Phúc bồn tử đen dễ trồng, khó bán
Nguồn tin: Báo Lâm Đồng
Sau một thời gian trồng thử nghiệm chọn ra quy trình kỹ thuật chăm sóc năng suất cao, Trang trại Phúc Bồn tử Huỳnh Trung Quân ở thôn Bắc Hội, xã Hiệp Thạnh, Đức Trọng nhận định rằng giống phúc bồn tử đen khá dễ trồng, thích nghi ở các vùng nông nghiệp Đà Lạt và phụ cận, nhưng ở khâu đầu ra vẫn gặp không ít khó khăn từ nhiều phía.
Phúc bồn tử đen trái mềm, tỷ lệ hao hụt khá lớn khi vận chuyển đi xa, nên Trang trại Huỳnh Trung Quân giữ lại 50% sản lượng phục vụ chế biến tại chỗ
Từ đầu năm 2020, phóng viên đến Trang trại Phúc Bồn tử Huỳnh Trung Quân khi đang xuống giống trồng mới đồng loạt 1 ha phúc bồn tử đen nhà lưới. Sau hơn một năm trở lại, trang trại này đang thu hoạch năng suất cao nhất mỗi buổi sáng từ 70 - 80 kg phúc bồn tử đen rồi phân loại, đóng gói khoảng 50% sản lượng chuyển ngay đến các đầu mối phân cho người tiêu dùng trong nước; 50% sản lượng còn lại đưa vào chế biến tại chỗ với các sản phẩm rượu vang, nước cốt, mứt, mật… Anh Huỳnh Trung Quân, chủ nhân trang trại cho biết, đây là nguồn giống phúc bồn tử đen chất lượng cao có xuất xứ từ châu Âu. Với kỹ thuật và kinh nghiệm tổng hợp từ thực tế sản xuất giống phúc bồn từ đỏ hơn 12 năm, Trang trại Huỳnh Trung Quân đã chọn tạo “đỉnh sinh trưởng” giống phúc bồn tử đen từ châu Âu để nhân nuôi cấy mô trong nhà xưởng hơn 1 năm rồi tuyển lựa, đưa ra chăm sóc trong bầu đất thêm 4 tháng nữa mới xuất vườn ươm trồng kinh doanh trong nhà lưới. Quy cách trồng cây cách cây 1 m, hàng cách hàng 1,5 m. Nhân thành mật độ khoảng 8.000 cây phúc bồn tử đen sinh trưởng tốt tươi trên diện tích 1 ha nhà lưới.
Cũng theo chia sẻ của chủ Trang trại Huỳnh Trung Quân, việc chăm sóc phúc bồn tử đen ở đây cũng tiếp tục áp dụng theo quy trình VietGAP, sản phẩm thu hoạch đảm bảo chất lượng an toàn thực phẩm. Cụ thể, công đoạn đầu tiên tiến hành khử trùng đất, đào hố, lên luống bón lót phân bón, đặt cây giống xuống trồng. Chừng vài tháng sau, phúc bồn tử đen thả đọt leo lên giàn cao hơn một mét thì bón thêm một đợt phân nữa kết hợp với cắt cành, tỉa tán để chờ đến thời điểm cây thu hoạch vào tháng thứ 9 sau khi trồng. Cách thức bón phân ở đây được kết hợp với tưới nhỏ giọt trực tiếp vào từng gốc cây. Ở khu vực trên cao khoảng 3 m kể từ mặt đất, lắp đặt hệ thống tưới phun mưa tự động để “giải nhiệt” khi thời tiết nhiều ngày khô nóng. Riêng bệnh hại phổ biến trên cây phúc bồn tử đen cần tập trung phòng, chống các loại bọ xít muỗi xuất hiện thời điểm “giao thời” từ ngày mưa sang ngày nắng và ngược lại từ ngày nắng sang ngày mưa, thường gây cháy lá, rụng hoa, giảm năng suất thu hoạch. Vụ mùa phúc bồn tử đen đầu tiên ở đây, Trang trại Huỳnh Trung Quân đã tìm ra giải pháp phù hợp về canh tác để ngăn chặn, kiểm soát khá hiệu quả loài bọ xít này…
Kết quả thu hoạch những tháng cuối năm 2020, Trang trại Phúc Bồn tử Huỳnh Trung Quân chỉ bán ra với giá trung bình 100.000 đồng/kg. Giá này trong dịp Tết Tân Sửu 2021 đến nay tăng lên 150.000 đồng/kg. Hạch toán nếu bán hết 100% sản lượng trái tươi phúc bồn tử đen với giá tại vườn 100.000 đồng/kg, trừ tất cả mọi chi phí đầu tư vật tư, giống, công chăm sóc…, trang trại thu nhanh lợi nhuận hơn 1,5 tỷ đồng/ha/năm. Tuy nhiên, trong tổng sản lượng phúc bồn tử đen ước đạt 20 - 25 tấn/ha/năm, Trang trại Huỳnh Trung Quân chỉ bán tươi đạt tỷ lệ 50% và tỷ lệ 50% còn lại đưa vào nhà máy chế biến tại chỗ với các dòng sản phẩm như đã nói ở trên. Theo các nhà phân phối đánh giá phúc bồn tử đen bán chậm hơn phúc bồn tử đỏ vì trái mềm hơn, tỷ lệ hao hụt khá cao khi vận chuyển đường dài; thời gian bảo quản lạnh rất ngắn, nhất là ở xứ đồng bằng vào mùa nắng nóng chỉ giữ tươi trong tủ lạnh tối đa hơn 3 ngày…
Bởi vậy, trong những năm tới, Trang trại Huỳnh Trung Quân chỉ ổn định 1 ha diện tích sản xuất phúc bồn tử đen trái mềm dùng nguyên liệu phục vụ vận hành dây chuyền thiết bị chế biến các sản phẩm rượu, mứt, mật… cung cấp quanh năm cho thị trường. Bên cạnh đó, Trang trại Huỳnh Trung Quân cũng đã tiết lộ kết quả ban đầu tiếp tục chọn tạo, nhân giống phúc bồn tử đen trái cứng, dự kiến trong năm tới sẽ trồng đồng loạt khoảng 4 ha cũng trên địa bàn xã Hiệp Thạnh, Đức Trọng. Nếu mọi điều kiện thuận lợi, vùng đất Đức Trọng thời gian tới sẽ có thêm sản phẩm phúc bồn tử đen trái cứng đặc trưng gắn thương hiệu “Đà Lạt - Kết tinh kỳ diệu từ đất lành” đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày càng cao của thị trường.
VĂN VIỆT
Đẩy mạnh trồng cây ăn quả giá trị cao
Nguồn tin: Hà Nội Mới
Năm 2021, thành phố Hà Nội đặt mục tiêu chăm sóc, cải tạo hơn 1.000ha cây ăn quả ứng dụng công nghệ cao hiện có, trồng mới khoảng 500ha cây ăn quả các loại. Để đẩy mạnh trồng cây ăn quả giá trị cao, Hà Nội xác định sẽ lấy giống làm khâu đột phá trên cơ sở phù hợp với tính chất thổ nhưỡng của từng địa phương.
Năm 2021, Hà Nội chú trọng chất lượng giống tốt đối với diện tích cây ăn quả trồng mới.
Hà Nội là một trong những địa phương có nhiều loại cây ăn quả đặc sản nổi tiếng: Bưởi Diễn, cam Canh, nhãn chín muộn, chuối… Đây cũng là nhóm cây chủ lực khi chiếm tới 62% tổng diện tích.
Ông Nguyễn Văn Quyết ở thôn Quảng Đại (xã Thanh Mỹ, thị xã Sơn Tây) - một trong những hộ trồng cây ăn quả quy mô lớn cho biết, nhờ được tập huấn khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư..., vườn cây ăn quả rộng 3ha của gia đình đã hạn chế sâu bệnh, mẫu mã đồng đều, sản phẩm sáng và đẹp hơn. Vụ bưởi 2020-2021, tuy nhiều nhà vườn khó bán sản phẩm nhưng với mô hình đã được cấp chứng nhận VietGAP, việc tiêu thụ bưởi của gia đình ông Quyết rất thuận lợi, giá bán cao hơn thị trường 3.000-5.000 đồng/quả, hiệu quả kinh tế tăng gần 20%...
Không riêng hộ ông Quyết, hiện nay, diện tích cây ăn quả toàn thị xã Sơn Tây đã đạt hơn 180ha, tập trung tại các xã: Cổ Đông, Sơn Đông, Kim Sơn, Xuân Sơn, Thanh Mỹ... Đa số loại cây ăn quả (bưởi, chuối, nhãn chín muộn, táo, cam Canh...) trước đây được nông dân sản xuất chủ yếu theo kinh nghiệm và phương pháp truyền thống. Song, để tạo ra sản phẩm an toàn, chất lượng tốt, nâng cao giá trị sản phẩm, ngành Nông nghiệp thị xã Sơn Tây đã tích cực hỗ trợ nông dân triển khai xây dựng mô hình thâm canh bưởi VietGAP và cho kết quả khả quan trong những năm gần đây.
Theo Sở NN&PTNT Hà Nội, toàn thành phố hiện có hơn 21.880ha trồng cây ăn quả các loại; sản lượng năm 2020 đạt 300.886 tấn (tăng 35% so với năm 2015). Sản phẩm cây ăn quả của Hà Nội tương đối đa dạng và theo mùa; trong đó, 62% diện tích trồng các loại quả đặc sản: Cam Canh, bưởi Diễn, nhãn chín muộn, chuối sử dụng giống nuôi cấy mô, ổi Đông Dư... Ngoài ra, một số giống cây ăn quả mới du nhập và phát triển trên địa bàn thành phố, như: Xoài chịu lạnh, thanh long ruột đỏ, táo, ổi không hạt, đu đủ ruột tím... bước đầu cũng cho giá trị kinh tế cao.
Đặc biệt, các mô hình hỗ trợ phát triển cây ăn quả ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ, VietGAP đang chứng minh rõ tính hiệu quả. Từ thực tiễn đó, năm 2021, Hà Nội đặt mục tiêu chăm sóc, cải tạo hơn 1.000ha cây ăn quả hiện có thông qua kỹ thuật mới (lai ghép, cải tạo giống, cải tạo đất...) và trồng mới khoảng 500ha cây ăn quả các loại.
Theo Giám đốc Trung tâm Phát triển nông nghiệp Hà Nội Hoàng Thị Hòa, trên cơ sở kết quả bước đầu cùng những bài học kinh nghiệm trong quá trình triển khai xây dựng các mô hình cây ăn quả giá trị cao, Trung tâm xác định lựa chọn giống, chất lượng giống được ưu tiên hàng đầu... Tùy theo tính chất thổ nhưỡng từng địa phương, Trung tâm sẽ lựa chọn loại cây phù hợp, bảo đảm tính ổn định để nông dân yên tâm đầu tư sản xuất, tránh lãng phí trong đầu tư và hướng tới môi trường xanh, sạch, đẹp… Cùng với giải pháp kỹ thuật, nâng cao giá trị sản phẩm, Trung tâm sẽ tăng cường tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá, tiêu thụ cây ăn quả chất lượng cao của Hà Nội trên mạng xã hội, truyền hình, báo chí; hỗ trợ xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu; khuyến khích các hợp tác xã, hiệp hội, trang trại xây dựng chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm cây ăn quả...
SƠN TÙNG
Từng bước làm quen với sản xuất sinh học
Nguồn tin: Báo Đồng Tháp
Vụ ớt này, ông Phan Văn Lo, ở xã Phương Thịnh (huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp) quyết định sản xuất theo hướng hữu cơ bằng các chế phẩm sinh học thí điểm trên diện tích 1.000m2. Sau gần 2 tháng, cây ớt phát triển tốt, đậu trái cao, trái to, vỏ trái cứng,... so với ruộng sử dụng các loại thuốc hóa học thì có sự khác biệt.
Nông dân Phong Mỹ thu hoạch ớt
Ông Phan Văn Lo cho biết: “Sử dụng thuốc sinh học cây ớt phát triển ổn định bộ rễ khỏe mạnh, cây phát triển tốt. Đặc biệt, trái ớt bóng, đẹp hơn, có trọng lượng hơn so với cách sản xuất truyền thống. Bước đầu, tôi rất hài lòng”.
Để sản xuất theo hướng hữu cơ, sinh học không ít nông dân phải trải qua giai đoạn đấu tranh tâm lí rất khó khăn. Bởi, các chế phẩm sinh học, hữu cơ thường có tác dụng tương đối chậm hơn so với phân và thuốc hóa học. Nhưng đổi lại, lợi ích về mặt cải tạo đất, bảo vệ môi trường và sức khỏe người nông dân thì tốt hơn rất nhiều.
Hiện tại, áp dụng mô hình sản xuất theo hướng hữu cơ bằng các chế phẩm sinh học đã giúp tiết kiệm chi phí sản xuất hơn so với sản xuất thông thường bằng phân thuốc hóa học từ 20 - 30% chi phí. Trong khi năng suất và chất lượng trái thì không thua kém. Quan trọng hơn là bảo vệ được đất sản xuất, bảo vệ môi trường, an toàn cho nông dân và người tiêu dùng.
Theo ông Nguyễn Văn Phong - cán bộ Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Cao Lãnh: “Trung tâm cũng đã khuyến cáo nông dân sản xuất theo phương pháp sinh học, dùng những sản phẩm sinh học, sản phẩm sẽ dễ bán, đồng thời bảo vệ môi trường và bảo vệ sức khỏe cho nông dân”.
Thành Sơn
Cần Giuộc (Long An): Tập trung phát triển rau ứng dụng công nghệ cao
Nguồn tin: Báo Long An
Với mục tiêu khai thác hiệu quả nguồn lực đất đai, nâng cao giá trị sản xuất và thu nhập cho nông dân, thời gian qua, huyện Cần Giuộc (tỉnh Long An) tập trung ứng dụng công nghệ cao (ƯDCNC) vào sản xuất rau. Đến nay, phương pháp canh tác này đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực, được người dân ủng hộ và tự nhân rộng thêm.
Mang lại hiệu quả cao
Thời gian qua, huyện Cần Giuộc triển khai thực hiện Đề án Phát triển sản xuất nông nghiệp ƯDCNC gắn với tái cơ cấu ngành Nông nghiệp đạt nhiều kết quả phấn khởi. Cụ thể, người dân đã dần thay đổi được tập quán canh tác, có ý thức trong việc phát triển nông nghiệp sạch, mạnh dạn đầu tư xây dựng hệ thống nhà màng, nhà lưới, tưới tự động. Từ đó, sản phẩm làm ra ngày càng có chất lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu của thị trường ngày càng khó tính. Tính đến nay, toàn huyện có khoảng 1.030ha trồng rau ƯDCNC, trong đó có 112,67ha rau được trồng trong nhà lưới, nhà màng, 1.030ha rau sử dụng phân hữu cơ vi sinh, thuốc trừ sâu sinh học và 303,6ha rau áp dụng hệ thống tưới thông minh, tiết kiệm.
Trồng rau mang lại thu nhập cao cho người dân
Giám đốc Hợp tác xã (HTX) Phước Thịnh (xã Phước Hậu) - Đặng Duy Dũng cho biết: “HTX hoạt động theo hướng đa năng, đa nghề, trực tiếp cung cấp các dịch vụ nông nghiệp, trang thiết bị, tổ chức sản xuất cho thành viên. Đồng thời, HTX cũng là nơi tập kết các sản phẩm rau sau thu hoạch, tiến hành sơ chế, làm sạch rau và đóng gói. Qua gần 8 năm đi vào hoạt động, HTX đang có trên 60 thành viên, sản xuất rau theo hướng an toàn, trong đó có 7,2ha rau đạt chuẩn VietGAP với các tiêu chuẩn cao về an toàn thực phẩm”.
Ngoài ra, HTX Phước Thịnh còn là nơi hỗ trợ tiêu thụ cho hơn 80 hộ dân liên kết trên địa bàn. Bên cạnh hỗ trợ về kỹ thuật, tổ chức sản xuất, HTX còn cung cấp phân bón, trang thiết bị phục vụ sản xuất với giá thành hợp lý, có hỗ trợ trả chậm cho các hộ dân.
Bà Lê Thị Hồng - thành viên HTX Phước Thịnh, chia sẻ: “Sản xuất rau ƯDCNC, nông dân không phải lo về đầu ra, cũng không sợ bị thương lái ép giá vì được bao tiêu sản phẩm với giá cao hơn bên ngoài từ 2.000-3.000 đồng/kg (tùy vào thời điểm). Trung bình, 1ha rau, sau khi trừ chi phí, nông dân lãi trên 500 triệu đồng/năm”.
Cùng với HTX Phước Thịnh, trên địa bàn huyện Cần Giuộc đang hình thành hàng loạt HTX, tổ hợp tác phát triển trong lĩnh vực trồng rau an toàn. Theo số liệu thống kê của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) huyện Cần Giuộc, toàn huyện hiện có 26 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, 17 HTX, 1 tổ hợp tác chuyên sản xuất rau an toàn. Thực hiện Chương trình nông nghiệp ƯDCNC, huyện có 7 HTX được cấp giấy chứng nhận VietGAP, 3 HTX đạt chuỗi giá trị an toàn vệ sinh thực phẩm là Phước Hiệp, Phước Thịnh và Mê-Kông.
Ông Đặng Văn Tổng, ngụ xã Phước Hậu, bộc bạch: “Mặc dù không tham gia vào HTX nhưng mỗi khi khó khăn về đầu ra, nông dân chúng tôi vẫn có thể tìm đến các HTX để nhờ hỗ trợ tiêu thụ. Hiện nay, gia đình tôi có 0,1ha rau trồng trong nhà lưới và 0,2ha rau trồng bên ngoài, tất cả đều sử dụng hệ thống tưới tự động. Theo tôi đánh giá, trồng trong nhà lưới lúc nào cũng ít sâu, bệnh hơn, năng suất cao hơn bên ngoài từ 0,5-1,5 tấn/0,1ha. Ước tính trung bình mỗi năm, gia đình tôi có thu nhập từ 150-200 triệu đồng từ việc trồng rau. Trong năm nay, gia đình tôi sẽ tiếp tục xây nhà lưới cho 0,2ha rau còn lại”.
Tập trung đẩy mạnh phát triển
Sản xuất rau ƯDCNC ở Cần Giuộc thời gian qua luôn được tỉnh quan tâm. Theo đó, kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp, nhất là hệ thống giao thông, điện, thủy lợi nội đồng ở những vùng quy hoạch trồng rau ƯDCNC được quan tâm, đầu tư.
Theo thống kê của Sở NN&PTNT, đến nay, toàn tỉnh có trên 4.025ha rau, đạt 97,7% kế hoạch, bằng 116,8% so cùng kỳ năm 2020. Tại huyện Cần Giuộc, Cần Đước, ngoài việc mở rộng thêm diện tích trồng rau, 2 huyện này còn tập trung đẩy mạnh ƯDCNC vào sản xuất, hình thành các vùng rau sử dụng giống sạch bệnh, năng suất cao và chất lượng tốt. Trong đó, ưu tiên sử dụng phân hữu cơ vi sinh; sử dụng thuốc trừ sâu sinh học, bảo vệ môi trường, giữ cân bằng hệ sinh thái; ứng dụng hệ thống tưới tự động, tiết kiệm; sản xuất trong nhà lưới để hạn chế ảnh hưởng của thời tiết và dịch hại, đạt tiêu chuẩn rau an toàn tiến tới đạt chuẩn VietGAP và được công nhận chuỗi vệ sinh an toàn thực phẩm.
Theo Trưởng phòng NN&PTNT huyện Cần Giuộc - Ngô Bảo Quốc, việc người dân dần chuyển đổi phương thức canh tác từ truyền thống sang ƯDCNC đã góp phần giúp cây rau phát triển tốt, ít sâu, bệnh, giảm được lượng phân vô cơ, giảm số lần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, tăng chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường nông nghiệp. Đặc biệt, năng suất rau tăng 10-20%, lợi nhuận cao hơn từ 30-50 triệu đồng/ha so với trồng theo kiểu truyền thống.
Ngoài ra, đến nay, huyện xây dựng được 3 chuỗi giá trị an toàn vệ sinh thực phẩm tại các HTX: Phước Hiệp, Phước Thịnh, Mê-Kông. Hiện nay, rau được tiêu thụ chủ yếu tại các siêu thị, chợ đầu mối, bếp ăn tập thể, công ty, doanh nghiệp ở TP.HCM và trong tỉnh. Nhìn chung, việc triển khai ƯDCNC trong sản xuất rau hiện nay được người dân đồng tình ủng hộ. Người dân đã tự nhân rộng thêm nhiều diện tích rau ƯDCNC vì vừa hạn chế sâu, bệnh, vừa tăng năng suất và đáp ứng yêu cầu thị trường.
“Thời gian tới, để giúp nông dân tiếp tục giảm giá thành sản xuất, tăng năng suất và thu nhập, các ngành chức năng của huyện tiếp tục nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp để phát triển vùng rau ƯDCNC, tìm đầu ra cho nông sản của nông dân. Cụ thể, phấn đấu mỗi năm bố trí kinh phí ngân sách xây dựng thêm từ 2-3 điểm trình diễn mô hình nhà lưới trồng rau để nhân rộng, bên cạnh đó, vận động xã hội hóa và người dân mở rộng thêm từ 12-28ha nhà lưới trồng rau. Mỗi năm, huyện có thêm từ 1-2 HTX đạt chuẩn VietGAP, có thêm 3 HTX đạt chuỗi giá trị an toàn vệ sinh thực phẩm; tăng diện tích áp dụng hệ thống tưới thông minh, tưới tiết kiệm. Song song đó, huyện phấn đấu mỗi năm đưa từ 2-3 sản phẩm đặc trưng của huyện, nhất là các sản phẩm nông sản đi xét công nhận đạt chuẩn OCOP để góp phần nâng cao giá trị thương mại.
Ngoài ra, huyện còn tập trung các giải pháp kỹ thuật để hướng dẫn người dân tự ủ phân hữu cơ từ nguồn phế phẩm nông nghiệp, thường xuyên sử dụng phân hữu cơ sinh học, phân hữu cơ vi sinh công nghệ mới trong sản xuất; từng bước đa dạng các loại hình công nghệ được áp dụng vào sản xuất như: Cơ giới hóa khâu chuẩn bị, cải tạo đất; bước đầu ứng dụng công nghệ thông tin trong tưới, làm đất, tìm hiểu, kết nối thị trường,…” - ông Quốc cho biết./.
Bùi Tùng
Lào Cai: Liên kết trồng trên 30ha cây tam thất nam và cây địa liền tại Bắc Hà
Nguồn tin: Báo Lào Cai
Đây là mô hình liên kết trồng cây dược liệu được triển khai bài bản, có ký kết hợp đồng hỗ trợ và bao tiêu sản phẩm giữa doanh nghiệp và hộ dân, toàn bộ hoạt động trồng, chăm sóc và thu hoạch cây tam thất nam và cây địa liền sẽ được giám sát chặt chẽ.
Qua khảo sát, Công ty Cổ phần VietRap và tổ chức Great (Australia) xác định Bắc Hà là địa phương có điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp để trồng cây tam thất nam và cây địa liền, nên đã liên doanh với Hợp tác xã (HTX) Cồ Dề Chải, huyện Bắc Hà lập dự án liên kết với 172 hộ dân các xã Nậm Mòn, Tả Chải, Lùng Phình, Na Hối, Lùng Cải, Tả Văn Chư, Tả Củ Tỷ… trồng.
Cán bộ HTX Cồ Dề Chải (Bắc Hà) hướng dẫn kỹ thuật trồng cho người dân.
Trao đổi với phóng viên, ông Đặng Quang Trung, Giám đốc HTX Cồ Dề Chải, huyện Bắc Hà cho biết: Được sự hỗ trợ của tổ chức Great (Australia), Công ty Cổ phần VietRap và HTX Cồ Dề Chải đã lập dự án báo cáo UBND huyện Bắc Hà để tổ chức liên kết với 172 hộ dân các xã vùng cao có khí hậu ôn đới triển khai trồng.
Sau khi ký kết hợp đồng trồng, bao tiêu sản phẩm với từng hộ dân, hiện nay, HTX Cồ Dề Chải đã chuyển 18 tấn củ giống tam thất nam và địa liền lên Bắc Hà cấp phát cho người dân; đồng thời hỗ trợ một phần phân bón và hướng dẫn kỹ thuật trồng. Ước tính, năm 2021, với số lượng giống cung ứng, các hộ dân sẽ trồng trên diện tích khoảng 35ha tại các xã: Nậm Mòn, Tả Chải, Lùng Phình, Na Hối, Lùng Cải, Tả Văn Chư, Tả Củ Tỷ.
Được biết, cây tam thất nam và cây địa liền đã được người dân trồng tại Bắc Hà từ nhiều năm trước, với chi phí trồng và chăm bón thấp, có khả năng chống chịu sâu bệnh cao, không đòi hỏi kỹ thuật đặc biệt. Sau khoảng 1 năm trồng, tam thất nam sẽ cho thu hoạch.
Tùng Lâm
Sản phẩm vùng cao mong ước chạm thương hiệu
Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế
Dù đang có mặt khắp thị trường nội tỉnh Thừa Thiên Huế, song để sản phẩm vùng sơn cước chạm đến thương hiệu đặc thù, đẳng cấp thì còn nhiều việc phải làm.
Chuối già lùn A Lưới, một trong những sản phẩm hiếm hoi vào siêu thị
Từ nền tảng sẵn có
Dân tộc Tà Ôi tại huyện A Lưới tự hào khi dệt zèng trở thành di sản phi vật thể quốc gia. Trước đó, sản phẩm này đã từng trở thành chất liệu trên sàn diễn thời trang quốc tế. Nhưng kể từ sau những chuyến “du lịch” ấy, zèng lại về trong bàn tay của những con người Tà Ôi chân chất. Chính quyền địa phương đã rất nỗ lực, các nghệ nhân dệt zèng cũng trăn trở nhưng để sản phẩm biểu thị cho nét văn hóa này trở thành sản phẩm mang tính hàng hóa trên thị trường thì sẽ còn dài.
Ngoài zèng, A Lưới còn rất nhiều sản phẩm khác đã gắn bó với vùng đất này. Trong giỏ quà mà anh bạn vùng cao tặng bạn bè đồng bằng ngày tết hầu hết là sản vật vùng cao: Mật ong rừng, bánh tét nếp than và cả chai rượu sim nhỏ. Bây giờ, những sản phẩm ấy không lạ với người miền xuôi, có nghĩa là bằng cách nào đó nó đã “xâm lấn” được thị trường vùng đồng bằng. Song, với số lượng hạn chế nên khi nhu cầu số lượng nhiều thì thật khó để đáp ứng. “Nông sản hay sản phẩm gì tại A Lưới cũng đều mang nặng tính vùng miền. Vùng nguyên liệu hầu như rất nhỏ nên sản xuất theo hướng hàng hóa còn nhiều khó khăn”, ông Văn Lập, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện A Lưới thừa nhận.
Thị trường có chấp nhận sản phẩm vùng cao hay không? – câu trả lời là chắc chắn có, bởi chất lượng sản phẩm dường như đã được định hình từ rất lâu. Nhiều sản phẩm được chính quyền địa phương xây dựng thành sản phẩm OCOP. Chuối già lùn tại A Lưới là một minh chứng, để “đứng chân” ở siêu thị ngoài đáp ứng về những chất lượng tiêu chuẩn nghiêm ngặt thì quy trình sản xuất, phát triển vùng nguyên liệu đã và đang được tiêu chuẩn hóa. Hiện, rất ít nông sản vùng đồng bằng làm được như chuối già lùn.
Tại huyện miền núi Nam Đông, cam, mật ong là hai sản phẩm có nền tảng và được nhiều người biết đến. Nếu như cam là sản phẩm mùa vụ thì mật ong Nam Đông đang đi tìm thương hiệu.
Thương hiệu “Mật ong Trường Sơn-Nam Đông” đã được đăng ký từ năm 2016 và có đơn vị đặt vấn đề bao tiêu sản phẩm và hướng dẫn các quy trình nuôi ong theo chuỗi giá trị. Đến năm 2018, thương hiệu mật ong ruồi Nam Đông được công bố, tạo bước ngoặt lớn trong hành trình đi tìm giá trị của một sản phẩm vùng cao.
“Xây dựng thương hiệu đã khó, giữ được thương hiệu càng khó hơn. Bây giờ, đầu ra của mật ong rất khó, để sản phẩm đứng vững trên thị trường, chúng tôi vẫn còn nhiều việc phải làm, đặc biệt bên cạnh khâu quảng bá là việc liên kết với doanh nghiệp, đơn vị để tiêu thụ sản phẩm”, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Nam Đông Nguyễn Thái Hà khẳng định.
Mở rộng dư địa
Đánh giá về sản phẩm đặc sản vùng cao, ông Hồ Đăng Khoa, Chi cục trưởng Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản tỉnh cho rằng, nếu so sánh trên mặt bằng chung thì chất lượng sản phẩm vùng núi khá trội.
Chính tập quán canh tác của đồng bào tạo ra sản phẩm có giá trị về chất. Song, tư duy lẫn trình độ canh tác là rào cản không nhỏ trong quá trình hội nhập.
“Vùng núi nhiều sản phẩm đặc trưng. Không dễ để xây dựng chuỗi giá trị gà A Lưới hay đưa chuối già lùn vào siêu thị, điều đó chứng tỏ chính quyền các địa phương đã có nỗ lực lớn. Họ cũng đang hướng đến một nền nông nghiệp hữu cơ. Song, nhìn chung việc mở rộng thị trường lẫn vùng nguyên liệu các sản phẩm nông sản đang gặp khó”, ông Khoa nói.
Dù không quá lớn, nhưng sự chuyển biến trong quá trình quảng bá sản phẩm vùng cao những năm gần đây khá tốt. Nhiều cửa hàng bày bán sản phẩm vùng cao mọc lên như là sự kết nối giữa thành thị và vùng cao. Hay chỉ cần “click” chuột, người tiêu dùng có thể dễ dàng được giao tận nhà đặc sản miền núi. Nhận diện, kết nối thị trường tiêu thụ là điều mà chính quyền địa phương đang đẩy mạnh, Phiên chợ vùng cao ở A Lưới là một minh chứng. Hoạt động này không đơn thuần góp phần xúc tiến, đẩy mạnh tiêu thụ các đặc sản địa phương mà còn là nơi bản sắc vùng cao hội tụ, quảng bá về văn hóa lẫn du lịch.
Song, theo Nhà nông học, TS. Lê Tiến Dũng, nguyên Trưởng khoa Nông học, Trường đại học Nông lâm, Đại học Huế, trước khi mở rộng dư địa hàng hóa nông sản vùng cao cần nghĩ đến việc bảo tồn. Người tiêu dùng sẽ không chấp nhận những sản phẩm có tính lai tạo hay biến thể.
“Mật ong là một ví dụ điển hình, nếu chạy theo số lượng mà bán những loại kém chất lượng sẽ không ổn. Điều quan trọng bây giờ là phải giữ vững được niềm tin của khách hàng với các sản phẩm chất lượng. Sau đó, thông qua nhiều kênh quy trình hóa khâu sản xuất để hướng đến việc mở rộng thị trường”, TS. Lê Tiến Dũng góp ý.
Giai đoạn 2012-2020, tỉnh đã triển khai thực hiện 10 nhiệm vụ khoa học và công nghệ liên quan đến nghiên cứu, khai thác, lưu giữ nguồn gen động, thực vật; nguồn gen nấm dược liệu quý hiếm…trong đó nhiều loài đang tồn tại ở vùng cao. Nhiệm vụ bảo tồn nguồn gen của tỉnh giai đoạn 2021-2025 cũng xác định bên cạnh cây dược liệu, nguồn gen cam Nam Đông, giống lúa bản địa Ra dư, giống lúa đặc sản Nếp than cần được bảo tồn bởi có giá trị về kinh tế - xã hội. Đây chính là cơ hội để các đặc sản đặc trưng miền sơn cước tồn tại với thời gian trước khi vươn tầm.
Bài, ảnh: L.Thọ
Kết nối tiêu thụ nông sản của xã Tráng Việt (huyện Mê Linh)
Nguồn tin: Hà Nội Mới
Sở Công Thương Hà Nội vừa ban hành Công văn số 786/SCT-QLTM (ngày 26-2-2021) về tăng cường hỗ trợ tiêu thụ củ cải và nông sản của xã Tráng Việt, huyện Mê Linh.
Theo đó, Sở Công Thương đề nghị các doanh nghiệp phân phối, siêu thị, chuỗi, cửa hàng thực phẩm chủ động liên hệ với Hợp tác xã Dịch vụ tổng hợp Đông Cao để hướng dẫn thủ tục, khai thác củ cải, nông sản của xã Tráng Việt đưa vào kênh phân phối trên địa bàn thành phố và cả nước. Trường hợp các sản phẩm nông sản khó khăn trong việc tiêu thụ như trong giai đoạn hiện nay, ưu tiên hỗ trợ mọi hình thức bán hàng: Vận chuyển, bán không lợi nhuận, bố trí các khu vực thuận tiện mua bán...
Các doanh nghiệp phân phối, siêu thị, chuỗi, cửa hàng thực phẩm triển khai ký hợp đồng nguyên tắc về bao tiêu sản phẩm củ cải, nông sản tại xã Tráng Việt để hợp tác xã, hộ nông dân yên tâm sản xuất. Đồng thời, phối hợp thực hiện công tác tuyên truyền sản phẩm củ cải và nông sản xã Tráng Việt, huyện Mê Linh tại kênh phân phối của đơn vị để nhân dân, người tiêu dùng được biết, ưu tiên lựa chọn.
Liên quan đến nhiệm vụ trên, các ban quản lý, đơn vị kinh doanh khai thác chợ các quận nội thành chủ động cung cấp thông tin, tình hình sản xuất, đầu mối tiêu thụ củ cải và nông sản xã Tráng Việt đến các tiểu thương kinh doanh mặt hàng nông sản tại chợ để tổ chức kết nối, tiêu thụ sản phẩm nông sản.
Hợp tác xã Dịch vụ tổng hợp Đông Cao, xã Tráng Việt, chủ động liên hệ với các doanh nghiệp, đơn vị phân phối, Ban quản lý chợ các quận khu vực nội thành để cung cấp thông tin và tạo điều kiện thuận lợi để các đơn vị xuống thu mua, tiêu thụ trong các mùa vụ; lập danh sách các xe chở hàng nông sản thuộc đơn vị gửi Sở Công Thương để phối hợp với Công an thành phố, Sở Giao thông Vận tải hỗ trợ tạo điều kiện cho các phương tiện lưu thông vào thành phố tiêu thụ sản phẩm.
Đồng thời, tích cực vận động các hộ nông dân sản xuất tham gia chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản giữa thành viên hợp tác xã với doanh nghiệp phân phối, chủ động đề xuất, tổ chức giải pháp hỗ trợ tiêu thụ trong các mùa vụ với Sở Công Thương Hà Nội, UBND huyện Mê Linh.
Sở Công Thương cũng đề nghị UBND huyện Mê Linh phối hợp triển khai công tác tiêu thụ sản phẩm cho nông dân xã Tráng Việt; tăng cường kiểm tra chất lượng sản phẩm, an toàn thực phẩm, chỉ cho phép lưu thông, tiêu thụ khi các sản phẩm bảo đảm chất lượng, an toàn thực phẩm theo quy định; đặc biệt bảo đảm công tác phòng, chống dịch Covid-19 trong sản xuất, lưu thông hàng hóa theo quy định.
Theo báo cáo của UBND huyện Mê Linh, hiện có khoảng 2.000 tấn nông sản, trong đó có 600 tấn củ cải cần tiêu thụ ngay trong thời gian 5 ngày, từ ngày 26-2 đến 2-3 và 1.400 tấn củ cải sắp đến thời điểm thu hoạch trong 15 ngày tới.
THANH HIỀN
Huyện Cư Kuin (Đắk Lắk): 80% trang trại chăn nuôi áp dụng công nghệ cao
Nguồn tin: Báo Đắk Lắk
Phòng NN-PTNT huyện Cư Kuin (Đắk Lắk) cho biết, trên địa bàn huyện hiện có 79 trang trại chăn nuôi.
Trong đó, có 41 trang trại nuôi heo, với quy mô đàn từ 500 – 2.500 con/lứa nuôi; 30 trang trại nuôi gà, với quy mô từ 5.000 – 30.000 con/lứa nuôi; 7 trang trại nuôi vịt, quy mô từ 2.000 – 12.000 con/lứa nuôi; 1 trang trại nuôi bò.
Trang trại chăn nuôi heo ứng dụng công nghệ cao ở xã Dray Bhăng (huyện Cư Kuin)
Điều đáng chú ý là có đến 80% trang trại áp dụng công nghệ cao trong chăn nuôi như xây dựng trang trại lạnh, áp dụng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học, khép kín... Có được kết quả này là do các hộ chăn nuôi đã chuyển dịch quy mô theo hướng trang trại, đồng thời liên kết với các doanh nghiệp để chăn nuôi gia công, sản xuất ra lượng hàng hóa lớn đáp ứng nhu cầu thị trường và cải thiện môi trường chăn nuôi, hạn chế dịch bệnh.
Minh Thuận
Khởi công dự án chăn nuôi bò sữa 2.655 tỷ đồng ở ĐBSCL
Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng
Lễ khởi công dự án “Chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa công nghệ cao”, quy mô lớn ở ĐBSCL với tổng vốn khoảng 2.655 tỷ đồng, do Tập đoàn TH đầu tư vừa được tổ chức tại An Giang.
Lễ khởi công dự án “Chăn nuôi bò sữa và chế biến sữa công nghệ cao” quy mô lớn ở ĐBSCL
Phát biểu tại buổi lễ, Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình cho rằng, dự án này là khởi đầu cho một mùa xuân mới trên vùng đất giàu truyền thống cách mạng ở An Giang. Phó Thủ tướng đánh giá cao tỉnh An Giang tạo điều kiện thuận lợi cho Tập đoàn TH đầu tư thực hiện dự án quy mô lớn, hướng tới phát triển bền vững gắn lợi ích của doanh nghiệp và cộng đồng, từng bước nâng cao đời sống người dân.
Phó Thủ tướng nhấn mạnh, tỉnh An Giang và ĐBSCL có nhiều dư địa phát triển chăn nuôi, trong đó có bò thịt và bò sữa. Tuy nhiên, thời gian qua ngành chăn nuôi bò sữa chưa phát triển như mong muốn bởi nhiều lý do. Vì vậy mô hình chăn nuôi bò sữa của Tập đoàn TH sẽ trở thành mô hình điển hình, có quy mô lớn nhất ĐBSCL. Phó Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành Trung ương hỗ trợ tỉnh An Giang và Tập đoàn TH triển khai dự án đúng tiến độ, đạt hiệu quả cao nhất…
Mô hình chăn nuôi tại An Giang được thiết kế và vận hành với công nghệ hiện đại; chuồng trại sử dụng hệ thống quản lý bò sữa tiên tiến theo công nghệ Israel; quản lý dịch bệnh, thú y theo New Zealand; thiết bị xử lý nước, chất thải của Nhật, Israel, Hà Lan…
Quy mô đàn bò nuôi tập trung khoảng 10.000 con, nhà máy chế biến sữa tươi sạch công suất 135 tấn/ngày. Dự án chăn nuôi bò sữa tập trung công nghệ cao khép kín, không chỉ mở ra hướng đi mới trong nông nghiệp công nghệ cao ở An Giang nói riêng và ĐBSCL nói chung, mà còn phát triển các sinh kế mới cho nông dân trong vùng.
Theo lãnh đạo Tập đoàn TH, ngoài việc phát triển trang trại bò sữa, tập đoàn còn làm các trang trại trồng trọt theo mô hình hữu cơ và Global GAP; sản xuất những sản phẩm nông nghiệp tươi sạch, cùng với xây dựng khu nghỉ dưỡng. Tập đoàn TH mong muốn dự án chăn nuôi bò sữa này góp phần giảm nghèo bền vững cho nông dân ĐBSCL.
NGỌC DÂN
Hiếu Giang tổng hợp