Tin nông nghiệp ngày 02 tháng 11 năm 2020

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 02 tháng 11 năm 2020

Bình Thuận: Nho 3 màu - giống mới hiệu quả tại Tuy Phong

Nguồn tin: Báo Bình Thuận

Huyện Tuy Phong (tỉnh Bình Thuận) vốn được mệnh danh là vùng đất nắng hạn nhất tỉnh, phù hợp với canh tác cây nho với diện tích hiện tại hơn 46 ha. Mới đây, Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã xây dựng mô hình “Thâm canh giống nho mới theo hướng GAP theo liên kết chuỗi” với quy mô 2,5 ha tại xã Phước Thể, bước đầu cho thấy những hiệu quả vượt trội…

Mô hình trồng nho mới tại xã Phước Thể.

Thay thế giống nho cũ thoái hóa

Với vị trí nằm ngay trên quốc lộ 1A, những năm gần đây, nông dân huyện Tuy Phong đã kết hợp sản xuất cây nho với du lịch sinh thái vườn nho. Tuy nhiên, 2 giống nho đang được canh tác chủ yếu tại đây là nho đỏ Cardinal và nho xanh NH01-148 đã và đang bị thoái hóa, chất lượng suy giảm nên diện tích đang giảm dần. Trước thực trạng đó, Viện Nghiên cứu Bông và Phát triển nông nghiệp Nha Hố (Ninh Thuận) đã nghiên cứu và chọn tạo thành công giống nho mới NH01-152. Nhận thấy, đây là một giống cây trồng mới có tiềm năng mang lại hiệu quả kinh tế cao cho hộ nông dân, từ tháng 10/2019 đến nay, Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã xây dựng mô hình “Thâm canh giống nho mới theo hướng GAP theo liên kết chuỗi” với quy mô 2,5 ha, tại xã Phước Thể… Mục đích, chuyển giao giống nho mới thay cho giống nho cũ tại địa phương đã thoái hóa nhằm nâng cao năng suất và giá trị gia tăng.

Theo chia sẻ của ông Nguyễn Văn Thương - Giám đốc HTX Phước Thể: Tổng chi phí cho 1 ha trong giai đoạn đầu nếu trồng trong nhà màng khá cao khoảng 495 triệu đồng/ha (trong đó chi phí nhà màng khoảng 150 triệu đồng/ha, chi phí làm giàn 30%, giống 15%, còn lại là các khâu chăm bón). Mặc dù bị thiệt hại lớn do mưa lớn kéo dài trong giai đoạn cuối tháng 9/2020 đến nay, nhưng vẫn cho lợi nhuận từ 1 ha nho NH01-152 trong vụ đầu là 184 triệu đồng, cao hơn so với lợi nhuận trung bình từ các giống nho cũ trong vụ đầu từ 50 - 100 triệu đồng/ha. Lý do chính là giá bán trung bình của giống nho NH01-48 khoảng 30.000 đồng/kg, nho đỏ khoảng 15.000 đồng/kg, trong khi giá của nho NH01-152 từ 50.000 - 90.000 đồng/kg. Như vậy, sản xuất giống nho mới NH01-152 đạt hiệu quả kinh tế cao hơn so với sản xuất giống cũ. Một thành viên khác của HTX Phước Thể cũng chia sẻ: Trước đây gia đình có trồng nho giống cũ nhưng hiệu quả kinh tế thấp, nên phá bỏ và trồng cây rau màu. Sau khi nghe triển khai mô hình giống mới cho hiệu quả cao, nên đã đăng ký tham gia, được UBND xã và Trung tâm Khuyến nông tỉnh chọn tham gia thực hiện mô hình với diện tích 4 sào. Gia đình được hỗ trợ 70% giống và 50% phân bón và thuốc BVTV trong năm đầu và tập huấn chuyển giao kỹ thuật và tham quan học tập kỹ thuật tại Ninh Thuận. Với giá bán hiện nay, dự tính đến vụ thứ 2, gia đình sẽ thu hồi vốn ban đầu và có lãi. Đây là mô hình rất nhiều triển vọng cho bà con nông dân của HTX Phước Thể trong việc chuyển đổi giống tăng thêm thu nhập, nếu có được đơn vị thu mua ổn định.

Cần liên kết chặt chẽ

Tại hội thảo đánh giá mô hình mới đây, ông Nguyễn Tám - Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh cho biết: Qua trồng thử nghiệm và sản xuất thử tại tỉnh Ninh Thuận và huyện Tuy Phong cho thấy, giống nho NH01-152 nhiều ưu điểm như có thể trồng trên nhiều chân đất khác nhau, vào mùa mưa hoa vẫn thụ phấn tốt, vào thời tiết nắng nóng cây vẫn đậu trái và tỷ lệ đậu trái cao, khả năng chống chịu bệnh tốt. Tiềm năng năng suất 15-18 tấn/ha/vụ, sản xuất được 2 vụ/năm. Về mặt thị trường, trái nho NH01-152 rất thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng vì trái to và khi chín có màu đỏ vang rất đẹp sau đó chuyển sang màu vàng, hồng, đỏ tươi nên nhiều người đã gọi là “nho 3 màu” thay cho tên NH01-152.

Ông Tám nhấn mạnh: Giống nho NH01-152 thích nghi với điều kiện sản xuất tại huyện Tuy Phong. Tuy nhiên, cần tính toán thời điểm trái chín, tránh gặp mưa nhiều. Mặt khác, để sản xuất nho giống mới trên diện rộng đạt hiệu quả, đề nghị các hộ cần liên kết chặt chẽ hơn, để tạo ra sản phẩm có chất lượng và đồng đều, an toàn giúp xây dựng thương hiệu cho nho Tuy Phong. Đồng thời rèn luyện thói quen viết nhật ký thường xuyên, đầy đủ nhằm tạo cơ sở để truy xuất nguồn gốc sản phẩm, tạo lòng tin đối với người tiêu dùng. Chú ý không dùng thuốc diệt cỏ trong giai đoạn cây đã cho trái và tăng cường làm cỏ bằng tay. HTX tiếp tục phát huy quảng bá sản phẩm rộng rãi và thương lượng ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho thành viên HTX và có hướng mở rộng cho vùng nho của địa phương.

Với các ưu điểm vượt trội so với các giống nho khác về chất lượng, chống chịu bệnh và thời tiết nóng hạn, giống nho “3 màu” mới - NH01-152 đã mở ra triển vọng cho người sản xuất.

K.HẰNG

Nỗi lo từ việc phát triển nóng cây bơ

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Những năm gần đây, cây bơ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân vùng Tây Nguyên, nhất là những dòng bơ chất lượng cao, trái vụ. Tại tỉnh Lâm Đồng, do lợi nhuận khá lớn nên người dân đổ xô vào trồng loại cây này. Nhưng, với tốc độ trồng bơ không kiểm soát của khắp các tỉnh, thành từ Sơn La đến Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ… diện tích bơ trong tỉnh nói riêng và cả nước nói chung đang tăng nhanh đến chóng mặt, khiến cây bơ đối mặt với nhiều thách thức về đầu ra của sản phẩm cũng như chất lượng vườn cây là một bài toán cần sớm được các ngành chức năng tìm lời giải.

Giá bơ Booth xuống rất thấp, thị trường tiêu thụ khó khăn, khiến nhiều hộ nông dân gặp khó khăn, nhất là việc cân đối chi phí sản xuất

Vụ thu hoạch bơ Booth hàng năm trên địa bàn tỉnh thường bắt đầu từ cuối tháng 8 kéo dài đến tháng 11. Với những ưu điểm như thời gian chín kéo dài, vỏ dày, cơm dày, ruột béo, nên bơ Booth là một loại bơ có giá bán cao, đem lại nguồn thu lớn cho người trồng nhiều năm trở lại đây. Thế nhưng, năm nay, người trồng bơ Booth trong tỉnh lại buồn rầu vì giá xuống rất thấp.

Giá bơ thấp nhất trong 10 năm trở lại

Thời điểm này, hàng ngàn nông dân trồng bơ trong tỉnh đang bước vào thu hoạch bơ Booth được mong chờ nhất cả năm. Thế nhưng, thay vì không khí vui tươi, phấn khởi như những vụ mùa trước, vụ thu hoạch bơ Booth năm nay, nhà vườn nào cũng rơi vào cảnh “méo mặt” khi giá thu mua bơ tại vườn thường xuyên ở mức dưới 10.000 đồng/kg.

Năm 2015, nhận thấy cây bơ Booth cho hiệu quả kinh tế cao, gia đình anh Nguyễn Quang Long (thôn Nam Hưng, xã Hoài Đức, huyện Lâm Hà) đã mạnh dạn đầu tư hàng chục triệu đồng mua 200 cây giống về trồng xen canh trong vườn cà phê trên diện tích hơn 2 ha. Đến năm 2018, vườn bơ Booth đã cho gia đình anh thu hoạch hàng tấn bơ, với thu nhập lên đến hơn 200 triệu đồng.

Còn năm 2020, vườn bơ của anh tiếp tục được mùa, sản lượng ước đạt khoảng 20 tấn quả, cao hơn năm ngoái khá nhiều. Thế nhưng, gia đình anh lại kém vui vì giá bơ năm nay xuống thấp. Năm ngoái, anh bán bơ cả vườn cho thương lái với giá 30.000 - 40.000 đồng/kg, còn nếu tự cắt lựa mang bán thì được 50.000 đồng/kg. Nhưng năm nay, bơ chỉ còn 10.000 đồng/kg.

Anh Long cho biết: Mọi năm, vào thời điểm trước lúc thu hoạch tầm 1 tháng thì các thương lái liên hệ gọi điện liên tục, vào tận vườn hỏi mua, bao tiêu nguyên cả vườn. Nhưng năm nay, giá bơ rớt thê thảm nên cả vườn bơ mới chỉ được thương lái thu hoạch 2 đợt, họ cũng mua theo giá thị trường hằng ngày chứ không dám ký hợp đồng thu mua với giá cố định.

Theo anh Long, năm 2019, gia đình anh thu về không dưới 600 triệu đồng từ tiền bán bơ. Nhưng năm nay, giá bơ vào vụ tại địa bàn chỉ dao động 10.000 - 12.000 đồng/kg (chỉ bằng khoảng 1/3 so với năm ngoái), anh cố gắng neo trái trên cây thêm một thời gian để chờ giá lên. “Để kéo dài thời gian, tôi đã chấp nhận “neo” bơ ở trên cây. Tuy nhiên, nếu “neo” quá lâu, bơ sẽ rụng, hao hụt khi thu hoạch. Trong khi đó, người dân muốn tăng thời gian bảo quản cũng không có cách nào”, anh Long lo lắng.

Tại các nhà vườn trồng bơ sản xuất theo các chương trình liên kết, có chứng nhận VietGAP, nông dân cũng kém vui, vì giá bơ đầu mùa xuống thấp. Anh Nguyễn Tiến Đa - Tổ trưởng tổ bơ HTX Trái cây Bốn mùa cho biết: Hiện HTX cũng đang xúc tiến tìm thêm đầu ra, đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm cho bà con xã viên và người dân trồng bơ trong khu vực. Tuy nhiên, với năng lực tiêu thụ mỗi năm của HTX hiện khoảng 1.000 tấn bơ, dự kiến sẽ còn rất nhiều diện tích bơ của người dân cần tìm đầu ra.

Theo anh Nguyễn Tiến Đa, nguyên nhân chính dẫn đến việc giá bơ trên thị trường đang xuống rất thấp trong vòng 10 năm trở lại đây là do những ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19. Khi bơ vào vụ lại xảy ra dịch bệnh, người dân ít đi lại, hoạt động thương mại kém sôi động nên sản lượng bơ tiêu thụ đã giảm đi gần một nửa so với năm trước. Do đó, nguồn cung đã lớn hơn cầu và dẫn đến bơ rớt giá mạnh.

Bên cạnh đó, nguyên nhân nữa là do nông dân trồng quá nhiều, trong khi đó các yếu tố bảo đảm đầu ra không có, chủ yếu bỏ không cho thương lái. Chính vì thế, khi cung vượt cầu, tất yếu sẽ đẩy giá xuống.

Diện tích tăng quá nhanh

Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lâm Hà, hiện toàn huyện có 1.270 ha cây ăn quả, trong đó diện tích trồng mới ước đạt 320 ha/50 ha, tăng 640% so với kế hoạch đặt ra, bằng 147,81% so với cùng kỳ. Riêng cây bơ, diện tích hiện có khoảng 489 ha, tăng 100 ha so với cùng kỳ, năng suất ước 161 tạ/ha.

Đây chỉ là số diện tích bơ mới được thống kê theo phương thức trồng thuần, còn nếu tính cả diện tích bơ được nông dân trồng xen trong các vườn cà phê thì rất lớn.

Tương tự, tại một số địa phương có phong trào trồng bơ phát triển mạnh như Bảo Lâm, Di Linh, diện tích đất sản xuất nông nghiệp được người dân chuyển đổi sang trồng bơ đang tăng khá nhanh.

Tại huyện Di Linh, lũy kế diện tích bơ trồng xen đến hết năm 2020 đạt khoảng 4.586,22 ha; diện tích quy đông đặc (180 cây/ha) đạt 2.547,9 ha, với các giống bơ chủ yếu: 034, 036, Hass, Booth, Binkerton. Trong đó, diện tích cho thu hoạch là 654 ha, năng suất bình quân đạt 10,5 tấn/ha, sản lượng 8.867 tấn.

So sánh với năm 2015, diện tích trồng bơ đã tăng 80%; năm 2017 tăng 65%, năm 2018 tăng 50%. Tại huyện Di Linh, tất cả 19 xã, thị trấn đều có cây bơ phân bố, tuy nhiên tập trung trọng điểm là các xã: Hòa Nam, Hòa Bắc, Hòa Trung, Đinh Trang Hòa, Liên Đầm, Tân Lâm, Đinh Lạc, Tân Châu.

Còn tại huyện Bảo Lâm, ông Đậu Văn Xuân - Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết: Toàn huyện hiện đã phát triển được hơn 2.000 ha bơ các loại, trong đó diện tích cho thu hoạch ước đạt 1.700 tấn. Trong những năm gần đây, cây bơ, nhất là giống bơ 034 đã được người dân trong huyện phát triển rất mạnh. Đây cũng là sản phẩm OCOP chủ lực của huyện.

Theo một số chuyên gia nông nghiệp, không thể phủ nhận việc trồng xen cây bơ đang giúp người dân cộng hưởng về lợi ích giữa các sản phẩm. Nhưng, với tốc độ mở rộng diện tích như hiện nay, người trồng bơ sẽ phải đối mặt với nhiều nguy cơ rủi ro sau này. Trước hết rủi ro về chất lượng cây giống, sâu bệnh, tác động của thời tiết. Tình trạng nông dân ồ ạt trồng bơ cũng có thể dẫn đến hệ lụy rớt giá, mất giá.

Do đó, nhiều nông dân cũng đã sử dụng những giống bơ trái vụ hoặc áp dụng các biện pháp kỹ thuật để cây bơ ra trái sớm hoặc muộn hơn. Tuy nhiên, những diện tích này hiện đã phát triển rất nhiều, khiến sản lượng bơ trái vụ cũng nhiều như bơ chính vụ. Điều này dẫn đến khi vào vụ thu hoạch, nông dân thường bị thương lái ép giá vì nếu không bán, bơ sẽ rụng và hư hết.

HOÀNG SA - HOÀNG YÊN

Thừa Thiên Huế: Quýt Hương Cần tan hoang, nông dân mất thu nhập trong 3 năm tới

Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế

Trải qua các đợt bão, lũ liên tiếp, nhiều diện tích quýt Hương Cần (xã Hương Toàn, TX. Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế) gần như bị “xóa sổ”. Ngoài thiệt hại trước mắt, người dân cũng "đau đầu" để phục hồi lại giống cây.

Quýt Hương Cần là loại trái cây đặc sản, nổi tiếng ở Hương Toàn. Những năm qua, người dân nỗ lực phục tráng loại cây này và mang lại giá trị kinh tế cao.

Hiện, xã Hương Toàn có khoảng 100 hộ trồng quýt tập trung ở thôn Giáp Kiền, cho thu nhập hàng chục triệu đồng/hộ/năm. Gần đây các cơ quan chức năng có nhiều dự án bảo tồn nguồn gen, phát triển loại cây này. Ngoài ra, trong số diện tích trồng quýt ở Hương Cần có 60 hộ gia đình đầu tư quy hoạch tạo những vườn quýt an toàn với diện tích gần 7ha.

Thế nhưng sau những đợt bão, lũ vừa qua, nhiều vườn quýt tan hoang, nông dân chắc chắn phải mất từ 3-5 năm mới phục hồi lại vườn cây như ban đầu.

Những hình ảnh nhiều diện tích quýt Hương Cần bị thiệt hại khiến nông dân mất thu nhập trong 3-5 năm tới:

Một vườn quýt Hương Cần tại thôn Giáp Kiền bị "xóa sổ"...

Nhiều vườn khác cũng đang chết yểu, khó phục hồi...

Nông dân đành nhổ bỏ những cây đã chết để cải tạo lại vườn

Một gốc quýt bị chết sau lũ

Nhánh cây giòn khô, không thể phục hồi

Nguồn giống được lấy từ những gốc quýt lão còn sót lại...

Lê Thọ (Thực hiện)

Khắc phục điểm yếu để đưa nông sản Việt ‘đem chuông đi đánh xứ người’

Nguồn tin:  Công Thương

Công nghệ bảo quản còn hạn chế, thiếu vùng nguyên liệu sản xuất đạt chuẩn… là những “điểm yếu” mà hầu hết hợp tác xã, doanh nghiệp nông sản đang gặp phải khi muốn "mang chuông đi đánh xứ người".

Nhiều điểm yếu của nông sản chưa được khắc phục

Theo Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Quốc Doanh, trong 3 năm qua, số doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, chế biến nông sản đã tăng mạnh. Hiện cả nước có 7.500 cơ sở chế biến rau củ, trái cây, trong đó có 157 cơ sở hiện đại, quy mô công nghiệp, tập trung chủ yếu ở khu vực miền Bắc và ĐBSCL.

Các sản phẩm chế biến rau quả cũng bắt đầu có xu hướng thay đổi, tập trung vào nước ép cao cấp và sản phẩm đông lạnh. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tế thì vẫn chưa đạt. Hiện tất cả các loại sản phẩm trái cây chế biến xuất khẩu mới chỉ khoảng 15%, còn 85% vẫn là giá trị xuất tươi, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới là 23%. Trong khi đó, công nghệ bảo quản quả tươi vẫn còn hạn chế, tỷ lệ hao hụt cao, làm giảm giá trị nông sản Việt.

85% nông sản Việt vẫn đang đang xuất khẩu tươi

Chia sẻ tại Hội nghị tham vấn Đề án phát triển ngành chế biến rau củ quả phục vụ tái cơ cấu diễn ra ngày 30/10 tại TP. Hồ Chí Minh, ông Ưng Thế Lãm - Chủ tịch HĐQT HTX Làm nông minh bạch -cho biết: Vướng mắc lớn nhất đối với doanh nghiệp xuất khẩu trái cây tươi cũng như chế biến là không biết vùng nguyên liệu nằm ở đâu, có đạt chất lượng không. Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp đều đang phải mua nguyên liệu ở nhiều vùng nguyên liệu khác nhau, do đó, chỉ cần một vùng không đạt chất lượng thì cả lô hàng sẽ phải bỏ. Trong khi đó, với trái cây tươi, xử lý sau thu hoạch còn gặp nhiều khó khăn do công nghệ bảo quản, chế biến nông sản sau thu hoạch vẫn còn thấp nên khả năng cạnh tranh kém.

Theo ông Lãm, hiện nay tất cả các thị trường đều yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm cũng như an toàn thực phẩm. Điển hình như, thị trường Âu - Mỹ quy định, công ty phải có tiêu chuẩn ISO để biết cách giao tiếp quốc tế, nhà máy phải đạt chuẩn HACCP để kiểm tra chất lượng. Với nguyên liệu cũng phải đạt chuẩn Global GAP. Hay như với thị trường Trung Quốc, giờ đây thị trường này cũng yêu cầu phải có mã số vùng trồng. Nên dù doanh nghiệp xuất sản phẩm tươi hay sản phẩm chế biến thì đều phải đáp ứng chất lượng.

Đồng quan điểm, đại diện Công ty Cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao cho biết, để có nguồn nguyên liệu ổn định, đáp ứng cho sản xuất, mỗi nhà máy chế biến cần có vùng nguyên liệu với diện tích khoảng 25.000 - 30.000 ha. Để có được diện tích này, công ty phải liên kết với các hợp tác xã, song khi liên kết như vậy, vấn đề đặt ra là chất lượng sản phẩm lại không đạt yêu cầu.

“Tại Bắc Giang, nông sản thu hoạch chủ yếu là quả vải. Tuy nhiên sản lượng vải tại đây chỉ đủ công suất cho dây chuyền hoạt động từ 1,5 - 2 tháng. Trong khi đó, các loại cây trồng khác chưa đủ khối lượng để đưa vào chế biến”, vị này cho biết thêm.

Cần thêm cơ chế thúc đẩy chế biến nông sản

Theo PGS.TS Phạm Anh Tuấn - Viện trưởng Viện Cơ điện Nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch, để thúc đẩy phát triển công nghệ bảo quản, chế biến rau quả, nhà nước cần hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đồng bộ với quy hoạch vùng sản xuất nông nghiệp theo hướng thị trường; tạo môi trường thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, dịch vụ chuỗi cung ứng lạnh nội địa kết nối chuỗi cung ứng lạnh toàn cầu. Mặt khác cần có cơ chế chính sách đặc thù nhằm thu hút các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp FDI đầu tư vào các công nghệ nền trong lĩnh vực chế biến rau quả.

Trong khi đó, ông Ưng Thế Lãm cho rằng, muốn giải quyết được vấn đề này thì nhà nước cần hướng dẫn cho các địa phương đăng ký cụ thể thông tin về vùng trồng, diện tích… để các doanh nghiệp biết. Ví dụ như thanh long ở Bình Thuận có 30.000ha, trong đó khu vực nào đạt tiêu chuẩn VietGAP, khu vực nào đạt tiêu chuẩn Global GAP, khu vực nào trồng hữu cơ đều được kê khai rõ ràng. Từ đó, doanh nghiệp đăng ký thu mua, đảm bảo đầu ra cho nông dân, đồng thời tránh được tình trạng phá giá, cạnh tranh nguyên liệu, giành giật thị trường…

Ngoài ra, theo ông Nguyễn Đình Tùng - Chủ tịch HĐQT Vina T&T, muốn đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật đối với hàng nông sản xuất khẩu thì người dân và doanh nghiệp phải quan tâm từ khâu chọn giống, kỹ thuật chăm sóc, kỹ thuật thu hoạch đến xử lý sau thu hoạch, bảo quản, vận chuyển. Để làm được điều này, cần xây dựng các hợp tác xã nhằm liên kết nông dân với nhau và liên kết nông dân với doanh nghiệp xuất khẩu.

Hà Duyên

Sản xuất nông nghiệp xanh thích ứng với biến đổi khí hậu

Nguồn tin:  Báo Cần Thơ

Biến đổi khí hậu đang tác động ảnh hưởng nặng nề đến nền nông nghiệp khu vực ĐBSCL. Những năm gần đây, các địa phương vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm này đã tìm ra nhiều biện pháp bảo vệ mùa màng, nâng cao hiệu quả canh tác. Các mô hình canh tác hữu cơ an toàn, nuôi thủy sản sạch được xem là giải pháp tốt để sống thích nghi, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Nông dân ở phường Tân Hưng, quận Thốt Thốt, TP Cần Thơ luân canh trồng mè trên nền đất ruộng trong vụ hè thu 2020 để tiết kiệm nước tưới nhằm thích ứng điều kiện nắng nóng và khô hạn. Ảnh: VĂN CỘNG

Vĩnh Phong là xã nông thôn vùng sâu của huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang có hơn 3.000 hộ dân với khoảng 12.000 nhân khẩu. Ðến năm 2019, tỷ lệ hộ nghèo của xã giảm xuống mức 2,4%. Ngoài tập trung nâng chất các tiêu chí xây dựng nông thôn mới và nông thôn mới nâng cao, sự đổi thay mạnh mẽ của Vĩnh Phong có được là nhờ địa phương thực hiện tốt chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp, mà tập trung là phát triển mô hình lúa - tôm. Ông Cô Văn Niệt, Phó Chủ tịch UBND xã Vĩnh Phong, cho biết: Những năm gần đây bà con sản xuất theo mô hình trồng 1 vụ lúa nuôi 1 vụ tôm cho năng suất rất cao. Ngoài trồng lúa và nuôi tôm nông dân còn kết hợp nuôi cua. Nhờ vậy mà kinh tế của xã ngày càng phát triển.

Ông Lê Trung Hồ, Bí thư Huyện ủy Vĩnh Thuận, Kiên Giang nói: Chúng tôi xác định phá thế độc canh cây lúa chuyển sang mô hình 1 vụ lúa, 1 vụ tôm và xen canh trồng màu. Qua mô hình một vụ lúa 1 vụ tôm đã cho năng suất tốt, giá trị kinh tế tăng lên trên cùng diện tích canh tác”.

Ngành hàng tôm là sản phẩm xuất khẩu chủ lực của ÐBSCL. Thực hiện mục tiêu phát triển bền vững ngành hàng tôm cần giải quyết ngay các thách thức: yêu cầu cao từ nhà nhập khẩu về chất lượng sản phẩm đòi hỏi người nuôi tôm phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, không sử dụng hóa chất, kháng sinh cấm; nguy cơ ô nhiễm nguồn nước vùng nuôi cũng khiến dịch bệnh trên tôm gia tăng, làm giảm hiệu quả kinh tế của tôm nuôi...

Tại tỉnh Bạc Liêu, một doanh nghiệp đã mạnh dạn khởi xướng mô hình nuôi tôm ao nổi, sử dụng chế phẩm vi sinh do chính đơn vị làm ra để hướng nông dân sản xuất đạt hiệu quả bền vững. Mô hình nuôi tôm theo công nghệ xanh, sử dụng vi sinh xử lý môi trường ao nuôi này cũng là lựa chọn ưu tiên của nông dân. Ông Lê Anh Xuân, Giám đôc Công ty Trúc Anh, Bạc Liêu, cho biết: Quy trình sử dụng các vi sinh, chế phẩm sinh học đối với nông dân bây giờ đã thuần thục. Từ đó, góp phần giảm được rủi ro trong quá trình sản xuất, giảm giá thành con tôm nuôi theo hướng cạnh tranh hơn.

Ðầu tư nuôi tôm theo công nghệ xanh nguồn vốn đầu tư ban đầu khá lớn. Với ao nuôi diện tích 300m2 chi phí làm khung, lót bạt và lắp đặt hệ thống cung cấp khí ôxy cho tôm tổng cộng hơn 100 triệu đồng. Thế nhưng bù lại, chi phí đầu tư bổ sung cho những vụ tiếp theo không nhiều, sản lượng thu hoạch tôm đạt cao, vì có thể nuôi hiệu quả với mật độ dày. Thực tế qua hỗ trợ, chuyển giao kỹ thuật cho nông dân trong những năm gần đây, Công ty Trúc Anh đã phần nào khẳng định hiệu quả mô hình mang lại. Kỹ sư Phạm Trung Lương, chuyên viên kỹ thuật Công ty Trúc Anh, cho biết, nuôi ao nổi với diện tích nhỏ dễ quản lý hơn. Với hệ thống ao nổi chúng ta loại bỏ chất thải trong quá trình nuôi cũng dễ dàng hơn và chi phí để vận hành điện lưới trong quá trình nuôi cũng giảm đi rất nhiều. Quản lý về sức khỏe tôm, quản lý về môi trường ao nuôi cũng tốt hơn nhiều so với nuôi ao đất và trải bạt.

Ở xã An Ninh, huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng, mô hình vườn rau 500m2 trong nhà lưới của anh Danh Giang cho hiệu quả khá tốt với thu hoạch đều đặn hằng ngày khoảng 30kg rau thương phẩm các loại trong điều kiện hạn mặn ảnh hưởng nhiều đến các mô hình sản xuất nông nghiệp khác. Ðây là năm thứ 4, gia đình anh tham gia mô hình trồng rau hữu cơ trong nhà lưới do ngành Nông nghiệp địa phương hỗ trợ 30% chi phí đầu tư ban đầu, tương ứng gần 10 triệu đồng. Các loại rau thu hoạch từ nhà lưới của anh được thương lái thu mua với giá cao hơn các sản phẩm cùng loại trên thị trường từ 5.000-6.000 đồng/kg. Mô hình trồng rau trong nhà lưới với hệ thống tưới phun tự động vừa giảm công sức, vừa tiết kiệm nước. Ðó là giải pháp thích ứng tốt với tình hình thời tiết diễn biến phức tạp, hạn mặn diễn ra ngày càng thường xuyên và gay gắt hơn.

Ông Nguyễn Văn Hận, Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Châu Thành, Sóc Trăng, cho biết: Trồng rau trong nhà lưới, năng suất, giá bán cũng cao hơn bên ngoài do quản lý được sâu bệnh, áp dụng hệ thống tưới phun, rau phát triển đồng đều, năng suất cao”.

Mô hình trồng hành tím theo hướng an toàn sinh học của ông Lý Hán Séng ở xã Vĩnh Hải, thị xã Vĩnh Châu cho thu hoạch 15 tấn trên 8 công đất trong vụ hành trước. Vụ này, ước sản lượng có thể tăng cao hơn. Vĩnh Hải là một trong 3 xã điểm, được tỉnh Sóc Trăng triển khai mô hình sản xuất hành tím an toàn theo hướng sinh học trong năm 2019, với quy mô 45,6ha. Theo nhiều hộ nông dân nơi đây, 1 công hành tím bình thường cho thu nhập từ 10-12 triệu đồng. Tập trung sản xuất hành tím theo hướng an toàn sinh học sẽ cho thu nhập cao hơn. Ðây là thành quả kế thừa từ việc thí điểm mô hình vào năm 2018 tại vùng trồng hành tím nổi tiếng này.

Ths. Ngô Vương Ngọc Bảo Trân, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Sóc Trăng, cho biết: Sản phẩm của các hộ tham gia mô hình sau khi thu hoạch sẽ được đem đi phân tích kiểm tra lượng hóa chất tồn dư trong sản phẩm có đạt yêu cầu về chất lượng không. Nhờ kiểm tra và bảo đảm chất lượng sản phẩm, việc tiêu thụ và giá bán hành tím sản xuất theo hướng sinh học tốt hơn so với hành tím trồng ngoài mô hình. Ðiều quan trọng là nông dân tin vào hiệu quả của mô hình và làm theo, từ đó dần thay đổi tập quán sản xuất cũ. Phát triển nông nghiệp theo hướng canh tác hữu cơ không chỉ tạo ra những mặt hàng nông sản có lợi cho sức khỏe con người mà về lâu dài còn góp phần cải tạo thổ nhưỡng, bảo vệ môi trường sinh thái. Từ các mô hình sản xuất nông sản an toàn, luân canh và đa canh đang phát triển ở ÐBSCL cho thấy xu hướng chuyển đổi sang nền nông nghiệp xanh, nông nghiệp hữu cơ, thích ứng biến đổi khí hậu đang là lựa chọn ưu tiên của bà con nhà nông miền Tây trong những năm gần đây.

HUY HIẾU - DIỆU KHÁNH

Nông dân cần giống để sản xuất

Nguồn tin: Báo Quảng Trị

Đợt lũ lịch sử trong những ngày đầu tháng 10 vừa qua đã gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản cho người dân Quảng Trị. Theo thống kê ban đầu toàn tỉnh có 362,8 ha lúa, 2.613,73 ha hoa màu, 62 ha cây công nghiệp dài ngày; 557,49 ha cây ăn quả; 1.108,4 ha sắn, ngô, chuối bị thiệt hại hoàn toàn.

Sau lũ lụt, nhiều diện tích cây ném bị thiệt hại, người dân cần hỗ trợ nguồn giống để khôi phục sản xuất - Ảnh: HNK

Do bị ảnh hưởng nặng nề của 4 đợt lũ liên tiếp nên toàn bộ diện tích rau màu nói riêng và nhiều diện tích cây trồng khác cũng như nhà cửa, vật nuôi của người dân trên địa bàn tỉnh bị thiệt hại nặng. Đặc biệt là diện tích rau màu các loại bị nước lũ ngâm gây thối rễ và chết xảy ra hầu khắp các địa phương trong tỉnh, trong đó các địa phương bị thiệt hại nặng như Triệu Phong hơn 554 ha, Hải Lăng trên 600 ha. Một tuần sau trận lũ đi qua, chúng tôi có mặt tại các địa phương như xã Ba Lòng (huyện Đakrông), xã Hải Định (huyện Hải Lăng) là những nơi có nhiều diện tích hoa màu mất trắng sau mưa lũ. Thiên tai xảy ra bất ngờ và kéo dài khiến cuộc sống của nhiều người dân nơi đây đang rơi vào tình trạng khó khăn.

Từ lâu, thu nhập chính của người dân thôn Đá Nổi, xã Ba Lòng hay thôn Thiện Đông, Thiện Tây, xã Hải Định chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là cây lúa, đậu xanh và hoa màu các loại. Trận lũ lịch sử diễn ra đúng 15 ngày nên người dân ở xã Hải Định gặp vô vàn khó khăn. Cán bộ phụ trách nông nghiệp xã Hải Định Đặng Bá Sơn cho biết, với đặc thù là một xã nông nghiệp nên thu nhập của người dân chủ yếu dựa vào cây lúa và hoa màu. Mấy năm trở lại đây, người dân đã khai thác diện tích đất cát trên địa bàn để trồng ném đem lại thu nhập cao. Bình quân mỗi sào người dân có thu nhập khoảng 100 triệu đồng, nhưng trận lũ vừa qua nhấn chìm khoảng 20 ha ném gây thiệt hạ đáng kể cho người dân. Do thiên tai xảy ra bất ngờ đã làm phần lớn diện tích cây lương thực, hoa màu trên địa bàn bị mất trắng. Vì vậy, đời sống người dân từ đây đến cuối năm sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Người dân rất mong nhận được sự quan tâm, hỗ trợ của cấp trên để ổn định sản xuất, đời sống.

Trên thực tế, bức xúc nhất hiện nay đối với các địa phương trên địa bàn tỉnh ngoài việc khắc phục hậu quả do lũ lụt gây ra là vấn đề mưu sinh, khôi phục sản xuất để ổn định cuộc sống, nhưng tùy theo đặc thù sản xuất của từng địa phương mà nông dân tổ chức lại sản xuất. Đối với những địa phương thuần nông nghiệp như xã Hải Định (huyện Hải Lăng) hay xã Ba Lòng (huyện Đakrông), ngoài cây lúa thì hoa màu là nguồn thu nhập quan trọng nên việc hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi để tái sản xuất, chăn nuôi sau lũ là hết sức cấp thiết. Ông Lê Công Thành, ở thôn Thiện Tây, xã Hải Định cho biết, trận lũ vừa qua đã gây thiệt hại 5 sào ném của gia đình ông đang cho thu hoạch. Vậy nên mong muốn lớn nhất của ông là được cấp trên hỗ trợ các loại giống cây trồng để khôi phục lại sản xuất.

Trước tình hình đó, nhiều địa phương đang tìm các giải pháp để hỗ trợ người dân khôi phục sản xuất, ổn định cuộc sống. Tuy nhiên do thời tiết diễn biến phức tạp nên sản xuất nông nghiệp chịu rất nhiều rủi ro, từ đó ảnh hưởng lớn đến quy trình sản xuất của người dân, nhất là các địa phương có thu nhập chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp. Vì thế, các địa phương cần chủ động hơn trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu để sản xuất hiệu quả. Sau khi mưa lũ xảy ra, với những diện tích rau màu bị thiệt hại, các địa phương cần chuẩn bị nguồn giống để hỗ trợ người dân gieo trồng lại khi thời tiết thuận lợi. Hiện nay đang là mùa mưa bão nên người dân cần chủ động chọn những cây hoa màu phù hợp để tái sản xuất, cải thiện thu nhập. Còn về lâu dài, trong sản xuất nông nghiệp các địa phương cần chủ động chuyển đổi sang các giống cây trồng ngắn ngày hoặc những giống có khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu để giảm bớt thiệt hại do thiên tai gây ra.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Nguyễn Hồng Phương cho biết, những thiệt về nông nghiệp trong đợt lũ vừa qua là hết sức nặng nề. Do vậy, ngành nông nghiệp đã chủ động triển khai nhiều giải pháp để hỗ trợ nông dân khôi phục lại sản xuất. Vấn đề nan giải nhất hiện nay là nguồn giống để sản xuất. Vụ đông xuân đang cận kề và nguồn giống dự trữ của người dân ở vùng trọng điểm lúa Hải Lăng, Triệu Phong bị thiệt hại nặng nề nên cần đến một lượng thóc giống khá lớn. Bên cạnh vụ đông xuân thì người dân cần bắt tay vào trồng trọt hoa màu để tạo thu nhập. Vì vậy, tỉnh Quảng Trị đã kiến nghị Chính phủ để xin hỗ trợ 2.000 tấn giống lúa, 80 tấn ngô, 15 tấn rau màu để kịp thời đáp ứng yêu cầu sản xuất trên địa bàn. Đây chính là sự trợ giúp kịp thời, tạo điều kiện để người dân khắc phục hậu quả nặng nề của thiên tai, từng bước ổn định sản xuất, đời sống.

Tân Nguyên

Khắc phục tình trạng ngập úng trên cây hồ tiêu

Nguồn tin: Báo Quảng Trị

Do lượng mưa quá lớn, kéo dài trong nhiều ngày qua đã làm nhiều diện tích trồng hồ tiêu trên địa bàn tỉnh Quảng Trị bị ngập úng, một số diện tích đã bắt đầu chết, gây thiệt hại lớn về kinh tế cũng như tạo tâm lý hoang mang lo lắng cho người dân. Trước tình hình đó, công tác chống úng và phòng ngừa dịch bệnh trên cây hồ tiêu đang được các cơ quan chuyên môn và người dân chủ động triển khai.

Vườn tiêu của người dân thôn An Nha, xã Gio An, huyện Gio Linh bị chết gần 40% do ngập úng kéo dài - Ảnh: TQ

Gia đình ông Hồ Văn Em ở tại thôn An Nha, xã Gio An, huyện Gio Linh có hơn 10 sào trồng hồ tiêu, hằng năm cho thu hoạch trên dưới 1 tấn hạt tiêu khô. Tuy nhiên thời gian qua do mưa lớn kéo dài, vườn tiêu của ông bị ngập úng không thoát nước được đã làm hàng loạt cây tiêu đang xanh tốt bị rụng lá, rụng quả rồi chết rất nhanh. Ông Em cho biết, mặc dù ngay từ đầu mùa mưa ông đã thuê nhân công đào các rãnh thoát nước xung quanh vườn nhưng do địa hình vườn tiêu của ông nằm ở vùng thấp, nước từ các vườn xung quanh chảy xuống gây ngập úng. Ban đầu chỉ có mấy gốc bị chết, giờ lan ra khắp vườn với hơn 135 cây. “Hơn 15 năm trồng tiêu nhưng đây là lần đầu tiên vườn tiêu của tôi bị ngập úng kéo dài như thế này. Nước ngập lâu ngày không thoát được làm các gốc tiêu bị chết dần và lây lan rất nhanh. Với tình hình thời tiết tiếp tục mưa lớn như thế này thì khả năng gần 200 trụ tiêu còn lại trong vườn cũng sẽ bị chết hết. Mọi chi tiêu trong gia đình lâu nay chỉ trông chờ vào mấy gốc tiêu đó, giờ không biết làm thế nào đây”, ông Em lo lắng nói.

Phó Chủ tịch UBND xã Gio An Lê Phước Hiếu cho biết, các đợt mưa lớn kéo dài vừa qua đã làm trên địa bàn xuất hiện nhiều mạch “nước mội” phun lên và chảy tràn trên mặt đất. Bình thường trong mùa mưa các mạch nước này chỉ phun lên trong 5 - 7 ngày là hết nhưng năm nay do mưa quá lớn nên các mạch nước này phun lên mạnh hơn và kéo dài hơn gây ngập úng một số diện tích trồng tiêu trên địa bàn xã và làm cây tiêu bị chết. Cụ thể, trong tổng số 90 ha trồng hồ tiêu toàn xã đã có hơn 10 ha bị ngập úng, trong đó có 3 ha trồng tiêu hữu cơ; gây chết với tỉ lệ từ 30 - 40%, một số vườn bị chết 100%, làm thiệt hại lớn về kinh tế cho người dân. Theo ông Hiếu, mưa lớn gây ngập úng còn dẫn đến nguy cơ bệnh chết nhanh trên cây hồ tiêu phát sinh và lây lan trên diện rộng. Dấu hiệu đặc trưng là cây tiêu bị vàng lá, héo úa, rụng lá, rụng quả, gốc cây bị thối đen, dây thân tiêu thâm đen. Cây tiêu chết rất nhanh, từ khi thấy triệu chứng lá bắt đầu héo đến khi cây chết chỉ từ 1 - 2 tuần, cây tiêu chết khô nhưng các thân dây chính vẫn bám trên trụ. Không chỉ gây chết nhanh mà bệnh này còn lây lan rất nhanh, đặc biệt là ở những vườn tiêu thoát nước kém. Ông Hiếu cho hay, để hỗ trợ người dân khôi phục vườn hồ tiêu, UBND xã đã phối hợp với Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (TT&BVTV) huyện hướng dẫn người dân các biện pháp phòng và trị bệnh cho cây hồ tiêu trong mùa mưa. Chỉ đạo người dân tập trung đào các rãnh thoát nước quanh vườn đối với những vườn đang ngập úng để rút nước nhanh. Hướng dẫn việc thiết kế lại vườn tiêu khi trồng mới đối với những vườn có số cây bị chết nhiều. Đồng thời đề nghị cấp trên hỗ trợ chế phẩm sinh học Tricoderma, các loại thuốc BVTV có nguồn gốc sinh học để phòng bệnh cho cây hồ tiêu.

Tại huyện Vĩnh Linh, do ảnh hưởng của các đợt mưa lớn kéo dài đã làm nhiều diện tích trồng cây hồ tiêu bị thiệt hại, tập trung chủ yếu ở các xã Vĩnh Giang, Hiền Thành, Trung Nam, Vĩnh Tú… Sau mưa lũ cây tiêu có dấu hiệu sinh trưởng chậm, cục bộ có nơi cây bị vàng rụng lá, rụng quả; đồng thời mưa ẩm cũng là điều kiện hết sức thuận lợi để nhiều đối tượng nấm hại phát sinh, gây hại. Phó Trạm trưởng Trạm TT&BVTV huyện Vĩnh Linh Lê Thị Hiền Lương cho hay, trước tình hình thời tiết trong thời gian tới tiếp tục diễn biến phức tạp, trạm đã tăng cường cán bộ về cơ sở phối hợp với chính quyền địa phương hướng dẫn người dân các biện pháp phục hồi và phòng trị bệnh cho cây hồ tiêu như tăng cường thoát nước trong vườn để cây tiêu không bị ngập úng, chặt tỉa gọn các cành cây choái tránh không để gió bão gây đổ ngã; hạn chế đi lại trong vườn hồ tiêu và không làm đứt rễ cây. Thường xuyên theo dõi diễn biến các loại dịch bệnh, nếu phát hiện thì cần phải cách ly và tiêu hủy nhanh chóng các cây nhiễm bệnh để tránh lây lan trên diện rộng. Sử dụng chế phẩm sinh học Tricoderma hoặc các loại thuốc BVTV như Aliete, Agriphos, Ridomil gold… để phòng bệnh cho cây.

Chi cục trưởng Chi cục TT&BVTV tỉnh Bùi Phước Trang thông tin, các đợt mưa lũ vừa qua đã làm hàng trăm héc ta hồ tiêu trên địa bàn tỉnh bị ngập úng, một số diện tích đã có hiện tượng rụng lá và chết. Mưa lớn, độ ẩm cao cũng đã tạo điều kiện cho các loại bệnh hại trên cây hồ tiêu như bệnh chết nhanh, chết chậm, thán thư… phát sinh, gây hại với diện tích nhiễm hơn 550 ha; trong đó bệnh chết nhanh có khả năng bùng phát trên diện rộng và gây hại nghiêm trọng các vườn hồ tiêu thoát nước kém, bị ngập úng. Để chủ động phòng trừ dịch bệnh trên cây hồ tiêu, theo ông Bùi Phước Trang, với những vườn bị ngập úng nông dân cần thực hiện gấp các giải pháp như nhanh chóng thoát nước cho vườn tiêu sau mưa lũ; đào hệ thống thoát nước theo ô bàn cờ, có độ sâu 40 - 50 cm, nếu đất có độ dốc cao thì đào theo hình xương cá; đào rãnh thoát nước chính sâu trên 50 cm xung quanh vườn; phá bỏ bồn giữ nước quanh gốc tiêu để tránh đọng nước. Thường xuyên kiểm tra vườn để phát hiện bệnh sớm, thu gom tàn dư cây bệnh mang ra khỏi khu vực vườn tiêu để đốt tiêu hủy, xử lý đất tại các gốc tiêu bị bệnh bằng vôi bột. Hạn chế đi lại trong vườn, không được bón thêm các loại phân hoặc phun thuốc kích thích khi chưa xử lý thuốc phòng bệnh. Khi trời tạnh ráo tiến hành sử dụng các loại thuốc hóa học đặc hiệu như Agrifos, Ridomil gold, Mataxyl... bằng cách phun lên toàn bộ cây và tưới vào gốc với liều lượng và cách sử dụng theo khuyến cáo của nhà sản xuất. Khuyến khích áp dụng các biện pháp trồng hồ tiêu theo hướng bền vững, hữu cơ, sinh học. Sử dụng giống có nguồn gốc, bảo đảm chất lượng; không nên phát triển diện tích hồ tiêu trồng mới ở những vùng không đủ điều kiện canh tác, vùng có mực nước ngầm cao. “Chi cục TT&BVTV đang tăng cường cán bộ kỹ thuật về cơ sở để trực tiếp hướng dẫn người dân các biện pháp chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh trên cây tiêu nói riêng và các loại cây trồng khác nói chung nhằm khắc phục hậu quả và phục hồi sản xuất sau thiên tai”, ông Trang cho biết thêm.

Thục Quyên

Nam Đông (Thừa Thiên Huế): Cây chủ lực kinh tế bị thiệt hại nặng

Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế

Hàng nghìn ha cao su, keo tràm tại Nam Đông (tỉnh Thừa Thiên Huế) bị gãy đổ do bão số 9. Người dân đối diện với khó khăn khi đây là hai loại cây kinh tế chủ lực của địa phương.

Đến thời điểm hiện tại, Nam Đông vẫn chưa thống kê hết thiệt hại đối với diện tích rừng và cao su trên địa bàn, nguyên nhân là do những rừng cây nằm xa khu dân cư, người dân chưa lên kiểm tra được.

Nhiều cây bị gãy ngang gốc, không còn khả năng phục hồi

Thông kế ban đầu cho thấy, do ảnh hưởng bão số 9, trên địa bàn Nam Đông có 2.500 ha keo tràm, 1.500 ha cao su đang giai đoạn khai thác bị gãy đổ, thiệt hại đối với hai loại cây chủ lực này khá nặng nề.

Ông Nguyễn Phương Ha (thôn Phú Hòa, xã Hương Phú) trồng 6 ha cây cao su đã hơn mười năm nay. Cây cao su khi bị gãy đổ thì khả năng phục hồi rất thấp, tỷ lệ cho mủ khá ít. “Đây là trận bão dù là vùng ảnh hưởng nhưng hậu quả khá nặng nề. Vườn cây cao su nhà tôi trồng mới, tái tạo từ năm 2006 đến nay mới khai thác được vài năm xem như mất trắng”, ông Ha tiếc rẻ.

Nhiều hộ gia đình khác ở thôn Phú Hòa, Đa Phú, Hòa An… sau khi kiểm tra vườn cao su sau bão đều xót xa vì nhiều diện tích chăm bẵm bấy lâu bị bão làm hư hại. Nhiều hộ gia đình vẫn còn nợ ngân hàng, thiếu kinh phí tái sản xuất, phục hồi vườn cây sau bão.

Ông Dương Sang, trưởng thôn Phú Hòa thông tin, thống kê ban đầu toàn thôn có 32 ha cao su, 316 ha keo tràm, bị gãy đổ khoảng 50% diện tích, nhiều diện tích bị mất trắng hoàn toàn.

Theo Chủ tịch UBND xã Hương Phú - Trần Bảo Thắng, toàn xã có 300 ha cao su, 600 ha keo bị gãy đổ. Trong đó, có vài chục ha cao su bị thiệt hại từ 50% diện tích trở lên.

“Xã đang làm báo cáo bước đầu cho huyện. Cây cao su từ trước đến nay là cây mang lại sinh kế chủ yếu. Do vậy, sắp tới, ngoài đề xuất cấp trên hỗ trợ cho người dân, địa phương cũng lồng ghép vào các chương trình tái cơ cấu sản xuất đề giúp các hộ dân trồng mới, phục hồi vườn cây sau bão”, ông Thắng cho biết thêm.

600 ha keo tràm ở Nam Đông cũng thiệt hại năng sau bão số 9

Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh khuyến cáo nông dân tạm ngừng khai thác, tập trung chăm sóc phục hồi vườn cây, căn cứ tình hình sinh trưởng phát triển của cây để bón phân bổ sung hoặc phun phân qua lá để cây phục hồi sinh trưởng.

Ông Hồ Đắc Thọ, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh thông tin, đối với cây bị nghiêng đổ trên 45 độ so với mặt đất tiến hành tỉa tán, dựng cây, vun gốc và chống đỡ bằng cọc tre, dây thừng để cây nhanh chóng phục hồi.

Theo đó, đối với cây bị gãy, toác thân, bật rễ, bị nghiêng đổ dưới 45 độ so với mặt đất cần cưa bỏ. Nếu vườn cao su có tỷ lệ cây đổ ngã thiệt hại nặng >70% tiến hành chặt bỏ toàn bộ vườn và có kế hoạch trồng mới hoặc trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như bưởi da xanh, cam,…

Bài, ảnh: Hà Nguyên

Bình Thuận: Vịt đại xuyên, giống nuôi mới tại Phan Thiết

Nguồn tin: Báo Bình Thuận

Đầu tháng 9 vừa qua, anh Phan Công Thức - thôn Xuân Phú, xã Phong Nẫm (Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận) nhận 200 con giống vịt đại xuyên từ Trung tâm Kỹ thuật và dịch vụ nông nghiệp Phan Thiết để thả nuôi trong khoản đất trống trước nhà. Mặc dù chưa có kinh nghiệm thực tế từ việc nuôi gia cầm trước đó, tuy nhiên được sự hướng dẫn chi tiết từ đơn vị chủ nhiệm đề tài, cũng như chủ động mày mò, tìm hiểu, đàn vịt giống mới của anh Thức phát triển khá tốt. Hiện tại, 200 con vịt đại xuyên đa phần đều phát triển khỏe mạnh, trọng lượng gần 3 kg/con. Anh Thức chia sẻ: “Quá trình gần 2 tháng nuôi thấy loại vịt này cũng dễ. Chỉ cần cho ăn đầy đủ, tiêm thuốc ngừa bệnh và có thêm một ao nước nhỏ thì vịt phát triển tốt. Dự kiến, ít ngày tới tôi sẽ bắt đầu xuất bán lứa vịt từ mô hình này”.

Theo Trung tâm Kỹ thuật và dịch vụ nông nghiệp Phan Thiết – đơn vị thực hiện mô hình chăn nuôi vịt đại xuyên sử dụng đệm lót sinh học, đây là giống gia cầm mới, lần đầu được triển khai tại Phan Thiết. Toàn bộ con giống được đơn vị lấy trực tiếp từ TP.Hà Nội và vận chuyển bằng đường hàng không về và chuyển giao cho hộ nuôi từ đầu tháng 9/2020. Tổng số vịt giống được triển khai của mô hình là 750 con, thực hiện tại 3 hộ nằm trên địa bàn xã Phong Nẫm. Trong đó, nguồn kinh phí khuyến công hỗ trợ 50% chi phí đầu tư về giống, vật tư, 50% còn lại do hộ dân tham gia mô hình chi trả.

Vịt đại xuyên được nuôi trên đệm lót kết hợp với ao nước

Trước khi bàn giao con giống cho các hộ nuôi, Trung tâm Kỹ thuật và dịch vụ nông nghiệp Phan Thiết đã tổ chức tập huấn kỹ thuật, đồng thời kiểm tra thiết kế chuồng trại, khu vực úm vịt con. Định kỳ các mốc thời gian hàng tuần, hàng tháng, các kỹ thuật viên kiểm tra, theo dõi kỹ thuật chăn nuôi, các thông số sinh trưởng của vịt. Kết quả sau gần 2 tháng triển khai mô hình chăn nuôi vịt đại xuyên sử dụng đệm lót sinh học, trọng lượng bình quân của mỗi con là gần 3 kg, có thể xuất bán, tỷ lệ nuôi sống đạt 98%. Bà Phạm Thị Bích Thơm - Giám đốc Trung tâm Kỹ thuật và dịch vụ nông nghiệp Phan Thiết cho biết, giống vịt đại xuyên có khả năng thích nghi rộng với nhiều điều kiện nước, khí hậu khác nhau. Đồng thời, giống vịt này sinh trưởng nhanh, có thể nuôi lấy thịt hoặc chuyên lấy trứng đều đạt năng suất cao. Tuy nhiên, để đạt hiệu quả, người nuôi cần đầu tư chuồng trại bài bản, tuân thủ kỹ thuật để tránh rủi ro dịch bệnh.

Về hiệu quả đầu tư, theo đánh giá của trung tâm, tổng chi phí cho đàn vịt 100 con khoảng 8 triệu đồng. Trong khi đó, với giá bán dự trù ở mức thấp nhất là 37.000 đồng/kg, thì tổng thu dự kiến khoảng 10 triệu đồng. Người nuôi lãi khoảng 2 triệu đồng/100 con. Với thời gian nuôi khoảng 2 tháng là bán được, người nuôi có thể xoay vòng vốn nhanh để tái đầu tư các lứa khác.

Giống vịt đại xuyên có ngoại hình đẹp, chất lượng thịt ngon, tương đối dễ nuôi, thích nghi với điều kiện khí hậu tại các địa bàn vùng ven của Phan Thiết. Vì vậy, đây là con nuôi mới, có khả năng nhân rộng ra nhiều hộ khác.

Hạnh Khiết

Thành công với nghề nuôi dế

Nguồn tin: Báo Bình Dương

Gần 10 năm gắn bó với nghề nuôi dế, anh Cao Văn Đoàn, ấp 9, xã An Linh, huyện Phú Giáo (tỉnh Bình Dương) đã gặt hái được nhiều thành quả. Không chỉ làm giàu cho gia đình từ trang trại dế, anh Đoàn còn tạo việc làm cho lao động tại địa phương.

Anh Cao Văn Đoàn, ấp 9, xã An Linh, huyện Phú Giáo, chia sẻ: “Một số bạn bè đầu tư nuôi bọ cạp thấy thú vị, dễ nuôi, thị trường đang có nhu cầu thu mua để làm thương phẩm, làm dược liệu, chế biến các món ăn độc đáo, tôi chạy vạy vay mượn anh em họ hàng, bà con lối xóm được chút ít tiền đầu tư nuôi bọ cạp”. Cũng theo anh Cao Văn Đoàn, qua quá trình nuôi thử nghiệm, nhận thấy nếu mở rộng đầu tư nuôi bọ cạp thì đòi hỏi vốn lớn, hiệu quả kinh tế không cao do năng suất thấp. Ý tưởng khởi nghiệp bị thất bại, anh từ bỏ nghề nuôi bọ cạp và chuyển sang nghề nuôi dế.

Tuy tuổi đời còn rất trẻ nhưng với ý chí, bản lĩnh dám nghĩ dám làm, chàng thanh niên Cao Văn Đoàn vẫn không chịu từ bỏ ý tưởng khởi nghiệp, làm chủ kinh tế trang trại. Thêm một lần nữa, anh quyết tâm khôi phục lại sự nghiệp từ nghề nuôi dế. Qua tìm tòi kỹ thuật nuôi dế trên các trang mạng internet, học hỏi kinh nghiệm từ những người bạn, anh vay thêm tiền ngân hàng, mở rộng trang trại nuôi dế trên diện tích 1ha, với khoảng 1.500 thùng nuôi dế thịt và dế đẻ trứng. Quả thật, có gian nan thử thách mới có thành công, bước đầu thử nghiệm nuôi dế, anh đã có nguồn thu nhập ổn định, không chỉ bảo đảm trang trải cuộc sống gia đình mà còn có tiền để trả nợ ngân hàng, trả lương cho nhân công.

Anh Cao Văn Đoàn cười vui tâm sự: “Nuôi dế không khó, chỉ cần môi trường râm mát, sạch sẽ, dế sinh sôi và sinh trưởng rất nhanh. Hàng ngày chỉ cần dọn chuồng trại sạch sẽ, dế ít khi bị bệnh. Tuy nhiên, người nuôi dế phải hết sức cẩn thận khi cho dế ăn uống để phòng dế bị bệnh đường ruột. Nếu con dế nào bị mắc bệnh thì không có thuốc gì để chữa trị, bởi vậy phát hiện con dế nào bị bệnh thì phải loại bỏ, tránh nguồn bệnh lan rộng”. Anh Cao Văn Đoàn cho biết thêm nguồn thức ăn của dế chủ yếu là bột cám cho gia súc gia cầm hoặc lá cây khoai mì tươi. Dế sinh sôi nảy nở rất nhanh vào mùa mưa và chậm vào mùa nắng nóng. Do vậy, hàng ngày phải luôn kiểm tra và tách dế cái cho vào thùng riêng rồi cho bột xơ dừa đã ngâm ủ với nước, để dế đi vào đẻ trứng. Trong vòng 2 ngày, trứng dế đã nở thành con. Vì dế sinh nở và trưởng thành rất nhanh, nên ở trang trại này bình quân mỗi ngày xuất đi khoảng 50kg dế thịt cho các đầu mối.

Nhờ có thị trường đầu ra ổn định, nên mô hình trang trại nuôi dế của anh Đoàn được duy trì gần 10 năm nay. Trừ hết chi phí, bình quân mỗi tháng anh thu về được hơn 30 triệu đồng từ nghề nuôi dế. Với sự nỗ lực của mình, ý tưởng khởi nghiệp nuôi dế của anh Đoàn không chỉ làm giàu cho gia đình, mà còn tạo việc làm ổn định cho 8 lao động tại địa phương.

Anh Cao Văn Đoàn là một trong những đoàn viên xuất sắc trong phong trào thanh niên khởi nghiệp tại địa phương. Năm 2013, anh vinh dự được trao tặng bằng chứng nhận đạt giải thưởng Lương Định Của, đây là phần thưởng cao quý của Trung ương Đoàn dành cho “Nhà nông trẻ xuất sắc”. Mấy năm trở lại đây, anh đều được các cấp tặng bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc trong phong trào nông dân thi đua, sản xuất kinh doanh giỏi.

THU HƯỜNG

Lãi hàng trăm triệu đồng từ nuôi dúi

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Cách đây 10 năm, sau khi xem một chương trình truyền hình giới thiệu về mô hình nuôi dúi, anh Bùi Thanh Chung ở thôn Hoà Phú, xã Ea Nuôi (huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk) quyết định chọn nuôi dúi để khởi nghiệp.

Nghĩ là làm, anh Chung đầu tư mua 5 cặp dúi với giá 1,5 triệu đồng/cặp từ tỉnh Vĩnh Phúc về nuôi. Thời gian đầu nuôi dúi khá khó khăn khiến anh bị lỗ chút vốn vì chưa hiểu đặc tính của chúng. Sau khi biết con dúi ưa nhiệt độ mát mẻ, không thích ánh sáng, tiếng ồn, không thích thức ăn cũ và nhiều đặc tính khác thì anh đã thay đổi cách chăm sóc và đạt hiệu quả rõ rệt.

Hiện trang trại của anh Chung đang nuôi hai loại chính là dúi mốc và dúi má đào với quy mô hơn 900 con. Trong đó, 160 con dúi má đào có 32 cặp dúi bố mẹ đang sinh sản và gần 800 con dúi mốc với 300 cặp bố mẹ.

Anh Chung chia sẻ, dúi sinh sản ngoài tự nhiên thì theo mùa nhưng dúi nuôi nhốt thì sinh sản theo chu kỳ động dục nên có thể vận dụng cho sinh sản nhiều hơn, mỗi năm có thể đẻ 2 hoặc 4 lứa, mỗi lứa 2 – 4 con. Sau 8 tháng tuổi là dúi có khả năng sinh sản. Dúi trưởng thành có chiều dài thân 35 - 40 cm, trọng lượng 1,5 – 2 kg/con, thức ăn của chúng rất đơn giản và dễ kiếm như thân tre, thân cỏ voi, thân mía, ngô...

Một con dúi trưởng thành mỗi ngày chỉ cần cho ăn mẩu mía, mẩu tre là được, với dúi nhỡ thì khẩu phần ăn ít hơn. Ngoài ra, cho dúi ăn thêm gốc cỏ voi, ngô để dúi có thêm chất dinh dưỡng, mau lớn. Để thức ăn cho dúi phong phú, anh Chung còn trồng 3 sào mía và 4 sào cỏ cao sản VA06 vừa tận dụng lá ngọn chăn nuôi bò vừa lấy thân cho dúi ăn; phân dúi trộn phân trâu bò để ủ bón cho cỏ, mía.

Anh Chung chăm sóc dúi.

Dúi giống sau 3 tháng xuất chuồng có thể đạt 500 - 700 g; dúi thương phẩm nuôi 7 tháng có thể xuất chuồng, có thể đạt trọng lượng 1,5 kg. Giá bán dúi thịt là 600.000 đồng/kg, giá bán dúi giống từ 3,5 - 4,2 triệu đồng/cặp (đối với dúi mốc) và từ 18 - 20 triệu đồng/cặp (đối với dúi má đào). Trung bình mỗi tháng trang trại của anh Chung xuất chuồng khoảng 1,5 tạ dúi giống và dúi thương phẩm; mỗi năm sau khi trừ chi phí anh lãi 250 triệu đồng. Do thịt dúi là đặc sản nên được nhiều khách hàng tìm mua, thị trường đầu ra dúi thịt, dúi giống chủ yếu ở các địa phương trong tỉnh và các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Đà Lạt, Cần Thơ, TP. Hồ Chí Minh…

Hiện tại, anh Chung đã liên kết tiêu thụ sản phẩm với nhiều nhà hàng, khách sạn tại địa phương để có thị trường tiêu thụ ổn định. Anh luôn nhiệt tình tư vấn, hướng dẫn kỹ thuật nuôi dúi, cung cấp dúi giống cho những hộ có nhu cầu, hỗ trợ các gia đình chăm sóc và phòng trừ dịch bệnh cho đàn dúi, nhân giống dúi để có được sản phẩm tốt nhất xuất ra thị trường.

Đoàn Dũng

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop