Tin nông nghiệp ngày 06 tháng 01 năm 2021

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 06 tháng 01 năm 2021

Long An: Giá khóm tăng, nông dân Tân Tây có lãi cao

Nguồn tin: Báo Long An

Nông dân vùng trồng khóm chuyên canh xã Tân Tây, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An đang rất phấn khởi vì giá khóm tăng cao. Hiện tại, khóm loại 1 có giá khoảng 10.000 đồng/kg, tăng gần gấp đôi so cùng kỳ năm 2020. Với mức giá này, mỗi kg khóm nông dân có lãi từ 3.000-5.000 đồng.

Nông dân phấn khởi vì giá khóm tăng cao

Xã Tân Tây giáp với vùng trồng khóm của huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang nên nông dân nơi đây có điều kiện học hỏi và mạnh dạn chuyển đổi các loại cây trồng kém hiệu quả sang cây khóm. Sau thời gian ngắn chuyển đổi, cây khóm đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, giúp người dân có thu nhập ổn định.

Phó Chủ tịch UBND xã Tân Tây - Lê Xuân Hảo thông tin: Tân Tây là xã được chọn để phát triển thành vùng trồng khóm chuyên canh của huyện. So với các loại cây trồng khác thì cây khóm chịu được hạn, phèn và độ mặn tốt nên rất phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của xã. Hiện xã có khoảng 310ha khóm, thấp hơn năm trước gần 70ha. Giá khóm đang cao, nông dân thu hoạch khóm trong thời điểm hiện tại có được lợi nhuận ổn định.

Ông Lê Quang Dũ, canh tác 2ha khóm chuyên canh, cho biết, những ngày qua, thương lái thu mua khóm thương phẩm với giá 10.000 đồng/kg loại tốt. Với giá này, người dân có lãi khoảng 5.000 đồng/kg. Trung bình, năng suất khóm trong vùng đạt 25-30 tấn/ha, nếu thu hoạch đúng thời điểm có giá cao, sau khi trừ chi phí, người dân còn lãi khoảng 100 triệu đồng/ha nên ai cũng phấn khởi.

Còn anh Lê Thành Tài, canh tác 3ha khóm chuyên canh tại ấp 5, xã Tân Tây hết sức phấn khởi, bởi trong những ngày tới dự kiến thu hoạch sản lượng trên 30 tấn khóm. Với giá bán 10.000 đồng/kg, anh có lãi không dưới 350 triệu đồng.

Theo thông tin từ Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thạnh Hóa, để sớm phát triển vùng chuyên canh cây khóm 600ha ở Tân Tây, giúp người dân ổn định sản xuất và đời sống, địa phương đã tăng cường chuyển giao kỹ thuật thâm canh, thường xuyên mở các lớp tuyên truyền khuyến nông, phòng trừ sâu, bệnh gây hại, hướng dẫn kỹ thuật xử lý cho trái rải vụ, xây dựng và nhân rộng những mô hình sản xuất hiệu quả cho người trồng khóm.

Nông dân vùng chuyên canh khóm đánh giá, giá khóm trong những ngày qua tăng mạnh do nguồn cung đã cạn trong khi nhu cầu thị trường còn lớn. Giá khóm tăng là động lực để người dân tiếp tục đầu tư thâm canh, ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất để tăng năng suất, sản lượng và chất lượng nông sản hàng hóa, đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.

Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thạnh Hóa - Nguyễn Kinh Kha cho biết, bên cạnh cây chanh, khoai mỡ thì cây khóm cũng là một trong những cây trồng chủ lực của huyện. Khóm có giá trị kinh tế cao và ổn định. Thời gian qua, cây khóm đã giúp nhiều nông dân trên địa bàn huyện có thu nhập ổn định, nhiều hộ còn vươn lên làm giàu. Hiện huyện xây dựng được vùng chuyên canh khóm 600ha, sản lượng hàng năm đạt trên 9.000 tấn, cung ứng cho thị trường trong nước và xuất khẩu./.

Minh Tuệ

Quảng Trị: Tập trung khôi phục cây chuối ở Tân Long

Nguồn tin: Báo Quảng Trị

Những trận lũ lụt, bão liên tiếp, kéo dài trong thời gian qua đã khiến người trồng chuối ở xã Tân Long, huyện Hướng Hóa (tỉnh Quảng Trị) gặp nhiều khó khăn bởi diện tích chuối bị gãy đổ, hư hại, ngập úng và chết chiếm khoảng 50% tổng diện tích trồng chuối của toàn xã. Hiện nay, để khôi phục thế mạnh sản xuất nông nghiệp này, chính quyền cùng người dân xã Tân Long đã tập trung xử lý hư hại, lên phương án trồng chuối bổ sung để phát triển nghề trồng chuối theo hướng ổn định, lâu dài…

Chằng chống cây chuối bị gãy đổ sau bão lụt - Ảnh: N.B

Xã Tân Long có diện tích trồng chuối hằng năm khoảng 2.110 ha, doanh thu từ cây chuối bình quân khoảng 120 tỉ đồng/năm. Cây chuối được xem là cây trồng chủ lực và góp phần rất lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế của địa phương. Trong tổng diện tích trồng chuối là 2.110 ha, người dân trồng tại địa bàn xã là 660 ha, thuê đất trồng tại nước bạn Lào là 1.100 ha và 350 ha được người dân thuê đất trồng tại các xã thuộc huyện Hướng Hóa như: Thuận, Hướng Lộc. Người dân xã Tân Long luôn xem việc trồng chuối là một hướng làm kinh tế hiệu quả nhằm xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu bền vững. Vì thế, rất nhiều hộ gia đình trên địa bàn xã tham gia trồng chuối, hộ ít nhất thì vài trăm gốc và hộ nhiều nhất trồng khoảng 20 - 25 ha.

Chuối là loại cây rất dễ trồng, không cần chăm sóc nhiều mà vẫn đem lại lượng trái dồi dào. Tuy nhiên, thân chuối mềm, yếu và khả năng chống chọi với bão, lụt không cao bằng các loại cây khác. Khi gặp gió mạnh, chuối dễ bị gãy đổ; mưa kéo dài dễ bị úng nước, bùn non vùi lấp lâu ngày dễ bị thối thân và chết. Trong những trận lũ lụt, bão liên tiếp, kéo dài thời gian qua, 50% diện tích chuối ở xã Tân Long bị gãy đổ, hư hại, ngập úng và chết. Để khắc phục thiệt hại trên, chính quyền cùng người dân xã Tân Long đã triển khai nhiều biện pháp hiệu quả. Đối với những cây chuối bị gãy, đổ, người dân chủ động chằng chống lại cố định bằng tre kiểu hình chữ A theo chiều ngã của cây. Cách làm này đỡ cho cây và buồng quả khỏi bị lay động trong gió gây tổn thương cây. Cây nào có thể thu hoạch buồng quả thì thu hoạch, tùy mức độ non già của quả trên buồng để phân loại sử dụng cho các mục đích khác nhau. Cây nào bị thối gốc, chết thì chặt bỏ để lên phương án trồng mới.

Bên cạnh đó, người trồng chuối trên địa bàn xã đã chủ động hạ thấp mặt rãnh luống trồng, khơi thông hệ thống tiêu thoát nước, làm sạch bùn non bám trên thân lá. Kết hợp thu dọn làm sạch tàn dư thực vật, rác trong vườn, rắc vôi bột lên mặt luống trồng chuối, kết hợp xử lý thuốc bảo vệ thực vật để phòng bệnh và tuyến trùng gây hại. Một số hộ tranh thủ khi vườn khô ráo đã bón các loại phân nhằm thúc cho cây nhanh phục hồi, ra hoa, kết quả.

Ông Nguyễn Tâm (55 tuổi), ở thôn Long Phụng, xã Tân Long có 4 ha chuối đã trồng từ nhiều năm nay. Trong đợt mưa bão vừa qua, một số khóm chuối dọc theo bờ khe, suối của gia đình ông bị gãy đổ, bùn non vùi lấp. Để khắc phục tình trạng trên, gia đình ông Tâm đã cắt tỉa những bẹ lá vàng úa, lá khô, chằng chéo cây gãy đổ và chặt bỏ những cây chết để chuẩn bị trồng mới. Thông thường việc trồng chuối giống bắt đầu từ tháng 3 hằng năm nhưng sau bão lụt năm nay, nhiều hộ dân đã chủ động trồng mới. “Hiện nay, gia đình tôi đã chủ động chọn cây chuối giống từ vườn chuối của mình và lên phương án làm đất để đầu năm 2021 tiến hành trồng chuối mới thay thế cho diện tích chuối bị gãy đổ, chết do bão lụt vừa qua. Cây chuối cho thu nhập khá cao, bình quân mỗi năm gia đình tôi thu lãi từ nghề trồng chuối khoảng 70 - 80 triệu đồng. Trong thời gian tới, gia đình tôi sẽ tập trung chăm sóc chuối cho vụ Tết và phát triển diện tích chuối theo hướng bền vững, hiệu quả hơn”, ông Nguyễn Tâm chia sẻ.

Sau bão, lụt, diện tích chuối khoảng 1.100 ha của người dân xã Tân Long đang thuê đất trồng trên nước bạn Lào cũng bị thiệt hại. Qua trao đổi bằng điện thoại với người bên nước bạn, nhiều hộ trồng chuối không khỏi xót xa bởi biết nhiều diện tích chuối của mình bị hư hại, cỏ dại um tùm, vườn chuối xác xơ. Do COVID-19, người trồng chuối ở xã Tân Long không thể qua Lào để chăm sóc, thu hoạch chuối. Vì thế họ đành phải thuê nhân công người sở tại làm cỏ, bón phân, dọn vệ sinh, chăm sóc vườn chuối với chi phí khá cao. Dẫu bị thiệt hại khá lớn do thiên tai, dịch bệnh nhưng những hộ dân thuê đất trồng chuối bên nước bạn Lào vẫn chú trọng, đặt tâm huyết, hy vọng vào thế mạnh sản xuất này. Họ đều mong dịch bệnh được kiểm soát, khống chế để có thể sang thu hoạch chuối, ổn định sản xuất.

Hiện nay, thị trường chuối Tân Long được mở rộng khắp cả nước, xuất khẩu sang một số thị trường như: Trung Quốc, Lào, Thái Lan. Nhận xét về thế mạnh trồng chuối và kế hoạch khôi phục, phát triển cây chuối sau bão lũ, Phó Chủ tịch UBND xã Tân Long Nguyễn Triệu Chung cho biết: “Nhờ chú trọng phát triển nghề trồng chuối nên hiện nay năng suất bình quân chuối quả tươi đạt khoảng 15 tấn/ha, với giá giao động từ 6 - 8 nghìn đồng/kg, có thời điểm lên đến 10.000 đồng/kg nên hiệu quả sản xuất khá cao. Hằng năm cây chuối mang lại doanh thu khoảng 120 tỉ đồng và từ lâu xã Tân Long đã xem đây là loại cây trồng chủ lực để phát triển kinh tế của địa phương. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục có nhiều chủ trương, chính sách hợp lý và tăng cường công tác tập huấn kỹ thuật, hỗ trợ người dân khắc phục diện tích chuối bị hư hại do bão lụt. Đồng thời khuyến khích người dân mở rộng diện tích, quy mô trồng chuối, tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất theo hướng bền vững để tăng hiệu quả”.

Phú Hải

Đồng Tháp: Toàn tỉnh đã xuống giống hơn 124 ngàn ha lúa đông xuân

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

Nông dân trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp đang tập trung cho việc xuống giống vụ lúa đông xuân 2020 - 2021.

Để đảm bảo sản xuất, ngành nông nghiệp khuyến cáo nông dân phải chú trọng khâu làm đất trước khi gieo sạ

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đồng Tháp, hiện nông dân trên địa bàn tỉnh đã xuống giống hơn 124.000/200.000ha lúa đông xuân 2020 - 2021, đạt 62,37% so với kế hoạch. Các trà lúa chủ yếu ở giai đoạn mạ, đẻ nhánh, làm đòng.

Để hạn chế thấp nhất thiệt hại, ngành nông nghiệp tỉnh khuyến cáo, với những diện tích lúa đã thu hoạch, cần vệ sinh đồng ruộng, cày xới trục nhận rơm rạ nhằm loại bỏ nguồn sâu bệnh và cải thiện độ màu mỡ cho vụ lúa chuẩn bị sạ. Bên cạnh đó, áp dụng tốt các giải pháp kỹ thuật “3 giảm, 3 tăng”, “1 phải, 5 giảm”, quản lý dịch hại tổng hợp (IPM), quản lý nước hợp lý, bón phân vùi trước khi trục trạc đất lần cuối theo tỷ lệ 100% DAP, 50% Kali,... giúp lúa sinh trưởng và phát triển tốt, hạn chế thấp nhất sự phát sinh gây hại của các đối tượng dịch hại, giảm chi phí, tăng chất lượng và lợi nhuận.

Nông dân cần kiểm tra kỹ ruộng lúa, phát hiện kịp thời muỗi hành, bệnh đạo ôn lá, bệnh cháy bìa lá... để có biện pháp quản lý và chăm sóc hiệu quả. Có thể phun ngừa bệnh đạo ôn cổ bông, lem lép hạt ở giai đoạn trỗ lẹt xẹt và trỗ đều. Tuân thủ tốt nguyên tắc “4 đúng” khi phun thuốc. Ngoài ra, nông dân không phun thuốc trừ sâu bệnh, thuốc kích thích sinh trưởng cho lúa ít nhất 20 ngày trước thu hoạch nhằm bảo đảm thời gian cách ly, an toàn thực phẩm…

Trang Huỳnh

Vụ Đông Xuân 2020-2021: Nông dân cần tuân thủ lịch thời vụ

Nguồn tin: Báo Long An

Hiện nay, nông dân trên địa bàn tỉnh Long An tập trung xuống giống và chăm sóc lúa Đông Xuân (ĐX) 2020-2021. Để bảo đảm sản xuất đạt hiệu quả, ngành Nông nghiệp khuyến cáo nông dân tuân thủ lịch thời vụ, chủ động phòng trừ sâu, bệnh và chăm sóc lúa để có vụ mùa bội thu.

Nông dân cần gieo sạ đúng lịch thời vụ mà ngành Nông nghiệp tỉnh khuyến cáo

Tập trung chăm sóc

Đến nay, toàn tỉnh gieo sạ trên 204.229ha lúa ĐX 2020-2021, đạt 42,2% kế hoạch, bằng 90,8% so cùng kỳ năm 2019, trong đó, thu hoạch 1.040ha, năng suất khô ước đạt 49,9 tạ/ha, sản lượng 5.188 tấn. Hiện trên lúa ĐX có khoảng 3.400ha nhiễm bệnh đạo ôn lá, tỷ lệ bệnh phổ biến từ 5-10%, tập trung chủ yếu trên lúa giai đoạn đẻ nhánh - làm đòng ở hầu hết các huyện và thị xã Kiến Tường. Ngoài ra, còn có 650ha nhiễm bệnh cháy bìa lá, 600ha bị chuột phá hại, 315ha bị ốc bươu vàng, 240ha bị sâu cuốn lá nhỏ, 200ha bị lem lép hạt, 160ha bị rầy nâu, 135ha nhiễm bệnh đạo ôn cổ bông,... xuất hiện rải rác trên lúa giai đoạn mạ - đẻ nhánh - đòng trổ ở các huyện: Tân Hưng, Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Tân Thạnh, Bến Lức, Thủ Thừa, Tân Trụ, Đức Hòa, Đức Huệ, Cần Giuộc và thị xã Kiến Tường.

Nhìn chung, tình hình sâu, bệnh đang có chiều hướng gia tăng, nhất là bệnh đạo ôn lá. Vì vậy, các địa phương không nên chủ quan và cần theo dõi sát tình hình sản xuất của người dân để có biện pháp quản lý kịp thời, hạn chế bệnh lây lan diện rộng và gây thiệt hại cho người dân.

Theo dự báo của ngành Nông nghiệp tỉnh, trong tháng 01-2021, người dân cần lưu ý sâu cuốn lá nhỏ, sâu năn, chuột, sâu đục thân,... sẽ có nguy cơ phát sinh và gia tăng diện tích nhiễm trên lúa giai đoạn mạ - đẻ nhánh - làm đòng. Song song đó, các bệnh: Đạo ôn lá, cháy bìa lá, đạo ôn cổ bông, lem lép hạt cũng có nguy cơ tiếp tục phát sinh trên lúa giai đoạn đẻ nhánh - đòng trổ và trổ chín.

Hiện tại, nhiều diện tích lúa ĐX gieo sạ sớm đang trong giai đoạn làm đòng, trổ ở các xã vùng cao của huyện Tân Hưng bị chuột cắn phá dữ dội, ảnh hưởng rất nhiều đến năng suất lúa khi thu hoạch, nông dân vô cùng lo lắng. Ông Huỳnh Văn Băng, ngụ xã Vĩnh Thạnh, huyện Tân Hưng, buồn bã cho biết: “Vụ ĐX 2020-2021, chuột xuất hiện và cắn phá nhiều hơn mọi năm. Đầu vụ, khi lúa ở giai đoạn mạ, chuột đã cắn phá làm gia đình tôi phải tốn chi phí giặm lúa. Đến khi lúa bước qua giai đoạn làm đòng thì tiếp tục bị chuột cắn phá, làm thiệt hại khoảng 20% diện tích”.

Theo nhiều nông dân có kinh nghiệm sản xuất lúa, chuột thường gây hại trên lúa chủ yếu vào 2 giai đoạn: Lúc mới gieo sạ và khi lúa đang làm đòng, trổ. Khi chúng gây hại ở giai đoạn đầu thì có thể cấy giặm phục hồi, tuy nhiên khi ở giai đoạn làm đòng, trổ thì cây lúa không còn khả năng phục hồi nên ảnh hưởng nhiều đến năng suất.

Theo Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tân Hưng - Phan Văn Nỉ, toàn huyện đã xuống giống trên 31.000ha lúa ĐX 2020-2021, trong đó có trên 8.000ha đang trong giai đoạn đòng trổ có nguy cơ bị chuột cắn phá. Ngành Nông nghiệp huyện đã đề nghị nông dân tăng cường các biện pháp để xua đuổi hoặc diệt chuột nhằm hạn chế thiệt hại và bảo đảm năng suất lúa khi thu hoạch.

Cần tuân thủ lịch thời vụ

Theo Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tân Trụ - Đặng Văn Tây Lo, theo kế hoạch, vụ ĐX 2020-2021, toàn huyện gieo sạ khoảng 11.000ha và sẽ gieo sạ dứt điểm trong đợt 3 (từ ngày 15 đến 30-12-2020) theo khuyến cáo của ngành Nông nghiệp tỉnh. Tuy nhiên, đến nay, toàn huyện chỉ mới xuống giống trên 2.200ha. Trước tình hình trên, ngành Nông nghiệp huyện cùng địa phương khuyến cáo nông dân chưa gieo sạ xem xét chuyển đổi sang trồng các loại rau màu ngắn ngày để tránh nguy cơ bị thiệt hại do hạn, xâm nhập mặn.

Ông Trần Văn Bền, ngụ ấp 4, xã Tân Phước Tây, huyện Tân Trụ, bộc bạch: “Năm trước, do không tuân thủ theo khuyến cáo của ngành Nông nghiệp huyện nên gia đình tôi đã thiệt hại gần 2ha lúa do hạn, mặn. Rút kinh nghiệm, năm nay, tôi chủ động xuống giống trong lịch khuyến cáo để tránh nguy cơ thiếu nước vào cuối mùa khô và hạn chế các loại sâu, bệnh gây hại”.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Nguyễn Chí Thiện cho biết: “Để nông dân sản xuất vụ ĐX 2020-2021 đạt hiệu quả, ngành Nông nghiệp đưa ra nhiều khuyến cáo: Về cơ cấu giống lúa, ưu tiên chọn những giống lúa có tính chống chịu cao trong điều kiện hạn, mặn, phèn và sâu, bệnh, phù hợp nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Cụ thể như, nhóm giống lúa chất lượng cao: OM4900, RVT, ST24, nếp IR4625, Đài thơm 8, OM5451,... Mật độ gieo sạ tùy theo chọn phương pháp cấy hay gieo sạ thẳng, mức khuyến cáo từ 80-100kg/ha.

Các địa phương tăng cường khuyến cáo nông dân xuống giống tập trung theo lịch gieo sạ của tỉnh. Đặc biệt, đối với các huyện phía Nam đã bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn mùa khô năm 2019-2020, Sở yêu cầu các địa phương chủ động nạo vét các tuyến kênh, mương nội đồng, sử dụng các biện pháp tích trữ nước, tăng cường tuyên truyền, vận động người dân tuân thủ tuyệt đối lịch gieo sạ vụ lúa ĐX 2020-2021. Bên cạnh đó, các địa phương cần thường xuyên theo dõi diễn biến tình hình khí tượng - thủy văn, lũ, triều cường, hạn, xâm nhập mặn và khẩn trương xây dựng các kế hoạch phòng, chống từ nay đến hết mùa khô 2020-2021. Ngoài ra, các địa phương cũng phải tăng cường theo dõi tình hình sinh vật gây hại trên lúa để hướng dẫn nông dân xử lý kịp thời, giảm thiểu thiệt hại và bảo đảm vụ ĐX 2020-2021 thắng lợi, bội thu”./.

Bùi Tùng

Người dân trồng ớt trúng mùa, trúng giá

Nguồn tin: VOV

Trong nhiều năm qua, mô hình trồng cây ớt thương phẩm ở tỉnh Tiền Giang cho hiệu quả kinh tế cao.

Tại xã Bình Ninh, huyện Chợ Gạo (Tiền Giang) vùng chuyên canh cây ớt thương phẩm năm nay trúng mùa, trúng giá đã giúp cho nhà nông vươn lên làm giàu.

Cũng như nhiều nông dân khác ở xã Bình Ninh, gia đình ông Nguyễn Văn Tranh ở ấp Bình Hưng Hạ rất phấn khởi vì trúng mùa ớt. Ông Tranh cho biết, 4 công ruộng trồng ớt của gia đình đã cho thu hoạch 3 đợt, giá cao nhất là 110.000 đồng/kg và thấp nhất là 80.000 đồng/kg. Năm nay, giá ớt đạt kỉ lục nên nông dân địa phương lãi to.

“Cánh đồng Bình Ninh thì cây ớt chiếm 90%. Năm nay, đầu ra, giá cả ngon, giá 30.000 đồng/kg trở lên có lãi rồi. Người dân trồng cây ớt, mua xe cộ, xây nhà đều nhờ cây ớt” - ông Tranh nói.

Ruộng ớt xã Bình Ninh đạt năng suất cao.

Cây ớt đã bén rễ trên vùng đất Bình Ninh gần 20 năm qua, chủ yếu trồng dưới chân ruộng. Đây là vùng đất thấp ven sông Tiền, thổ nhưỡng rất thích hợp cho cây ớt phát triển. Lúc đầu từ vài chục ha, nay đã nhân rộng ra trên 300 ha, và là cây màu chủ lực của địa phương. Được sự chuyển giao khoa học kỹ thuật của ngành chuyên môn, nên đa số nông dân Bình Ninh trồng ớt đạt năng suất, chất lượng cao.

Đối với các loại giống ớt như: Chánh Phong, Sen Hồng…. nông dân trồng đạt năng suất mỗi vụ đạt đến 1 tấn/ha. Gần đây, giá ớt ổn định ở mức cao nên thu nhập từ mô hình trồng ớt cao hơn lúa hay các loại hoa màu khác gấp nhiều lần. Năm 2020 này, bình quân mỗi vụ trồng ớt, nông dân thu lãi gần 400 triệu đồng/ha.

Ông Đỗ Đông Hà, nông dân trồng 2.000 m2 cây ớt cho biết, với diện tích này nếu trồng lúa hay hoa màu khác chỉ đủ ăn nhưng nhờ trồng cây ớt cuộc sống gia đình đã khá giả, mỗi năm có lãi trên 100 triệu đồng.

“Ở đây, đất phù hợp với cây ớt lắm. Đầu ra thì năm nay giá cao từ đầu vụ đến cuối vụ, lãi khá hơn các loại hoa màu” - ông Hà chia sẻ.

Mô hình trồng ớt thích ứng biến đổi khí hậu.

Hiện nay, đến mùa thu hoạch, thương lái đến tận ruộng để thu mua trái ớt. Tại địa bàn xã Bình Ninh, huyện Chợ Gạo cũng có nhiều cơ sở thu mua, sơ chế trái ớt để cung ứng cho thị trường các nơi.

Ông Nguyễn Tấn Tài, Chủ tịch UBND xã Bình Ninh cho biết, mô hình trồng ớt thương phẩm cho hiệu quả rất cao, rất thích hợp với biến đổi khí hậu. Toàn xã hiện có khoảng 1.800 hộ dân, nhờ mô hình trồng ớt mà giảm chỉ còn hơn 1% hộ nghèo, thu nhập bình quân đầu người là 60 triệu đồng/năm, xã Bình Ninh đã được công nhận xã nông thôn mới. Đảng ủy- UBND xã vận động người dân duy trì và phát triển diện tích ớt, xem đây là cây hoa màu chủ lực của địa phương.

“Cây ớt là cây màu chủ lực, là một trong những cây hiệu quả nhất, mà trong những năm qua ở Bình Ninh đem lại thu nhập cho người dân rất cao. Vùng đất này cao trình thấp nên cây ớt rất chịu. Quy hoạch trồng cây ớt trên cơ sở diện tích hiện có, thời gian tới còn 20 ha đất lúa còn lại UBND xã sẽ vận động nhân dân chuyển đổi sang cây ớt hay cây màu ngắn ngày gắn với với vườn dừa” - ông Tài chia sẻ.

Cây ớt dưới chân ruộng tại xã Bình Ninh cũng như nhiều địa phương của tỉnh Tiền Giang đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, giúp nhà nông đổi đời và là mô hình thích ứng biến đổi khí hậu. Hiện nay, ở các vùng đất ven biển, cù lao Tân Phú Đông của tỉnh Tiền Giang đang nhân rộng diện tích cây màu ngắn ngày này để “né” hạn mặn và cho thu nhập cao./.

Nhật Trường/VOV-ĐBSCL

Ninh Bình: Dồi dào nguồn cung thực phẩm phục vụ Tết Nguyên đán

Nguồn tin:  Báo Ninh Bình

Để phục vụ nhu cầu sử dụng lương thực, thực phẩm tăng cao trong dịp Tết Nguyên đán, nông dân, các HTX, trang trại, gia trại… trên địa bàn tỉnh đã chủ động tăng cường sản xuất, chủ động nguồn hàng, đa dạng về chủng loại và đảm bảo về chất lượng, sẵn sàng cung ứng ra thị trường.

Người chăn nuôi ở xã Yên Đồng (Yên Mô) chăm sóc đàn gà chuẩn bị cho thị trường dịp Tết Nguyên đán.

Những ngày này, không khí lao động, sản xuất trên những cánh đồng rau an toàn ở HTX nông nghiệp Phúc Long (xã Yên Từ, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình) tấp nập hơn bao giờ hết bởi đây là thời điểm người dân tập trung chuẩn bị nguồn rau phục vụ thị trường Tết Nguyên đán 2021.

Gia đình ông Phạm Văn Lanh được biết đến là một trong số các hộ dân chuyên canh rau lớn nhất nhì ở thôn Phúc Lại. Anh Lanh cho hay: Mặc dù rau củ, quả ở đây được trồng quanh năm, nhưng gia đình đặc biệt chú trọng vào thị trường trước, trong và sau Tết.

Ngoài các loại rau đang cho thu hoạch như: bắp cải, su hào, cà chua, gia đình anh mới xuống giống một số loại như dưa chuột, cải sen, hành, mùi thơm, su hào, cần tây … để kịp thu hoạch vào dịp Tết. Toàn bộ rau xanh của anh Lanh đều cung cấp cho các cửa hàng nông sản an toàn ở thành phố Ninh Bình và Hà Nội. Nếu may mắn thì giá rau dịp Tết sẽ cao hơn so với ngày thường, giúp gia đình tăng thêm thu nhập.

Ông Trần Xuân Nhắc, Giám đốc HTX nông nghiệp Phúc Long cho biết: Để phục vụ nhu cầu rau xanh tăng cao của người dân trong dịp Tết, các loại củ quả như: su hào, bắp cải, súp lơ, cà chua... đã được người dân chủ động gieo trồng từ 1 tháng nay.

Ngoài ra, HTX cũng đã chuẩn bị các điều kiện cần thiết để trồng các loại rau ngắn ngày khác như cải các loại, rau gia vị; tăng cường hướng dẫn bà con các kỹ thuật trồng rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP. Cũng theo ông Nhắc, mặc dù thời gian này, nhiệt độ giảm sâu, trên dưới 10 độ nhưng cũng không ảnh hưởng nhiều đến các loại rau ưa lạnh, do vậy lượng rau cung ứng ra thị trường sẽ khá đa dạng và dồi dào.

Tại xã Yên Đồng, vùng chăn nuôi gia cầm tập trung lớn của huyện Yên Mô, các hộ nông dân cũng đang tất bật chăm sóc cho đàn gà chuẩn bị xuất chuồng phục vụ Tết Nguyên đán.

Anh Vũ Văn Chiến, xóm Khê Trung cho biết: Chuẩn bị cho dịp Tết tới đây, gia đình đã vào lứa gà 3.000 con từ hơn 2 tháng trước. Đây là giống gà Mao cờ mã đẹp, thịt ăn rất thơm ngon, phù hợp với mục đích cúng, lễ.

Cũng theo ông Chiến, giá gia cầm năm nay rất thấp, phổ biến từ 48-50 nghìn đồng/kg, còn các giống cao cấp, lông màu, thả vườn cũng chỉ được 68-70 nghìn đồng/kg. Với mức giá này người nuôi hầu như không có lãi, gia đình đang rất kỳ vọng gần Tết nhu cầu tiêu dùng tăng lên, giá sẽ được cải thiện, có lãi để tiếp tục đầu tư phát triển chăn nuôi.

Đại diện Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh cho biết, năm 2020, tuy dịch tả lợn châu Phi tiếp tục diễn biến phức tạp nhưng giá cả thịt lợn hơi liên tục duy trì ở mức cao kỷ lục, cộng với chính sách kịp thời của UBND tỉnh nên đã kích thích được người chăn nuôi đầu tư tái đàn sản xuất, nhất là tại các trang trại, doanh nghiệp quy mô lớn, an toàn dịch bệnh.

Hiện tổng đàn ước đạt 287 nghìn con, tăng 14,8% so với năm 2019; sản lượng thịt hơi ước đạt 39 nghìn tấn, tăng 2,36% so với năm 2019. Bên cạnh đó, đàn gia cầm cũng tăng nhanh, ước tổng đàn đạt 6,323 triệu con, sản lượng thịt hơi đạt 11 nghìn tấn, tăng 7,08% so với năm 2019.

Với đàn trâu, bò mặc dù có giảm về số con nhưng do áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đặc biệt là thụ tinh nhân tạo các giống bò ngoại cao sản như 3B, Bradman... nên tầm vóc, khối lượng bò thịt tăng lên, sản lượng thịt trâu bò vẫn tương đương như mọi năm, đạt khoảng 3,75 nghìn tấn; không thiếu thịt dịp Tết Nguyên đán.

Về mặt hàng lúa gạo, theo Sở Nông nghiệp &PTNT, năm nay cả 2 vụ lúa Đông Xuân và lúa Mùa đều được mùa, năng suất trung bình ước đạt 61,2 tạ/ha, sản lượng trên 440 nghìn tấn. Trong đó, diện tích lúa chất lượng cao, lúa nếp chiếm gần 65%. Do vậy nguồn cung rất dồi dào.

Được biết, cùng với việc chuẩn bị nguồn hàng, ngành Nông nghiệp đang phối hợp các ngành, đơn vị theo dõi sát tình hình sản xuất, nguồn cung, giá bán, diễn biến dịch bệnh để có phương án bảo đảm nguồn cung, ổn định thị trường các mặt hàng nông sản, thực phẩm thiết yếu nói chung và mặt hàng thịt lợn cho thị trường trong dịp Tết Nguyên đán.

Bài, ảnh: Nguyễn Lựu

Sản phẩm OCOP - Góp phần khẳng định vị thế nông sản địa phương

Nguồn tin:  Công Thương

Thời gian qua, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) ở Nghệ An đã đạt được nhiều kết quả ấn tượng, tạo sức lan tỏa, khẳng định thương hiệu nông sản địa phương. Không chỉ được biết đến trong tỉnh, nhiều sản phẩm nông sản chất lượng đã vươn ra thị trường cả nước và có mặt tại thị trường Lào và Thái Lan.

Thay đổi tư duy người sản xuất

Chương trình OCOP được tỉnh Nghệ An xem là giải pháp, nhiệm vụ để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, rất phù hợp với nhiệm vụ cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp và Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới hiện nay. Đây cũng là môi trường thuận lợi cho các loại hình kinh tế ở khu vực nông thôn phát triển, nhất là phát triển HTX, doanh nghiệp vừa và nhỏ, đẩy mạnh phát triển du lịch, quảng bá hình ảnh các địa phương và hình ảnh quốc gia, nâng cao hiệu quả sản xuất, đem lại nguồn thu nhập ổn định cho người dân.

Trang trại chú trọng đến nuôi gà sạch, an toàn theo hướng sinh học.

Xây dựng sản phẩm trứng gà sạch thành sản phẩm chủ lực, đặc trưng, thời gian qua, chính quyền xã Nghĩa Hoàn đã hỗ trợ tích cực, đồng hành cùng người chăn nuôi mở rộng quy mô, nâng chất lượng sản phẩm.

Chúng tôi khá ngỡ ngàng khi tới thăm mô hình gà đẻ của anh Cao Văn Cường ở xóm Đồng Tâm, xã Nghĩa Hoàn (Tân Kỳ) được công nhận đạt tiêu chuẩn 3 sao OCOP cấp tỉnh. Ngoài đầu tư mở rộng quy mô trang trại đã chú trọng đến nuôi gà sạch, an toàn theo hướng sinh học để sản phẩm được công nhận đạt chuẩn, có truy xuất nguồn gốc.

Anh Cao Văn Cường - chủ trang trại gà an toàn sinh học cho biết: “Trứng gà của trang trại gia đình từ khi được công nhận là sản phẩm OCOP, được “gắn sao” 3 sao, thương hiệu trứng gà sạch được biết đến nhiều hơn, tiêu thụ rộng rãi hơn, mang lại thu nhập cao hơnrõ rệt cho gia đình”.

Tôi luôn nỗ lực hoàn thiện quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Trang trại nuôi gà theo đúng quy trình an toàn sinh học; thức ăn, nước uống cho gà đều qua kiểm định, bổ sung chất xơ cho gà bằng các loại thức ăn tự nhiên...

Gia đình anh nuôi gà đẻ trứng với trên 1000 con gà và có 700 gà đã đẻ trứng, hiện nay trung bình mỗi ngày gia đình xuất bán ra thị trường trên 2.000 quả trứng. Mỗi chục trứng có giá từ 30- 35 ngàn đồng, còntrứng gà lộn giá cao hơn khoảng 40 ngàn đồng/ chục. Mỗi tháng anh còn tạo việc làm cho 4-5 lao động với thu nhập ổn định từ 4-5 triệu đồng… Anh Cường cho biết thêm.

Nằm trong 4 sản phẩm chủ lực của huyện tham gia Chương trình OCOP, vùng trồng cam Xuân Lý (xã Tân Phú) đã được quy hoạch với diện tích 37 ha sản xuất theo quy trình VietGAP, sinh thái hữu cơ. Nhờ sản xuất đảm bảo quy trình, sản phẩm đạt chất lượng nên tháng 2/2020, cam Tân Phú được UBND tỉnh công nhận sản phẩm đạt hạng 3 sao OCOP khi tham gia chương trình mỗi xã một sản phẩm tỉnh Nghệ An năm 2019.

Từ khi tham gia chương trình OCOP, bà con được tập huấn về xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm, các quy trình kỹ thuật chăm sóc, bảo quản sản phẩm và dám “chấp nhận” đầu tư một nguồn vốn nhất định để đầu tư tem, nhãn, bao bì cho sản phẩm cam sạch Sông Con. Hiện, cam sạch Sông Con đã có mặt tại nhiều cửa hàng bán lẻ trong và ngoài tỉnh.

Ông Nguyễn Tấn Phượng - Tổ trưởng Tổ hợp tác cam sạch sông Con cho biết: “Tham gia chương trìnhOCOP, 25 hộ trồng cam trong tổ đã được tập huấn, tuyên truyền về các tiêu chí của sản phẩm OCOP, từ đó, trong quá trình sản xuất luôn tuân thủ nghiêm túc các quy định, quy trình để đạt chuẩn sạch, an toàn, chất lượng. Chẳng hạn như trong trồng, chăm sóc cam sử dụng hoàn toàn chế phẩm sinh học, thuốc trừ sâu thảo dược, phân bón hữu cơ vi sinh, nước tưới được lọc qua máy để đảm bảo tiêu chí cam sạch. Đồng thời, các nhà vườn chỉ “mở trại” bán khi cam chín đủ độ, đảm bảo ngon, ngọt để giữ thương hiệu”.

Với 20 năm nỗ lực đưa sản phẩm hương thẻ ra thị trường và gần 10 năm xây dựng thương hiệu, đến nay sản phẩm hương trầm Liên Đức của Công ty TNHH hương trầm Liên Đức (xã Thanh Liên, huyện Thanh Chương) đã trở thành sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu của tỉnh, đạt Huy chương Vàng sản phẩm thương hiệu chất lượng cao và mới đây nhất, hương trầm Liên Đức được UBND tỉnh đánh giá, phân hạng đạt chuẩn 4 sao OCOP.

Từ một cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, đến nay đã trở thành công ty TNHH chuyên sản xuất hương thẻ với quy mô nhà xưởng 3.000 m2, hệ thống máy móc sản xuất khép kín, tự động, tạo việc làm cho gần 20 lao động thường xuyên; mỗi năm xuất bán ra thị trường hàng triệu thẻ hương.

Với uy tín đã tạo dựng được, thương hiệu hương trầm Liên Đức ngày một vươn xa, có mặt tại các cửa hàng, siêu thị các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng… và đang hướng đến thị trường Lào.

Khẳng định vị thế nông sản địa phương

Năm 2019, huyện Tân Kỳ xác định tiêu chuẩn hóa cho 4 sản phẩm chủ lực gồm: Trứng gà sạch Nghĩa Hoàn; Cam sạch sông Con (Tân Phú); Mật ong Nghĩa Bình và mật mía Tân Hương. Theo đó, huyện dành kinh phí 1,25 tỷ đồng để tổ chức đánh giá và công nhận các sản phẩm; xây dựng sản phẩm đạt tiêu chí sản phẩm nông nghiệp tốt; hỗ trợ bao bì, nhãn mác; tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại; thành lập các tổ hợp tác, hợp tác xã.

Mật mía, mật ong huyện Tân Kỳ được công nhận sản phẩm OCOP năm 2020.

Điều đáng ghi nhận là, khi được lựa chọn tham gia Chương trình OCOP chính chủ thể (Hợp tác xã, tổ hợp tác, cá nhân) đều có ý thức sản xuất ra các sản phẩm chất lượng, đạt chuẩn, thay đổi tư duy sản xuất từ manh mún, nhỏ lẻ sang tập trung, quy mô và đặc biệt là liên kết chuỗi, tạo thành vùng hàng hóa đảm bảo nguồn cung cho thị trường.

Người sản xuất đều mong muốn sản phẩm mình làm ra được công nhận, được đánh giá, được nâng hạng, gắn sao để nâng tầm, khẳng định thương hiệu và có chỗ đứng nhất định trên thị trường.

“Thực hiện Đề án OCOP, huyện có một số lợi thế như các sản phẩm chất lượng thực sự, được thị trường và người tiêu dùng đánh giá tốt, tư duy sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị của các chủ thể đã rõ nét hơn, hướng đến mục tiêu sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo các tiêu chuẩn OCOP. Tuy nhiên, công tác quản lý, quản trị, tư duy sản xuất, kinh doanh và tính chủ động tìm kiếm thị trường của các chủ thể còn hạn chế. Huyện đang tìm cách khắc phục khó khăn trên để Đề án OCOP tiếp tục được triển khai hiệu quả”. Ông Nguyễn Công Trung - Trưởng phòng NN&PTNT, Phó ban trực Ban Điều hành Chương trình OCOP huyện Tân Kỳ cho biết.

Tuy nhiên, các sản phẩm địa phương chưa thực sự thương mại hóa, khó tiêu thụ; tính sáng tạo thấp, chất lượng không ổn định, sản phẩm chưa đáp ứng nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng; việc phát triển các làng nghề truyền thống, sản phẩm đặc sản thế mạnh của địa phương còn tự phát, quy mô nhỏ, lực lượng lao động tay nghề thấp, khó tiếp nhận và ứng dụng KHKT vào sản xuất; thiếu sự liên kết, chủ động trong tìm đầu ra cho sản phẩm, chưa có các cơ chế, chính sách đủ mạnh để hỗ trợ thúc đẩy phát triển...

Chia sẻ về vấn đề này Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An ông Hoàng Nghĩa Hiếu cho rằng: Thông qua đánh giá, xếp hạng sản phẩm để từng bước chuẩn hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm đảm bảo theo tiêu chuẩn trong nước và Quốc tế. Khuyến khích và tạo động lực cho các tổ chức kinh tế khắc phục các tồn tại, hạn chế; tiếp tục nâng cấp và hoàn thiện các sản phẩm. Khích lệ phong trào thi đua khởi nghiệp dựa trên các lợi thế cạnh tranh của địa phương, xây dựng ý tưởng, nghiên cứu đa dạng hóa các sản phẩm, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tăng thu nhập cho người lao động.

Năm 2020, Nghệ An có 101 sản phẩm tiêu biểu của 16 huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh tham gia hội thi đánh giá, phân hạng các sản phẩm OCOP cấp tỉnh.

Vừa qua, Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An khóa XVII, kỳ họp thứ 17 đã thông qua Nghị quyết về một số chính sách hỗ trợ thực hiện Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) trên địa bàn tỉnh Nghệ An, giai đoạn 2021-2025.Tỉnh Nghệ An hỗ trợ đến 500 triệu đồng/cơ sở sản xuất hàng OCOP. Trong đó Khen thưởng cho mỗi sản phẩm OCOP đạt chuẩn 03 sao trở lên, với mức thưởng như sau: Sản phẩm đạt 3 sao: Thưởng 30 triệu đồng/sản phẩm; Sản phẩm đạt 4 sao: Thưởng 40 triệu đồng/sản phẩm; Sản phẩm đạt 5 sao: Thưởng 80 triệu đồng/sản phẩm.

Hoàng Trinh

Hòa Bình: Toàn tỉnh có 118 trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm

Nguồn tin: Báo Hòa Bình

Theo báo cáo của Sở NN&PTNT, hiện nay, toàn tỉnh Hòa Bình có 118 trang trại (TT) chăn nuôi. Trong đó, có 71 TT nuôi gia cầm, gồm: 59 TT nuôi gia cầm thương phẩm quy mô lớn từ 3.000 - 40.000 con/chuồng/lứa; 7 TT nuôi gà đẻ trứng thương phẩm quy mô 5.000 - 50.000 con; 5 cơ sở nuôi gà giống quy mô từ 10.000 - 170.000 con, cung cấp khoảng 10 triệu con gà giống/năm và 16,8 triệu quả trứng giống/năm.

Có 3 trang trại chăn nuôi bò của Công ty T&T 159, quy mô từ 500 - 4.000 con bò thịt và bò cái sinh sản, năm 2019 xuất chuồng 12.750 con, sản lượng thịt hơi 7.018 tấn; 2 trang trại chăn nuôi vỗ béo bò 3B tại huyện LạcThủy, quy mô 100 - 200 con, sản lượng thịt hơi 420 tấn/năm.

Đối với chăn nuôi lợn, hiện có 41 TT chăn nuôi lợn nái và hậu bị quy mô từ 300 - 3.000 con, với 20.700 con lợn nái, cung cấp khoảng 207 nghìn con giống/lứa, 517,5 nghìn con giống/năm và 44.680 con lợn thịt và hậu bị, sản lượng thịt hơi xuất chuồng 8.042 tấn/năm. Ngoài ra, còn có 1 trang trại chăn nuôi dê, quy mô từ 200 - 300 con.

Những năm qua, hình thức chăn nuôi tập trung theo quy mô trang trại, gia trại được các địa phương trong tỉnh chú trọng, khuyến khích phát triển. Hướng phát triển này góp phần khai thác được tiềm năng, lợi thế và phù hợp với quy hoạch phát triển chăn nuôi của tỉnh, đem lại hiệu quả kinh tế bền vững.

V.Đ

Anh Ánh nuôi vịt thu tiền tỷ

Nguồn tin: Báo Thái Bình

Người xưa có câu: “Muốn giàu nuôi cá, muốn khá nuôi heo, muốn nghèo nuôi vịt”, thế nhưng với anh Phạm Văn Ánh, thôn Châu Giang, xã Đông Quan (Đông Hưng, tỉnh Thái Bình) thì ngược lại. Nhờ phát triển mô hình nuôi vịt khép kín theo hướng an toàn sinh học nên anh thu tiền tỷ mỗi năm, đồng thời giúp nhiều gia đình khác cùng làm giàu.

Từ mô hình nuôi vịt khép kín, mỗi năm anh Phạm Văn Ánh thu gần 10 tỷ đồng.

Bại không nản

Những năm đầu xây dựng mô hình nuôi vịt, anh Ánh gặp không ít khó khăn bởi khu nuôi là ruộng cấy lúa kém hiệu quả bà con để hoang hóa đã lâu, cỏ mọc cao hơn đầu người, giao thông nội đồng chưa thuận tiện. Anh phải đầu tư hàng tỷ đồng để cải tạo, xây dựng chuồng trại và mua vịt giống về thả. Lứa vịt đầu tiên anh chọn giống rất kỹ, chăm sóc tỉ mỉ, mỗi ngày nhìn đàn vịt khỏe mạnh, lớn nhanh vợ chồng anh Ánh mừng thầm nhưng “niềm vui ngắn chẳng tày gang”. Trang trại nằm chơ vơ giữa cánh đồng, nơi đó lại là “rốn nước” của cả vùng, đang đêm trời mưa như trút, chẳng mấy chốc cả trang trại mênh mông nước. Đàn vịt dìm mình với nước suốt mấy ngày không chết vì đuối nước, vì lạnh rồi cũng chết vì mắc bệnh. Nhìn đàn vịt chết dần mà không thể cứu, anh Ánh như “đứt từng khúc ruột”. Sau bao năm vất vả dành được ít vốn đầu tư nuôi vịt những tưởng sẽ giúp gia đình anh vươn lên thoát nghèo, làm giàu chính đáng nay lại khiến anh trắng tay. Không cam chịu thất bại, anh vay vốn ngân hàng nâng nền chuồng, mua giống vịt siêu thịt về thả. Gần đến kỳ xuất chuồng thì dịch cúm A/H5N1 bùng phát, hàng nghìn con vịt trong chuồng dù khỏe mạnh song không thể tiêu thụ được. Suốt 3 năm ảnh hưởng của dịch cúm A/H5N1, trang trại của anh liên tiếp thất thu, biến anh thành “con nợ”, cuộc sống gia đình lao đao.

Thắng không kiêu

Từ những lần thất bại đó, anh Ánh rút ra được nhiều bài học, kinh nghiệm quý chuyển mô hình chăn nuôi vịt của gia đình từ bại thành thắng. Trước tiên, anh chuyển từ nuôi vịt thịt sang nuôi vịt siêu trứng theo mô hình khép kín: Vịt đẻ lấy trứng ấp, trứng nở bán vịt giống, trứng không nở được thì bán trứng qua lò, khi vịt đẻ thưa quả thì bán vịt thịt. Để vịt không dịch bệnh lại lớn nhanh, anh đầu tư xây dựng hệ thống chuồng trại bài bản, tiêm phòng đầy đủ, thường xuyên vệ sinh chuồng trại sạch sẽ... Với diện tích trên 20.000m2, anh Ánh xây dựng thành các khu nuôi riêng biệt dành cho từng loại vịt để dễ chăm sóc. Hiện anh nuôi tại trang trại khoảng 5.000 - 6.000 con vịt siêu thịt, siêu trứng, mỗi ngày thu khoảng trên 1.000 quả trứng. Đặc biệt, khu nào anh cũng sử dụng đệm lót sinh học nên khá sạch sẽ.

Anh Ánh cho biết: Vịt là loài thủy cầm phải kết hợp nuôi công nghiệp và nuôi thả tự nhiên mới có hiệu quả. Đặc biệt, chăm vịt con giống như chăm con mọn, phải luôn giữ cho môi trường trong lành, thoáng mát về mùa hè và ấm áp về mùa đông thì vịt mới khỏe mạnh, phát triển tốt. Vì vậy, ngoài xây dựng chuồng cao ráo, thoáng, tôi đào giếng bơm nước lên máng cho vịt tắm hàng ngày. Mùa đông nước giếng ấm, mùa hè nước giếng mát, vịt tắm rất thích hợp. Anh còn thuê 7 lao động với thu nhập 6 - 7 triệu đồng/tháng làm việc tại trang trại.

Ông Nguyễn Duy Túc, thôn Châu Giang, xã Đông Quan cho biết: Tôi làm tại trang trại này đã được 8 năm. Công việc nhàn, thu nhập ổn định. Dù nuôi nhiều nhưng do dùng đệm lót sinh học, vệ sinh thường xuyên, chuồng trại sạch sẽ, vịt không bị dịch bệnh. Trang trại ngày càng ăn lên làm ra, ông chủ sống điềm đạm, hòa nhã, chúng tôi yên tâm gắn bó lâu dài với trang trại.

Để phát triển chăn nuôi bền vững, anh Ánh đã đầu tư trên 1 tỷ đồng mua 20 lò ấp công nghệ cao và 2 máy nở để ấp trứng, bán vịt giống. Mỗi lần ấp được khoảng 20.000 con, trứng được ấp theo quy trình nghiêm ngặt, vì vậy tỷ lệ nở con đạt 85%. Vịt con ra lò đến đâu anh bán hết đến đó, bởi chất lượng con giống tốt và anh liên kết cung cấp giống cho khoảng 40 trang trại, gia trại trong và ngoài tỉnh, hỗ trợ 20% thức ăn, đồng thời bao tiêu toàn bộ trứng cho họ. Hiện nay, tính cả trang trại, gia trại liên kết và trang trại của anh Ánh có hàng vạn con vịt được nuôi thả. Từ mô hình nuôi vịt khép kín, mỗi năm anh Ánh thu gần 10 tỷ đồng. Mô hình của anh Ánh còn được Sở Khoa học và Công nghệ chọn nuôi thí điểm gần 2.000 con vịt siêu nạc. Đàn vịt siêu nạc sắp đẻ trứng, hứa hẹn mang lại thêm nguồn thu nhập nữa cho gia đình anh Ánh.

Ông Tống Hồng Phong, Chủ tịch UBND xã Đông Quan cho biết: Mô hình nuôi vịt khép kín theo hướng an toàn sinh học của gia đình anh Ánh là một trong những mô hình tiêu biểu phát triển kinh tế của địa phương, rất đáng để nhân rộng. Không chỉ làm giàu cho bản thân, vịt giống của trang trại anh Ánh đã giúp hàng chục hộ chăn nuôi khác cùng phát triển, cùng làm giàu, tạo việc làm cho nhiều lao động địa phương, đặc biệt, anh Ánh là người dám đi tiên phong song đã đánh thức được vùng đất trũng, hoang hóa của xã.

Dù đã trở thành tỷ phú nhưng anh Ánh vẫn sống giản dị, mộc mạc, đậm chất nông dân. Anh sẵn sàng chia sẻ những kinh nghiệm tích lũy được trong chăn nuôi cho các trang trại, gia trại và bà con nông dân muốn làm giàu từ nghề nuôi vịt đẻ, ấp trứng vịt bán giống để cùng làm giàu.

Thu Hiền

Nuôi bò vỗ béo mang lại hiệu quả cao

Nguồn tin: Báo Long An

Tận dụng lợi thế vùng sản xuất nông nghiệp, nông dân các huyện: Đức Huệ, Đức Hòa, Tân Hưng, Vĩnh Hưng,... tỉnh Long An chuyển sang nuôi bò vỗ béo ứng dụng công nghệ cao (ƯDCNC) mang lại hiệu quả.

Cánh đồng cỏ ứng dụng công nghệ cao tại xã Tân Thành, huyện Thủ Thừa

Nhiều hộ nông dân sau thời gian tìm hiểu mô hình nuôi bò vỗ béo đã quyết định đầu tư trang trại với quy mô nuôi 10-30 con bò. Hiện giá bò thịt 3b từ 30-40 triệu đồng/con, bò cóc 7-9 triệu đồng/con. Tại huyện Đức Hòa, Đức Huệ, nông dân chủ yếu vỗ béo bò 3b, bò Thái; còn nông dân huyện Tân Hưng, Vĩnh Hưng chủ yếu vỗ béo bò cóc có nguồn gốc từ Campuchia. Chỉ sau 2-3 tháng, nông dân có thể xuất bán bò cho thương lái.

Thông tin từ Hội Nông dân huyện Đức Huệ, hiện trên địa bàn có nhiều hộ nông dân sau 2 tháng nuôi bò vỗ béo đã có lời khoảng 100 triệu đồng. Ông Nguyễn Văn Ninh - chủ một trang trại bò (30 con), cho biết: “Thời gian qua, giá bò ổn định nên lợi nhuận cao, nhiều nông dân vì thế chuyển sang nuôi bò vỗ béo. Nông dân thường mua bò giống 3b (khoảng 20 tháng tuổi trở lên) từ các tỉnh miền Tây và Campuchia về vỗ béo. Sau khi vỗ béo khoảng 60 ngày, nông dân bán bò cho thương lái”.

Năm 2019, ông Trần Văn Tịnh, ngụ xã Đức Hòa Thượng, huyện Đức Hòa đầu tư trại nuôi hơn 30 con bò vỗ béo theo hướng ƯDCNC. “Qua thời gian nuôi bò vỗ béo, tôi nhận thấy hiệu quả cao hơn nuôi bò theo kiểu truyền thống. Thời gian tới, tôi tiếp tục tăng đàn bò để có kiếm lợi nhuận tốt hơn” - ông Tịnh chia sẻ.

Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh - Ngô Thanh Tuyền thông tin: “Thời gian qua, nuôi bò vỗ béo là một trong những mô hình chăn nuôi phát huy hiệu quả, mang lại nhiều lợi nhuận cho nông dân, giúp nhiều hộ thoát nghèo bền vững”.

Năm 2016, tỉnh triển khai Đề án Xây dựng vùng chăn nuôi bò thịt tập trung ƯDCNC ở 2 huyện Đức Hòa và Đức Huệ nhằm nâng chất đàn bò thịt của tỉnh. Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh - Đinh Thị Phương Khanh cho biết: “Đến nay, trên địa bàn 2 huyện Đức Hòa, Đức Huệ có trên 7.100 con bò có chất lượng cao bằng công nghệ giống. Ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục phối hợp các địa phương thực hiện đề án theo đúng kế hoạch; trong đó, tập trung củng cố, tập huấn, chuyển giao khoa học - kỹ thuật mới”.

Tại huyện Đức Hòa, đến nay đã thành lập được 4 mô hình điểm chăn nuôi bò thịt theo hướng chất lượng cao tại các xã: Mỹ Quý Tây, Mỹ Quý Đông, Mỹ Thạnh Bắc, Bình Hòa Bắc; 12 tổ hợp tác với gần 170 thành viên và 1 Hợp tác xã Tây Hòa. Ngoài ra, địa phương còn xây dựng gần 60 mô hình trồng cỏ cao sản làm thức ăn cho bò với diện tích gần 9ha.

Nhân công trong trại nuôi bò của bà Võ Thị Hà (Tân Trụ) trộn thức ăn cho bò

Theo Công ty (Cty) Cổ phần Thanh Nhân Food (huyện Tân Trụ) - doanh nghiệp nhận bao tiêu sản phẩm bò thịt, mỗi ngày, Cty cung cấp ra thị trường khoảng 2 tấn thịt bò tươi. Hiện Cty sẵn sàng liên kết với Hợp tác xã Chăn nuôi bò thịt xã Hòa Khánh Đông (Đức Hòa) cũng như các hộ chăn nuôi bò thịt trên địa bàn tỉnh để tiêu thụ sản phẩm bò thịt.

Tại khu sản xuất nông nghiệp ƯDCNC rộng trên 1.000ha (xã Tân Thành, huyện Thủ Thừa) có trang trại nuôi bò thịt, sản xuất bò giống chất lượng cao nhập từ Úc và Mỹ. Ngoài việc cung cấp giống bảo đảm chất lượng, khu trang trại này còn tận dụng nguồn phân bò để sản xuất phân bón hữu cơ và xây dựng vùng cỏ nguyên liệu ƯDCNC để sản xuất thức ăn cho bò rất ổn định. Trang trại ứng dụng cơ giới hóa và tự động hóa trong sản xuất ở hầu hết các khâu trong chăn nuôi.

Theo giảng viên Trường Đại học Nông Lâm TP.HCM - Nguyễn Kiên Cường, điều kiện quan trọng nhất để thành công trong chăn nuôi bò thịt là quỹ đất. Đất rộng sẽ đáp ứng việc trồng cỏ phục vụ chăn nuôi, làm chuồng trại cũng như quy mô tổng đàn. Hiện nay, nhu cầu bò thịt trên thị trường rất lớn. Nông dân nên chọn 4 loại giống bò: Red Angus, Charolais, BBB (Blanc Bleu Belge), Droughtmaster để chăn nuôi, bởi qua nghiên cứu thực tế, các loại giống này phù hợp với nhiều địa phương, trong đó có Long An./.

Minh Đăng

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop