Tin nông nghiệp ngày 04 tháng 07 năm 2017

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 04 tháng 07 năm 2017

Nỗi lo phân bón kém chất lượng

 

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

 

Nhiều nông dân đã từng sử dụng phân bón giả hoặc kém chất lượng nhưng không có cách nào khác ngoài kinh nghiệm để phân biệt thật, giả. Trong khi đó, quản lý nhà nước về lĩnh vực này cũng còn nhiều kẽ hở khiến phân bón giả, kém chất lượng đang là nỗi lo thường trực đối với nông dân.

 

 

Một vườn cà phê ở phường Lộc Phát bị thiệt hại do sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không đảm bảo. Ảnh: Đông Anh

 

Bón xong mới biết chất lượng Đó là chia sẻ của rất nhiều nông dân trên địa bàn TP Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Từ trước đến nay, họ mua phân bón chủ yếu dựa vào mối quan hệ với cửa hàng và dựa vào kinh nghiệm. Thế nhưng, một khi gặp lô hàng kém chất lượng thì cũng chỉ biết cắn răng chịu đựng. Ông Nguyễn Đức Thịnh (thôn Ánh Mai 1, xã Lộc Châu, TP Bảo Lộc) cho biết, ông đã từng sử dụng phải phân bón giả khi mua 1 tấn phân bón SA từ một cửa hàng quen biết trên địa bàn. Về màu sắc và mùi thì rất giống phân SA nhưng thực tế thì lại là muối. “Khi hòa nước tưới hết số phân trên thì thấy cà phê không phát mà càng ngày càng suy kiệt. Tôi có gọi cơ sở bán phân vào coi nhưng phân đã bón rồi, thiệt hại cũng đã thiệt hại rồi nên đành phải cắn răng chịu đựng” - ông Thịnh cho hay. Trong khi đó, theo ông Trần Hồng Phong (Tổ 18, phường Lộc Phát, TP Bảo Lộc) thì khi mua phân, người dân không thể thử hay nếm trước mà chỉ khi bón xuống vườn rồi mới biết có hiệu quả hay không. Nếu không may gặp phải phân kém chất lượng thì gây thiệt hại rất lớn cho người dân. Bởi lẽ, cây cà phê là cây dài ngày nên thiệt hại gây ra là cũng rất lâu dài.

 

Hiện tại, theo thống kê, riêng tại địa bàn phường Lộc Phát có 4 HTX nông nghiệp thực hiện việc kinh doanh phân bón, 15 cơ sở kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, 3 cửa hàng kinh doanh thuốc thú y, 4 đại lý kinh doanh thức ăn gia súc và 29 cơ sở kinh doanh giống cây trồng. Ông Nguyễn Minh Tuấn, Phó Chủ tịch UBND phường Lộc Phát cho biết: Tình hình hàng nhái, hàng giả, kém chất lượng còn tràn lan trên thị trường. Người kinh doanh do tính chất cạnh tranh và giá trị lợi nhuận nên lợi dụng để tiêu thụ. Người sử dụng có tâm lý ham rẻ, hiểu biết còn hạn chế, khó phân biệt chất lượng nên vẫn sử dụng nhầm các sản phẩm kém chất lượng, gây ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng cây trồng.

 

Khó quản lý

 

Cũng theo ông Tuấn, phường không có phòng ban chuyên môn để thực hiện công tác kiểm tra, giám sát nên không thể chủ động thực hiện mà chỉ phối hợp với các cơ quan chuyên môn của thành phố. Đồng thời, việc kiểm tra hàng giả, hàng kém chất lượng rất khó về chuyên môn, chủ yếu chỉ kiểm tra được về mặt thủ tục hành chính.

 

Theo ông Nguyễn Hữu Nam, kiểm soát viên Đội Quản lý thị trường cơ động (Chi cục Quản lý thị trường), hàng năm, các đội quản lý thị trường đều đi kiểm tra về chất lượng vật tư nông nghiệp nhưng vẫn không dám khẳng định đâu là đơn vị đảm bảo chất lượng vì chất lượng sản phẩm còn phụ thuộc vào từng lô hàng, vào cách vận chuyển và bảo quản.

 

Trên địa bàn Bảo Lộc chủ yếu là các địa lý phân phối, trong khi các công ty cung ứng lại nằm ở những tỉnh khác nên không thể kiểm tra.

 

Bình quân mỗi năm, nông dân trên địa bàn Bảo Lộc tiêu thụ khoảng 27.500 tấn phân bón và 1.100 tấn thuốc bảo vệ thực vật và thuốc thú y. Theo thống kê, trên địa bàn hiện có gần 100 cơ sở kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Từ năm 2015 đến 6 tháng đầu năm 2017, các ngành chức năng của Bảo Lộc đã tiến hành thanh tra, kiểm tra 100 cơ sở kinh doanh vật tư nông nghiệp. Qua đó, đã có 22 trường hợp vi phạm bị phát hiện cần phải xử lý hành chính với số tiền hơn 150 triệu đồng. Cơ quan chức năng cũng đã tiến hành lấy 111 mẫu sản phẩm nghi ngờ đi phân tích chất lượng, tiêu hủy 15 lít thuốc bảo vệ thực vật hết hạn sử dụng và tịch thu 5,7 tấn phân bón NPK không đảm bảo chất lượng.

 

Bà Nguyễn Thị Tường Vi, Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Lâm Đồng cho biết: Khó khăn hiện nay là người nông dân bỏ tiền ra mua phân bón mà không biết có đảm bảo chất lượng hay không, quá trình kiểm tra thì nhiều cơ sở kinh doanh không hợp tác, việc phân tích mẫu theo định kỳ còn hạn chế vì không có kinh phí, không thể phân tích tại chỗ. Do đó, các ngành chức năng cần tăng cường kiểm tra, phân tích mẫu. Cùng quan điểm này, nông dân Trần Quang Mai (Tổ 18, phường Lộc Phát) khẳng định: Nông dân không thể phân biệt thật giả mà việc này phải do cơ quan quản lý thực hiện. Hiện tại, phân bón tràn lan trên thị trường nên nguồn gốc phân bón như thế nào, chất lượng ra sao phải do cơ quan quản lý nắm bắt để thông tin lại cho người dân biết và chọn đúng phân có chất lượng.

 

Theo ông Đinh Công Lý, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh Lâm Đồng, hiện tại, những thông tin về phân bón giả, kém chất lượng đến với người dân rất ít. Ngay khi có cơ sở sản xuất phân bón giả trên địa bàn bị cơ quan chức năng phát hiện mà nhiều nông dân vẫn không nắm bắt được. Trong khi đó, tâm lý của nông dân khi đi mua phân bón thường dễ dãi, tin nhau là chính, không yêu cầu xuất hóa đơn. Do đó, khi có sự cố xảy ra thì người nông dân thường không có căn cứ để giải quyết. Đặc biệt, trình độ của người trực tiếp kinh doanh phân bón, thuốc bảo vệ thực vật nhiều khi không đảm bảo nên không thể tư vấn cặn kẽ, đúng cho người nông dân sử dụng. Trước thực trạng trên, ông Lý đề xuất: “Ngành chức năng cần kiểm soát chặt chẽ các cơ sở buôn bán phân bón, thuốc bảo vệ thực vật ngay từ khâu cấp phép kinh doanh vì như hiện nay thì việc cấp phép kinh doanh mặt hàng này quá dễ dàng, dẫn đến có quá nhiều cơ sở kinh doanh gây khó khăn trong công tác quản lý. Ngoài ra, công tác quản lý các hội thảo cũng cần được tăng cường để tránh tình trạng bán hàng trực tiếp tại hội thảo. Người nông dân cũng cần được tăng cường chuyển giao khoa học, nâng cao nhận thức để lựa chọn đúng cơ sở có uy tín, mua phân đảm bảo chất lượng.

 

Đông Anh

 

Bơ sáp Thái Dương: Trồng thử, ăn thiệt

 

Nguồn tin: Báo Bà Rịa Vũng Tàu

 

 

Anh Thái Dương, Giám đốc HTX nông nghiệp Thái Dương kiểm tra sự phát triển của bơ trong đợt ra trái đầu mùa tại vườn.

 

Bơ sáp Thái Dương trái thon dài, hạt nhỏ, cơm vàng, mịn, béo ngậy… đã đặt chân được vào nhiều cửa hàng, siêu thị tại BR-VT và các tỉnh thành lân cận. Nhưng ít ai biết rằng, loại bơ sáp này mới chỉ cấy ghép thành công từ 7 năm nay bởi một “kỹ sư tay ngang”, ở một vùng đất từ trước đến nay chưa từng nổi tiếng với các loại cây ăn quả - xã Xà Bang, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.

 

Đưa chúng tôi đi tham quan vườn bơ rộng 1,5ha lúc lỉu quả, anh Nguyễn Cảnh Thái Dương, Giám đốc HTX nông nghiệp Thái Dương cho biết: Để có giống bơ sáp thơm ngon như hôm nay là cả quá trình tìm hiểu, nghiên cứu.

 

Năm 2011, anh Dương bỏ nghề xây dựng tại TP. Hồ Chí Minh, trở về quê nhà xã Xà Bang. Từ những cây bơ còn sót lại trong vườn, anh bắt đầu nhen nhóm ý tưởng sẽ phát triển thành loại cây chủ lực để phát triển kinh tế gia đình. Anh bắt đầu mày mò, nghiên cứu để ghép và chọn giống bơ phù hợp với thổ nhưỡng của Châu Đức. Anh Dương nói: “Khi bắt tay vào trồng, ghép bơ tôi gặp rất nhiều khó khăn vì mình chưa có kinh nghiệm. Thời gian đầu, tỷ lệ cây sống rất ít. Thế nhưng không vì vậy mà tôi bỏ cuộc. Qua nhiều lần thất bại, cuối cùng tôi đã ghép thành công, cho ra giống bơ sáp đặc biệt chất lượng”.

 

Bơ sáp Thái Dương được trồng hoàn toàn theo quy trình sạch và an toàn. Việc bón phân được kiểm soát nghiêm ngặt. Từng công đoạn chăm sóc đều được theo dõi, ghi chép cẩn thận. “Chẳng hạn, khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật chống các loại côn trùng, chúng tôi tuân thủ quy trình giãn cách 20 ngày giữa các đợt phun, bảo đảm lượng thuốc đã phân hủy hết và không ảnh hưởng đến chất lượng bơ”, anh Nguyễn Cảnh Thái Dương cho biết.

 

Để nhanh chóng đưa sản phẩm ra thị trường, xác định xây dựng thương hiệu ngay từ đầu, anh Nguyễn Cảnh Thái Dương mời một số người bạn tham gia thành lập HTX Thái Dương. Anh Dương cho biết, đến nay, đã có 12 xã viên tham gia vào HTX, diện tích trồng bơ tăng lên gần 4ha, mỗi tháng thu hoạch khoảng 400kg. Bơ sáp Thái Dương hiện đã có mặt ở các tỉnh, thành như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Định, đơn đặt hàng với giá cao gần gấp đôi so với thị trường, từ 60-90 ngàn đồng/kg. Sản phẩm cũng được bày bán tại Co.op BR-VT.

 

Từ hiệu quả đó, nhiều hộ trồng bơ trên địa bàn xã đã liên kết với HTX để sản xuất bơ sạch, nhằm tạo đầu ra ổn định và tăng thu nhập cho người dân. Anh Dương nhẩm tính, 1ha trồng được 625 cây bơ, mỗi cây cho thu hoạch 50kg. Nếu tính giá thấp nhất bán tại vườn từ 20-25.000 đồng/kg, mỗi cây bơ thu từ 1-1,2 triệu đồng. Sau khi trừ chi phí và công chăm sóc, nông dân lãi khoảng 500 triệu đồng/ha. Còn với giá bán từ 50-60.000 đồng/kg như hiện nay thì lãi còn tăng gấp đôi.

 

Dù mới xuất hiện thời gian gần đây, sản phẩm bơ sáp Thái Dương đã được người tiêu dùng khen không tiếc lời. Chị Trần Thị Lan (171/25/2/6, Nguyễn An Ninh, TP. Vũng Tàu) cho biết: “Một lần cùng bạn ghé Co.op BR-VT mua rau sạch, thấy ở đây có bán bơ sáp tôi mua về ăn thử. Bơ rất thơm, thịt vàng ươm, dẻo, không có xơ, hạt nhỏ, béo ngậy. Cả nhà tôi ai cũng thích ăn”.

 

Ông Nguyễn Vĩnh Lộc, Tổng Giám đốc Co.op BR-VT cho biết: Sản phẩm bơ sáp Thái Dương bán khá chạy tại Co.op BR-VT. Hầu như hàng nhập về lúc nào đều bán hết lúc đó.

 

Hiện HTX Thái Dương đang làm hồ sơ để xây dựng và đăng ký thương hiệu “bơ Thái Dương”, tiến tới mở rộng diện tích để bảo đảm nguồn cung cho thị trường. HTX cũng đang liên hệ tìm hiểu quy trình sản xuất các sản phẩm khác làm từ bơ như tinh dầu bơ, bột bơ, trà bơ… để đa dạng hóa sản phẩm. “Chúng tôi sẽ dán tem truy xuất nguồn gốc cho từng trái bơ để người tiêu dùng hoàn toàn yên tâm về chất lượng sản phẩm, có thể biết rõ trái bơ được thu hoạch vào lúc nào, quy trình chăm sóc ra sao, cũng như hạn sử dụng…”, anh Dương dự tính.

 

HTX nông nghiệp Thái Dương (ấp Liên Lộc, xã Xà Bang, huyện Châu Đức) được thành lập từ tháng 3-2017 với 12 thành viên. Trong giai đoạn 2017-2019, HTX đặt mục tiêu sản xuất và cung cấp ra thị trường 30.000 cây bơ giống, 170 tấn bơ tươi tại các tỉnh, thành như BR-VT, TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Phú Thọ, Bình Định.

 

Đông Hiếu

 

Bình Phước: Đồng Phú mất mùa chôm chôm

 

Nguồn tin: Báo Bình Phước

 

Do biến đổi khí hậu, thời tiết thất thường, đặc biệt là có nhiều cơn mưa trái mùa sau tết Nguyên đán nên năng suất, sản lượng trái cây của nhiều nhà vườn ở Đồng Phú (Bình Phước) giảm so những năm trước. Thời điểm này hằng năm, nhiều vườn trồng đã vào mùa thu hoạch, nhưng năm nay không những chậm vụ mà chôm chôm còn bị mất mùa.

 

Ông Nguyễn Tư Công ở ấp Suối Da, xã Tân Hưng có gần 2 ha trồng bưởi da xanh xen chôm chôm Thái đã 10 năm. Ông Công cho biết, cũng như mọi năm, khi cây bắt đầu ra bông ông bón phân NPK; khi trái nhỏ bằng đầu ngón tay, bón thêm lần nữa và bón lần cuối cách 1 tháng trước khi thu hoạch. Nhưng năm nay, vườn chôm chôm của gia đình ông cho năng suất chỉ bằng một nửa những năm trước. Hiện trái vẫn còn non, chưa thu được đợt nào, trong khi mọi năm thời điểm này đã bán gần hết vườn. Dẫn chúng tôi đi quanh vườn chôm chôm thưa thớt trái, ông Công nói: “Năm nay mất mùa, hơn 100 cây chôm chôm nhưng chỉ khoảng 60 cây cho hơn 1 tạ trái/cây, còn lại trái ra lác đác. Mọi năm vườn nhà tôi đạt khoảng 17 tấn, năm nay dự tính chỉ khoảng 9-10 tấn”.

 

 

Vườn chôm chôm của ông Nguyễn Tư Công hiện trái vẫn xanh mà bị rụng nhiều

 

Cách nhà ông Công không xa là vườn chôm chôm 8 sào của gia đình chị Phạm Thị Hiệp, cũng chậm vụ, mất mùa. Chị Hiệp cho biết: “Hiện tôi chỉ thuê 1, 2 nhân công nhưng hái mới mấy ngày đã hết trái chín, trong khi bằng tầm này mọi năm phải thuê 4 nhân công. Giá bán chôm chôm thường tại vườn 15.000 đồng/kg, chôm chôm Thái 25.000 đồng/kg khá ổn nhưng không có hàng để bán”.

 

Chị Phùng Thị Lưỡng ở ấp Đồng Búa, xã Thuận Phú có 2 sào chôm chôm Thái đang cho thu hoạch. Chị Lưỡng chia sẻ: “Những năm trước cứ vào tết Đoan ngọ là gia đình tôi đã có chôm chôm bán. Năm nay đến cuối tháng 6 mới thu hoạch, mỗi ngày thu chỉ 70-100kg. Trồng ở vùng đất trũng màu mỡ nên bình quân một cây cho 2 tạ trái, nhưng năm nay do mưa nhiều nên năng suất giảm còn một nửa”.

 

Tại các chợ Đồng Xoài, Thuận Phú, Tân Tiến, chôm chôm được bày bán nhưng không nhiều. Chị Thu - một tiểu thương cho biết, hiện chôm chôm Thái giá 35.000 đồng/kg, chôm chôm thường 20.000 đồng/kg, đây là giá đầu vụ, nếu vào chính vụ sẽ giảm từ 7-10.000 đồng/kg. Mọi năm các nhà vườn ở Tân Thành, Tân Hưng mang ra giao cho chị, nhưng năm nay mới có nhà vườn ở Tân Thành có hàng, chị Thu phải lấy thêm chôm chôm từ Đắk Nông, Đắk Lắk về bán.

 

Lý do khiến trái cây năm nay thu muộn, sản lượng không bằng các năm trước là do ảnh hưởng những cơn mưa sau tết, đúng dịp cây ra bông dẫn đến bị rụng. Bông, trái non rụng khiến cây phải ra thêm đợt khác làm chậm vụ. Cộng thêm mưa sớm nên trái rụng nhiều. Hiện chôm chôm giá cao nhưng ít nhà vườn được thu hoạch vào thời điểm này để bán. Nhà vườn hy vọng mức giá này ổn định để nông dân bù đắp thiệt hại do những cơn mưa trái mùa gây ra.

 

C.Nhung

 

Bưởi da xanh loại 2 đắt hàng hơn bưởi loại 1

 

Nguồn tin: Sài Gòn giải phóng

 

Bưởi da xanh loại 1 giá chỉ còn 53.000 - 55.000 đồng/kg, nhưng bưởi da xanh loại 2 giá tới 56.000 đồng/kg, số lượng bao nhiêu mua hết bấy nhiêu.

 

 

Bưởi da xanh đang hút hàng, giá cao

 

Ông Đàm Văn Hưng, chủ cơ sở kinh doanh trái cây Hương Miền Tây, Bến Tre (là doanh nghiệp xuất khẩu bưởi da xanh lớn nhất ĐBSCL) cho biết: “Nếu như lúc trước, bưởi da xanh loại 1 (trọng lượng từ 1,4 - 2 kg/trái trở lên) hút hàng, giá cao thì nay người tiêu dùng các nước chuộng ăn bưởi da xanh loại 2 (trọng lượng từ 1 - 1,3 kg/trái).

 

Nguyên nhân là do trái bưởi loại 2 có trọng lượng vừa phải và phù hợp với túi tiền, nên người tiêu dùng dễ mua. Hiện Thái Lan là nước chuyển hướng sang sản xuất bưởi loại này rất nhiều và tiêu thụ khá mạnh. Do đó, nông dân trồng bưởi ĐBSCL cần đẩy mạnh chuyển hướng từ sản xuất bưởi da xanh loại 1 sang loại 2 để dễ bán. Cụ thể, nông dân chỉ cần để 1 cuốn từ 2 - 3 trái bưởi thì sẽ cho ra bưởi da xanh loại 2, đảm bảo chất lượng và đúng nhu cầu thị trường xuất khẩu cần”.

 

Cũng theo ông Hưng, gần đây có thông tin cho rằng, nhiều thương lái Trung Quốc săn lùng bưởi da xanh còn non và nông dân một số nơi ở ĐBSCL vì lợi nhuận trước mắt nên bán bưởi non là không chính xác. Dù bưởi da xanh hút hàng, giá cao, nhưng nhiều người không hái bưởi non để bán. Vì như thế sẽ làm mất uy tín bưởi da xanh và gây thiệt hại cho người bán, bởi trái còn non sẽ nhẹ trọng lượng. Gần đây, thị trường tiêu thụ bưởi da xanh nội địa và xuất khẩu đi Trung Quốc, châu Âu… hút hàng, giá từ 50.000 - 56.000 đồng/kg. Chỉ riêng thị trường Trung Quốc, từ đầu năm đến nay cơ sở Hương Miền Tây đã xuất bán khoảng 1.200 tấn bưởi da xanh, với giá cao.

 

Nguyễn Thanh

 

Tiền Giang: Triển khai Đề án Phát triển cây thanh long

 

Nguồn tin: Báo Ấp Bắc

 

Chiều 28-6, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) tổ chức Hội nghị triển khai Quyết định phê duyệt Đề án Phát triển cây thanh long tỉnh Tiền Giang đến năm 2025 của UBND tỉnh.

 

 

Quang cảnh triển khai đề án.

 

Theo đề án, đến năm 2020, diện tích trồng thanh long khoảng 7.000 - 8.300 ha, diện tích thu hoạch khoảng 5.800 - 6.800 ha; tỷ lệ diện tích trồng thanh long theo quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP) đạt 30%; năng suất bình quân từ 26 - 27 tấn/ha; sản lượng đạt khoảng 170.000 - 200.000 tấn. Đến năm 2025, diện tích trồng thanh long khoảng 9.000 - 11.000 ha, diện tích thu hoạch đạt 7.900 - 9.500 ha; tỷ lệ diện tích trồng thanh long theo quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP) đạt 40%; năng suất bình quân từ 28 - 30 tấn/ha; sản lượng đạt khoảng 235.000 - 285.000 tấn. Tỷ lệ thanh long xuất khẩu chiếm 70 - 80% sản lượng, trong đó đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang thị trường yêu cầu cao như: Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada, Úc… khoảng 40%. Kim ngạch xuất khẩu chính ngạch đến năm 2020 đạt khoảng 100 triệu USD và đến năm 2025 đạt trên 150 triệu USD.

 

 

Diện tích trồng thanh long đang phát triển mạnh tại huyện Tân Phước. Ảnh: Vân Anh

 

Mục tiêu của đề án là phát triển thanh long theo hướng tập trung, an toàn và bền vững; đầu tư thâm canh đạt năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế cao; đáp ứng tốt các yêu cầu về chất lượng hàng hóa xuất khẩu và tiêu dùng trong nước, tạo việc làm và tăng thu nhập cho các hộ trồng thanh long; tăng giá trị xuất khẩu, thúc đẩy tái cơ cấu ngành Nông nghiệp.

 

Ông Cao Văn Hóa, Quyền Giám đốc Sở NN-PTNT cho biết, đến năm 2025, huyện Chợ Gạo đạt 7.300 ha thanh long, huyện Tân Phước đạt 1.000 ha, huyện Gò Công Tây đạt 600 ha, huyện Gò Công Đông đạt 100 ha. Tổng mức đầu tư trên 2.184 tỷ đồng, gồm: Cơ sở vật chất trên 1.261 tỷ đồng, vốn phát triển sản xuất trên 718 tỷ đồng, vốn cho các hoạt động khác khoảng 6,1 tỷ đồng, vốn dự phòng trên 198 tỷ đồng.

 

Sĩ Nguyên

 

Nông dân trẻ tiên phong trồng cam sành trên đất đồi

 

Nguồn tin: Báo Bình Dương

 

Năm 2011, thời điểm mủ cao su đang ở đỉnh điểm về giá thì anh Nguyễn Anh Tuấn lại quyết định chặt bỏ để chuyển sang trồng cây cam sành trước sự “phản đối” của những người thân trong gia đình. Chính sự quyết đoán, dám nghĩ dám làm lúc đó đã giúp anh trở thành người tiên phong trồng cây cam sành trên đất đồi có hiệu quả, được nhiều nông dân làm theo và trở thành phong trào nông nghiệp trồng cây có múi đạt kết quả cao của địa phương như hiện nay.

 

 

Anh Nguyễn Anh Tuấn thường xuyên thăm vườn cam sành nhằm phát hiện sâu bệnh kịp thời

 

Nói về hiệu quả của cây cam sành anh Nguyễn Anh Tuấn (sinh năm 1979, ở ấp 4, xã Lạc An, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) cho biết giá trị kinh tế của cây cam sành mang lại rất cao, gấp 10 lần so với cây cao su.

 

Anh Tuấn tâm sự trước kia ngoài trồng cây cao su thì anh còn chăn nuôi heo, nuôi cá rô đồng nhưng không thành công. Sau những lần anh đi tham quan các vườn cây cam sành của bạn bè và một số nhà vườn khác ở xã Hiếu Liêm thấy hiệu quả cao nên anh cũng ấp ủ suy nghĩ rồi làm theo.

 

Năm 2011, anh quyết định chặt toàn bộ cây cao su trên diện tích 6000m2 đang tươi tốt. Với đam mê làm giàu, yêu thích cây cam sành nên anh đã gạt bỏ những lời bàn ra của mọi người và quyết “hạ” toàn bộ cây cao su chuyển sang trồng cam sành. Nhớ lại cảm giác ngày đó, ở xã này chưa có ai trồng cây cam sành ở trên đất đồi. Vợ anh lúc đó cũng không đồng tình.

 

Anh Tuấn cho biết lúc mới bắt đầu cũng gặp rất nhiều khó khăn nhất là về chi phí đầu tư sản xuất từ 700 triệu đến 1 tỷ đồng/ha. Bên cạnh đó, cây cam sành đòi hỏi người trồng phải nắm chắc kĩ thuật chăm sóc thì mới thành công nhưng đối với anh Tuấn do chưa có kinh nghiệm nên cũng lúng túng.

 

Qua sự học hỏi từ những người bạn trồng cam sành ở xã Hiếu Liêm, tham gia các buổi hội thảo do công ty phân bón tổ chức, tìm hiểu các kĩ thuật chăm sóc cây trên internet nên vườn cam của anh đã phát triển tốt. Anh nói thêm ngay từ khi bắt đầu anh đã đầu tư hệ thống ống tưới tự động bằng béc phun để cung cấp lượng nước, phân, thuốc theo đúng yêu cầu cho cây cam, áp dụng tất cả các biện pháp, kỹ thuật học được trong đó kỹ thuật dùng tấm bạt nylon để phủ lên những liếp để “ép” cây cho trái nghịch mùa bán được giá cao.

 

Ngoài công việc ruộng vườn, anh Nguyễn Anh Tuấn còn là một người lính, anh hoạt động tại xã đội xã Lạc An 19 năm. Anh nói chính môi trường quân đội đã rèn cho anh bản lĩnh, ý chí mạnh mẽ, quyết đoán, làm việc có kế hoạch. Đây là yếu tố quan trọng góp phần giúp cho anh thành công với vụ cam đầu tiên cho năng suất khá cao 30 tấn/6000 m2 với giá cả lúc đó là 32 ngàn đồng/kg thì tổng giá trị mang lại gần 1 tỷ đồng.

 

Lợi nhuận đạt được sau khi trừ hết các khoản chi phí được hơn 360 triệu đồng. Từ thành công ban đầu anh tiếp tục thuê đất trồng cam sành, hiện tại anh đang có 4 ha vườn trồng cam sành đang phát triển tốt và dự báo sẽ đạt năng suất cao. Với sự thành công này anh cho biết cảm giác phấn khởi vô cùng bởi kinh tế gia đình bây giờ ổn định hơn trước kia nhiều. Anh cũng không ngần ngại chia sẻ kinh nghiệm chăm sóc vườn cây cam với bà con nông dân muốn học hỏi.

 

Bằng sự nhiệt huyết và chú tâm làm ăn có hiệu quả, trong thời gian qua anh Nguyễn Anh Tuấn được vinh danh là nông dân sản xuất kinh doanh giỏi cấp tỉnh trong các năm 2014 và 2015. Đặc biệt hơn, anh còn được chủ tịch UBND tỉnh tặng bằng khen vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác xây dựng Hội và phòng trào nông đân tỉnh Bình Dương năm 2016.

 

An Thạch

 

Nghệ An: Dưa đỏ Nam Tân được giá cao

 

Nguồn tin: Báo Nghệ An

 

Vụ hè thu năm nay, xã Nam Tân, Nam Đàn, Nghệ An đưa vào sản xuất 125 ha dưa đỏ hàng hóa, tăng 15 ha so với năm ngoái. Tuy năng suất thấp nhưng bù lại bán được giá cao nên hiện nay các hộ trồng dưa đang tập trung thu hoạch.

 

Những ngày này, gia đình bà Nguyễn Thị Lan ở xóm 5, xã Nam Tân đang tích cực ra đồng thu hoạch dưa đỏ. Do sản xuất trong điều kiện thời tiết không mấy thuận lợi, mưa nắng thất thường, đặc biệt vào thời điểm ra quả gặp mưa nhiều nên tỷ lệ đậu quả thấp, dẫn đến năng suất cũng như chất lượng quả giảm so với các năm trước, bình quân chỉ đạt 1 tấn quả/sào. Năng suất thấp nhưng bù lại dưa bán được giá, mỗi kg dưa được tư thương thu mua tại ruộng từ 6.000 - 7.000 đồng, bình quân mỗi sào gia đình Bà Lan cũng thu về trên 6 triệu đồng sau khi đã trừ các khoản chi phí.

 

So với các cây màu khác, dưa đỏ vẫn cho hiệu quả kinh tế cao, thời gian sinh trưởng ngắn, tạo điều kiện cho bà con sản xuất ngô xuân sớm cho thu nhập cao trong vụ tiếp theo. Bà Lan cho hay: “Năm nay nhà tôi trồng 2 sào dưa, so với năm ngoái sản lượng không bằng nhưng giá cả lại cao hơn. So với đậu, lạc thì dưa đỏ vẫn là cây trồng cho hiệu quả cao hơn”.

 

 

Tư thương thu mua dưa đỏ của bà con Nam Tân tại chân ruộng. Ảnh Kim Dung

 

Anh Nguyễn Văn Hải ở xóm 5, Nam Tân là hộ có diện tích sản xuất dưa đỏ hàng hóa nhiều nhất hiện nay ở xã Nam Tân. Tuy có nhiều kinh nghiệm trong cách chăm sóc, áp dụng qui trình kỹ thuật nhưng theo anh Hải, năm 2017 này, khí hậu biến đổi khó lường, nên năng suất cây dưa đỏ thấp thua so với năm ngoái, bình quân chỉ đạt xấp xỉ 1 tấn/sào.

 

Anh Hải cho biết: “Năm nay thời tiết mưa nhiều, sản lượng thấp nhưng bù lại giá cả cao, gần gấp đôi năm ngoái nên đem lại nguồn thu nhập cao cho người dân. Chính vì vậy, hàng năm cây dưa đỏ vẫn là cây được người dân đưa vào trồng nhiều, sang năm sau và các năm kế tiếp thì trên đất Nam Tân cây dưa đỏ sẽ được bà con nông dân trồng nhiều hơn nữa”.

 

 

Không khí thu mua dưa nhộn nhịp tại ruộng. Ảnh Kim Dung

 

Dưa đỏ có ưu điểm thời gian sinh trưởng ngắn, phù hợp với chất đất bãi bồi ven sông. Hơn thế vụ hè thu là thời điểm dễ tiêu thụ, bán được giá, vừa đem lại giá trị kinh tế cao trên đơn vị diện tích, vừa né tránh được thiên tai lũ lụt. So với năm trước, năm nay diện tích dưa đỏ tăng hơn 15 ha, chủ yếu bố trí bằng giống dưa Nông Việt, Phù Đổng và Hoàn Châu.

 

Để tránh tình trạng sản xuất ồ ạt, khó tiêu thụ, xã đã chủ động bố trí sản xuất nhiều trà dưa khác nhau nên đến thời điểm này hầu hết diện tích dưa đều cho thu hoạch với hiệu qủa kinh tế khá cao. Sau khi thu hoạch hết các lứa dưa này, bà con nông dân xã Nam Tân tiếp tục trồng và chăm sóc các lứa dưa đỏ kế tiếp, nhằm nâng cao giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích.

 

 

Người dân đem dưa đỏ ra bán dọc đường QL 15A. Ảnh Kim Dung

 

Chị Đặng Thị Hằng - Trưởng ban Nông nghiệp xã Nam Tân - Nam Đàn cho biết: “Để nâng cáo giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích, vụ hè thu 2017 xã Nam Tân ngoài trồng lúa, trên đất màu trồng một số loại cây như đậu, vừng nhưng chủ lực vẫn là cây dưa đỏ. So với năm 2016, năm 2017 này diện tích trồng dưa đỏ nhiều hơn với tổng diện tích 125 ha, mở rộng hơn năm 2016. Về năng suất dù không cao bằng năm 2016 nhưng giá cả thu mua cao hơn, bình quân 6.500-7.500 đồng/kg lại được tư thương mua tại ruộng. Thấy hiệu quả từ trồng dưa đỏ mang lại nên bà con nông dân Nam Tân vẫn tiếp tục đưa cây dưa đỏ vào trồng trong năm tiếp theo, nhằm đảm bảo thu nhập trên đơn vị diện tích”.

 

Hiệu quả từ dưa đỏ mang lại đã khẳng định đây là hướng đi đúng trong chỉ đạo sản xuất vụ hè thu ở Nam Tân. Biến đổi khí hậu lại thêm một lần nữa cho bà con kinh nghiệm trong bố trí thời vụ, khẳng định cây chủ lực phù hợp với đặc điểm thổ nhưỡng của địa phương.

 

Kim Dung - Đài Nam Đàn

 

Giá cà phê tăng 800.000 đồng/tấn

 

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

 

Trong phiên giao dịch đêm 29, rạng sáng 30-6, giá cà phê Việt Nam tăng đều 800.000 đồng/tấn. Cụ thể, giá cà phê thu mua tại tỉnh Lâm Đồng 45,1 triệu đồng/tấn, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông 45,7 triệu đồng/tấn.

 

Nguyên nhân giá cà phê tăng do giá cà phê thế giới tại sàn giao dịch London (Anh) đồng loạt tăng. Cụ thể, kỳ hạn giao tháng 9-2017 tăng 43 USD lên 2.122 USD/tấn, kỳ hạn tháng 9-2017 tăng 40 USD lên 2.132 USD/tấn, kỳ hạn tháng 11-2017 tăng 35 USD lên 2.107 USD/tấn, kỳ hạn tháng 1-2018 tăng 29 USD lên 2.080 USD/tấn. Cùng với đó, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, niên vụ cà phê 2016-2017 gây mất mùa ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam khiến nguồn cung giảm mạnh. Trong khi đó, lượng cà phê tồn kho trên thế giới giảm mạnh khiến các nhà đầu cơ tăng mua đẩy giá cà phê tăng theo.

 

Thanh Hường

 

Hưng Yên: Tinh dầu húng quế "made in" làng đảo Vân Nghệ

 

Nguồn tin: Báo Hưng Yên

 

Thôn Vân Nghệ, xã Mai Động (Kim Động, Hưng Yên), một thôn nằm biệt lập giữa bãi bồi sông Hồng với tổng diện tích khoảng 4 km2 nên nhiều người gọi là “làng đảo Vân Nghệ”.

 

 

Nông dân thôn Vân Nghệ thu hoạch cây húng quế

 

Thôn Vân Nghệ hiện có 228 hộ dân với trên 1 nghìn nhân khẩu. Đời sống của người dân chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Cái khó trong sản xuất nông nghiệp của nông dân nơi đây là hệ thống thủy lợi còn nhiều hạn chế, quanh năm chỉ trồng rau màu, tưới tiêu phụ thuộc “ông trời”. Người dân quanh năm vất vả sớm hôm đồng ruộng với cây ngô, cây đỗ… nhưng năm được mùa, năm mất mùa, cuộc sống gặp nhiều khó khăn.

 

Để nâng cao thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống, cùng với sự hỗ trợ của chính quyền địa phương, người dân làng đảo Vân Nghệ đã năng động bám đất làm giàu. Đến nay, 85% số hộ trong thôn đều có cuộc sống khá giả, đường làng, ngõ xóm 100% được bê tông hóa, cứng hóa. Thu nhập bình quân đầu người trong thôn đạt từ 25-30 triệu đồng/năm.

 

Thiên nhiên phú cho làng đảo chất đất phù sa màu mỡ. Trước đây, người dân trong thôn trồng ngô, đỗ và các loại cây rau màu theo mùa. Thời gian gần đây, nhiều người dân đã đưa cây húng quế vào trồng trên đồng đất làng đảo.

 

Ngay từ vụ đầu tiên cây húng quế đã bộc lộ nhiều ưu điểm phù hợp với đồng đất nơi đây, cây sinh trưởng, phát triển tốt, cho năng suất cao nên được người dân trong thôn nhân rộng. Hiện nay, toàn thôn Vân Nghệ có trên 11ha đất canh tác thì có trên 4ha diện tích trồng cây húng quế.

 

Khác với nhiều địa phương khác trồng cây húng quế để phục vụ nhu cầu ăn uống hàng ngày, những người dân làng đảo Vân Nghệ trồng cây húng quế để sản xuất tinh dầu.

 

Ông Nguyễn Văn Huynh, trưởng thôn Vân Nghệ cho biết: “Cách đây khoảng 3 năm, một số hộ đem cây húng quế về trồng tại thôn. Sau 1 năm đã cho thu nhập cao. Nhận thấy lợi nhuận từ trồng húng quế đem lại cao hơn nhiều so với trồng truyền thống trước kia nên những năm trở lại đây nông dân trong thôn đã mở rộng diện tích trồng cây húng quế”.

 

Đến thăm làng đảo những ngày này, chúng tôi được chứng kiến người dân đang hăng say thu hoạch rau húng quế cùng mùi thơm nhẹ bay ra từ những lò chiết xuất tinh dầu.

 

Hiện có tới 80% số hộ trong thôn trồng loại cây này. Hầu hết các hộ trồng rau húng quế đều đầu tư xây lò chưng cất, chiết xuất tinh dầu trực tiếp cung cấp ra thị trường. Tuy nhiên, để có những ruộng rau húng quế cho sản lượng tinh dầu cao, ngoài việc chú trọng đến khâu chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, người dân còn đặc biệt quan tâm đến thời điểm “vàng” để thu hoạch.

 

Theo kinh nghiệm của những người trồng húng quế, 1 sào rau húng quế trung bình sẽ cho thu hoạch trong 6 tháng, với khoảng 6 kg tinh dầu. Để chất lượng tinh dầu đạt hiệu quả cao sau khi chiết xuất thì cần phải chọn đúng thời điểm để thu hoạch, đó là khi ngồng hoa húng quế đạt độ dài tối đa, từ 5 - 7 cm, màu tím đậm và có mùi thơm đặc trưng. Vì chỉ khi ấy, rau húng quế mới có thể cho lượng tinh dầu cao nhất.

 

Ông Phạm Văn Huy, một trong những người đầu tiên đem cây húng quế về trồng tại thôn cho biết: “Ngoài 3 mẫu trồng chuyên canh rau húng quế, gia đình tôi còn tận dụng trồng xen loại cây này dưới tán các loại cây ăn quả khác. So với trồng ngô, đỗ và các loại rau màu khác thì trồng rau húng quế nhàn hơn cả về khâu chăm sóc và thu hoạch. Chi phí trung bình trồng rau húng quế chỉ khoảng 200 nghìn đồng/sào/vụ. Sau khi làm đất và trồng cây giống chỉ mất công chăm sóc trong khoảng 1 tháng đầu. Sau đó, sau mỗi lần cắt hái, chăm sóc thêm để bổ sung chất dinh dưỡng cho cây tiếp tục phát triển”.

 

Với giá bán hiện nay khoảng 700 nghìn đồng - 1 triệu đồng/kg tinh dầu húng quế đã mang lại nguồn thu nhập 4 - 5 triệu đồng/sào/vụ. Bên cạnh đó, trên cùng một đơn vị diện tích canh tác, ngoài thời gian 6 tháng/năm trồng rau húng quế, người dân cũng có thể trồng các loại cây rau màu khác như ngô, đỗ tăng thêm thu nhập cho gia đình.

 

Việc trồng và chiết xuất tinh dầu húng quế tại thôn Vân Nghệ hiện nay đã góp phần nâng cao thu nhập, tạo việc làm cho nhiều người dân trong thôn. Tuy nhiên, các hộ trồng cây húng quế nơi đây vẫn phải tự tìm đầu ra tiêu thụ sản phẩm, giá bán phụ thuộc nhiều vào thị trường. Thời gian tới, để tạo điều kiện cho các hộ dân trên địa bàn thôn mở rộng diện tích trồng cây húng quế, cần có sự quan tâm hơn nữa của các ngành, cơ quan chuyên môn để cây cây húng quế tiếp tục là cây trồng mang lại nguồn thu nhập ổn định, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân làng đảo.

 

Minh Hồng

 

Kinh nghiệm phòng trừ tuyến trùng hại rễ trên cây lúa

 

Nguồn tin: Khoa học phổ thông

 

Những năm gần đây, bệnh bướu rễ (do tuyến trùng) gây hại khá phổ biến trong ruộng lúa, đặc biệt là các vùng đất giữ nước kém (đất pha cát hoặc đất nhiễm phèn). Hậu quả là nhiều ruộng lúa năng suất giảm 20 - 30% do tuyến trùng gây ra, đặc biệt là trong vụ hè thu. Để giúp bà con nông dân chủ động phòng trừ đối tượng bệnh hại trên, xin giới thiệu đến bà con nông dân một số kinh nghiệm phòng trừ bệnh tuyến trùng gây hại trên cây lúa:

 

Triệu chứng bệnh

 

- Tuyến trùng đục lỗ chui vào sinh sống bên trong rễ ngay từ khi mới gieo sạ và hình thành bướu trên rễ rất sớm (từ 5 ngày sau sạ).

 

- Cây lúa khoảng 1 tháng tuổi thường bị tuyến trùng xâm hại nếu đất ruộng có nguồn bệnh sẵn có. Cây bị lùn, lá hơi vàng, tăng trưởng chậm. Nhổ cây lúa lên, thấy rễ vẫn trắng nhưng bị ngắn lại, bướu xuất hiện ở nhiều đoạn của rễ hoặc ở chóp rễ. Nơi có ổ tuyến trùng bị phù to tạo bướu 1 - 2 mm.

 

- Khi bị tuyến trùng ký sinh, cây lúa bị bệnh bướu rễ sẽ bị chết khi còn non (2 - 3 lá) và phát triển chậm khi cây lúa ở giai đoạn 4 lá trở đi. Dù bị ở giai đoạn sau, cây lúa ít bị chết nhưng tốn nhiều phân bón và phát triển kém.

 

- Khi cây lúa bị bướu rễ, chất dinh dưỡng bị tắc nghẽn không vận chuyển nuôi thân lá được, do vậy sau thời gian bị nhiễm bệnh cây lúa sẽ có triệu chứng vàng lá, cháy khô từ chóp xuống, lúa phát triển kém, chồi nhiễm bệnh bị lùn, trổ sớm và có rất ít hạt, hạt bị lửng lép nhiều.

 

Đặc điểm phát sinh, phát triển của tuyến trùng

 

- Tuyến trùng gây hại mạnh trong giai đoạn đầu của cây lúa, nhất là môi trường ruộng lúa thường xuyên bị khô hạn, chúng ngừng sinh trưởng trong môi trường ngập nước. Những ruộng đất bị chua do bón quá nhiều lân supe từ những vụ trước hoặc đất có thành phần cơ giới nhẹ (cát pha) thì mật độ tuyến trùng thường cao hơn chân ruộng khác. Các chân ruộng để ải và giữ được nước thường xuyên sau gieo cấy sẽ ít bị tuyến trùng xâm hại.

 

- Tuyến trùng sau khi xâm nhiễm 4 ngày, các đại tế bào được thành hình. Vòng đời của tuyến trùng có thể từ 26 - 51 ngày.

 

- Khi tuyến trùng xâm nhập vào bộ rễ cây và làm tổ tạo thành bướu sẽ làm tắc nghẽn sự vận chuyển nước và dinh dưỡng của hệ thống rễ, làm cây biến vàng rồi chết dần khi còn nhỏ và chậm phát triển, còi cọc khi cây lớn.

 

Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của bệnh bướu rễ gây hại trên cây lúa

 

- Ruộng thiếu nước thường xuyên.

 

- Đất pha cát hoặc đất nhiễm phèn, giữ nước kém, cây lúa dễ bị bệnh bướu rễ hơn.

 

- Bón thừa phân lân và phân đạm riêng rẽ hay kết hợp sẽ tăng sự sinh sản của tuyến trùng.

 

- Tuyến trùng thường gây hại mạnh giai đoạn lúa còn nhỏ (mạ và thời kỳ đẻ nhánh).

 

Biện pháp phòng trừ

 

Để phòng trừ tuyến trùng hại rễ lúa, nông dân cần thường xuyên điều tra đồng ruộng, phát hiện sớm và phòng trừ kịp thời theo các biện pháp kỹ thuật như sau:

 

- Vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ.

 

- Để nước ngập trong ruộng vài ngày trước khi làm đất chuẩn bị gieo sạ.

 

- Cố gắng giữ nước trong ruộng, không để khô hạn lâu, nhất là giai đoạn lúa còn nhỏ.

 

- Không được để cạn nước, cần cho nước vào ruộng khoảng 3 - 5 cm và giữ liên tục 5 - 7 ngày.

 

- Bón vôi với lượng từ 20 - 25 kg/sào (360 m2) để giảm độ chua cho đất.

 

- Sử dụng một số chế phẩm cải tạo đất và tăng cường khả năng ra rễ mới cho lúa như Rhizomyx 2,5G (trộn với phân chuồng hoai mục nếu có) kết hợp phun các loại phân bón hữu cơ qua lá như DS80, Humix, Biogen... để giúp lúa hồi phục ra lá, ra rễ nhanh hơn.

 

Trần Thị Hoài Phương

 

Nông dân miền núi 'cay' vì không bán được ớt

 

Nguồn tin: Báo Nghệ An

 

Mô hình rau an toàn của xã Tam Thái (Tương Dương - Nghệ An) hiện có 1ha ớt đã đến vụ thu hoạch nhưng không ai mua khiến bà con phải đem phơi khô.

 

 

Vườn ớt của bà con nông dân tham gia mô hình rau an toàn ở bản Na Tổng, xã Tam Thái có diện tích 1ha. Ớt đã chín nhưng bà con vẫn không thể bán. Ảnh: Hữu Vi

 

Bà Lộc Thị Lợi, trú bản Na Tổng, xã Tam Thái (Tương Dương) là một trong số 14 hộ trồng ớt theo mô hình rau an toàn của xã này. Bà cho biết hiện đang cùng con dâu chăm sóc hơn 400m2 ớt cay. Ớt đã chín đỏ vườn nhưng không muốn thu hái bởi chẳng biết bán cho ai vì mặt hàng này hiện có quá ít người thu mua.

 

Mô hình rau an toàn là một khu trang trại trồng rau được quy hoạch nhằm mục đích trồng các sản phẩm rau sạch như: bí, mồng tơi, cà, rau cải… Các khâu sản xuất đều được thực hiện theo quy trình sản xuất rau sạch. Ớt cay cũng là nông sản được 14 hộ tham gia mô hình trồng từ năm 2014 khi trang trại đi vào hoạt động. Đây cũng là một công trình để giúp xã Tam Thái cán địch nông thôn mới trong thời gian vừa qua.

 

 

Ớt chín rụng vì không có người mua. Ảnh: Đào Thọ

 

Bà Vi Thị Thắng - Tổ trưởng sản xuất tại mô hình rau an toàn cho biết: Ngoài ớt cay thì những sản phẩm khác vẫn bán chạy. Bà con thường tập trung các loại nông sản tham gia ban tại chợ phiên hoạt động mỗi tuần một lượt. Chợ chỉ cách vườn rau an toàn chưa đầy 300m.

 

Thời điểm bán chạy nhất, mỗi kg ớt sản xuất theo quy trình an toàn tại mô hình có giá khoảng 30.000đ. “Bây giờ thì mỗi cân hai chục nghìn cũng không có người mua” - bà Thắng chia sẻ thêm.

 

Theo bà con trồng ớt ở mô hình rau an toàn Tam Thái thì trước đây có một doanh nghiệp thu mua. “Bao nhiêu ớt họ cũng mua hết với giá 15.000đ/kg. Nhưng năm nay không thấy họ đến mua nữa” - bà Lộc Thị Lợi cho hay.

 

 

Đem phơi khô để xay nhỏ và cất vào lọ là cách bà con nông dân xã Tam Thái tự “giải cứu” ớt. Ảnh: Hữu Vi

 

Để tránh ớt chính rụng ngoài vườn, bà con nông dân hái về phơi khô rồi đem xay nhỏ để bán dần. Đây là cách làm truyền thống của người vùng cao. Tuy nhiên đây chỉ là giải pháp tình thế vì ớt khô xay nhỏ thường chỉ tiêu thụ được vào mùa đông.

 

Ông Vi Viết Kiều - Phó Chủ tịch UBND xã Tam Thái cho biết: Hiện chính quyền địa phương đã nắm bắt được tình hình khó khăn trong việc tiêu thụ ớt cay. “Chính quyền đang vận động các cấp ngành trên địa bàn và kêu gọi các doanh nghiệp mua ớt cay ủng hộ bà con” - ông Kiều chia sẻ.

 

Hữu Vi - Đào Thọ

 

Nông dân và ước vọng khai thác giá trị hạt gạo chất lượng cao

 

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

 

Trong bối cảnh thị trường xuất khẩu gạo đang gặp nhiều khó khăn, nông dân ở Đồng Tháp đang nỗ lực thay đổi cách làm, phương thức sản xuất để thích ứng với tình hình mới. Song để phát huy hết tiềm năng vốn có của hạt gạo thì người nông dân rất cần sự hỗ trợ từ Nhà nước và doanh nghiệp (DN).

 

 

Nông dân Hợp tác xã Nông nghiệp Phú Thọ, Tam Nông tâm huyết với mô hình sản xuất lúa theo hướng an toàn

 

Cần thay đổi tư duy sản xuất lúa gạo

 

Nhiều năm qua, tư duy về đẩy mạnh sản lượng trong sản xuất lúa thay vì đầu tư nhiều hơn cho chất lượng đã vô tình bó hẹp khả năng phát triển của hạt gạo Việt. Nếu như trước đây, Việt Nam được xem là “cường quốc” trong xuất khẩu gạo, thì giai đoạn gần đây Việt Nam lại gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển thị trường cho mặt hàng chiến lược này.

 

Hiện tại, các thị trường nhập khẩu truyền thống đang có khuynh hướng tự chủ về lương thực. Các nước này cũng bắt đầu áp dụng chương trình giám sát chặt chẽ, kiểm duyệt chất lượng gắt gao, gây bất lợi cho việc xuất khẩu gạo của Việt Nam.

 

Thêm một nguyên nhân khác, nhiều quốc gia được xem là “sinh sau đẻ muộn” chưa có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực xuất khẩu gạo như Campuchia, Ấn Độ, Pakistan đang dần vươn lên, trở thành những đối thủ mạnh cạnh tranh xuất khẩu gạo với Việt Nam. Không chỉ gặp khó khăn ở thị trường xuất khẩu, ngay thị trường nội địa với trên 90 triệu dân, hiện sản phẩm lúa gạo Việt Nam vẫn phải “nhọc nhằn” chinh phục khách hàng bởi sự cạnh tranh của các thương hiệu gạo đến từ: Thái Lan, Nhật Bản, Campuchia...

 

Không phải tự dưng mà mặt hàng lúa gạo lại “mất phong độ” và vướng nhiều chướng ngại như hiện nay. Thời gian gần đây, việc nhiều lô gạo của DN Việt Nam bị Mỹ trả về do dư lượng các hoạt chất trong thuốc bảo vệ thực vật đã thực sự là hồi chuông báo động cho các DN xuất khẩu gạo và người nông dân.

 

Trong bối cảnh tiêu chuẩn sống của thế giới ngày càng tăng và nhiều quốc gia nhập khẩu gạo truyền thống đang tăng cường khả năng tự cung cấp lương thực, việc chạy đua theo số lượng không còn phù hợp, nếu không thay đổi tư duy trong sản xuất, gạo Việt sẽ lâm vào tình cảnh “tự lấy dây buộc mình”.

 

Nông dân tâm huyết nâng chất lượng hạt gạo

 

Với nông dân Đồng Tháp, câu chuyện về sản xuất lúa đảm bảo tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, hay sản xuất theo quy trình nhằm giảm giá thành, nâng cao phẩm chất cho hạt gạo không còn câu chuyện xa lạ mà dần trở thành thói quen trong canh tác của người nông dân hiện nay. Nhiều nông dân và hợp tác xã rất nỗ lực trong việc xây dựng mô hình sản xuất lúa sạch, sản xuất lúa theo hướng hữu cơ hay lúa an toàn.

 

 

Hợp tác - kết nối giúp hạt gạo vươn xa trong tương lai

 

Nhận thấy thị trường xuất khẩu gạo đang đối mặt với nhiều khó khăn, trong khi đó nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong nước ngày một cao hơn, ông Phan Công Chính - Giám đốc Hợp tác xã nông nghiệp (HTX NN) Tân Bình, huyện Thanh Bình manh nha ý tưởng trồng lúa hữu cơ từ đầu năm 2016. Hiện tại, mô hình trồng lúa theo hướng hữu cơ của ông Chính đã mở rộng diện tích trên quy mô 10ha, bước đầu sản phẩm tiếp cận được với nhiều đối tác trong nước.

 

Ông Phan Công Chính chia sẻ: “Do muốn “số phận” hạt gạo của mình khác hơn nên tôi quyết tâm đeo đuổi mô hình trồng lúa hữu cơ. Từ lúa được trồng theo hướng hữu cơ tiến tới được cấp chứng nhận đạt chuẩn hữu cơ là một câu chuyện dài. Hiện tại, do còn hạn chế về việc tiếp thị, phát triển thị trường cho sản phẩm nên sản phẩm lúa hữu cơ của chúng tôi vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn. Dù khó khăn nhưng tôi vẫn kiên trì vì theo quan điểm của tôi, đây là giải pháp hay mà nông dân có thể “cứu” hạt lúa trong thời điểm này”.

 

Đồng quan điểm như ông Chính, bà con xã viên ở HTX NN Phú Thọ, xã An Long, huyện Tam Nông cũng rất tâm huyết với chuyện làm sao để sản xuất lúa chất lượng hơn, an toàn hơn. Được ngành nông nghiệp tỉnh Đồng Tháp hỗ trợ thực hiện thí điểm mô hình sản xuất lúa chất lượng cao gắn kết với liên kết tiêu thụ trong vụ lúa đông xuân 2017, bà con xã viên ở đây rất phấn khởi trước những kỹ thuật “vừa lạ vừa quen” mà ngành nông nghiệp chuyển giao.

 

“Chỉ là sạ thưa hơn, bón phân, phun thuốc ít đi và ghi chép theo khuyến cáo của cán bộ nông nghiệp, kết hợp với trồng hoa trên bờ ruộng để dẫn dụ thiên địch... nhưng đã giúp nông dân chúng tôi giảm được giá thành trên 700 đồng/kg lúa, từ đó lợi nhuận bình quân tăng gần 5 triệu đồng/ha. Mặt dù những cách làm này không mới nhưng thông qua mô hình, nông dân hiểu biết và trách nhiệm hơn trong quy trình sản xuất lúa” - ông Võ Văn Ức, xã viên HTX NN Phú Thọ phấn khởi chia sẻ.

 

Với những hiệu quả mà mô hình mang lại và sự ý thức trách nhiệm hơn của người nông dân trong canh tác lúa, vụ mùa hè thu năm 2017 này, mô hình vẫn được nông dân tiếp tục duy trì ở HTX.

 

Ông Mai Thanh Liêm - Giám đốc HTX NN Phú Thọ chia sẻ: “Trong bối cảnh xuất khẩu gạo gặp nhiều khó khăn như hiện nay, bà con xã viên rất đồng tình với chủ trương phát triển sản xuất lúa an toàn của ngành nông nghiệp. Dù các vụ mùa tiếp theo HTX không được sự hỗ trợ của Nhà nước thì mô hình vẫn được chúng tôi duy trì và nhân rộng. Đây là nền tảng để chúng tôi tìm được đối tác tiêu thụ tốt. Trong năm 2018, HTX sẽ mở rộng sản xuất lúa an toàn trên diện tích toàn HTX như yêu cầu và nguyện vọng của xã viên. Đối với HTX, hiện đây là giải pháp tối ưu để sản phẩm lúa gạo của nông dân lấy lại được uy tín của mình...”.

 

Ngoài mô hình của ông Chính hay mô hình sản xuất lúa an toàn ở HTX NN Phú Thọ, hiện tại cũng còn nhiều mô hình tương tự khác đang được nông dân Đồng Tháp triển khai và nhân rộng.

 

Muốn vươn xa, nông dân không thể đi một mình

 

Mặc dù hiện nay, nông dân Đồng Tháp đã ý thức và trách nhiệm hơn trong việc sản xuất lúa gạo, nhiều mô hình triển vọng được nông dân phát triển và nhân rộng. Thế nhưng, các mô hình vẫn còn quy mô nhỏ lẻ, chưa mang tính phổ biến, do đó để phát triển ngành hàng này hiệu quả hơn, người nông dân rất cần sự giúp sức từ Nhà nước cũng như DN.

 

Theo ông Phan Kim Sa - Phó Giám đốc Sở Công Thương, để ngành hàng lúa gạo phát huy hết tiềm tiềm năng vốn có thì cần nhiều nỗ lực tự phía Nhà nước và DN. Trong đó, việc thay đổi các quy định và chính sách về xuất khẩu gạo là yêu cầu cấp bách. Bên cạnh đó, cần thay hình thức hợp đồng tập trung và hỗ trợ DN đàm phán trực tiếp bằng cung cấp thông tin thị trường, dự báo giá gạo và tiếp cận hệ thống phân phối ở nước ngoài... là các giải pháp cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

 

Nhằm giảm bớt khó khăn trong xuất khẩu gạo, hiện nhiều DN bắt đầu có những hướng đi và động thái mới. Tại Đồng Tháp, Công ty Lương thực Đồng Tháp đang thực hiện một số mô hình liên kết với nông dân như phát triển mô hình trồng lúa mùa xuất khẩu với nông dân tại huyện Tân Hồng.

 

Ông Trần Tấn Đức - Giám đốc Công ty Lương thực Đồng Tháp cho biết, việc xuất khẩu gạo đang gặp nhiều khó khăn do sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu gạo. Để không phụ thuộc vào các thị trường xuất khẩu gạo tập trung thì cần phải mở rộng thêm các thị trường có nhu cầu tiêu dùng sản phẩm chất lượng cao. Để có được sản phẩm lúa gạo chất lượng cao, DN cần phải có sự hợp tác của nông dân nhằm xây dựng mối liên kết lâu dài, qua đó tạo được vùng nguyên liệu ổn định cho DN và người nông dân có thêm sự chia sẻ lợi nhuận.

 

Để mối liên kết giữa DN và người nông dân được bền chặt rất cần có sự tham gia của chính quyền trong việc hỗ trợ kỹ thuật trồng trọt để người nông dân trồng lúa theo quy trình chung, hướng dẫn sử dụng các loại thuốc không vướng vào các danh mục thuốc cấm của các thị trường khó tính quy định. “Khi người nông dân sản xuất theo quy trình, DN xây dựng nhãn hiệu, tìm kiếm thị trường, có sự chia sẻ và hài hòa về lợi ích thì tôi tin chắc sẽ là giải pháp bền vững giúp mặt hàng gạo giải quyết được vấn đề đầu ra trong thời gian tới”, ông Đức bày tỏ.

 

Rõ ràng để khai thác được giá trị hạt gạo chất lượng cao là sự cố gắng, hợp tác - kết nối chặt chẽ giữa nông dân - DN - Nhà nước. Khi 3 nhân tố này cùng nỗ lực chung sức chung lòng, hạt gạo Việt sẽ được trả lại đúng giá trị của nó trong thời gian không xa.

 

Ông Phan Công Chính chia sẻ: “Do muốn “số phận” hạt gạo của mình khác hơn nên tôi quyết tâm đeo đuổi mô hình trồng lúa hữu cơ...”.

 

Mỹ Lý

 

Bấp bênh đầu ra, nông dân không mặn mà làm rau an toàn

 

Nguồn tin: VOV

 

Nhiều hộ dân đã tham gia mô hình sản xuất rau an toàn, nhưng được một thời gian không tham gia nữa vì các HTX này không bao tiêu được sản phẩm

 

Thành phố Hà Nội hiện có tổng diện tích đất trồng rau là 12.000ha. Với diện tích này, mỗi năm thu được 600.000 tấn, đáp ứng khoảng 60% nhu cầu của người tiêu dùng Thủ đô. Do thói quen sản xuất manh mún, thiếu liên kết giữa người nông dân với doanh nghiệp và niềm tin của người tiêu dùng chưa cao, nên còn rất lâu, rau an toàn mới đáp ứng được nhu cầu của người dân thành phố.

 

 

Diện tích rau an toàn của Hà Nội hiện chỉ có 5.000ha.

 

Làng Vân Trì, xã Vân Nội, huyện Đông Anh là vùng trồng rau nổi tiếng của Hà Nội. Mặc dù người dân cả xã trồng rau, nhưng số người vào hợp tác xã sản xuất rau an toàn chỉ chiếm một phần nhỏ.

 

Chị Nguyễn Thị Chín, một người dân địa phương, lý giải: “Nhà tôi nghỉ bao nhiêu ngày mới lại có rau bán, nên mình không dám vào hợp tác xã rau sạch. Nếu mà vào hợp tác xã thì mình phải là chuyên gia về rau, lúc nào cũng phải có rau bán cho người ta. Sau 1 tuần phun thuốc thì mới dám bán ra”.

 

Còn tại xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, Hà Nội, bà con cũng không mặn mà với mô hình hợp tác xã. Thậm chí, nhiều hộ dân đã tham gia mô hình sản xuất rau an toàn, nhưng được một thời gian thì không tham gia nữa vì các hợp tác xã này không bao tiêu được sản phẩm cho họ.

 

 

Việc sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu của bà con chưa được kiểm soát chặt.

 

Bà Nguyễn Thị Lan ở thôn Hòa Lương, xã Hà Hồi, huyện Thường Tín cho biết: “Ở đây họ chưa thu mua hết nên chúng tôi vẫn phải bán ở ngoài. Phải có đầu ra thì chúng tôi mới làm được rau sạch, chứ không có thị trường tiêu thụ ổn định được thì chúng tôi không dám đầu tư vì vốn đầu tư nhiều”.

 

Tại Hà Nội, ngoài các hộ dân sản xuất trong các hợp tác xã rau an toàn, việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu của bà con chủ yếu theo thói quen mà không được kiểm soát.

 

Một nông dân ở xã Vân Nội, huyện Đông Anh đang phun thuốc sâu trên ruộng cải canh, cho biết: “Nếu lần nào nhiều sâu thì 3-4 ngày bơm 1 lần, lần nào ít thì tuần mới phải bơm. Nếu nhiều sâu nhiều mình pha đặc lên một chút, lần nào ít pha theo người ta chỉ dẫn”.

 

Ông Vũ Văn Kỳ, Giám đốc hợp tác xã dịch vụ tổng hợp Đông Cao, xã Tráng Việt, huyện Mê Linh, Hà Nội cho biết, hợp tác xã Đông Cao sản xuất trên diện tích 200ha, mỗi năm cung cấp cho thị trường gần 30.000 tấn rau với hơn 30 loại. Để sản xuất ra sản phẩm an toàn, người nông dân phải tuân thủ nghiêm ngặt các khâu từ cải tạo đất, bón phân, tưới nước.

 

Việc sử dụng thuốc trừ sâu phải ghi rõ trong nhật ký. Tuy nhiên, việc tiêu thụ rau của hợp tác xã chủ yếu qua thương lái và bán tại những chợ đầu mối. Chỉ một phần nhỏ là bán được vào siêu thị: “Có một số bà con nói với chúng tôi rằng, chúng tôi nghe hợp tác xã chỉ đạo thì chúng tôi nhất trí, nhưng hàng hóa của chúng tôi ra thị trường thậm chí còn rẻ hơn những người không sản xuất theo quy trình. Đây là việc khó khăn mà chúng tôi không lý giải được với bà con”.

 

 

TP Hà Nội đặt mục tiêu đến 2020 phát triển hơn 16.000ha rau an toàn.

 

Ông Nguyễn Huy Đăng, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT thành phố Hà Nội cho biết, mặc dù thành phố có quy hoạch vùng sản xuất rau an toàn, nhưng ở một số địa phương đã không còn phù hợp do tốc độ đô thị hóa. Trong đó, diện tích được chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm trong sản xuất rau của Hà Nội mới chỉ đạt 5.000ha. Việc sản xuất theo tiêu chuẩn VietGap thời gian qua còn nhập nhèm về chất lượng, khiến người tiêu dùng thiếu tin tưởng vào tiêu chuẩn này.

 

Cũng theo ông Đăng, một hạn chế khác trong sản xuất rau an toàn của Hà Nội hiện nay là tại các vùng rau an toàn có loại thừa, có loại thiếu do khâu tổ chức của hợp tác xã chưa tốt: “Người ta ký hợp đồng để mình cung cấp cho người ta nhưng mình lại không đủ hàng để cung cấp, vì vùng của mình nó không thành vùng. Chúng ta cần phải xác định loại rau nào mà thị trường đang cần để sản xuất. Vấn đề của các hợp tác xã hiện nay là không xác định được thị trường nên không kiểm soát được đầu ra, dẫn đến nguy cơ không bán được”.

 

Thành phố Hà Nội đặt mục tiêu đến 2020 sẽ phát triển hơn 16.000 ha rau an toàn. Trong đó có 151 vùng sản xuất rau tập trung với diện tích hơn 6.600ha. Để đạt được mục tiêu này, các chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp cho rằng, thành phố Hà Nội cần có chính sách cụ thể hơn để hỗ trợ về cơ sở hạ tầng cho vùng rau an toàn, từ đó tạo thành những vùng chuyên canh có quy mô lớn để đáp ứng tốt hơn nhu cầu rau sạch của người dân Thủ đô./.

 

Thành Trung/VOV - Trung tâm Tin

 

Tây Nguyên: Tập trung chăm sóc vườn tiêu mùa mưa

 

Nguồn tin: Báo Công thương

 

Theo Viện Khoa học Kỹ thuật nông, lâm nghiệp Tây Nguyên, mùa mưa là mùa cây tiêu ở Tây Nguyên ra hoa, chắc quả và đây cũng là mùa dễ làm cho vườn tiêu bị ngập úng, mắc bệnh chết nhanh, chết chậm.

 

 

Các nông hộ phải tăng cường kiểm tra vườn tiêu để sớm phát hiện sâu bệnh

 

Do vậy, Viện Khoa học Kỹ thuật nông, lâm nghiệp Tây Nguyên lưu ý các nông hộ trồng tiêu tạo hệ thống rãnh thoát nước, không để nước đọng trong vườn, gốc tiêu, dọn sạch cỏ, cắt tỉa cành để cây tập trung nuôi nhánh ngang (nhánh cho quả vụ sau) và xử lý tàn dư thực vật trong vườn tiêu. Viện cũng hướng dẫn các nông hộ trồng tiêu cắt các nhánh tiêu mọc sát gốc, nhánh sâu bệnh, chậm phát triển, nhánh tiêu khô nhằm tạo ra khoảng trống cung cấp đủ ánh sáng, giảm độ ẩm trong vườn để tiêu diệt các mầm bệnh hại cho cây tiêu.

 

Ngay đầu mùa mưa, Viện Khoa học Kỹ thuật nông, lâm nghiệp Tây Nguyên đã hướng dẫn các nông hộ trồng tiêu sử dụng các loại phân bón chuyên dùng và phân hữu cơ cũng như kỹ thuật bón phân nhằm cung cấp đủ nguồn dinh dưỡng cho cây tiêu phát triển ra hoa, đậu quả, hạn chế rụng chùm quả (gié)… Đồng thời, khuyến cáo các nông hộ mỗi năm sử dụng từ 30 - 40 m³ phân chuồng ủ hoai mục trộn với phân hữu cơ vi sinh bón cho mỗi héc-ta hồ tiêu hoặc bón 30 kg phân chuồng ủ hoai mục cho mỗi gốc. Bên cạnh đó, sử dụng phân NPK tổng hợp chuyên dùng như 16 – 8 – 16 bón mỗi năm từ 9 đến 12 kg/gốc, bón 4 lần cho hồ tiêu đã đưa vào kinh doanh và từ 4 - 6 lần cho hồ tiêu đang trong thời kỳ kiến thiết cơ bản, sử dụng các loại phân bón lá để tăng tỷ lệ đậu quả… Các nông hộ cũng phải tăng cường kiểm tra, giám sát, theo dõi vườn tiêu để sớm phát hiện sâu bệnh hại, có biện pháp phòng trừ kịp thời, nhất là bệnh chết nhanh, chết chậm trên cây hồ tiêu.

 

Các tỉnh Tây Nguyên có tổng diện tích cây hồ tiêu trên 70.500 héc-ta, đạt sản lượng mỗi năm từ 121.000 tấn tiêu hạt trở lên. Trong đó, Đắk Lắk là địa phương có diện tích cây hồ tiêu nhiều nhất với trên 28.000 héc-ta, tiếp đến là tỉnh Đắk Nông có gần 25.000 héc-ta.

 

Hà Thu

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop