Sóc Trăng: Tăng số lượng sản phẩm thông qua quy hoạch vùng trồng
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Nhằm hỗ trợ cho các địa phương có diện tích cây ăn trái tiêu thụ tốt, đồng thời có phân vùng và tổ chức tốt sản xuất các loại cây ăn trái đặc sản, từ năm 2018 đến nay, Dự án Phát triển cây ăn trái đặc sản tỉnh đã giúp các địa phương về cải tạo vườn tạp, lập vườn mới, nâng cấp vườn, cải tạo giống, đầu tư cơ sở hạ tầng và hỗ trợ phát triển công tác giống. Thông qua hỗ trợ của dự án, nhà vườn tại một số xã trên địa bàn huyện Long Phú (tỉnh Sóc Trăng) đã cải tạo hiệu quả giống cây trồng tại vườn nhà và đặc biệt là diện tích trồng mới cây bưởi tăng lên.
Ông Lê Minh Dũng, ấp Phú Thứ, xã Phú Hữu (Long Phú) khoe vườn bưởi da xanh được Dự án Phát triển cây ăn trái đặc sản tỉnh hướng dẫn kỹ thuật canh tác bưởi theo quy trình VietGAP, vườn bưởi của ông luôn xanh tốt. Ảnh: THÚY LIỄU
Những cây bưởi da xanh được trồng ngay hàng thẳng lối đang bắt đầu cho những lứa trái đầu tiên tại vườn bưởi của ông Lê Minh Dũng, ấp Phú Thứ, xã Phú Hữu (Long Phú). Trao đổi với chúng tôi, ông Dũng chia sẻ: “Tính đến nay, khu vườn 1.000m2 trồng bưởi da xanh được Dự án Phát triển cây ăn trái đặc sản tỉnh hỗ trợ gần 2 năm, bắt đầu cho trái nhưng do cây chưa đủ lớn nên chỉ để ít trái nhằm dưỡng cây khỏe hơn mới để số lượng trái nhiều. Tôi gắn bó với cây bưởi da xanh hơn 4 năm qua, thấy việc trồng bưởi đem về lợi nhuận khá tốt so với trồng lúa. Chỉ với 1 công bưởi nhưng cho thu nhập cả chục triệu đồng/năm, đầu ra trái bưởi khá tốt”.
Cũng theo ông Dũng, với 1 công bưởi ban đầu cho lợi nhuận khá, ông tiếp tục chuyển đổi 1 công đất lúa sang làm vườn trồng mới bưởi da xanh. Đối với 1 công bưởi trồng mới này, dự án đã hỗ trợ cây giống 100%, hỗ trợ về kỹ thuật trồng, phân bón hữu cơ, thuốc vi sinh nên không phải tốn chi phí đầu tư trồng mới. Bên cạnh đó, dự án còn hướng dẫn cách chăm sóc bưởi theo tiêu chuẩn VietGAP, chẳng những cho vườn bưởi ông đã trồng mà còn áp dụng quy trình trồng bưởi an toàn vệ sinh thực phẩm cho diện tích vườn bưởi trồng mới do dự án hỗ trợ. “Tôi thấy, áp dụng các quy trình trồng bưởi theo tiêu chuẩn VietGAP do dự án hỗ trợ rất hay và cần thiết, góp phần giúp nông dân giảm 50% chi phí đầu tư mùa vụ, cây trồng xanh tốt quanh năm, bưởi xuất bán được người tiêu dùng ưa chuộng… Dự kiến vườn bưởi da xanh được dự án hỗ trợ cây giống, sẽ cho thu hoạch trái vào đầu năm 2021” - ông Dũng chia sẻ thêm.
Ông Nguyễn Văn Truyền, ấp Phú Thứ, xã Phú Hữu (Long Phú) bộc bạch: “Dự án Phát triển cây ăn trái đặc sản tỉnh hỗ trợ bà con nông dân về cây giống, nhất là cây ăn trái đặc sản có giá trị kinh tế cao như cây bưởi da xanh. Việc hỗ trợ này là rất cần thiết. Bởi nông dân thường có thói quen lựa chọn cây trồng trước mắt bán được giá cao, chưa có nhiều người nghĩ đến việc duy trì ổn định vườn cây nên điệp khúc “trồng, chặt” thường tiếp diễn. Nhưng khi dự án tiến hành triển khai tại địa phương, nông dân chúng tôi rất phấn khởi, vì ngoài sự hỗ trợ cây giống cho bà con mở vườn trồng mới, dự án còn giúp nâng cấp cải tạo vườn, đặc biệt là mở các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật cho bà con nông dân trong cách chăm sóc, phòng chống dịch bệnh trên cây trồng và hướng người dân sản xuất cây ăn trái theo quy trình VietGAP, để tạo ra sản phẩm trái cây sạch, phục vụ nhu cầu thị trường và kể cả trái cây đạt chuẩn xuất khẩu. Gia đình tôi có 4 công đất lúa chuyển sang làm vườn và đã được dự án hỗ trợ toàn bộ số lượng cây giống bưởi da xanh để trồng, giờ vườn bưởi 2 năm tuổi đã bắt đầu cho trái, hứa hẹn một mùa bưởi bội thu, vì bưởi thu hoạch sẽ bán trái đúng dịp Tết Nguyên đán 2021…”.
Phó Giám đốc Dự án Phát triển cây ăn trái đặc sản tỉnh Nguyễn Thành Phước thông tin: “Tại huyện Long Phú, dự án đã hỗ trợ trồng mới mô hình nhãn Ido, bưởi da xanh và mô hình ứng dụng khoa học kỹ thuật tưới phun tự động, kết hợp xây dựng 2 vùng trồng bưởi da xanh đạt tiêu chuẩn cấp mã code phục vụ xuất khẩu, với diện tích trên 40ha. Qua hỗ trợ của dự án sẽ phần nào giúp địa phương trong công tác định hướng phát triển, hình thành thêm các vùng chuyên canh cây ăn trái đặc sản, tạo ra lượng hàng hóa lớn cùng chất lượng, cung ứng ra thị trường trong và ngoài nước, góp phần tăng thu nhập cho nhà vườn…”.
THÚY LIỄU
Nỗi lo đầu ra cho cây quýt: Giá rẻ, tiêu thụ chậm
Nguồn tin: Báo Bắc Kạn
Qua khảo sát, giá quýt năm nay thấp, bình quân quả loại nhỏ (loại bi) chỉ 3.000 đồng/kg, giá trung bình từ 5 - 7.000 đồng/kg. Đầu ra tiếp tục gặp khó khăn, sản lượng cung vượt quá cầu.
Do phụ thuộc vào các đầu mối tiêu thụ, nên điểm thu mua quýt của chị Nguyễn Thị Thủy, thôn Khuổi Cò (xã Dương Phong) giảm đi nhiều so với mọi năm.
Huyện Bạch Thông (tỉnh Bắc Kạn) hiện có khoảng 1.600ha cam, quýt, phần lớn diện tích tại 03 xã Quang Thuận, Dương Phong và Đôn Phong, trong đó riêng cây quýt đang cho thu hoạch chiếm gần 1.000ha, sản lượng đạt hơn 8.000 tấn/năm. Từ tháng 10 dương lịch trở đi là thời vụ quýt bắt đầu và kết thúc vào tháng 12.
Đến vùng quýt của Bạch Thông vào ngày cuối tháng 11, khác hẳn với mọi năm, không khí mua bán quýt nơi đây trầm lắng. Những năm trước, vào thời điểm này nhiều xe tải các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh, Lạng Sơn… đã tấp nập đến thu mua quýt.
Theo nhận định chung của người dân, năm nay việc mua bán quýt gặp khó khăn, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, phía Trung Quốc hạn chế việc thông thương nên nông sản trong nước khó lưu thông sang nước bạn. Mặt khác, do lượng cung quá lớn, diện tích quýt ở các xã, huyện, tỉnh lân cận tăng đáng kể nên việc thu mua giảm. Cùng với đó, các loại hoa quả hiện phong phú về chủng loại, mẫu mã khiến giá quýt thấp như hiện nay.
Chị Nguyễn Thị Thủy, một tiểu thương thu mua quýt ở thôn Khuổi Cò (xã Dương Phong) cho biết: “Năm nay số lượng quýt chúng tôi thu mua đến thời điểm này mới chỉ bằng 1/3 so với năm ngoái do phụ thuộc vào các mối hàng tiêu thụ ở các tỉnh miền xuôi, trong khi đó người dân thì nóng lòng muốn bán nhanh, vội".
Mỗi vụ quýt đến, điểm thu mua quýt của chị Thủy thu mua hàng nghìn tấn quýt. Đây là địa điểm trung chuyển, phân loại quýt đưa về các tỉnh miền xuôi. Chị Thủy cho biết: "Tôi mua ở giá sát nhất để bà con không bị thiệt, tuy nhiên vẫn còn phụ thuộc vào các đầu mối, nếu họ tiêu thụ nhanh sẽ tiếp tục thu mua, còn chậm thì cũng đành chấp nhận”.
Giá quýt năm nay thấp hơn so với năm ngoái, loại quýt bi giá chỉ có 3.000 đồng/kg, loại quả to giá 5 - 7.000 đồng/kg. Anh Lưu Đình Luyện, thôn Nà Chạp (xã Quang Thuận) có 2ha quýt, bình quân một năm thu về từ 10 - 15 tấn nhưng ở thời điểm hiện tại nan giải nhất vẫn là đầu ra. Vài trăm gốc quýt đã chín rộ, tuy nhiên anh chỉ bán khi có khách đặt mua, còn bán lẻ rất chậm.
"Chưa có năm nào việc tiêu thụ quýt lại gian nan như vậy, ngoài việc bán buôn cho các tư thương, nhiều hộ phải chào hàng, bán lẻ trên đường quốc lộ, các điểm chợ. Tranh thủ quýt chín đến đâu hái bán đến đó, vì một thời gian nữa khi quýt chín rộ bán không kịp" một người dân ở xã Quang Thuận chia sẻ.
Ông Nông Văn Bình- Chủ tịch UBND xã Quang Thuận cho biết: “Sản lượng quýt năm nay của xã đạt 4.500 tấn, tuy nhiên đầu ra gặp khó khăn, giá thành thấp. Vài năm gần đây một số diện tích quýt có hiện tượng già cỗi, chết, sâu hại, có hộ đã chuyển sang trồng thay thế bằng các loại cây lâm nghiệp khác hoặc cây ăn quả có giá trị kinh tế cao hơn".
Giá quýt thấp tác động không nhỏ đến đời sống người dân nơi đây. Bà con mong muốn sớm được các cấp, ngành tiếp tục quan tâm, có những giải pháp liên kết, chế biến sâu sản phẩm cam, quýt sau thu hoạch…
Thu Trang
Phát triển cây ăn quả tập trung gắn với xây dựng thương hiệu sản phẩm
Nguồn tin: Báo Phú Thọ
Năm nay, sản phẩm hồng không hạt Gia Thanh, huyện Phù Ninh được dán tem truy xuất nguồn gốc đã góp phần nâng cao giá trị sản phẩm từ 1,5 - 2 lần so với trước.
Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng, những năm qua, trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã và đang hình thành nhiều vùng chuyên canh cây ăn quả tập trung quy mô lớn với các loại cây chủ lực, có giá trị kinh tế cao, giúp người dân có nguồn thu nhập ổn định, cải thiện đời sống, đồng thời, từng bước xây dựng thương hiệu sản phẩm cây ăn quả mang đặc trưng của tỉnh. Tính đến hết năm 2019, tổng diện tích cây ăn quả trên địa bàn tỉnh là trên 13,8 nghìn ha, sản lượng đạt trên 348 nghìn tấn. Các giống cây ăn quả chủ lực của tỉnh gồm: Bưởi, hồng, chuối, vải, nhãn, xoài, cam với sản lượng chiếm trên 80% tổng sản lượng cây ăn quả. Hiện đã có 4 sản phẩm cây ăn quả được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ gồm: Bưởi Đoan Hùng, hồng không hạt Gia Thanh, chuối phấn vàng Thanh Sơn và chuối Bản Nguyên. Các sản phẩm được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ khi đưa ra thị trường đòi hỏi được kiểm tra, quản lý chất lượng và đáp ứng các tiêu chuẩn về mẫu mã, tem nhãn theo quy trình nghiêm ngặt, góp phần nâng cao giá trị sản xuất và hiệu quả kinh tế.
Cây bưởi được xem là cây trồng chủ lực trong việc thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng hiện nay. Những diện tích đất đồi, vườn tạp canh tác kém hiệu quả đang dần thay thế bằng vườn bưởi sai trĩu quả. Tổng diện tích bưởi trên địa bàn đạt hơn 5 nghìn ha. Đoan Hùng được xem là “thủ phủ” của cây bưởi với diện tích toàn huyện đạt gần 2.500ha, trong đó riêng 2 giống bưởi đặc sản là bưởi Sửu Chí Đám và bưởi Bằng Luân là 1.400ha, còn lại là bưởi Diễn và 1 số giống bưởi khác. Sản phẩm bưởi Đoan Hùng cũng là loại quả đầu tiên trên địa bàn tỉnh được Cục sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học và Công nghệ cấp giấy chứng nhận chỉ dẫn địa lý từ năm 2006.
Trước đây, bưởi Đoan Hùng chỉ đơn thuần là loại cây ăn quả trồng phân tán, nhỏ lẻ, xen canh trong các khu dân cư, không có sự quy hoạch vùng, thu hoạch theo mùa vụ và bán cho thương lái nên giá cả không ổn định. Từ khi được bảo hộ chỉ dẫn địa lý cùng với sự hỗ trợ của các cấp chính quyền, quả bưởi có logo, được dán tem truy xuất nguồn gốc, xuất xứ, dễ dàng phân biệt với quả bưởi thông thường nên hạn chế được việc trà trộn, gây ảnh hưởng đến chất lượng và uy tín của người trồng bưởi. Giá trị sản phẩm bưởi được nâng lên 25 - 30%, trung bình mỗi ha bưởi đặc sản hiện nay cho thu nhập từ 400 - 600 triệu đồng/năm, cao gấp 6 lần so với cây lúa và 5 lần so với trồng chè.
Huyện Đoan Hùng đã xây dựng quầy bán hàng và giới thiệu sản phẩm bưởi để tạo địa chỉ tin cậy, giúp người tiêu dùng tránh mua phải hàng kém chất lượng.
Ông Nguyễn Minh Mạch - Giám đốc Hợp tác xã sản xuất và kinh doanh bưởi Chí Đám, huyện Đoan Hùng cho biết: “Bưởi Sửu là giống quả đặc sản chỉ trồng được ở đất Chí Đám, năm nay sản lượng thu hoạch đạt khoảng 15.000 - 20.000 quả. Những năm trước, ngay tại đất Đoan Hùng, nhiều người cũng mua phải bưởi Sửu kém chất lượng nên ăn tôm khô và không ngon khiến chúng tôi rất băn khoăn khi suy nghĩ về thương hiệu bưởi. Vì vậy, với những người trồng bưởi chúng tôi, ngoài việc tập trung chăm sóc theo đúng quy trình kỹ thuật từ tỉa lá, bón phân, hỗ trợ đậu hoa còn chú trọng đến khâu dán tem truy xuất nguồn gốc sau thu hoạch để bảo vệ quyền lợi của người trồng và lợi ích của người tiêu dùng”.
Ở Phù Ninh, giai đoạn 2016 - 2020, huyện cũng đã xác định 2 loại cây ăn quả chủ lực, có giá trị kinh tế cao và hướng tới mở rộng diện tích là cây bưởi Diễn và hồng không hạt Gia Thanh. Trong đó, hồng không hạt được trồng tập trung nhiều ở các xã Gia Thanh, Phú Nham, Phú Lộc… với diện tích 92,5ha, trong đó có trên 60ha đã cho thu hoạch. Từ năm 2019, sản phẩm quả hồng Gia Thanh chính thức được công nhận nhãn hiệu tập thể do Hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp Gia Thanh làm chủ sở hữu. Niềm vui liên tục được nhân lên khi năm vừa qua sản phẩm quả hồng được Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản tỉnh hướng dẫn cách dán tem truy xuất nguồn gốc, hỗ trợ 175.000 tem cho 76 hộ trồng hồng.
Ông Nguyễn Phúc Suyên - Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Phù Ninh cho biết: “Để phát triển cây hồng không hạt trở thành loại cây ăn quả chủ lực, huyện khuyến khích người dân tiếp tục trồng mới trên những diện tích phù hợp, đảm bảo sản xuất tập trung từ 1ha trở lên đối với hộ, nhóm hộ và trang trại; 3ha trở lên đối với hợp tác xã, tổ hợp tác, phấn đấu đến năm 2025 toàn huyện có khoảng 120ha cây hồng không hạt; tiếp tục hướng dẫn người dân ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, sử dụng các biện pháp tưới tự động để nâng cao chất lượng sản phẩm gắn với giữ gìn thương hiệu sản phẩm tiến Vua vùng Đất Tổ”.
Tuy nhiên, việc phát triển cây ăn quả trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhiều khó khăn bởi Phú Thọ là tỉnh miền núi, địa hình bị chia cắt nên khi xây dựng vùng sản xuất cây ăn quả tập trung bị hạn chế. Cùng với đó, thời gian thu hoạch từ cây ăn quả lâu hơn so với các loại cây khác, trung bình từ 4 - 5 năm sau khi trồng nên nhiều hộ chưa quan tâm tới đầu tư chăm sóc, để cây phát triển tự nhiên, chất lượng quả không đồng đều, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế cây trồng; số lượng sản phẩm cây ăn quả đã xây dựng được thương hiệu chưa nhiều, tỷ lệ sản phẩm đạt yêu cầu, chất lượng để bày bán trong hệ thống các siêu thị còn ít, đa phần người dân chủ yếu bán cho thương lái, các chợ đầu mối phục vụ thị trường trong tỉnh và một số địa phương lân cận…
Để nâng cao giá trị và hiệu quả kinh tế từ các loại cây ăn quả chủ lực, theo ông Phan Văn Đạo - Chi cục trưởng Chi cục trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Chi cục đã tham mưu với UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục mở rộng diện tích cây ăn quả, trong đó tập trung chủ lực vào cây bưởi theo hướng giảm tỷ lệ sản xuất nhỏ lẻ, tăng diện tích ở các vùng đã quy hoạch sản xuất tập trung; xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển cụ thể theo từng giai đoạn để khai thác các tiềm năng, thế mạnh của vùng; thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây ăn quả phải phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu của từng địa phương, đảm bảo duy trì diện tích cây ăn quả đặc sản mang tính đặc trưng vùng miền như: Hồng Hạc Trì, vải chín sớm Hùng Long, chuối phấn vàng Thanh Sơn…
Để đổi mới tổ chức sản xuất, tỉnh khuyến khích các địa phương thành lập mới các hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, gắn vùng sản xuất nguyên liệu với chế biến, tiêu thụ sản phẩm và quan trọng hơn là tạo dựng địa vị pháp lý trong tham gia trao đổi, mua bán, góp phần nâng cao trách nhiệm của người sản xuất và uy tín trong hoạt động thương mại. Tạo điều kiện thuận lợi để kêu gọi, thu hút các doanh nghiệp đầu tư sản xuất, chế biến sản phẩm cây ăn quả, phát triển ngành công nghiệp chế biến nông sản. Ngành nông nghiệp và các địa phương cũng tăng cường hướng dẫn người dân đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, trồng cây ăn quả theo tiêu chuẩn VietGAP, sản xuất hữu cơ; sử dụng các loại phân bón chuyên dụng, phân vi sinh, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, nếu trong điều kiện cần thiết hướng dẫn người dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật sinh học để đảm bảo an toàn cho sản phẩm quả khi thu hoạch.
Cùng với phát triển sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tỉnh cũng khuyến khích các địa phương đẩy mạnh quảng bá, giới thiệu sản phẩm với người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh thông qua hoạt động xúc tiến thương mại như hội chợ, hội nghị kết nối cung cầu hoặc ký kết hợp đồng với các thương lái, siêu thị, đưa các loại cây ăn quả đến gần hơn với người tiêu dùng.
Hà Nhung
Ninh Thuận chuyển đổi sản xuất ứng phó với hạn hán
Nguồn tin: VOV
Mục tiêu của đề án là đến năm 2025, tỉnh Ninh Thuận chuyển đổi 6.815 ha sản xuất lúa 3 vụ sang sản xuất ổn định 2 vụ/năm.
Toàn bộ hệ thống thủy lợi trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận hiện chỉ đáp ứng được khoảng 40% diện tích đất nông nghiệp. Do vậy, trước tình hình khô hạn, thiếu nước tưới thường xuyên, UBND tỉnh Ninh Thuận đã ban hành kế hoạch chuyển đổi sản xuất lúa từ 3 vụ sang 2 vụ/năm.
Mặc dù khó khăn về nguồn nước, nhưng thực tế những năm qua, tỉnh Ninh Thuận vẫn tiến hành sản xuất 3 vụ lúa/năm. Tuy nhiên, hiệu quả sản xuất lúa vụ mùa không cao, năng suất bình quân chỉ đạt khoảng 4,27 tấn/ha, bà con nông dân không có lãi.
Nhiều cánh đồng vùng Thuận Nam phải bỏ hoang do không có nguồn nước.
Từ thực tế này, UBND tỉnh Ninh Thuận đã có quyết định 1390 về kế hoạch chuyển đổi sản xuất lúa từ 3 vụ sang 2 vụ/năm, giai đoạn 2020-2025.
Theo đó trong năm 2020, toàn tỉnh chuyển đổi thí điểm trên 1.000ha tại huyện Ninh Phước và thành phố Phan Rang-Tháp Chàm. Tiếp theo sẽ nhân rộng ra các địa phương khác, khuyến khích sản xuất 2 vụ lúa và 1 vụ màu ở khu vực dừng vụ sản xuất 1 vụ lúa.
Cây đậu phộng (lạc) hợp với thổ nhưỡng ở Ninh Thuận.
UBND tỉnh Ninh Thuận yêu cầu ngành nông nghiệp phải bố trí gieo trồng các giống lúa trung ngày (thời gian sinh trưởng dưới 100 ngày), có năng suất, chất lượng cao. Ngoài các giống tốt hiện có trong tỉnh, ngành nông nghiệp cần đẩy nhanh việc khảo nghiệm các giống mới có năng suất, chất lượng cao để nông dân lựa chọn. Các ngành chức năng tổ chức tập huấn, hướng dẫn nông dân chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh hại, nhất là trên các giống mới theo từng giai đoạn sinh trưởng, thực hiện cơ chế chính sách theo quy định nhằm khuyến khích chuyển đổi.
Bà con nông dân Tuấn Tú, xã An Hải, huyện Ninh Phước trồng củ cải trắng trên vùng đất cát.
Mục tiêu của đề án là đến năm 2025, tỉnh Ninh Thuận chuyển đổi 6.815 ha sản xuất lúa 3 vụ sang sản xuất ổn định 2 vụ/năm. Theo lộ trình thực hiện từ vụ mùa năm 2020 đến vụ mùa năm 2025. Năng suất bình quân đạt trên 73 tạ/ha/vụ; giảm chi phí sản xuất từ 10-15%, tăng thu nhập từ 20-30% so với sản xuất 3 vụ lúa trước đây.
Ông Phạm Dũng, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Sở NN& PTNT) cho biết: "Việc chuyển đổi nhằm giảm áp lực nước tưới để chuyển lượng nước tiết kiệm đó sang một số cây trồng cạn sang các cây trồng đặc thù có giá trị kinh tế cao, giúp cho bà con nông dân trong tỉnh sản xuất ổn định và có thu nhập cao hơn".
Ninh Thuận là vùng khô hạn nhất nước, toàn tỉnh có 21 hồ chứa thủy lợi lớn nhỏ với dung tích thiết kế trên 194 triệu m3. Hiện tỉnh đang đầu tư xây dựng dự án thủy lợi Tân Mỹ với công trình đập đầu mối trên 200 triệu m3 và hồ chứa Sông Than. Khi 2 dự án thủy lợi này hoàn thành sẽ đáp ứng cơ bản được nước tưới cho sản xuất nông nghiệp./.
Đoàn Sĩ/VOV-TP HCM
Sẽ có 3 đợt điều tiết nước hồ thủy điện cho sông Hồng
Nguồn tin: Hà Nội Mới
Các hồ thủy điện sẽ tăng cường phát điện trong 3 đợt với 18 ngày để bổ sung nguồn nước cho sông Hồng phục vụ các tỉnh, thành phố khu vực trung du và Đồng bằng Bắc Bộ lấy nước gieo cấy vụ lúa đông xuân 2020-2021… là nội dung thông báo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong chiều tối 30-11.
Huyện Quốc Oai (thành phố Hà Nội) nâng cấp hệ thống kênh, chuẩn bị lấy nước phục vụ sản xuất vụ xuân 2021.
Ba đợt lấy nước sẽ diễn ra trong năm 2021. Cụ thể, đợt 1 sẽ bắt đầu từ 0h ngày 12-1 đến 24h ngày 15-1 (4 ngày); đợt 2 sẽ bắt đầu từ 0h ngày 26-1 đến 24h ngày 2-2 (8 ngày) và đợt 3 sẽ bắt đầu từ 0h ngày 22-2 đến 27-2 (6 ngày).
Mực nước sông Hồng tại Trạm thủy văn Hà Nội (đoạn cầu Long Biên, quận Long Biên) trong đợt 1 sẽ được duy trì từ 1,8m trở lên; đợt 2 từ 2m trở lên.
Trong đợt điều tiết nước thứ ba, mực nước sông Hồng tại Trạm thủy văn Sơn Tây (đoạn Trạm bơm Phù Sa) sẽ được duy trì từ 2,5m trở lên…
Để công tác lấy nước đạt hiệu quả cao, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị UBND các tỉnh, thành phố thuộc các khu vực trên chỉ đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và các doanh nghiệp thủy lợi, đơn vị liên quan nạo vét cửa lấy nước và hệ thống kênh; lắp đặt trạm bơm dã chiến, tổ chức lấy nước sớm trữ trên đồng ruộng…
Bên cạnh đó, các tỉnh, thành phố đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân trong sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả; tuyệt đối không phát sinh yêu cầu xả nước từ các hồ chứa thủy điện ngoài 3 đợt nêu trên…
KIM NHUỆ
Làm nông, lâm nghiệp hiệu quả từ cây giống cấy mô
Nguồn tin: Báo Phú Yên
Nhân viên Công ty TNHH MTV Bảo Châu Phú Yên kiểm tra chất lượng cây keo lai giống trước khi trồng rừng. Ảnh: ANH NGỌC
Công nghệ nuôi cấy mô tế bào đã được nhiều đơn vị trên địa bàn Phú Yên nghiên cứu, ứng dụng thành công. Kết quả cho thấy, giống cây trồng được tạo ra có chất lượng cao, mở ra hướng đi mới, hiệu quả trong sản xuất nông, lâm nghiệp của tỉnh.
Tạo cây giống chất lượng
Nuôi cấy mô tế bào là phương pháp nhân giống không còn mới và mang lại hiệu quả cao trong việc tạo ra cây giống chất lượng, phục vụ sản xuất. Vài năm trở lại đây, một số đơn vị trên địa bàn tỉnh đã trồng thử nghiệm thành công và cung cấp ra thị trường các loại giống cấy mô như: chuối, mía, các loại hoa lan, cúc, các giống cây dược liệu, cây lâm nghiệp…
Ông Nguyễn Anh Tuấn, Trưởng Trạm Thực nghiệm giống lâm nghiệp (Trung tâm Giống nông nghiệp, Sở NN-PTNT) cho biết: Hiện nay nhiều người dân vẫn còn ươm hạt, giâm hom cây lâm nghiệp để bán cho các cá nhân, đơn vị trồng rừng. Tuy nhiên, nếu trồng rừng bằng giống cây gieo ươm bằng hạt, nhất là cây bạch đàn thì cây dễ bị thoái hóa, thời gian sinh trưởng dài, cây phân cành sớm, chiều cao cây phát triển sớm; còn nếu nhân giống bằng phương pháp giâm hom, số lượng cây giống thường rất hạn chế. Với mong muốn sản xuất cây giống chất lượng phục vụ sản xuất, thời gian qua, Trạm Thực nghiệm giống lâm nghiệp đã nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô cây bạch đàn và keo lai, cung cấp cho nhiều hộ dân trồng rừng trên địa bàn tỉnh. Thực tế cho thấy, cây cấy mô phát triển tốt, thích ứng nhanh với khí hậu, hạn chế ngã đổ và cho chất lượng gỗ cao hơn.
Trước đây, cây chuối được trồng với nhiều giống khác nhau, nhưng đa phần người dân tách chiết chuối đã trồng qua nhiều năm nên giống bị thoái hóa, buồng nhỏ trái nhỏ, nhiều hạt, dinh dưỡng không đạt yêu cầu. Trước thực tế đó, nhiều đơn vị như Trung tâm Ứng dụng và Chuyển giao công nghệ (Sở KH-CN), Trung tâm Nghiên cứu và phát triển nông nghiệp công nghệ cao (Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao), Trung tâm Giống nông nghiệp Phú Yên đã nhân giống loài cây này bằng phương pháp nuôi cấy mô. Việc chuyển sang trồng chuối cấy mô đã giúp nâng cao chất lượng và sản lượng chuối, bước đầu kích thích nhiều người dân phát triển diện tích chuối để tăng thu nhập.
Theo anh Đặng Đức Vàng ở xã Đức Bình Tây, huyện Sông Hinh so với chuối giống được tách từ cây chuối mẹ theo phương pháp truyền thống thì cây chuối cấy mô có kích thước nhỏ hơn nhiều, nhưng sau khi trồng thì phát triển rất nhanh, khoảng 8-9 tháng là bắt đầu trổ buồng, đậu trái và khoảng 3 tháng sau chuối già, cho thu hoạch, sớm hơn từ 3-4 tháng so với chuối giống tách từ chuối mẹ, hiệu quả cây chuối cấy mô mang lại cũng cao hơn.
Sản xuất cây giống cấy mô tại Trung tâm Nghiên cứu và phát triển nông nghiệp công nghệ cao. Ảnh: THÁI HÀ
Nguồn cung còn hạn chế
Giống là một trong những yếu tố quyết định năng suất và sản lượng cây trồng. Việc đưa giống cấy mô vào sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, phát huy tiềm năng đất đai và tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, đa số đơn vị nuôi cấy mô trong tỉnh chủ yếu phục vụ công tác nghiên cứu, thí nghiệm, còn khả năng phục vụ sản xuất vẫn còn hạn chế.
Ông Trần Văn Hóa, Trưởng Phòng Kỹ thuật Công ty TNHH MTV Bảo Châu Phú Yên cho biết: Năm 2020, công ty trồng mới 633ha rừng, nâng tổng diện tích đã trồng lên 3.959ha. Trong đó, số diện tích trồng bằng cây cấy mô là 242ha, chủ yếu là cây keo lai. Do giá cả giống keo lai cấy mô trên thị trường Phú Yên khá đắt, nguồn cung hạn chế nên công ty đã nhập giống cấy mô từ Bình Định nhưng giá vẫn cao hơn cây giâm hom. Cụ thể, nếu giống keo lai giâm hom có giá 700 đồng/cây thì giống cấy mô bán tại Bình Định có giá 2.000 đồng/cây. Để chủ động trong việc cung ứng cây giống chất lượng cao, hiện công ty đang xây dựng vườn ươm. Bước đầu, chúng tôi sẽ tập trung xây dựng vườn đầu dòng để kịp thời cung cấp cây giống cho hoạt động trồng rừng vào năm sau và sẽ tiếp tục xây dựng phòng mô để thời gian tới cho ra đời cây giống chất lượng cao, phục vụ sản xuất.
Còn theo ông Trần Hưng Lợi, Giám đốc Trung tâm Giống nông nghiệp, ngoài những ưu điểm vượt trội, việc ứng dụng công nghệ nuôi cấy mô tế bào cũng có những nhược điểm như tốn kém chi phí, đòi hỏi kỹ thuật cao dẫn đến cây giống cho giá thành cao. Đặc biệt, các phòng nuôi cấy mô trên địa bàn tỉnh có quy mô nhỏ, nhân lực mỏng, việc vận hành phòng mô tốn nhiều chi phí nên đẩy giá cây giống cấy mô lên cao, thường đắt gấp 4-5 lần cây giâm hom và cao hơn giá cây cấy mô từ tỉnh ngoài. Tuy nhiên, nếu mua giống cấy mô ngoài tỉnh, người dân cần tìm những địa chỉ uy tín, vì vẫn có một số nơi người làm cây giống sản xuất một cách ồ ạt, không đúng quy trình kỹ thuật nhân giống, dẫn đến tình trạng cây giống mang nhiều mầm bệnh, sức sinh trưởng kém.
Ông Trần Hưng Lợi, Giám đốc Trung tâm Giống nông nghiệp Phú Yên: Nếu mua cây giống cấy mô ngoài tỉnh, người dân cần tìm những địa chỉ uy tín, vì vẫn có một số nơi người làm cây giống sản xuất một cách ồ ạt, không đúng quy trình kỹ thuật nhân giống, dẫn đến tình trạng cây giống mang nhiều mầm bệnh, sức sinh trưởng kém.
THÁI HÀ
Trồng ngô sinh khối giảm nhân công, tăng lợi nhuận
Nguồn tin: Báo Vĩnh Phúc
Dù mới được trồng, phát triển tại một số xã trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, nhưng ngô sinh khối đã bộc lộ nhiều ưu điểm trên đồng đất Vĩnh Phúc như ít sâu bệnh, giảm công chăm sóc, thời gian thu hoạch ngắn, có thể trồng 3-4 vụ/năm. Đây được coi là hướng đi mới trong sản xuất nông nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng, giảm diện tích đất trống trong vụ Đông, nâng cao giá trị sản xuất ngành nông nghiệp và thu nhập cho người dân.
Vụ đông năm 2020, diện tích trồng ngô sinh khối trên địa bàn xã Thái Hòa chiếm khoảng 70-80% tổng diện tích cây trồng.
Là tỉnh khởi nguồn sản xuất ngô Đông trên nền đất ướt, trước đây, Vĩnh Phúc có diện tích sản xuất ngô lấy hạt tương đối lớn so với các tỉnh đồng bằng sông Hồng và trung du miền núi phía Bắc, với 3 vụ chính trong năm: Xuân, Hè và Đông, chiếm khoảng 43-51% tổng diện tích sản xuất.
Thế nhưng, những năm gần đây, diện tích ngô có xu hướng giảm từ 1.000-2.000 ha/năm. Một trong những nguyên nhân khiến diện tích ngô giảm là do các giống hiện nay đang trồng phổ biến được nhập khẩu từ nước ngoài nên chi phí giống cao, áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất còn hạn chế, đẩy giá thành sản xuất cao.
Bên cạnh đó, là tỉnh có công nghiệp, du lịch và dịch vụ phát triển, thu hút nhiều lực lượng lao động nông thôn với mức thu nhập cao, ổn định hơn so với sản xuất nông nghiệp nên người dân có xu hướng chuyển đổi ngành nghề lao động, không mặn mà với sản xuất nông nghiệp nói chung và trồng cây ngô nói riêng.
Năm 2019, nhận thấy nhu cầu thức ăn thô xanh cho đàn bò sữa, bò thịt trên địa bàn trong và ngoài tỉnh cao, một số hộ dân trên địa bàn xã như: Vĩnh Thịnh, Kim Xá, An Tường, Cao Đại (Vĩnh Tường), Hồng Châu, Liên Châu, Trung Kiên (Yên Lạc), Bắc Bình, Thái Hòa (Lập Thạch)... đã đem giống ngô sinh khối về trồng và phát triển tại địa phương.
Qua quá trình trồng, thu hoạch, nhận thấy ngô sinh khối tốn ít công chăm sóc và hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn so với trồng ngô lấy hạt. Đến nay, toàn tỉnh, có trên 1.000 ha diện tích đất trồng ngô sinh khối.
Là đơn vị đầu tiên trồng ngô sinh khối trên địa xã Liên Châu (Yên Lạc) với diện tích 45 ha, anh Vũ Tú Anh, Kỹ sư Công ty Hoa quả và Lương thực Việt Nam cho biết:
So với trồng ngô lấy hạt thì ngô sinh khối có thời gian từ trồng đến thu hoạch ngắn hơn từ 25-30 ngày, nhờ đó người dân có thể luân canh tăng vụ lên 3-4 vụ/năm.
Cùng với đó, thời gian từ trồng đến thu hoạch ngắn, nên hạn chế việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, giảm công chăm sóc và chi phí đầu vào.
Đặc biệt, ngô được thu hoạch từ giai đoạn chín sáp và chặt luôn cả cây nên không mất thời gian rẽ hạt, phơi khô và bảo quản.
Hiện nay, nhu cầu thu mua thức ăn thô xanh cung cấp cho bò thịt, bò sữa trên thị trường khá lớn mà lượng cung mới đáp ứng một phần.
Từ khi trồng ngô sinh khối đến nay, công ty được các đơn vị chăn nuôi bò sữa thu mua tại ruộng, với giá bán 800 đồng/kg cây tươi, doanh thu đạt 30- 35 triệu đồng/ha/vụ.
Trực tiếp trồng và chăm sóc ngô sinh khối từ năm 2019, ông Hà Xuân Hiển, xã Thái Hòa (Lập Thạch) cho biết:
Hầu hết các hộ chăn nuôi bò sữa tại Thái Hòa đều trồng ngô sinh khối để làm thức ăn thô xanh cho bò vì ngô sinh khối gồm thân, lá, bắp tươi đem ủ chua rất giàu dưỡng chất, tốt hơn nhiều so với ủ chua bằng các phụ phẩm như thân, lá ngô già, bẹ ngô khô.
Đặc biệt, ngô sinh khối thu hoạch vào giai đoạn chín sáp, dưỡng chất đầy đủ, trâu, bò ăn thức ăn này sẽ cho chất lượng thịt, sữa cao và đảm bảo. Vụ Đông 2020, tại Thái Hòa, ngô sinh khối chiếm đến 70-80 % tổng diện tích cây trồng trên địa bàn xã.
Những năm gần đây, sản xuất chăn nuôi trên địa bàn tỉnh phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng với tổng đàn trâu, bò có trên 136 nghìn con; trong đó trên 14 nghìn con bò sữa, nên nhu cầu về thức ăn thô xanh là rất lớn.
Tuy nhiên, hiện nay, diện tích trồng thức ăn thô xanh cho trâu, bò thịt và bò sữa nói chung, trồng ngô sinh khối nói riêng chỉ mang tính tự phát, nhỏ lẻ, mà trên thực tế, trong chăn nuôi, ngô có vai trò rất quan trọng, chiếm 70% chất tinh trong thức ăn tổng hợp.
Ngoài việc cung cấp chất tinh, cây ngô còn là thức ăn xanh và ủ chua lý tưởng cho gia súc, đặc biệt chăn nuôi bò sữa.
Để chăn nuôi phát triển bền vững, hiệu quả, trong thời gian tới, các cấp, các ngành cần quan tâm, xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách đặc thù về phát triển cây thức ăn thô để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tích tụ diện tích đất nông nghiệp, đặc biệt là đất nông nghiệp kém hiệu quả sang trồng cỏ, ngô sinh khối áp dụng cơ giới hóa và công nghệ cao vào trồng, chăm sóc, thu gom, bảo quản và chế biến thức ăn cho gia súc ăn cỏ, góp phần tăng diện tích cây trồng vụ đông, nâng cao thu nhập cho người dân, tăng giá trị sản xuất ngành Nông nghiệp.
Bài, ảnh: Hồng Liên
Quyết liệt phòng, chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm
Nguồn tin: Báo Khánh Hòa
Cuối năm, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm tại các hộ chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa diễn biến phức tạp. Các địa phương đang tiếp tục triển khai phòng, chống dịch.
Theo thống kê của Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh, đến ngày 15-11, bệnh lở mồm long móng xảy ra tại 7 hộ ở thôn Xuân Đông, xã Diên Xuân, huyện Diên Khánh làm 22/29 con bò mắc bệnh, trong đó có 13 con đã điều trị khỏi triệu chứng. Tại huyện Khánh Vĩnh, bệnh xảy ra ở 19 hộ của 4 xã Khánh Nam, Khánh Trung, Khánh Đông, Khánh Hiệp, làm 69/119 con bò bị mắc bệnh, trong đó có 38 con đã điều trị khỏi triệu chứng.
Vệ sinh, tiêu độc khử trùng chuồng trại tại một hộ chăn nuôi heo ở xã Khánh Bình vừa bị bệnh dịch tả heo châu Phi.
Đối với bệnh cúm gia cầm, ngày 3-11, đã phát hiện bệnh tại hộ chăn nuôi ở thôn Cẩm Sơn, xã Diên Thọ, huyện Diên Khánh. UBND xã Diên Thọ đã tiêu hủy toàn bộ đàn gà của hộ này với số lượng 2.876 con. Với bệnh dịch tả heo châu Phi, ngày 12-11, cơ quan chuyên môn đã ghi nhận hộ ông Bùi Phước, thôn Phú Vinh 2, xã Vĩnh Thạnh, TP. Nha Trang có tổng đàn 7 con heo lai thương phẩm, trong đó 1 con heo nái bị chết, kết quả xét nghiệm mẫu dương tính với vi rút dịch tả heo châu Phi. Do đó, UBND xã Vĩnh Thạnh đã tiêu hủy toàn bộ đàn heo. Tại huyện Khánh Vĩnh, vào đầu tháng 11, cơ quan chức năng cũng đã phát hiện hộ ông Lương Thế Trinh, thôn Ba Dùi, xã Khánh Bình, có tổng đàn 22 con heo (6 heo nái, 16 heo thịt) mắc bệnh dịch tả heo châu Phi. UBND xã Khánh Bình đã tổ chức tiêu hủy toàn bộ đàn heo chết, bệnh tại hộ này với khối lượng 1.433kg.
Ông Lê Thắng - Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh cho biết, hiện nay, tình hình dịch bệnh trên gia súc, gia cầm trong cả nước diễn biến phức tạp; tổng đàn gia tăng và việc vận chuyển, buôn bán gia súc, gia cầm tăng cao vào các tháng cuối năm, cùng với hiện tượng thời tiết cực đoan như mưa, lũ làm giảm sức đề kháng của đàn vật nuôi nên nguy cơ dịch bệnh phát sinh và lây lan rất cao. Các loại dịch bệnh nguy hiểm đã xuất hiện trên đàn gia súc, gia cầm ở các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, không áp dụng đầy đủ các biện pháp đảm bảo an toàn sinh học, sử dụng thức ăn tận dụng, chưa tiêm phòng vắc xin.
Nhận định trước tình hình, Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh đã phối hợp với các địa phương chủ động triển khai các biện pháp phòng bệnh cho đàn vật nuôi. Cụ thể, từ tháng 9, đã cấp 34.425 liều vắc xin lở mồm long móng trâu, bò; 2.075 liều vắc xin lở mồm long móng heo; 512.400 liều vắc xin cúm gia cầm; 26.700 liều vắc xin tụ huyết trùng trâu, bò và 17.250 liều vắc xin dịch tả heo cổ điển. Các địa phương đã cơ bản hoàn thành công tác tiêm phòng đợt 2 năm 2020 trên địa bàn. Chi cục dự trữ hóa chất (1.600 lít Haniodien 10%) trong nguồn chống dịch của tỉnh để cấp cho các địa phương khử trùng, tiêu độc khi xảy ra ổ dịch bệnh trên gia súc, gia cầm. Chi cục đang triển khai mua 8.350 lít hóa chất để vệ sinh và phun khử trùng, tiêu độc chuồng trại, môi trường chăn nuôi đợt 11 năm 2020 và bổ sung hóa chất vào nguồn dự trữ chống dịch bệnh động vật của tỉnh theo Quyết định số 2629 năm 2020 của UBND tỉnh về phê duyệt Kế hoạch phòng, chống dịch bệnh dịch tả heo châu Phi năm 2020. Bên cạnh đó, chi cục đã cấp 200 lít hóa chất Haniodien 10% từ nguồn dự trữ chống dịch của tỉnh cho 2 huyện Khánh Vĩnh (100 lít), Diên Khánh (100 lít) để triển khai vệ sinh, tiêu độc, khử trùng ổ dịch và khu vực xung quanh.
“Từ nay đến cuối năm, tình hình dịch bệnh ở vật nuôi còn phức tạp. Vì vậy, các địa phương cần tiếp tục chỉ đạo các xã có dịch và cơ quan liên quan triển khai quyết liệt các biện pháp chống dịch theo quy định; giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh, phối hợp với Trạm Chăn nuôi và Thú y xử lý kịp thời khi phát hiện gia súc, gia cầm mắc bệnh; tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân tác hại của dịch, các biện pháp phòng, chống và trách nhiệm trong việc khai báo dịch”, ông Thắng nói.
V.THÀNH
Hội thảo tìm giải pháp phát triển bền vững ngành nuôi chim yến
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Kiên Giang
Sáng 27/11, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Cục Chăn Nuôi và Sở nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Kiên Giang tổ chức Hội thảo với chủ đề: “Phát triển bền vững ngành nuôi yến hướng tới xuất khẩu tại các tỉnh phía Nam”. Chương trình đã thu hút các chuyên gia trong cả nước và gần 200 hộ nuôi chim yến đến từ các tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Đồng Nai và Kiên Giang cùng tham gia.
Các chuyên gia trao đổi thông tin về ngành nuôi chim yến.
Ở nước ta, nghề nuôi chim yến đã có từ thế kỷ 19, đến năm 2004 nuôi yến với mục đích thương mại và trở thành ngành sản xuất bắt đầu xuất hiện ở một số tỉnh Nam Bộ. Nhất là trong khoảng 10 năm trở lại đây, ngành nuôi yến phát triển mạnh, với nhiều loại hình, quy mô khác nhau. Theo báo cáo sơ bộ, hiện nay cả nước có 42/63 tỉnh, thành có nuôi chim yến. Số lượng nhà nuôi tăng từ 8 ngàn 300 nhà vào năm 2017 lên gấp khoảng 1,5 lần vào năm 2019, tương đương với trên 11 ngàn 700 nhà. Kiên Giang là tỉnh có số lượng nhà yến lớn nhất cả nước với khoảng 2 ngàn 500 nhà, kế đó là Bình Thuận, 1 ngàn 200 nhà; Kiên Giang đồng thời cũng là tỉnh dẫn đầu về phân loại nhà yến xây kiến cố với trên 1 ngàn nhà. Năm 2013, Bộ nông nghiệp và PTNT ban hành thông tư số 35 quy định tạm thời quản lý nuôi chim yến. Công nhận dẫn dụ, gây nuôi chim yến và khai thác các sản phẩm từ yến là 1 lĩnh vực cho sản phẩm có giá trị dinh dưỡng và kinh tế rất cao, 1 ngàn 500 đến 2 ngàn USD/kg tổ yến. Qua xuất khẩu thu về ngoại tệ khoảng 200 đến 300 triệu USD/ năm. Đây thực sự là một nghề quan trọng và có đóng góp cho ngành chăn nuôi.
Tuy nhiên, thời gian qua việc nuôi chim yến chỉ phát triển mang tính tự phát là chủ yếu, chưa xây dựng kế hoạch sản xuất theo ngành hàng, chưa xây dựng thương hiệu cho sản phẩm, chưa có giá trị cao đúng với giá trị thực vì chủ yếu xuất thô và tiểu ngạch. Thiếu tính liên kết của một ngành hàng, chưa truy xuất được nguồn gốc sản phẩm, một số tổ chức, cá nhân tư vấn hướng dẫn xây dựng nhà yến không phù hợp làm thiệt hại kinh tế cho người dân, ảnh hưởng lớn đến chất lượng và sản lượng tổ. Việc săn bắt chim yến vì mục đích khác đang diễn biến phức tạp. Hộ nuôi thiếu hoặc không nghiên cứu đầy đủ về khí hậu, thời tiết, vùng sinh thái và tập tính của chim yến nhà, dẫn đến tình trạng nhà xây xong chim không về làm tổ hoặc chim chết do biến đổi thời tiết.
Hội thảo lần này, với chủ đề phát triển bền vững ngành nuôi yến hướng tới xuất khẩu tại các tỉnh phía Nam, đã mời đến những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực nuôi yến của cả nước như: Chi hội Nhà yến Việt Nam; Công ty Yến Sào Khánh Hòa; Ban quản lý và khai thác Yến Cù Lao Chàm, Hội An, Quảng Nam; Trung tâm Khuyến nông; Hiệp Hội Trang Trại và Doanh nghiệp, Nông nghiệp Việt Nam;….Để tham luận những nội dung xoay quanh một số vấn đề tìm giải pháp cần quan tâm trong nghề nuôi yến ở Việt Nam hiện nay; giải pháp bảo vệ và phát triển quần thể chim yến; công tác xúc tiến thương mại xuất khẩu tổ yến sang thị trường Trung Quốc; kỹ thuật quản lý nhà yến uy tín;…Đồng thời trực tiếp trả lời các thắc mắc của hộ nuôi về việc dẫn dụ chim yến, nguyên nhân, cách thức quản lý dịch bệnh./.
Thế Hạnh
Bà Rịa - Vũng Tàu: Giá heo cao, nông dân vẫn dè chừng
Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu
70.000-90.000 đồng/kg heo hơi là mức giá đem đến lợi nhuận khá cho người chăn nuôi. Tuy nhiên, vào lúc này, không nhiều người dám tăng đàn ồ ạt vì heo giống giá rất cao, từ 3-5 triệu đồng/con.
Bà Vũ Thị Kim Nga (ấp Đức Trung, xã Bình Ba, huyện Châu Đức) chăm sóc đàn heo phục vụ Tết Nguyên đán.
THẬN TRỌNG TÁI ĐÀN
Khác với mọi năm, các hộ nuôi heo trong tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện rất thận trọng với việc mở rộng chăn nuôi cung ứng cho thị trường Tết. “Biết rằng nhu cầu thịt heo vào cuối năm luôn tăng mạnh. Hơn nữa, giá heo hiện nay lên tới 68.000-73.000 đồng/kg, một mức giá rất cao. Tuy nhiên, tình hình dịch bệnh vẫn khó lường, nên nếu mở rộng đàn heo là khá mạo hiểm”, ông Phan Văn Hiếu (ấp 4B, xã Hòa Hưng, huyện Xuyên Mộc) lý giải về việc không dám mở rộng quy mô chăn nuôi.
Năm ngoái, ông Hiếu nuôi 100 con heo phục vụ thị trường Tết, nhưng năm nay, ông chỉ chăm 24 con. “Với giá heo hiện tại, trung bình mỗi con heo xuất chuồng, lãi khoảng 2-3 triệu đồng. Với người chăn nuôi, đó là mức lãi lớn. Nhưng chỉ dựa vào lãi mà không tính đến rủi ro vào lúc này là không được”, ông Hiếu nói thêm.
Với suy nghĩ tương tự, bà Vũ Thị Kim Nga (ấp Đức Trung, xã Bình Ba, huyện Châu Đức) đang nuôi 200 con heo thịt, trong đó lứa heo Tết khoảng 100 con. Theo bà Nga, dù giá heo đang tăng cao nhưng bà không tăng đàn ồ ạt bởi lo lắng về tình hình dịch bệnh và nhiều rủi ro về thị trường. Theo tính toán của bà Nga, hiện giá heo giống đang ở mức cao (3-5 triệu/con, tùy trọng lượng), nhưng thị trường giá heo đang dần về mức ổn định, nên việc tăng giá cao vào thời điểm cuối năm khó xảy ra.
Tại các địa phương khác trong tỉnh, hầu hết người chăn nuôi đều có chung tâm lý, họ chưa dám mạnh tay mở rộng đàn heo vì lo ngại giá cả thiếu ổn định. Chỉ những hộ gia đình nào có thể tự nhân giống mới tự tin mở rộng quy mô chăn nuôi.
Đàn heo Tết của gia đình ông Nguyễn Ngọc Phúc (ấp Nhân Tâm, xã Xuyên Mộc, huyện Xuyên Mộc).
NHƯNG KHÔNG LO THỊ TRƯỜNG KHAN HIẾM THỊT
Thời gian qua, Sở NN-PTNT đã triển khai nhiều đợt tập huấn, hướng dẫn người chăn nuôi các biện pháp phòng, chống dịch, nhằm phục hồi chăn nuôi, tái lập đàn. Sở cũng làm cầu nối giúp người chăn nuôi có điều kiện tiếp xúc với các cơ sở cung cấp heo giống chất luợng. Do đó, việc phục hồi đàn heo sau những ảnh hưởng của dịch tả heo châu Phi đã có chuyển biến tích cực. Theo thống kê, tổng đàn heo của tỉnh ở thời điểm này là khoảng 415.800 con, tăng 7,2% so với cùng kỳ 2019. Sản lượng thịt hơi trung bình đạt gần 62.000 tấn, tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái. Mức sản lượng này đủ cung cấp nguồn thịt heo cho thị trường nội tỉnh dịp cuối năm. Thậm chí, có thể phục vụ một phần thị trường các tỉnh lân cận. Ngành nông nghiệp dự báo, giá mặt hàng thực phẩm từ heo trong dịp cuối năm nay chỉ tăng nhẹ.
Ông Nguyễn Xuân Trung, Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y (Sở NN-PTNT) khuyến cáo: Càng về cuối năm, nhu cầu tiêu dùng thịt và các sản phẩm động vật trên thị trường tăng cao, thị trường tiêu thụ thoáng hơn sẽ dễ xảy ra tình trạng vận chuyển, giết mổ, mua bán thịt và các sản phẩm động vật tràn lan, vi rút các loại dịch bệnh nguy hiểm có cơ hội xâm nhiễm. Hơn nữa, thời tiết mưa nhiều, độ ẩm cao ít nhiều ảnh hưởng đến sức đề kháng của vật nuôi, làm tăng nguy cơ dịch bệnh phát sinh. Vì vậy, ngành Nông nghiệp và chính quyền các địa phương đã tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động chăn nuôi, mua bán, vận chuyển gia súc, gia cầm. “Đối với những người chăn nuôi cần tăng cường công tác tiêu độc khử trùng thường xuyên và tiêm phòng vacxin cho những bệnh thường xảy ra và tăng cường bổ sung khoáng chất, vitamin và men sinh học để tăng cường sức đề kháng cho đàn vật nuôi. Mặt khác chọn giống thì chúng ta nên chọn giống có uy tín, trong quá trình nuôi thì phải cách ly sau một thời gian mới cho nhập đàn”, ông Trung nhấn mạnh.
Bài, ảnh: PHÚC HIẾU
Hiếu Giang tổng hợp