Tin nông nghiệp ngày 01 tháng 3 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 01 tháng 3 năm 2019

Hiệu quả từ trồng cây ăn quả đặc sản

Nguồn tin: Hà Nội Mới

Trong những năm qua, diện tích trồng cây ăn quả của Hà Nội tăng cả chất lượng và số lượng, nhất là các loại cây ăn quả đặc sản. Việc phát triển trồng cây ăn quả đã đem lại nhiều lợi ích cho nông dân: Giá trị kinh tế cao, sản xuất gắn với bảo vệ môi trường và mở ra hướng phát triển du lịch sinh thái...

Hà Nội có khoảng 10 loại cây ăn quả đặc sản nổi tiếng. Trong đó có nhiều loại cây ăn quả đặc sản đã khẳng định thương hiệu như: Bưởi tôm vàng (huyện Đan Phượng), bưởi đường Quế Dương (huyện Hoài Đức), cam Canh Kim An (huyện Thanh Oai)... Hướng tới phát triển các loại cây ăn quả chất lượng cao, thời gian qua, Hà Nội đã tạo điều kiện giúp người dân đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, áp dụng trồng, thâm canh và ứng dụng tiến bộ khoa học về trồng cây ăn quả đặc sản. Bên cạnh đó, ngành Nông nghiệp Hà Nội đã tổ chức nhiều lớp tập huấn kỹ thuật cho nông dân, từng bước nâng cao nhận thức trồng cây ăn quả theo quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt VietGAP..., tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

Hiện nhiều địa phương đã tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đồng thời phát huy tiềm năng, lợi thế trong trồng cây ăn quả đặc sản đem lại hiệu quả kinh tế cao. Đơn cử, huyện Gia Lâm, đã phát triển các vùng trồng cây ăn quả tập trung tại 3 xã Đông Dư, Đa Tốn, Kiêu Kỵ với diện tích hơn 1.312ha cho thu nhập từ 300 đến 400 triệu đồng/ha/năm. Cá biệt, có những mô hình cho thu nhập từ 700 triệu đồng đến 1 tỷ đồng/ ha/năm tại các xã: Lệ Chi, Kiêu Kỵ...

Huyện Phúc Thọ cũng là một trong những địa phương của Hà Nội tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, trọng tâm là phát triển cây ăn quả đặc sản gắn với việc bảo vệ môi trường xanh - sạch - đẹp, thu hút phát triển du lịch sinh thái. Đến nay, toàn huyện đã mở rộng diện tích trồng cây ăn quả được 885ha chủ yếu là cây có múi như cam Canh, bưởi Diễn cho thu nhập khoảng 500 triệu đồng/ ha/năm. Ông Hoàng Văn Khánh ở cụm 2, xã Vân Hà (huyện Phúc Thọ) chia sẻ: "Trồng cây ăn quả đặc sản, nhất là trồng cây bưởi, nông dân rất ít khi phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, phân bón, mà đa phần là sử dụng phân hữu cơ được tận dụng từ phụ phẩm nông nghiệp hoặc từ đậu tương ngâm ủ… nên môi trường trong lành. Hơn nữa, trồng cây ăn quả làm cho làng quê đẹp hơn, nên rất nhiều du khách đã đến tham quan các vườn trồng cây ăn quả của xã Vân Hà".

Việc phát triển trồng cây ăn quả đặc sản, không những nâng cao thu nhập cho nông dân mà còn giải quyết được tình trạng ruộng đồng bị bỏ hoang do thiếu nước tưới ở các xã, thị trấn ven đô thuộc huyện Đông Anh, Thanh Trì, Thường Tín, Hoài Đức... Theo Phó Trưởng phòng Kinh tế huyện Hoài Đức Nguyễn Thị Mai Lan, đến nay, toàn huyện đã trồng hàng chục héc ta cây ăn quả đặc sản trên diện tích đất nông nghiệp gặp khó khăn về nước tưới như vùng trồng nhãn chín muộn ở xã An Thượng, Đông La, Song Phương, vùng trồng bưởi đường tại xã Đông La, Cát Quế, vùng trồng phật Thủ ở xã Yên Sở, Đắc Sở...

Ông Nguyễn Xuân Đại, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội cho biết, đến nay, diện tích trồng cây ăn quả đặc sản của TP Hà Nội là hơn 17.000ha chủ yếu là: Bưởi, cam, nhãn, chuối. Hà Nội đặt mục tiêu từ nay đến năm 2020 sẽ tăng ít nhất từ 300 đến 800ha trồng cây ăn quả đặc sản. Theo đó, trong định hướng, thành phố chỉ đạo sẽ chuyển diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả do gặp khó khăn về nguồn nước tưới, giao thông, thủy lợi sang trồng cây ăn quả theo hướng đặc sản, gắn với phát triển du lịch sinh thái. "Để cây ăn quả đặc sản đem tới nhiều lợi ích hơn nữa, Hà Nội đặc biệt coi trọng khâu chất lượng giống tốt, giống cây ăn quả trồng ở các vùng tập trung đều là giống đầu dòng, được các đơn vị uy tín cung ứng. Mặt khác ngành Nông nghiệp đầu tư mạnh cho tập huấn khoa học, kỹ thuật trồng và chăm sóc, bảo đảm cây cho quả tốt về chất lượng, đẹp về mẫu mã. Từ đó tìm các biện pháp xúc tiến thương mại để tiêu thụ sản phẩm" - ông Nguyễn Xuân Đại nhấn mạnh.

SƠN TÙNG

Nông dân phát hiện giống mãng cầu ‘quý hiếm’

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

So với mãng cầu thông thường, năng suất của cây mãng cầu này đạt gấp đôi, khoảng 5,5 tấn/ha. Với lợi thế có mẫu mã đẹp nên trái mãng cầu giống mới được bán với giá cao và thu hút khách.

Cây mãng cầu “tổ” của giống mãng cầu mới trong vườn chị Hoà.

Mãng cầu là một trong những trái cây đặc sản của tỉnh. Tháng 8.2011, Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý cho “mãng cầu Bà Đen Tây Ninh”.

Tây Ninh cũng là tỉnh có diện tích mãng cầu lớn nhất nước (tính đến tháng 6.2018, cả tỉnh có hơn 5.100 ha). Do vậy, thông tin về việc một hộ nông dân trồng mãng cầu ở xã Thạnh Tân (thành phố Tây Ninh) phát hiện ra giống mãng cầu trái to hơn giống mãng cầu thông thường, chất lượng rất ngon đang khiến các hộ dân trồng cây này tại khu vực núi Bà Đen phấn khởi.

Chị Hoà (ngụ ấp Thạnh Trung, xã Thạnh Tân) là người phát hiện ra giống mãng cầu mới cho biết, cách đây vài năm, vợ chồng chị mua cây mãng cầu giống về trồng trên diện tích khoảng 1 ha. Khi vườn mãng cầu cho trái, có một cây trổ bông với cánh thẳng chứ không xoăn như những cây còn lại. Trái trên cây này to và đẹp, có nhiều trái nặng hơn nửa ký.

Vô cùng mừng rỡ, vợ chồng chị Hoà lấy hạt ươm để nhân giống trồng trên diện tích đất gần 1 ha tại khu vực dưới chân núi Bà Đen. Vụ đầu tiên, dù mãng cầu cho sản lượng cao hơn so với giống khác nhưng màu trái chưa đẹp nên hai vợ chồng chị tìm cách chăm sóc để trái đẹp hơn.

So với mãng cầu thông thường, năng suất của cây mãng cầu này đạt gấp đôi, khoảng 5,5 tấn/ha. Với lợi thế có mẫu mã đẹp nên trái mãng cầu giống mới được bán với giá cao và thu hút khách.

Chị Hoà chia sẻ, sau khi tình cờ phát hiện giống mãng cầu “quý hiếm” này, vợ chồng chị đã chia sẻ hạt giống cho một nông dân khác trồng trên diện tích hơn 2 ha.

Trong các giải pháp phát triển chuỗi giá trị cây mãng cầu của tỉnh có đề ra việc nghiên cứu, tạo chọn giống mới để nâng cao chất lượng trái; tăng cường chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm tăng năng suất, chất lượng, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, giảm giá thành và tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm cây ăn trái của tỉnh..

Do đó có ý kiến cho rằng, trước việc vợ chồng chị Hoà phát hiện được giống mãng cầu cho trái có năng suất, chất lượng cao, ngành Nông nghiệp cần vào cuộc tìm hiểu giống mãng cầu này và có giải pháp nhân rộng giúp nông dân phát triển kinh tế.

THẾ NHÂN

Vườn dâu tây của ông chủ người Quảng Ninh giữa Đà Lạt

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Vườn dâu tây sai trĩu quả, đạt năng suất, chất lượng ngoài mong đợi của chủ nhân khiến những nông dân lâu đời, nhiều kinh nghiệm canh tác loại cây này tại Đà Lạt cũng phải thán phục.

Ông Bùi Ngọc Minh bên trang trại dâu tây của gia đình

Nằm cách trung tâm TP. Đà Lạt khoảng 10km, trang trại dâu tây gần 1ha được chủ nhân sử dụng toàn bộ công nghệ của châu Âu. Ông Bùi Ngọc Minh, chủ sở hữu trang trại dâu tây này cho biết: “Khí hậu của Tà Nung tương đối thuận lợi, có sẵn nguồn nước sạch từ giếng khoan nên tôi quyết định thành lập trang trại tại đây”. Đưa chúng tôi tham quan một vòng trang trại dâu tây của gia đình, ông Minh cho biết thêm, đây là lần đầu tiên dấn thân vào hoạt động sản xuất nông nghiệp, đầu năm 2018, từ bỏ công việc liên quan đến khai thác than, khoáng sản, sau một lần vào Đà Lạt tham quan, ông quyết định thử sức mình trong vai trò là người nông dân thực sự. Làm nông nghiệp đã khó và vất vả, trồng dâu tây lại càng gian nan gấp bội, không phải ai cũng thành công. Không ít nhà vườn giàu kinh nghiệm làm nông tại Đà Lạt sau một thời gian đến với loại cây trồng này đã phải bỏ cuộc, chịu thua lỗ vì cây không đạt năng suất và chất lượng. Chính vì vậy, chứng kiến trang trại dâu tây sai trĩu quả, đỏ mọng, du khách tới vườn tham quan ai cũng trầm trồ, ngưỡng mộ cách làm nông nghiệp của gia đình ông Bùi Ngọc Minh.

Theo ông Minh, sau khi tìm hiểu các giống dâu tây trên thị trường đã quyết định lựa chọn giống của Mỹ, ông đã liên hệ với một doanh nghiệp chuyên cung cấp giống dâu tây trên thị trường Hoa Kỳ để mua. Tuy nhiên, do vấn đề bảo hộ nguồn giống, doanh nghiệp này đã từ chối cung cấp. Ông Minh phải mất khá nhiều thời gian, vận động nhiều mối quan hệ ở Mỹ cùng những cam kết chặt chẽ mới thuyết phục được họ cung cấp giống dâu tây đem về Đà Lạt gieo trồng. Sau đó, đơn vị cung cấp giống đã cử kỹ sư sang Việt Nam để tư vấn, thiết kế trang trại cho phù hợp với loại cây trồng này.

Thu hoạch dâu tây tại trang trại

Để trồng thành công, đạt năng suất và chất lượng tốt nhất, gia đình ông Minh đã phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình do kỹ sư của đơn vị cung cấp giống đưa ra. Toàn bộ thiết bị, kỹ thuật trồng dâu tây đều được nhập khẩu từ Israel, một nước có nền nông nghiệp tiên tiến hàng đầu thế giới. Riêng giá thể dùng để trồng dâu được nhập về từ Hà Lan. “Việc đầu tiên là phải chi ra thật nhiều tiền để xây dựng trang trại công nghệ cao đạt chuẩn với những thiết bị hiện đại, tưới phun, làm mát không khí tự động, phù hợp với điều kiện sinh trưởng và phát triển của cây dâu nên giá thành đầu tư lắp đặt lên tới 600 triệu đồng mỗi sào”... ông Minh chia sẻ.

Toàn bộ trang trại dâu tây giống Mỹ của gia đình ông Bùi Ngọc Minh đều được trồng trên giá thể cách mặt đất khoảng 80cm. Dâu tây ở đây được tưới nhỏ giọt vào từng gốc với lượng nước vừa đủ để cây hấp thụ. Để giữ độ ẩm và mát mẻ, ngoài việc thiết kế nhà kính cao, thoáng, ông còn lắp hệ thống quạt và phun sương. Khi nhiệt độ trong nhà kính vượt quá điều kiện cho phép hệ thống làm mát sẽ hoạt động để kéo nhiệt độ trở về với điều kiện phù hợp của cây dâu tây. Ngoài ra ông còn dùng ong nuôi trong nhà kính để khả năng thụ phấn của dâu đạt hiệu quả, ông còn nhập thiên địch từ Hà Lan về giúp tiêu diệt các loại sâu bệnh trên cây dâu, trong vườn hoàn toàn sử dụng các loại chế phẩm sinh học để canh tác làm sao cho những trái dâu đảm bảo chất lượng đến tay người tiêu dùng. “Khi mới trồng, hằng ngày chúng tôi phải theo dõi rất kỹ sự phát triển của cây dâu và ghi chép cụ thể để báo cáo với phía đối tác cung cấp giống cử kỹ sư tới hỗ trợ. Dâu tây là loại cây rất nhạy cảm, dễ nhiễm bệnh khi thời tiết, nhiệt độ có sự thay đổi, nhất là thời điểm chuyển mùa, nếu không kịp thời phát hiện, điều chỉnh và chữa trị thì cây sẽ chết hàng loạt!..”, ông Minh cho biết. Nhờ được chăm sóc đúng kỹ thuật, cây dâu tây giống Mỹ sống trong môi trường lý tưởng nên luôn trĩu quả, kể cả ở lứa đầu tiên.

Ngoài khu vực sản xuất chính, những luống dâu tây được ông Minh thiết kế riêng dành cho du khách vào tham quan, chụp hình với hệ thống giàn treo nâng lên hạ xuống để mọi người có thể được mắt thấy, tay sờ, du khách ai cũng suýt xoa, thích thú. Chị Trần Thị Thùy Linh, du khách tới tham quan trang trại dâu tây tại đây cho biết, đây là lần đầu tiên chị chứng kiến và tận tay sờ vào những trái dâu tây đẹp ngỡ ngàng khiến chị và nhóm bạn rất thích thú.

Du khách thích thú khi trải nghiệm vườn dâu tây

Hiện trang trại dâu tây của gia đình ông Minh mỗi ngày cho thu hoạch khoảng 200kg. Vào thời điểm chính vụ, nếu đạt năng suất cao nhất có thể cho thu hái tới 500kg mỗi ngày. Theo ông Minh, ở nước ta, dâu tây gần như duy nhất trồng được quy mô thương mại ở Đà Lạt nên gần như quanh năm không phải lo đầu ra cho sản phẩm. So với các loại nông phẩm khác, giá thành dâu tây khá ổn định. Hiện giá bán tại vườn từ 200.000 - 300.000 đồng/kg. Dâu tây được gia đình ông đóng vào từng hộp, bên trong được ngăn thành các lớp để tránh hư hỏng trong quá trình vận chuyển. Riêng những trái dâu bị lỗi, ông chủ trang trại này tận dụng để làm nước ép, nước cốt dâu nên sản phẩm gần như không bao giờ bị đổ bỏ, lãng phí.

Văn Báu

 

Quảng Nam: Nông dân Tiên Phước làm giàu từ cây tiêu bản địa

Nguồn tin: Khuyến Nông VN

Hiện nay, trên địa bàn huyện Tiên Phước (tỉnh Quảng Nam), phong trào trồng tiêu Tiên Phước đang phát triển mạnh, nhanh và bền vững. Nhà nước có nhiều chương trình, dự án khuyến khích nhân dân trồng tiêu để phát triển sản xuất như Dự án cây tiêu Tiên Phước, Đề án 02 của huyện về phát triển kinh tế vườn, kinh tế trang trại, du lịch sinh thái mang đặc trưng vùng trung du xứ Quảng giai đoạn 2017 – 2025. Nhiều hộ nông dân chỉ trồng vài choái tiêu để ăn trước đây, nay mở rộng diện tích vườn để trồng tiêu từ 100 đến 500 choái, mang lại thu nhập hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Tiêu Tiên Phước là giống cây trồng bản địa, có từ lâu đời, được người dân trồng từ xa xưa trên toàn huyện. Tiêu Tiên phước có hai loại: tiêu sẻ và tiêu bộp. Tiêu sẻ lá nhỏ, hạt nhỏ, thơm ngon; tiêu bộp lá to, hạt to nhưng ít thơm hơn. Tiêu Tiên Phước có hương vị rất riêng, có mùi thơm và cay đặc trưng, tỷ lệ tạp chất cũng như hạt lép rất thấp nên luôn được người tiêu dùng ưa chuộng, do vậy, giá bán của tiêu Tiên Phước thường cao hơn các loại tiêu khác và tương đối ổn định.

Chất lượng vượt trội của tiêu Tiên Phước là nhờ điều kiện tự nhiên nơi đây

Đến nay, tại huyện Tiên Phước có hơn 200 ha trồng tiêu Tiên Phước. Nhiều hộ nông dân trồng tiêu với quy mô lớn từ 100 - 500 choái tiêu, trong đó hộ dân trồng từ 100 - 200 choái chiếm đa số. Mô hình trồng 500 choái thuộc về những hộ có diện tích liền kề. Một trong những mô hình trồng tiêu Tiên Phước tiêu biểu là mô hình trồng 400 choái tiêu của anh Cái Văn Điệp ở thôn 3, xã Tiên An. Sau 4 năm trồng và chăm sóc, đến này vườn tiêu của anh đã cho trái, năm đầu cho trái, anh thu được 400 kg/vụ, mang lại thu nhập 240 triệu đồng/năm. Dự kiến trong năm thứ 2, vườn tiêu của anh cho năng suất gấp đôi.

Anh Điệp là một thanh niên tiêu biểu của xã Tiên An về phát triển kinh tế vườn. Tham quan vườn tiêu của anh, chúng tôi mới cảm nhận được điều đó, các choái tiêu được bố trí thẳng hàng, có mương thoát nước, có hệ thống nước tưới bằng vòi phun nhỏ giọt, vườn sạch cỏ và rất thông thoáng. Anh Điệp chia sẻ: “Qua 4 năm trồng tiêu, tôi đúc kết được khá nhiều kinh nghiệm. Lúc mới trồng, cây còn yếu, phải che thật mát, tránh nắng. Nếu trời không mưa, mỗi ngày tưới ít nước cho thấm đều. Nhiều nước quá tiêu sẽ chết. Độ một tháng sau, tiêu đã mọc rễ, bám sâu vào đất, đến lúc ấy dở hết lớp che ra, lượm sạch lá cây rơi rụng, không để sâu bọ, kiến... trú ẩn, phá hoại cây tiêu. Giai đoạn 3 năm đầu, cần chăm sóc, bón phân để tiêu phát triển cành lá sum suê, nếu choái tiêu nào phát triển tốt giai đoạn này thì giai đoạn ra trái cho năng suất rất cao. Năm thứ 4 trở đi, cần hạn chế bón phân và tưới nước để cho tiêu ra trái. Về mùa nắng, chung quanh gốc tiêu, ta bỏ đá, gạch phía trên và lẫn lộn trong đất để giữ độ ẩm. Có những choái tiêu lâu ra trái là do tiêu phát triển cành lá quá mạnh, nên ngừng việc chăm sóc, tưới nước để tiêu phát triển chậm lại, sau đó tiêu mới ra chuỗi và kết trái”.

Tiếp đó là ông Mai Huấn ở thôn 3, xã Tiên Lộc, là một trong những hộ có mô hình tiêu đẹp. Ông Huấn đầu tư xây dựng 150 trụ choái tiêu bằng bê tông, sau 5 năm trồng và chăm sóc, ông Huấn thu được 300kg/vụ, mang lại thu nhập 210 triệu đồng/năm. Ông huấn cho biết thêm, trồng tiêu bằng choái bê tông, tiêu vẫn sinh trưởng, phát triển mạnh, ra trái bình thường, đỡ tốn công và phân chăm sóc cây choái sống. Choái bê tông có nhược điểm là nóng nên giai đoạn đầu trồng tiêu ta phải tưới nước và che nắng thường xuyên, đồng thời giữa hai choái tiêu ta trồng 1 hàng cây để che nắng cho tiêu khi lớn lên.

Ngoài anh Điệp và ông Huấn, còn rất nhiều mô hình trồng tiêu hiệu quả tại huyện như hộ ông Võ Văn An, Đoàn Kim Chế ở thôn 8, ông Võ Tấn Thi ở thôn 4, xã Tiên Mỹ; hộ ông Nguyễn Công Đẵng, Nguyễn Văn Thi ở thôn 4, xã Tiên Cảnh; hộ ông Đỏ tại thôn 3, xã Tiên Phong…

Để phát huy tiềm năng và thế mạnh của hạt tiêu Tiên Phước, Công ty TNHH Sơn Tiến, xã Tiên Sơn đã liên kết với các hộ trồng tiêu để bao tiêu sản phẩm đầu ra. Sản phẩm tiêu Tiên Phước đã được Công ty TNHH Sơn Tiến đăng ký thương hiệu, xây dựng bao bì, nhãn mác… và đã hoàn thành hồ sơ để đăng ký sản phẩm OCOP tỉnh Quảng Nam. Vừa qua, Hội đồng đánh giá OCOP tỉnh Quảng Nam đánh giá sản phẩm Tiêu Tiên Phước đạt 4 sao. Hiện nay, Tiêu Tiên Phước đã có mặt trên thị trường trong và ngoài tỉnh, được nhiều khách hàng ưa chuộng.

Mai Thị Huyền Sanh - Trung tâm Kỹ thuật nông nghiệp huyện Tiên Phước

Bình Phước: Đỏ mắt tìm nhân công hái tiêu

Nguồn tin: Báo Bình Phước

Được mùa mà không thể vui nổi khi vụ tiêu năm nay giá chỉ đủ bù chi phí chăm sóc. Trong khi đó, người trồng tiêu còn lâm vào cảnh nhân công thu hái khan hiếm, đắt đỏ.

Thay vì thuê nhân công thu hoạch tiêu tính theo công nhật như mọi năm, hiện nay nhiều nhà vườn trên địa bàn các xã An Khương, Thanh An, huyện Hớn Quản lại tính theo sản lượng hoặc chia đôi sản lượng thu hoạch được. Dù vậy nhiều nhà vườn vẫn “đỏ mắt” theo cả nghĩa bóng và nghĩa đen tìm người thu hái. Khan hiếm nhân công, một số hộ đã đầu tư hàng chục triệu đồng mua lưới rải dưới gốc để hứng những chuỗi tiêu chín rụng.

ĐỦ CÁCH CỨU TIÊU

Vụ tiêu 2018-2019 đang vào chính vụ. Được mùa nhưng nhiều hộ trồng tiêu ở 2 xã An Khương, Thanh An như “ngồi trên đống lửa” vì không tìm được người hái tiêu. Mặc dù giá thuê nhân công từ sau tết cao hơn mọi năm, dao động từ 170-200 ngàn đồng/ngày/người nhưng vẫn không tìm được người làm. Nhà nông Ngô Đình Lãn, ngụ tổ 7, ấp 2, xã An Khương, cho biết: “Trước tết, tiêu đã chín song vẫn có người hái vì một số công nhân được nghỉ sớm quay qua hái tiêu thuê. Đến thời điểm này, họ đã trở lại nhà máy, xí nghiệp làm việc.

Không còn đủ thời gian và nhân công nên gia đình bà Thị Thanh phải trải bạt để hứng tiêu

Hiện nay, hầu hết các vườn tiêu của người dân đều chín rộ, nhu cầu người thu hái rất lớn. Đồng nghĩa với sự cạnh tranh nhân công giữa các chủ vườn cũng rất cao. Để thu hút nhân công, mỗi nhà vườn có cách làm khác nhau. Nhà thì tăng giá thuê, nhà trả tiền công khoán theo sản lượng, thậm chí có nhiều chủ vườn chia đôi sản lượng tiêu thu hoạch được cho người hái. Và để làm hài lòng người hái, không để họ bỏ đi vườn khác thì mỗi tối nhà vườn phải tưới phần tiêu hái ngày mai để tiêu giòn, hái dễ.

Vườn tiêu 5.000 trụ đang cho thu hoạch, chín đỏ từ gốc đến ngọn nhưng gần 1 tháng nay gia đình ông Lãn vẫn không tìm được người hái mặc dù sẵn sàng trả công cao hơn mọi năm. Xót xa nhìn tiêu chín rụng, ông đành thuê người hái khoán ăn theo sản lượng với giá 4.000 đồng/kg tiêu tươi. Cách làm này người hái dễ chủ động thời gian rảnh đến làm và bất kỳ nam, nữ, già, trẻ cũng đều làm được. Trung bình mỗi ngày gia đình ông phải trả từ 200-500 ngàn đồng/người. Ông Lãn cho rằng cách làm này “lợi bất cập hại”. Lợi là có người thu hoạch, còn hại là do khoán sản lượng nên người hái chỉ quan tâm đến số tiền thu được quy từ số ký tiêu hái nên họ tuốt cả đọt và lá gây ảnh hưởng đến sinh trưởng và năng suất cây tiêu ở vụ sau.

5.000 trụ tiêu thời kỳ cho trái sung sức nhất nhưng mỗi ngày vườn nhà ông Lãn chỉ có 4 nhân công hái. Nhìn danh sách chấm công của gia đình ông ngày 21-2, có người tranh thủ đến hái 3 tiếng đồng hồ từ 6-9 giờ sáng rồi về làm việc khác. Có người làm một buổi, mấy ngày sau mới quay lại làm buổi nữa. Kiểu làm như vậy gia đình ông Lãn cũng đồng ý vì hái được bao nhiêu hay bấy nhiêu, còn hơn để rụng vùi vào đất.

NGUY CƠ BUÔNG VƯỜN TIÊU

Trong khi nhiều nhà vườn lâm vào cảnh “được mùa mất giá” và khan hiếm nhân công đã đẩy giá thuê nhân công lên cao. Giá thuê cao nhưng cũng chẳng mấy người mặn mà với việc hái theo công nhật. Nhiều người tính theo sản lượng tiêu hái được trong ngày để nhận tiền công. Trung bình một người lớn hái khoán đạt từ 80-100kg tiêu tươi/ngày. Với giá khoán 4.000 đồng/kg thì quy ra một công nhận từ 320-400 ngàn đồng/ngày công.

Chị NGUYỄN THỊ HUYỀN, ấp An Hòa, xã Thanh An, huyện Hớn Quản cho biết: “Không thể kiếm được người hái trong khi tiêu chín đỏ cây. Ăn tết mà sốt ruột lắm nên chiều mồng 1 nhà tôi đã vào vườn hái tiêu. Mỗi ngày làm từ sáng tinh mơ đến khi không còn nhìn rõ chuỗi tiêu mới nghỉ. Những ngày này gia đình rọi đèn pin hái chứ biết không thể thuê được ai”.

Anh Nguyễn Văn Sơn làm nghề chăm sóc vườn nhưng thấy việc hái khoán có thu nhập cao nên anh tranh thủ buổi trưa làm thêm hoặc những ngày không có việc thì đi hái tiêu. Anh Sơn cho biết: “Bình quân tôi hái mỗi ngày được 70-80kg, vợ tôi hái nhanh hơn được khoảng 100kg tiêu tươi. Thu nhập cao chỉ tranh thủ được mùa này, vào những mùa khác đi làm thuê chỉ được hai trăm ngàn đồng” đổ lại. Chị Nguyễn Thị Hà, giáo viên ở xã Thanh An cho biết, cũng tranh thủ đi dạy về là đi hái tiêu thuê. Một ngày hái 2 tiếng được hơn 20kg cũng có thu nhập. Chị Hà cho rằng tiền thì cần nhưng phụ giúp nông dân là chính và người làm công cũng không vui vẻ gì khi chủ vườn tiêu thất bại.

Giá tiêu khô đang ở mức thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại đây, dao động từ 46-49 ngàn đồng/kg nên không phải nhà vườn nào cũng “làm liều” như hộ ông Lãn. Không tìm được công hái do giá thuê nhân công đắt đỏ, hộ bà Nguyễn Thị Thúy Hằng ở ấp 1, xã An Khương đã bỏ ra 25 triệu đồng mua lưới trải dưới gốc để hứng tiêu chín rụng. Nhìn những chuỗi tiêu khô đen xen lẫn chuỗi đỏ rơi rụng trên những tấm lưới, chị Hằng rất xót của.

Hộ bà Thị Thanh ở ấp 1, xã An Khương phải huy động con ruột, con dâu, con rể ra vườn phụ hái. Điểu Đôn, con trai bà Thanh, chuẩn bị ra tết sẽ đi làm công nhân khu công nghiệp nhưng thấy không thuê được người hái tiêu nên ở nhà phụ giúp. Chỉ số ít nhà vườn như hộ bà Võ Thị Thùy Trang may mắn tìm được người nhờ công “ruột” hái nhiều năm nay. Bà Trang cho biết: “Thuê công mới thì họ đòi giá cao nhưng cũng không có người. 3.000 nọc tiêu đang chính vụ mà mỗi ngày chỉ có 4 người hái tính theo công nhật thì hái chẳng được bao nhiêu”. Với giá công, giá tiêu hiện tại, năm tới chỉ còn cách mua lưới về trải dưới đất chờ rụng. Nhưng cách này hại tiêu dữ lắm bởi sẽ suy tiêu”.

Trung bình 1 ha tiêu cần đến 10-12 nhân công và mất khoảng 1 tháng mới thu hái xong. Với giá tiêu như hiện nay, nếu trừ các khoản chi phí thuê nhân công, điện nước, phân bón, công chăm sóc, nhiều nhà vườn cho rằng không có lãi, nguy cơ không có vốn để tái chăm sóc là hiện hữu.

Tỷ Huỳnh - Hồng Cúc

Nâng cao chuỗi giá trị cây mì

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Tây Ninh là tỉnh có diện tích trồng cây mì lớn nhất cả nước. Qua thống kê, từ năm 2010 đến nay, do lợi ích kinh tế cây mì mang lại cao nên diện tích gieo trồng trên địa bàn tỉnh gia tăng liên tục, đầu tư thâm canh cao và năng suất tăng dần theo các năm.

Từ năm 2010 – 2018, diện tích trồng mì trên địa bàn tỉnh dao động từ 40.000 ha đến trên 60.000 ha; đến năm 2018, diện tích mì khoảng 50.000 ha, năng suất 25 tấn/ha. Theo Đề án cơ cấu lại ngành nông nghiệp của tỉnh, dự kiến đến năm 2020, tổng diện tích mì sẽ giảm còn 50.000 ha, năng suất bình quân 36 tấn/ha; sản lượng đạt 1,8 triệu tấn.

Nông dân chăm sóc cây mì.

Có thể nói, đây là loại cây trồng có hiệu quả kinh tế khá nhất trong các cây trồng chủ lực truyền thống. Cây mì cho thu hoạch trong giai đoạn 8 – 10 tháng sau khi trồng. Tổng chi phí đầu tư cho 1 ha mì khoảng 42 triệu đồng/ha/vụ. Từ năm 2010 cho đến trước khi xảy ra dịch bệnh khảm lá, giá thu mua củ mì tươi trên địa bàn tỉnh dao động ở mức 2.400 đồng/kg với củ mì đạt 30% hàm lượng tinh bột. Khi bệnh khảm lá mì phát sinh gây hại đã làm giảm sản lượng thu hoạch nên đẩy giá thu mua tăng cao đột biến, từ cuối năm 2017 đến nay có giá từ 2.500 – 3.700 đồng/kg với củ mì đạt 30% hàm lượng tinh bột.

Theo Sở NN&PTNT, điểm mạnh trong chuỗi sản xuất cây mì hiện nay trên địa bàn tỉnh là điều kiện đất đai, khí hậu thuận lợi; nguồn nước tưới dồi dào; loại cây trồng này không đòi hỏi cao về đầu tư tài chính và trang thiết bị, máy móc, dễ chăm sóc hơn các loại cây trồng khác, nông dân chủ động được mùa vụ và thu hoạch.

Tuy nhiên, dù điều kiện tự nhiên thuận lợi nhưng với nền đất xám bạc màu, nông dân sử dụng chủ yếu phân vô cơ trong thời gian dài, thêm vào đó cây mì là loại cây lấy nhiều chất dinh dưỡng từ đất nên đã làm cho đất ngày càng nghèo dinh dưỡng, nguồn nước ngầm nhiều nơi bị phèn hóa… dẫn đến độ pH đất giảm mạnh, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng gây hại trong đất phát sinh gây thối củ, giảm năng suất.

Sản xuất cây mì không đòi hỏi cao về tài chính, trang thiết bị… nhưng khó khăn nhất là thiếu hụt công lao động nông thôn trong các khâu trồng, chăm sóc, nhất là thu hoạch, do hiện nay phần lớn người dân trong độ tuổi lao động đều tập trung vào các khu, cụm công nghiệp.

Ngoài vấn đề trên thì chuỗi giá trị cây mì đang có những yếu điểm khác như chất lượng nguồn giống chưa bảo đảm; tình hình dịch hại diễn biến ngày càng phức tạp, khó khăn trong kiểm soát và quản lý nguồn sâu bệnh hại, tiềm ẩn nhiều khả năng bùng phát thành dịch. Mức độ cơ giới hóa chưa cao, chủ yếu vẫn làm thủ công, dẫn đến giá thành sản xuất cao.

Bên cạnh đó, mối liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp chế biến chưa chặt chẽ, chủ yếu thông qua khâu trung gian là thương lái thu mua nên làm giảm hiệu quả kinh tế cho người sản xuất. Sản phẩm sau chế biến chủ yếu là tinh bột thô, chưa đa dạng hóa sản phẩm sau tinh bột và chưa sử dụng nhiều các phụ phẩm trong chế biến nên giá trị kinh tế mang lại chưa cao. Thị trường xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào thị trường Trung Quốc, mất nhiều chi phí trung gian nên giá trị kinh tế chưa cao.

Theo Sở NN&PTNT, ngành mì đang tạo ra gần 18.000 việc làm, chiếm 7,5% tổng lao động trong khu vực nông nghiệp. Giá trị gia tăng 2.895 tỷ đồng, chiếm 18,4% giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp.

Vận chuyển củ mì lên xe.

Cây mì còn có giá trị kinh tế cao, vì là một trong những nguồn nguyên liệu sản xuất ethanol phục vụ tạo ra xăng sinh học E5 RON 92 và E10 RON 92 theo lộ trình của Chính phủ đề ra về việc thay thế xăng khoáng RON 92.

Do đó, để phát triển chuỗi giá trị cây mì, cần phát triển, đa dạng hóa nguồn giống canh tác nhằm bảo đảm đạt năng suất, chất lượng; rà soát, định hướng vùng sản xuất tập trung, cắt giảm số diện tích trồng xen canh với các cây trồng khác, đất bị nhiễm nặng bệnh thối củ.

Đẩy mạnh thực hiện cơ giới hóa trong quá trình sản xuất, nhất là các khâu: trồng, làm cỏ và thu hoạch nhằm giảm công lao động, giúp hạ giá thành sản xuất, góp phần giải quyết vấn đề lao động nông thôn đang ngày càng thiếu hụt.

Tăng cường chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật (sử dụng giống mới, chất lượng cao, bón phân đúng quy trình, tưới tiết kiệm nước…) nhằm hướng đến việc canh tác bền vững, canh tác theo hữu cơ. Phát triển các liên kết chuỗi sản xuất – tiêu thụ gắn với các sản phẩm đạt chất lượng, sản phẩm hữu cơ.

Về chế biến, doanh nghiệp chế biến cần đa dạng hóa các sản phẩm, chế biến chuyên sâu các sản phẩm sau tinh bột, nhất là sản xuất tinh bột hữu cơ, đồng thời sử dụng nhiều hơn nữa các phụ phẩm trong chế biến (phân bón…) để nâng cao chuỗi giá trị.

Đối với khâu tiêu thụ, các cơ sở, doanh nghiệp chế biến cần mở rộng thị trường xuất khẩu để không còn phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, quan tâm đến việc xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu để nâng cao giá trị cạnh tranh trên thị trường thế giới.

Giang Hà

Bến Tre: Diêm dân Ba Tri vui trúng mùa, được giá

Nguồn tin:  Đồng Khởi

Diêm dân vui mừng vì giá muối ổn định ở mức cao. Ảnh: Trần Xiện

Hiện diêm dân ở huyện Ba Tri (tỉnh Bến Tre) rất phấn khởi vì sản xuất được mùa, trúng giá.

Huyện Ba Tri có các xã còn đất sản xuất muối là: Tân Xuân, An Thủy, Tân Thủy, Bảo Thạnh, Bảo Thuận, với 862ha.

Từ đầu vụ muối năm 2017-2018, giá muối tăng lên rất cao, với 60.000 đồng/giạ, tăng gấp 3 lần so với năm trước, cao nhất trong 5 năm qua và ổn định đến nay. Từ đó, đã tạo sự phấn khởi cho diêm dân ở Ba Tri khi bước vào vụ sản xuất.

Ở vụ muối 2018-2019, diêm dân tích cực ra đồng, làm khuôn để vào vụ và sản xuất muối sớm hơn năm trước nửa tháng.

Thời tiết thuận lợi, nắng nhiều, gió mạnh, độ mặn trong nước cao, diêm dân tích cực chăm sóc nên muối dễ kết tinh, cho năng suất cao. Đến thời điểm này, diêm dân đã thu hoạch được hơn 6.800 tấn muối, năng suất bình quân 7 tấn/ha. Hiện giá muối vẫn ổn định ở mức 60.000 đồng/giạ.

Anh Nguyễn Văn Long ở ấp Thạnh Bình, xã Bảo Thạnh phấn khởi: “Thấy giá muối ổn định ở mức cao nên tôi tranh thủ sản xuất sớm. Với diện tích 7.000m2, đến nay tôi đã thu hoạch được trên 150 giạ muối”.

Còn anh Mai Linh Thảo cũng ở ấp Thạnh Bình, xã Bảo Thạnh không giấu được niềm vui: “Nhờ tranh thủ sản xuất sớm nên chỉ với 5.000m2, đến thời điểm này tôi thu hoạch được gần 100 giạ muối. Nếu giá ổn định như hiện nay thì vụ muối này gia đình tôi sẽ có thu khá”.

Hiện nay thời tiết vẫn thuận lợi, nắng nhiều, gió mạnh, muối kết tinh dễ dàng, cho năng suất cao

Được biết, 5 năm về trước, giá muối cũng tăng rất cao, với 90.000 đồng/giạ. Đây là thời điểm mà giá cao nhất so với nhiều năm trước đó.

Trần Xiện

Về quê làm nông, trồng cây dược liệu

Nguồn tin:  Báo Vĩnh Long

Cây đinh lăng do anh Tú trồng (bìa phải) đang phát triển tốt.

Hưởng ứng phong trào “Nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi”, anh Trần Văn Tú (Ấp 4, xã Trung Nghĩa, Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long) là một trong những điển hình “dám nghĩ, dám làm” khi sẵn sàng rời “chốn phồn hoa đô hội” ở TP Hồ Chí Minh, trở về làng quê bắt đầu khởi nghiệp làm nông với nhiều công việc khác nhau và hiện nay anh đang đầu tư trồng cây dược liệu- đinh lăng. Loại cây trồng này đang hứa hẹn đem đến cho anh nguồn thu khá cao.

Về quê làm nông

Sau 20 năm sống ở thành phố và có nguồn thu nhập khá với nghề may gia công ba lô, túi xách. Tuy nhiên, nghĩ tới cảnh cha mẹ nay đã lớn tuổi cần người chăm sóc nên anh Tú đã quyết định khăn gói về quê để khởi nghiệp làm nông.

Anh kể: “Lúc đầu khi nói ý định của mình thì có rất nhiều người cản, vợ anh cũng không chịu về vì sợ “lạ nước, lạ cái” lại không quen làm nông và nhất là phải bắt đầu lại từ đầu là rất khó...”

Hành trình về quê, anh Tú đã ấp ủ biết bao dự định. Tuy nhiên, khi bắt tay vào thì mọi chuyện không hề đơn giản. Bên cạnh việc làm nông, anh còn duy trì nghề may sẵn có của mình. Đó là mở cơ sở may gia công ba lô, túi xách, nhằm tạo thêm việc làm cho lao động nông thôn.

Anh Tú kể, lúc mới về, “anh đi từng nhà kêu gọi mọi người đi làm quá trời nhưng vẫn không có nhân công”. Tuy nhiên, qua thời gian, cơ sở của anh Tú cũng đã tạo việc làm cho 9 lao động tại chỗ và nhiều lao động đem hàng về nhà làm. Hiện, mức thu nhập thấp nhất là 3 triệu đồng/người/tháng. “Nếu giờ có thêm 20 nhân công nữa thì vẫn có hàng để làm”- anh Tú cho biết.

Đối với nghề nông, anh Tú tận dụng đất nhà trồng bưởi da xanh (được gần 3 công) dưới ao thì nuôi cá tai tượng. Không những vậy, anh còn thuê thêm 6 công đất ruộng để chuyển lên vườn trồng đinh lăng.

Do chưa quen làm nông, anh Tú cũng gặp khó đủ chuyện, nhất là chưa có kinh nghiệm sản xuất và không có người hướng dẫn, chủ yếu là tự lên mạng mày mò nghiên cứu và vừa làm vừa rút kinh nghiệm... “đến nay thì mọi việc cũng đã dần đi vào quỹ đạo”- anh Tú cho hay.

Anh Tú khoe, Tết Nguyên đán vừa rồi, anh thu hoạch được 2 tấn bưởi da xanh và đem lên TP Hồ Chí Minh bán tết. Dọn hàng bán từ lúc 3 giờ chiều hôm trước đến 7 giờ sáng hôm sau mà đã bán được 500kg.

Giá bán mấy ngày đầu lên đến 90.000 đ/kg, đến khi thu hồi được vốn, anh bán xổ giảm dần và chạm đáy 40.000 đ/kg để sớm được “về quê ăn tết”. Tuy vậy, cũng đã đem lại cho anh Tú khoản lời kha khá.

Hiện, anh Tú đang tìm đầu ra cho 7.000 con cá tai tượng, cũng có nơi đến hỏi mua tuy nhiên, thương lái chỉ bắt mỗi đợt khoảng 500kg, thấy chậm thu hồi vốn nên anh muốn tìm mối có thể thu mua cùng lúc để sớm tái đầu tư.

“Bén duyên” cây đinh lăng

Hỏi về chuyện “bén duyên” với cây đinh lăng, anh Tú cho biết: Trước đây khi còn sống ở TP Hồ Chí Minh, thấy có người quen trồng đinh lăng bán có thu nhập cao, thấy ham quá nên anh cũng muốn “thử vận”.

Nghĩ là làm, anh Tú mua 15.000 cây hom giống, thuê đất ruộng rồi cuốc lên làm vườn, tính thêm chi phí đầu tư phân thuốc nữa là ra bạc trăm triệu. Theo anh Tú, để cây đinh lăng phát triển tốt thì khâu chăm sóc là quan trọng, nhất là khâu tưới phân và làm cỏ.

Vừa mày mò làm, anh Tú cũng vừa rút kinh nghiệm là nên bón phân hữu cơ hoặc sinh học, khi mới trồng nên làm màng phủ để hạn chế cỏ dại, đến khi cây có lá rụng, chờ hoai mục thì có chất bài tiết, ngăn cỏ dại mọc và hạn chế ốc bươu cắn phá.

Anh Tú cho biết: Đinh lăng là loại cây dược liệu có tác dụng trị mất ngủ, biếng ăn, suy nhược cơ thể... Trồng đinh lăng 1,5 năm thì có thể cắt bán hom giống, sau 3 năm là có thể cho thu hoạch. Giá bán 7.000 đ/kg lá tươi, 27.000 đ/kg cây tươi, còn củ rễ thì thấp nhất cũng 15.000 đ/kg. Với mức giá như hiện nay đang hứa hẹn đem đến cho anh nguồn thu khá. Hiện, có công ty chuyên sản xuất trà, rượu và bột đinh lăng ở Đăk Lăk mời anh làm đại lý cấp 1.

Theo anh Tú, ở TP Hồ Chí Minh thì anh có mức thu nhập cao hơn. Tuy nhiên, khi về quê cũng khá dễ làm ăn vì hiện nay không thiếu gì công chuyện để làm, chẳng hạn như thu mua dừa, bưởi... bán lại là đã có lời.

Ông Nguyễn Văn Hải- Chủ tịch Hội Nông dân xã- cho rằng: Anh Tú là một trong những điển hình nông dân trẻ tuổi về quê khởi nghiệp, tiên phong trong việc tạo việc làm cho lao động nông thôn thông qua nghề may gia công và làm vườn. Đây là tinh thần rất đáng biểu dương. Hiện, mô hình trồng cây đinh lăng còn mới mẻ tại địa phương nhưng cũng hứa hẹn đem lại nguồn thu khá cho nông hộ.

Xã Trung Ngãi có 20 hộ sản xuất kinh doanh giỏi cấp trung ương, đạt 24%; cấp tỉnh 44 hộ đạt 31,4%; cấp huyện 92 hộ đạt 39,3%, còn lại là cấp cơ sở 196 hộ đạt 46,6%. Năm 2018, xã đã xây dựng nhiều mô hình tiêu biểu như sản xuất lúa kết hợp trồng cỏ nuôi bò, chăn nuôi heo; luân canh lúa- màu, chuyên canh cây màu xuống ruộng...

Bài, ảnh: XUÂN TƯƠI

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop