vùng, xã trọng điểm nhằm giảm chăn nuôi nhỏ lẻ; xây dựng mạng lưới thú y cơ sở để giám sát dịch bệnh ngay từ cơ sở, bảo đảm an toàn dịch bệnh...

NGỌC QUỲNH

Tổ yến cho nguồn thu xuất khẩu khoảng 200 - 300 triệu USD/năm

Nguồn tin: VOV

Nuôi chim yến cho sản phẩm có giá trị dinh dưỡng và kinh tế rất cao. 1kg tổ yến có giá từ 1.500 - 2.000 USD; xuất khẩu thu về khoảng 200 - 300 triệu USD/năm.

Hiện nay cả nước có 42/63 tỉnh, thành có nuôi chim yến. Số lượng nhà nuôi tăng từ 8.300 nhà vào năm 2017 lên gấp khoảng 1,5 lần vào năm 2019, tương đương với hơn 11.700 nhà.

Trong đó, Kiên Giang là tỉnh có số lượng nhà yến lớn nhất cả nước với khoảng 2.500 nhà, kế đó là Bình Thuận, 1.200 nhà. Kiên Giang đồng thời cũng là tỉnh dẫn đầu về phân loại nhà yến xây kiến cố với hơn 1.000 nhà.

Năm 2013, Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành thông tư số 35 quy định tạm thời quản lý nuôi chim yến. Dẫn dụ, gây nuôi chim yến và khai thác các sản phẩm từ yến là 1 lĩnh vực cho sản phẩm có giá trị dinh dưỡng và kinh tế rất cao. 1kg tổ yến có giá từ 1.500 - 2.000 USD. Qua xuất khẩu thu về ngoại tệ khoảng 200 - 300 triệu USD/năm. Đây thực sự là một nghề quan trọng và có đóng góp không nhỏ cho ngành chăn nuôi ở nước ta.

Nuôi chim yến cho sản phẩm có giá trị dinh dưỡng và kinh tế rất cao.

Tuy nhiên, thời gian qua việc nuôi chim yến chỉ phát triển mang tính tự phát là chủ yếu, chưa xây dựng kế hoạch sản xuất theo ngành hàng, chưa xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, chưa có giá trị cao đúng với giá trị thực vì chủ yếu xuất thô và tiểu ngạch; Thiếu tính liên kết của một ngành hàng, chưa truy xuất được nguồn gốc sản phẩm; một số tổ chức, cá nhân tư vấn hướng dẫn xây dựng nhà yến không phù hợp làm thiệt hại kinh tế cho người dân, ảnh hưởng lớn đến chất lượng và sản lượng tổ.

Hộ nuôi thiếu hoặc không nghiên cứu đầy đủ về khí hậu, thời tiết, vùng sinh thái và tập tính của chim yến nhà, dẫn đến tình trạng nhà xây xong chim không về làm tổ hoặc chim chết do biến đổi thời tiết.

Nhiều chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực nuôi yến của cả nước đã có các bài viết, phân tích nêu lên thực trạng của nghề nuôi chim yến hiện nay, đồng thời đề ra nhiều giải pháp để phát triển ngành nghề này, trong đó tập trung vào một số nội dung đang được người nuôi yến quan tâm như giải pháp bảo vệ và phát triển quần thể chim yến; công tác xúc tiến thương mại xuất khẩu tổ yến sang thị trường Trung Quốc; kỹ thuật quản lý nhà yến uy tín…

Bên cạnh đó, các chuyên gia cũng đã trực tiếp trả lời các thắc mắc của hộ nuôi về việc dẫn dụ chim yến, nguyên nhân, cách thức quản lý dịch bệnh…/.

Lam Hiếu/VOV-ĐBSCL

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop