Tin nông nghiệp ngày 06 tháng 07 năm 2020

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 06 tháng 07 năm 2020

Đồng Nai: TP.Long Khánh thu hút khách du lịch mùa trái cây

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai

TP.Long Khánh (tỉnh Đồng Nai) đang bước vào mùa trái cây chính rộ nhất trong năm, đây là thời điểm rất nhiều loại trái cây đặc sản như: chôm chôm, sầu riêng, măng cụt…cùng đến kỳ thu hoạch.

Những năm gần đây, vào mùa trái cây chín rộ, TP.Long Khánh không chỉ nhộn nhịp không khí thu hoạch, mua bán trái cây từ các nhà vườn mà còn trở thành điểm đến của nhiều du khách trong và ngoài tỉnh.

Khách du lịch tham quan vườn trái cây tại xã Bình Lộc (TP.Long Khánh)

“Vựa trái cây” của tỉnh

Ngay từ những ngày đầu tháng 5, các nhà vườn của TP.Long Khánh đã bắt đầu thu hoạch trái cây. Những địa danh xã, phường như: Bình Lộc, Hàng Gòn, Bảo Quang, Xuân Tân, Xuân Lập…gần như không còn xa lạ với người dân trong và ngoài tỉnh, bởi nơi đây đang hình thành những cánh đồng lớn liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm sầu riêng, chôm chôm, rau sạch...

Hay như tại xã Bình Lộc hiện đang là địa phương nổi nhất của Long Khánh bởi nơi đây không chỉ tập trung nhiều loại trái cây, trong đó có giống chôm chôm java đã được cấp chỉ dẫn địa lý mà nông dân nơi đây còn khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch nhà vườn, góp phần nâng cao đời sống bà con. Ông Lâm Phi Hùng, chủ vườn trái cây Sáu Hùng (ấp 1, xã Bình Lộc) cho biết, Bình Lộc đang cao điểm mùa trái cây, những ngày này phần lớn thời gian của nông dân trong xã ở ngoài vườn thu hoạch nông sản để thương lái kịp chuyển hàng. “Năm nay trái cây được mùa nhưng mất giá từ sầu riêng, chôm chôm đến các loại trái cây khác đều rẻ. Nguyên nhân chính là do ảnh hưởng từ dịch Covid-19. Bà con nông dân đã dự đoán từ trước nên ai cũng có tâm lý chuẩn bị. Hiện nay các nhà vườn đang cùng liên kết để khai thác du lịch, phục vụ du khách tham quan, thưởng thức trái cây tại vườn và được mua mang về. Do có kế hoạch làm du lịch nên các nhà vườn đều chăm sóc vườn cây theo hướng sản xuất sạch để bảo đảm sức khỏe khi khách tham quan hái và dùng trái cây ngay tại vườn” - ông Hùng chia sẻ.

Du lịch nhà vườn hút khách

Không chỉ ở xã Bình Lộc, các địa phương khác như phường Xuân Tân, Xuân Lập, Bàu Sen; xã Bảo Quang, Hàng Gòn…hiện cũng đang triển khai mô hình du lịch nhà vườn.

Theo UBND TP.Long Khánh, trên địa bàn thành phố hiện có trên 100 hộ dân đang liên kết để khai thác du lịch nhà vườn, thời điểm rộ nhất là vào mùa trái cây (từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm). Mỗi năm, du lịch nhà vườn của Long Khánh đón hàng chục ngàn du khách tham quan. Do đó, để khai thác hết thế mạnh, các địa phương cũng đang ra sức vận động, phối hợp cùng nông dân xây dựng các mô hình nhà vườn đẹp, tạo cảnh quan cho các khu vườn, phục vụ ăn uống, vui chơi khi khách có nhu cầu.

Ông Trần Văn Lộc, chủ vườn chú Lộc La cho biết, những ngày này vườn trái cây của ông mỗi ngày đón từ 100-200 khách, vào dịp cuối tuần lượng khách tăng lên từ 300-400. Theo ông Lộc, năm nay lượng khách cuối tuần nhiều hơn năm trước, mỗi tour khách tham quan gồm 3 vườn trái cây với giá 100 ngàn đồng/khách. Ông Lộc chia sẻ: “Du khách được tự do hái trái cây và ăn uống không giới hạn tại vườn, nếu khách có nhu cầu mua mang về thì nhà vườn sẽ bán với giá phải chăng, không có tình trạng chặt chém. Du khách cũng không bị giới hạn thời gian tham quan các vườn. Năm nay là năm thứ 3 làm du lịch nhà vườn, các nông dân cũng đã có thêm nhiều kinh nghiệm nên công tác phục vụ cơ bản tốt, du khách hài lòng, dịch vụ ăn uống tại vườn cũng được phục vụ chu đáo, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định”.

Ông Bùi Quốc Thể, Phó chủ tịch UBND TP.Long Khánh cho biết, Long Khánh là vùng dất có cây ăn quả đa dạng, phong phú, bốn mùa trái ngọt. Long Khánh cũng có rất nhiều vườn cây ăn trái có tuổi đời hàng chục năm, được canh tác theo hướng bền vững, đảm bảo chất lượng sản phẩm. Do đó, Long Khánh đã trở thành địa chỉ đáng tin cậy của các loại trái cây, mặt hàng nông sản có chất lượng. Việc phát triển du lịch Long Khánh thông qua giới thiệu, quảng bá và kết nối các di tích lịch sử, công trình kiến trúc lịch sử của thành phố gắn với du lịch sinh thái vườn là mục tiêu quan trọng được thành phố xác định trong kế hoạch phát triển du lịch của TP.Long Khánh, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn theo chủ trương, nghị quyết của tỉnh. Ông Thể kỳ vọng: “Hy vọng trái cây Long Khánh sẽ tiếp tục khẳng định thương hiệu, phát triển và mở rộng thị trường. Các tuyến du lịch sinh thái vườn trái cây trên địa bàn thành phố sẽ là điểm hẹn trong các tour du lịch của các công ty lữ hành trong và ngoài tỉnh khi đi qua địa bàn TP.Long Khánh”.

Nam Vũ

Trang bị kỹ năng làm du lịch cho nông dân thời 4.0

Nguồn tin:  CTV Cà Mau

Hiện nay, loại hình du lịch cộng đồng, du lịch nông nghiệp đang từng bước phát triển tại Cà Mau. Sự tham gia trực tiếp của nông dân đã tạo nên sự phong phú, hấp dẫn cho các sản phẩm du lịch, đồng thời đem lại thu nhập khá cho chính người dân. Tuy nhiên, để có thể phát triển loại hình du lịch này một cách hiệu quả, nông dân Cà Mau cần được trang bị thêm những kỹ năng cần thiết về nghệ thuật kinh doanh, giao tiếp ứng xử, giới thiệu, thuyết minh sản phẩm…

Với chủ trương phát triển đa dạng, khác biệt sản phẩm du lịch, tăng sự trải nghiệm cho du khách dựa trên lợi thế tài nguyên du lịch của địa phương. Những năm gần đây, du lịch cộng đồng đã bắt đầu phát triển ở ấp Cồn Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển. Song, kỹ năng làm du lịch của người dân vẫn còn thiếu.

Kế hoạch phát triển du lịch của tỉnh Cà Mau trong năm 2020 là ưu tiên xây dựng sản phẩm du lịch qua các loại hình phù hợp như: Du lịch địa lý, sinh thái, du lịch cộng đồng gắn với ngư, nông, lâm nghiệp… để trở thành điểm đến hấp dẫn, phấn đấu thu hút khoảng 1,9 triệu du khách trong và ngoài nước.

Sản xuất nông nghiệp sạch kết hợp với du lịch là hướng đi được đánh giá khác bền vững nhằm gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, hợp tác xã và nông dân. Vì vậy, bồi dưỡng kỹ năng làm du lịch cho nông dân để đáp ứng nhu cầu của khách tham quan đang là điều cần thiết để giúp người dân từng bước chuyên nghiệp hóa trong làm du lịch cộng đồng, từ đó thúc đẩy phát triển du lịch nói chung./.

PV: Kiều Nương

Đưa sản phẩm OCOP đến với người tiêu dùng

Nguồn tin:  Hà Nội Mới

Hà Nội có nhiều nông sản mang đặc trưng vùng, miền đã tham gia Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) và được thành phố xếp hạng theo từng mức sao. Thế nhưng việc thực hiện mục tiêu kép - đưa sản phẩm OCOP ra thị trường nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho người sản xuất và giúp người tiêu dùng tiếp cận với những sản phẩm chất lượng cao vẫn là vấn đề cần được quan tâm hơn nữa.

Các sản phẩm OCOP sản xuất từ mây, tre, giang đan của xã Phú Nghĩa (huyện Chương Mỹ) thu hút sự quan tâm của người tiêu dùng. Ảnh: Mạnh Dũng

Nan giải “đầu ra” sản phẩm

Bằng bí quyết riêng, người dân làng So (xã Tân Hòa, huyện Quốc Oai) đã sản xuất ra sợi miến có hương vị đặc biệt: Dai, dẻo, giòn, thơm… từ củ dong riềng. Ông Dương Đình Khôi, chủ cơ sở sản xuất miến dong Dương Kiên ở làng So cho biết, với nỗ lực hoàn thiện sản phẩm, cuối năm 2019, miến dong Dương Kiên được công nhận sản phẩm OCOP 4 sao cấp thành phố. "Tuy vậy, việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường cũng chưa hẳn đã suôn sẻ", ông Dương Đình Khôi chia sẻ.

Trong khi đó, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Thanh Hà (xã Khánh Hà, huyện Thường Tín) Bùi Thị Thanh Hà cho biết, Hợp tác xã đã đầu tư trên 5 tỷ đồng để xây dựng khu sản xuất rau công nghệ cao với diện tích 1,15ha, lắp đặt gần 8.000m2 nhà màng với hệ thống tưới phun tự động, kho lạnh, kho bảo quản, nhà sơ chế rau củ... Từ đó, các sản phẩm rau mầm, rau baby với thương hiệu “Rau an toàn Vinasafl” cũng như nhiều sản phẩm khác đã được thành phố xếp hạng sản phẩm OCOP 4 sao. Song cũng như nhiều sản phẩm OCOP khác, việc chiếm lĩnh thị trường đối với Hợp tác xã vẫn rất khó khăn. Tương tự, Nghệ nhân ưu tú Phan Thị Thuận (xã Phùng Xá, huyện Mỹ Đức) chia sẻ: “Công ty TNHH Dâu tằm tơ Mỹ Đức chuyên dệt lụa, trong đó có lụa dệt từ tơ sen. Đây là sản phẩm độc đáo, được làm thủ công rất đẹp và lạ nhưng chưa được nhiều người tiêu dùng biết đến".

Theo Văn phòng Điều phối chương trình xây dựng nông thôn mới, Chương trình OCOP của Hà Nội đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Thành phố đã có 301 sản phẩm được công nhận sản phẩm OCOP 3, 4 sao và tiềm năng 5 sao. Tuy vậy, do sản phẩm OCOP được sản xuất từ các hợp tác xã và doanh nghiệp nhỏ là chính nên có những hạn chế nhất định, nhiều sản phẩm chưa xây dựng được thương hiệu; chưa được quảng bá nhiều đến người tiêu dùng...

Tạo cầu nối ra thị trường

Với những khó khăn nảy sinh từ thực tiễn, mong muốn được thành phố hỗ trợ đẩy mạnh truyền thông để mỗi người dân hiểu, lựa chọn và sử dụng sản phẩm OCOP; đồng thời tổ chức các hoạt động hội chợ, xúc tiến thương mại để quảng bá sản phẩm, đẩy mạnh giao thương... là nguyện vọng của nhiều chủ thể tham gia Chương trình OCOP.

Về vấn đề này, Phó Chánh Văn phòng Thường trực Văn phòng Điều phối chương trình xây dựng nông thôn mới Hà Nội Nguyễn Văn Chí cho biết: Thời gian tới, thành phố sẽ tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại để đưa sản phẩm OCOP vào hệ thống siêu thị, cửa hàng kinh doanh thực phẩm an toàn, đồ thủ công mỹ nghệ, các sàn giao dịch điện tử, bán hàng online... Mục tiêu là sản phẩm OCOP phải trở thành một thương hiệu mạnh, được đông đảo người tiêu dùng trong và ngoài nước lựa chọn.

Ngay cuối tháng 6 vừa qua, Văn phòng Điều phối chương trình xây dựng nông thôn mới Hà Nội đã tổ chức Hội chợ trưng bày, quảng bá và kết nối giao thương các sản phẩm OCOP. Hơn 100 gian hàng với các sản phẩm rau, củ, quả, thịt, cá, dược liệu, sữa tươi; mây tre đan, sơn mài... đã đến với người tiêu dùng Thủ đô.

Tham dự hội chợ, bà Nguyễn Thị Liên, phường Vạn Phúc (quận Hà Đông) cho biết: “Không phải lúc nào chúng tôi cũng có thể tìm được các sản phẩm đặc sản vùng miền như miến làng So, gạo hữu cơ Đồng Phú, gốm Bát Tràng... Do vậy, đây là cơ hội để người tiêu dùng mua sắm sản phẩm đặc sản có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, chất lượng tốt”.

Bên cạnh những mặt tích cực, hiện việc triển khai Chương trình OCOP trên địa bàn các huyện còn gặp không ít khó khăn. Phó Trưởng phòng Kinh tế huyện Ứng Hòa Dương Hồng Điệp đánh giá, sản xuất nông sản của huyện chủ yếu là nông hộ, cơ sở sản xuất nhỏ lẻ; nhiều hợp tác xã quy mô nhỏ và vừa; quy trình kỹ thuật, tổ chức sản xuất, quảng bá thương hiệu chưa bài bản... Do vậy, thời gian tới huyện sẽ hỗ trợ các chủ thể tham gia Chương trình OCOP củng cố chất lượng, mẫu mã sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.

Theo Phó Chánh văn phòng Điều phối chương trình xây dựng nông thôn mới trung ương Trần Văn Môn: Những hội chợ cũng như các hoạt động xúc tiến thương mại do thành phố tổ chức là tiền đề để các sản phẩm có lợi thế của Hà Nội vươn xa ở tầm quốc gia và cao hơn là xuất khẩu, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho người nông dân.

Có thể thấy, để những sản phẩm OCOP đến gần hơn với người tiêu dùng thì các giải pháp quảng bá, xúc tiến thương mại có vai trò đặc biệt quan trọng. Phát huy kết quả đã đạt được, thành phố cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động này, tạo cầu nối giữa sản xuất và thị trường, góp phần phát triển nền kinh tế Thủ đô.

NGUYỄN MAI

Mít Thái rớt giá, người trồng buồn bã

Nguồn tin: Báo Sóc Trăng

Cây mít là một trong những loại cây dễ trồng, nhẹ công chăm sóc và đặc biệt trong vài năm trở lại đây, nhiều nhà vườn trồng loại mít Thái bởi thời gian trồng đến cho trái ngắn, tầm 10 - 12 tháng, với năng suất trái cao.

Theo thông tin từ nhiều nhà vườn, mít Thái được trồng chuyên canh hay xen canh với các loại cây trồng khác và mít được thị trường ưa chuộng nên trước đây có giá bán cao, người trồng thu lợi nhuận tốt. Tuy nhiên, trong khoảng 1 tháng trở lại đây, giá mít giảm sâu dẫn đến giảm lợi nhuận của người trồng. Theo nhà vườn nhận định một trong những nguyên nhân mít rớt giá là do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19, lượng tiêu thụ mít trên thị trường giảm.

Mít siêu sớm là một trong những loại cây dễ trồng, nhẹ công chăm sóc. Ảnh: THÚY LIỄU

Đưa chúng tôi ra thăm vườn mít Thái của gia đình đang cho những lứa trái đầu tiên, ông Nguyễn Văn Hai, ở ấp Hòa Lộc 2, xã Xuân Hòa (Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng) bộc bạch: “Để tăng thu nhập trên cùng diện tích đất, tôi đã trồng xen canh cây mít cùng cây vú sữa tím, số lượng mít trồng khoảng 600 cây (tương đương 5 công mít trồng chuyên canh). Nếu như thời điểm này năm trước, giá mít từ 30.000 đồng - 32.000 đồng/kg, thậm chí có thời điểm giá mít lên đến 50.000 - 60.000 đồng/kg, bán 1 trái mít thu về cả triệu đồng, thì hiện nay, giá bán ở mức 3.000 đồng - 7.000 đồng/kg. Thương lái mua mít phân ra từng loại: loại 1, mít có trọng lượng 9kg trở lên, thu mua mức giá 7.000 đồng/kg; loại 2, mít 7kg - 9kg; loại bi 7kg trở xuống và dưới 5kg mít được xếp vào hàng chợ, giá bán sẽ thấp hơn tầm 3.000 đồng/kg. Tôi mới thu hoạch đợt mít thứ hai bán giá được 5.000 đồng/kg. Với giá mít như trên thì không có lợi nhuận, chỉ đủ tiền phân bón cho cây. Để bảo dưỡng cây mít cho các mùa vụ tiếp theo, tôi quyết định hái bỏ hết đợt trái trong vụ này vì nếu lấy trái thu nhập không đáng kể, cây bị mất sức”.

Ghé thăm vườn mít của ông Mai Văn Bá, ở ấp Hòa Lộc 2, xã Xuân Hòa (Kế Sách), một trong những nhà vườn gắn bó cùng cây mít Thái đã nhiều năm qua. Thấy lợi nhuận từ loại mít này đem lại ông đã quyết định trồng xen canh trong vườn vú sữa tím sau bao năm trồng chuyên canh cây mít riêng lẻ nhằm tăng thu nhập cho vườn cây ăn trái. Ông Bá tâm tình: “Lúc trước, tôi trồng 100 cây mít Thái, giá bán mít lúc nào cũng ở ngưỡng 20.000 đồng trở lên nên lợi nhuận hàng năm lên tới hàng trăm triệu đồng. Bởi cây mít cho trái quanh năm, cứ nối tiếp nhau hết đợt này đến đợt trái kế tiếp, tuần nào cũng có mít thu hoạch. Với 100 cây mít, 1 năm doanh thu hơn 500 triệu đồng, trừ chi phí tôi bỏ túi hơn 300 triệu. Thấy lợi nhuận tốt từ cây mít sau khi 100 cây mít tàn, tôi quyết định trồng mới 300 cây mít siêu sớm, đã thu hoạch trái được 2 năm qua. Năm rồi giá mít luôn ở mức ổn định từ 20.000 đồng - 32.000 đồng/kg, tùy vào kích cỡ mít, còn năm nay mít rớt giá nhiều, lái mua giá thấp nên tôi thường bán cho vựa hoặc đợi mít chín bán bên ngoài có giá tốt hơn".

"Tôi mới thu hoạch hơn 200kg mít, loại 1 bán giá 7.000 đồng/kg, giá này tạm ổn, có lợi nhuận chút đỉnh, do mít nhẹ công chăm sóc, ít tốn chi phí phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thường tôi chỉ phun 1 lần duy nhất thuốc ngừa sâu hại tấn công trên mít lúc trái còn nhỏ và dùng túi bao trái đến khi thu hoạch. So các loại cây trồng khác, mít sẽ cho thu nhập cao hơn gấp vài lần nhưng với giá mít xuống thấp như hiện tại thì nhà vườn không có lợi nhuận, nếu giá mít tầm 10.000 đồng/kg thì nhà vườn có thu nhập tốt…” - ông Mai Văn Bá chia sẻ thêm.

Trưởng Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật huyện Kế Sách Trần Văn Toàn cho biết: “Tổng diện tích trồng mít siêu sớm trên địa bàn huyện là 882ha, tập trung nhiều nhất tại các xã: Xuân Hòa, Ba Trinh, còn lại là rải rác tại các xã, thị trấn trên địa bàn toàn huyện. Với cây mít, huyện không quy hoạch vùng trồng, chủ yếu nhà vườn trồng theo hình thức tự phát do thấy giá cả trên thị trường tốt. Tuy nhiên, thời điểm hiện tại, giá mít xuống thấp nên nhiều nhà vườn họ cũng lo lắng, có lúc giá 1kg ở mức chỉ vài ngàn đồng, thấp hơn thời điểm năm trước vài chục lần. Bên cạnh đó, mít là loại cây trồng mẫn cảm nước mặn nên đối với một số xã ảnh hưởng xâm nhập mặn, nhà vườn cần cân nhắc kỹ khi trồng mít để đảm bảo nguồn thu nhập”.

THÚY LIỄU

Gần 200.000 đồng một trái na 'khổng lồ'

Nguồn tin: VnExpress

Na nữ hoàng nặng 1-1,5 kg lần đầu được anh Liêm, Đồng Nai đưa tới siêu thị ở TP HCM trưng bày và bán giá gần 200.000 đồng mỗi trái.

Lần đầu mang trái na nữ hoàng "khổng lồ" bán tại siêu thị TP HCM, anh Liêm, quản lý trang trại ở Đồng Nai cho biết, khách hàng đón nhận khá tích cực. Với những trái nặng từ 600 gram đến 1 kg, anh bán giá 120.000 đồng. Riêng những trái nặng 1-1,5 kg, anh bán giá 200.000 đồng.

"Loại na này được chúng tôi trồng khoảng 5 năm ở Đồng Nai. Chúng thuộc dòng na dai nên vị ngọt đậm đà, thịt dày. Một năm vườn thu hoạch hai đợt vào dịp hè và Tết Nguyên Đán. Mỗi đợt khoảng 5 tấn", anh Liêm nói.

Với diện tích trồng khoảng 3 ha, na ở vườn nhà anh thường không đủ bán cho khách. Theo nhẩm tính của anh Liêm, từ khi ra trái đến nay, vườn na nhà anh đã bán ra thị trường khoảng 40-50 tấn.

Loại này mẫu mã đẹp, ăn lại ngon, ít sâu bệnh nên ngoài xuất khẩu, các cửa hàng lớn đều đăng ký đặt hàng khi đến vụ. Đợt này na đang đầu vụ, sản lượng ít nên anh chỉ mang xuống Sài Gòn được vài chục kg để tiếp cận người tiêu dùng. Tuy nhiên, nếu khách hưởng ứng nhiệt tình, tạm thời anh sẽ hoãn các đơn hàng đã đặt trước để tiếp tục đem xuống giới thiệu cho người dân ở đây.

Trái na nặng hơn một kg được bán tại siêu thị ở Bình Tân, TP HCM. Ảnh: Hồng Châu.

Ngoài na nữ hoàng "khổng lồ" của anh Liêm, tại "Phiên chợ Tuần nông sản an toàn thực phẩm 2020 ở TP HCM", người tiêu dùng cũng chú ý thanh long vàng của cô Huỳnh Thị Liên Hoa, Chủ tịch Hội đồng quản trị Hợp tác xã Nông nghiệp Quang Nhựt.

Theo cô Hoa, vì thanh long vàng tại vườn mới bắt đầu vào vụ nên khi tham dự phiên chợ này, cô chỉ mang được vài kg để tiếp cận người tiêu dùng. "Không ngờ họ lại đón nhận nhiệt tình đến vậy. Giờ tôi chỉ còn 2 trái để khách xem mẫu. Nếu đối tác nào muốn phân phối hoặc mua về ăn thì 10 ngày nữa có thể đặt hàng, vì lúc đó thanh long vàng sẽ chín nhiều", cô Hoa nói.

Cô này cũng cho biết thêm, hiện vườn nhà cô có khoảng 2 ha trồng mặt hàng này. Những vụ trước đa phần bán cho đầu mối các cửa hàng. Sắp tới, nếu khách hàng nào muốn lấy xuất khẩu, công ty sẽ mở rộng diện tích.

Thanh long vàng có giá bán 100.000 đồng một kg. Ảnh: Hồng Châu.

Ngoài ra, tại phiên chợ Tuần nông sản 2020 còn có các loại đặc sản như sâm dây Ngọc Linh, mật ong chanh dây, tỏi đen,... cũng được nhiều khách hàng quan tâm.

Theo đại diện Trung tâm xúc tiến thương mại nông nghiệp (AGRITRADE), phiên chợ này quy tụ hơn 30 doanh nghiệp của gần 10 tỉnh thành phố phía Nam.

Đây cũng là phiên chợ đầu tiên được tổ chức tại TP HCM. Đa phần những nông sản mang đến hội chợ là sản phẩm lạ, lần đầu đưa đến Sài Gòn để giới thiệu. Toàn bộ hàng hóa được kiểm tra kỹ trước khi cho bán tại Big C An Lạc (TP HCM). Phiên chợ diễn ra từ ngày 3-5/7/2020.

Hồng Châu

Hạn mặn gay gắt, nhà vườn trồng hồng xiêm vẫn bội thu

Nguồn tin: VOV

Dù hạn mặn gay gắt, khốc liệt, nhiều nhà vườn trồng hồng xiêm ở huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang vẫn được mùa, được giá.

Trong đợt hạn mặn lịch sử vừa qua, nhiều loại cây trồng ở vùng ĐBSCL bị thiệt hại nặng nề, thậm chí chết trắng. Trong khi đó, cây sapô (tức Hồng Xiêm) tại huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang vẫn xanh tươi trĩu quả. Đây là một trong số cây ăn quả có khả năng thích ứng với hạn mặn cao, giúp nhà vườn có nguồn thu nhập ổn định.

Sau đợt hạn mặn vườn sa pô ở tỉnh Tiền Giang vẫn tốt tươi.

Ông Nguyễn Tấn Trung, nhà vườn ở ấp Hội, xã Kim Sơn cũng như nhiều nhà vườn khác ở địa phương rất phấn khởi khi trái sapô hiện nay trúng giá. Ở thời điểm này, sapô giá đến 25.000 đồng/kg, gấp 2 lần so với cùng vụ năm ngoái. Đặc biệt đợt hạn mặn vừa qua, cây sapô không bị thiệt hại mà phát triển tươi tốt.

Ông Nguyễn Tấn Trung bày tỏ: “Mình cũng có chuyển nhiều loại cây rồi, nhưng về mặt kinh tế cây sapô so với các loại cây khác thì ổn định hơn. Cây rất dễ trồng, chăm sóc cũng dễ dàng so với các loại cây khác. Nếu gặp hạn mặn vẫn chống chịu được, tỉ lệ sống cao hơn các loại cây kia. Khi triều cường, ngập úng mình xả nước ra kịp thời cây vẫn sống”.

Bà Huỳnh Mỹ Trang ở xã Kim Sơn trồng hơn 01 ha cây sapô, sau đợt hạn mặn cũng có nguồn thu trên 400 triệu đồng, cho biết: “Tôi có hơn chục công đất, từ trước đến nay trồng toàn cây này. Cây sapô chịu nước mặn vẫn có trái bình thường. Nhờ cây này, hàng tháng tôi đều có tiền, thu hoạch đều”.

Người dân thu hoạch trái sapô.

Cây sapô đã bám rễ trên vùng đất ven sông Tiền thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang hơn 30 năm qua với trên 2.000 ha, tập trung nhiều ở các xã Kim Sơn, Phú Phong, Bàn Long, Vĩnh Kim, Bình Trưng, Long Hưng…

Đến nay, loại cây ăn quả này vẫn được người dân lựa chọn và cho thu nhập ổn định. Có thời điểm khan hàng, giá trái sa pô lên đến hơn 30.0000 đồng/kg; thời điểm dội hàng giá cũng ở mức trên dưới 10.000 đồng/kg. Trung bình 01 ha trồng cây sa pô, nhà vườn cho thu nhập khoảng 500 triệu đồng. Đặc biệt, đợt hạn mặn vừa qua, cây sa pô không bị thiệt hại do thiếu nguồn nước ngọt.

Ông Trần Văn Quá, Chủ tịch UBND xã Kim Sơn cho biết, toàn xã có gần 800 ha vườn cây sa pô, đa số nhà vườn trồng loại cây này đều có cuộc sống khá giả.

“Cây sapô thích hợp với thổ nhưỡng, vùng đất xã Kim Sơn. Hướng tới, địa phương vẫn duy trì và phát triển trồng cây sa pô này. Ở xã có thành lập hợp tác xã sa pô Mặc Bắc, liên kết với các ngành chức năng của huyện để chuyển giao khoa học- kỹ thuật, hướng dẫn cho người dân sản xuất cây sa pô theo hướng Viet GAP để có chất lượng, đảm bảo đầu ra”, ông Quá cho biết thêm.

Nhà vườn vệ sinh trái sa pô trước khi đưa đi tiêu thụ.

Gần đây khi trái sa pô ở huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang được Cục Sở hữu trí tuệ (thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp chứng nhận nhãn hiệu hàng hóa độc quyền “sa pô Mặc Bắc – Kim Sơn”, đầu ra loại trái cây này rất thuận lợi. Ngoài thị trường tiêu thụ nội địa, trái sa pô còn xuất đi một số nước khác trên thế giới.

Ông Nguyễn Thành Vinh, Giám đốc Công ty TNHH Dừa Hạnh Phúc- doanh nghiệp chuyên kinh doanh trái cây tại xã Bàn Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang cho biết, trái sa pô rất triển vọng do thị trường hút hàng. Theo ông nhà vườn cần nhân rộng diện tích cây này để có nguồn thu nhập ổn định.

“Cây sa pô cho trái quanh năm, thị trường tiêu thụ ở các tỉnh phía Bắc rất thích. Xuất khẩu thì đã đi thị trường Singapore. Trái sa pô tương lai rất triển vọng. Là một công ty xuất khẩu trái cây, tôi cũng khuyên bà con nên nhân rộng cây sa pô vì cây này thích hợp nhiều vùng đất và dễ phát triển”, ông Vinh cho hay.

Cây Sa pô là 1 trong 11 loại trái cây đặc sản của vùng đất Tiền Giang. Đây là loại cây ăn quả dễ trồng, thích nghi với hạn mặn và cho thu nhập ổn định. Sau đợt hạn mặn 2020, nhà vườn khu vực ĐBSCL nhân rộng loại cây ăn trái này.

Vấn đề đặt ra đối với các cấp chính quyền và ngành chuyên môn là cần chuyển giao khoa học kỹ thuật để nhà vườn trồng cây sa pô đạt chất lượng và mở rộng thị trường tiêu thụ nhất là xuất khẩu ra nhiều nước trên thế giới./.

Nhật Trường/VOV-ĐBSCL

Hỗ trợ kỹ thuật trồng và chăm sóc cây mắc ca cho nông dân

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Sáng 2-7, tại xã Ea Kênh (huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk), Hiệp hội Mắc ca Việt Nam đã tổ chức Hội thảo đầu vườn về kỹ thuật trồng và chăm sóc cây mắc ca cho nông dân trên địa bàn xã.

Tại buổi hội thảo, nông dân được các cán bộ kỹ thuật của Hiệp hội hướng dẫn cách chọn cây giống ghép chất lượng tốt; kỹ thuật trồng xen, chăm sóc và quản lý vườn mắc ca; nhận biết các loại sâu bệnh hại trên cây mắc ca, các biện pháp chống gẫy đổ do gió lốc; cách thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch…

Các đại biểu tham quan vườn mắc ca trên địa bàn xã Ea Kênh (huyện Krông Pắc)

Ngoài ra, bà con nông dân còn được Hiệp hội cung cấp những thông tin mới về thị trường, giá thu mua hạt mắc ca hiện nay của thế giới và trong nước; giới thiệu nguồn vay tín dụng ưu đãi phát triển cây mắc ca của Ngân hàng Bưu điện Liên Việt; giới thiệu các thiết bị máy móc phụ trợ…

Bà con nông dân dự hội thảo đều nhận định cây mắc ca hiện cho hiệu quả kinh tế khá tốt do giá cao và nhu cầu thị trường đang lớn. Vì vậy, bà con mong muốn được Hiệp hội làm cầu nối với doanh nghiệp, ngân hàng để đầu tư phát triển cây mắc ca theo hình thức xen canh. Đồng thời, bảo đảm việc thực hiện liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm theo đúng hợp đồng; hỗ trợ thêm về kỹ thuật, nơi cung ứng giống tin cậy...

Máy bóc vỏ xanh mắc ca được giới thiệu cho nông dân tại hội thảo

Được biết, huyện Krông Pắc hiện có khoảng 40 ha mắc ca, chủ yếu là trồng xen trong các vườn cà phê, hồ tiêu. Tiềm năng phát triển cây trồng xen trên địa bàn còn rất lớn, thời gian tới ngành nông nghiệp huyện sẽ tiến hành rà soát, đánh giá lại hiện trạng phát triển cây mắc ca trên địa bàn các xã để có định hướng phát triển loại cây này, góp phần đa dạng hoá sản phẩm ngành nông nghiệp của địa phương.

Minh Thuận

Bắc Kạn: Bí xanh thơm Ba Bể từng bước vươn ra thị trường lớn

Nguồn tin: Báo Bắc Kạn

Những năm qua, sản phẩm bí xanh thơm của huyện Ba Bể (tỉnh Bắc Kạn) đã được người tiêu dùng biết tới và là cây trồng chủ lực mang lại hiệu quả kinh tế cho địa phương. Đến nay, cây bí xanh thơm đã được người dân nhân giống và ứng dụng công nghệ quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP.

Lãnh đạo xã Yến Dương và thành viên của HTX Yến Dương (Ba Bể) thăm mô hình trồng cây bí xanh thơm tại địa phương

Vụ trồng bí xanh thơm năm 2020, huyện Ba Bể trồng được 76ha bí xanh, tập trung chủ yếu tại các xã Địa Linh, Yến Dương, Mỹ Phương, Chu Hương. Tổng sản lượng ước đạt trên 3 nghìn tấn.

Hiện nay, mỗi ha trồng bí xanh thơm cho thu nhập từ 120 -160 triệu đồng. Huyện Ba Bể đang tập trung hướng dẫn các địa phương, HTX, nhóm hộ trồng cây bí xanh theo hướng sản xuất nông sản sạch, ứng dụng công nghệ cao vào quy trình sản xuất, đảm bảo về chất lượng, an toàn thực phẩm. Vừa qua, Chi cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản tỉnh đã cấp giấy chứng nhận VietGAP cho sản phẩm bí xanh thơm của HTX Thanh Đức, xã Địa Linh. HTX Thanh Đức đã ký kết hợp đồng cung ứng sản phẩm bí xanh cho siêu thị Big C Hà Nội với sản lượng là 70 tấn/1năm.

Để cụ thể hóa kế hoạch hợp tác tạo liên kết chuỗi từ sản xuất đến tiêu thụ các sản phẩm hàng hóa giữa thành phố Hà Nội và tỉnh Bắc Kạn, Tuần lễ giới thiệu bí xanh thơm, gạo Japonica và các sản phẩm nông sản sạch của tỉnh Bắc Kạn dự kiến tổ chức tại thành phố Hà Nội trong thời gian 03 ngày từ ngày 10 - 12/7/2020, địa điểm tại siêu thị VinMart Trung Hòa và siêu thị VinMart Times City./.

PV

Sản phẩm OCOP Hà Nội: Nếp cái hoa vàng Thụy Lâm

Nguồn tin: Hà Nội Mới

Cuối năm 2019, sản phẩm gạo nếp cái hoa vàng của Hợp tác xã Kinh doanh dịch vụ tổng hợp nông nghiệp Thụy Lâm (huyện Đông Anh) đã được thành phố Hà Nội công nhận sản phẩm 3 sao trong Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) của thành phố.

Ảnh minh họa.

Nếp cái hoa vàng là giống lúa đặc sản, chất lượng gạo rất ngon nhưng đòi hỏi thổ nhưỡng và thời vụ canh tác phù hợp cây mới sinh trưởng và phát triển tốt. Do chất đất phù hợp và nông dân có nhiều kinh nghiệm, lại được tập huấn trồng lúa theo quy trình thâm canh lúa cải tiến SRI nên nhiều năm qua, xã Thụy Lâm phát triển tốt vùng trồng nếp cái hoa vàng. Hiện nay, nông dân xã Thụy Lâm chỉ trồng nếp cái hoa vàng duy nhất một vụ mùa trong năm với tổng diện tích hơn 570ha, chiếm 100% diện tích canh tác lúa của địa phương.

Sau khi thu hoạch, lúa nếp được phơi khô, xay xát sạch vỏ trấu để cho ra những hạt gạo tròn, mẩy, không vỡ, có mùi thơm nhẹ. Khi nấu xôi, hạt gạo trong và ráo, mềm nhưng không nát, thơm đậm đà; bánh chưng được làm từ gạo nếp cái hoa vàng thơm ngon, để được lâu mà không bị cứng... Hiện gạo nếp cái hoa vàng Thụy Lâm được đóng trong bao bì đẹp mắt, có tem nhãn truy xuất nguồn gốc, giá bán lẻ trên thị trường 35.000 đồng/kg.

Theo Giám đốc Hợp tác xã Kinh doanh dịch vụ tổng hợp nông nghiệp Thụy Lâm Nguyễn Thị Cúc, từ năm 2013, sản phẩm gạo nếp cái hoa vàng của xã Thụy Lâm đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp nhãn hiệu tập thể, giúp nâng cao giá trị hạt gạo trên thị trường. Tuy nhiên, với diện tích canh tác và sản lượng lớn nên việc tiêu thụ còn nhiều khó khăn. Tham gia Chương trình OCOP và được thành phố Hà Nội cấp sao, sản phẩm gạo nếp cái hoa vàng Thụy Lâm sẽ thuận lợi hơn khi tham gia chuỗi liên kết ngành hàng, mở rộng thị trường tiêu thụ…

MINH PHÚ

Chọn đúng phân bón để canh tác hiệu quả

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Với nhà nông, dùng phải phân bón giả, nhái, kém chất lượng… không chỉ gây thiệt hại về kinh tế, mà còn để lại hậu họa cho đất và môi trường. Thế nhưng, không phải bà con nào cũng phân biệt được sản phẩm nào là thật và sản phẩm nào kém chất lượng.

Chọn đúng phân bón để canh tác hiệu quả. Ảnh: VGP/Minh Thi

Các nhóm phân bón chính cần thiết cho cây sinh trưởng tốt bao gồm N-P-K, trong đó kali chiếm vai trò khá quan trọng, giúp cây trữ nước tốt, tăng thời gian chống hạn, kháng bệnh và vi khuẩn. Cây thiếu kali sẽ khó trao đổi chất, lá héo, giảm nảy mầm, lép hạt. Nhưng nếu bón sai kali, hay dùng phải kali “rởm” thì hậu quả còn tệ hơn, đó là làm chai đất, héo cây, thậm chí cây chết hàng loạt, dẫn đến năng suất suy giảm, mùa màng thất bại.

Theo Bộ Công Thương, trung bình mỗi năm lực lượng quản lý thị trường phát hiện tới 3.000 vụ vi phạm phân bón kém chất lượng. Để mua đúng sản phẩm thật và chất lượng, bà con nên chọn kali của những thương hiệu uy tín. Trên các bao bì của các thương hiệu phân bón uy tín đều in rõ tỷ lệ thành phần, thông tin truy xuất… trong khi đó bao bì của sản phẩm phân bón trôi nổi, hàng giả sẽ không in thành phần, hoặc có in nhưng khi kiểm tra thì chất lượng không đủ yêu cầu.

Đạm Cà Mau là một trong những thương hiệu gắn bó lâu dài và được bà con tin dùng trong mỗi vụ mùa. “Lấy lợi ích nhà nông làm phương châm hành động”, công ty luôn sản xuất những dòng sản phẩm phân bón chất lượng với chi phí hợp lý, giúp tăng lợi nhuận cho bà con, đồng thời góp phần gìn giữ môi trường.

Kali Cà Mau là sản phẩm nhập khẩu Israel với hàm lượng K2O luôn ổn định và khoáng chất cao. Sản phẩm ít bị lem màu, luôn khô rời và có màu hồng đỏ đặc trưng bởi công nghệ hóa sinh hiện đại. Những đặc điểm này sẽ giúp bà con dễ dàng nhận biết và chọn đúng phân kali chất lượng, đảm bảo mùa vụ thành công.

Để sản phẩm uy tín đến được tay bà con với giá tốt nhất, Đạm Cà Mau chú trọng công tác phân phối bên cạnh triển khai đồng hành, tư vấn kỹ thuật, phổ biến kiến thức nông nghiệp và phân bón để bà con cập nhật, sử dụng hiệu quả.

Trong 6 tháng đầu năm 2020, Đạm Cà Mau đã đồng loạt tổ chức nhiều chương trình thiết thực hỗ trợ bà con đối phó thiên tai dịch họa. Cụ thể, công ty phối hợp cùng Viện Lúa ĐBSCL, chi cục trồng trọt và bảo vệ thực vật các tỉnh triển khai chương trình canh tác lúa thông minh. Cùng với đó là tổ chức truyền thông để bà con hiểu được tác hại của việc sử dụng phân bón kém chất lượng; hỗ trợ đo lường độ mặn và khắc phục sau hạn mặn, tổ chức các hội thảo, mô hình trình diễn… Hoạt động tư vấn cũng được công ty thực hiện qua hình thức online, offline nhằm đồng bộ, thường xuyên và rộng rãi đến nhiều bà con.

Với việc khoảng 65% diện tích lúa vụ Hè Thu tại vựa lúa Tây Nam Bộ sử dụng phân bón “đúng thương hiệu” và “đủ hàm lượng” đã giúp bà con tăng hiệu quả kinh tế, giúp doanh nghiệp tăng sản lượng tiêu thụ, giải quyết bài toán hàng tồn trong bối cảnh thị trường đầy khó khăn.

Cùng với thị trường Campuchia bắt đầu vào chính vụ, sản lượng tiêu thụ kali nói riêng, bộ sản phẩm “Hạt ngọc mùa vàng” dự báo sẽ càng khởi sắc. Đạm Cà Mau đang tô đậm thêm chiến lược kinh doanh bền vững cùng sứ mệnh phụng sự, nâng tầm nông nghiệp Việt Nam.

Minh Thi

Giải quyết tranh chấp vật nuôi

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Ở các vùng nông thôn nước ta, đã và đang xảy ra rất nhiều vụ tranh chấp về quyền sở hữu vật nuôi, các đương sự phải đưa nhau ra tòa để giải quyết. Trên thực tế, các vụ tranh chấp về vật nuôi diễn ra trong bối cảnh có những vướng mắc mà việc giải quyết không hề dễ dàng.

Gia súc, gia cầm cũng là loại tài sản được quy định trong chế định pháp luật về tài sản và quyền sở hữu. Do đặc tính di chuyển của vật nuôi, cùng với tập quán thả rông vật nuôi, đã khiến cho việc quản lý và bảo vệ vật nuôi gặp phải những khó khăn nhất định. Có nhiều vụ tranh chấp vật nuôi giữa 2 hộ gia đình được thương lượng giải quyết, hòa giải khi cả hai bên đồng thuận. Trong trường hợp hai bên không thỏa thuận được, tòa án cũng không có căn cứ nào để giải quyết. Do vậy, trong Bộ luật Dân sự Việt Nam, ngoài các quy định về quyền sở hữu chung như các loại tài sản khác, còn quy định các trường hợp xác định quyền sở hữu khi vật nuôi bị thất lạc.

Về công nghệ tế bào động vật, Viện Chăn nuôi có thể giám định ADN vật nuôi. Giải pháp này có hiệu quả trong trường hợp nguồn gốc vật nuôi được xác định rõ ràng, cũng như có nguồn ADN huyết thống. Tuy nhiên, hạn chế của giải pháp này là chi phí giám định cao. Đương sự tranh chấp giành lại vật nuôi bởi có thể đó là cả gia tài với họ nhưng chi phí để giải quyết lại vượt quá khả năng chi trả. Hệ thống pháp luật hiện nay không có các quy định hướng dẫn về cách thức xử lý các trường hợp tranh chấp vật nuôi như vậy. Thậm chí, có những vụ việc vì không thống nhất được nên phải kéo dài bất tận. Kể cả trong trường hợp không có căn cứ giải quyết, pháp luật cũng chưa có cơ chế xử lý đối với vật nuôi tranh chấp. Có trường hợp tòa án buộc phải giải quyết bằng cách… chia đôi vật nuôi.

Sau khi giải quyết vấn đề khó khăn là vật nuôi thuộc về ai, người đã nuôi giữ gia súc, gia cầm trong thời gian bị thất lạc có quyền yêu cầu chủ sở hữu phải thanh toán tiền công và chi phí theo khoản 2 Điều 231 và khoản 2 Điều 232 Bộ luật Dân sự 2015. Ngoài ra, trong khoảng thời gian đó, nếu gia súc, gia cầm có sinh con thì người nuôi giữ được hưởng một nửa số con hoặc nửa giá trị nếu là gia súc, hoặc được hưởng toàn bộ nếu là gia cầm. Quy định này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người nuôi giữ gia súc, gia cầm bị thất lạc của người khác. Thế nhưng, quy định này cũng chỉ dừng lại ở đối tượng là gia súc, gia cầm, nếu là các loại vật nuôi khác (trừ vật nuôi dưới nước đã được quy định tại Điều 233 Bộ luật Dân sự 2015) thì lại chưa có cơ chế đảm bảo quyền lợi cho người nuôi giữ,

Luật sư NGUYỄN TRUNG TRỰC - Văn phòng Luật sư Phan Law Vietnam

Cải thiện thu nhập nhờ nuôi dê Boer lai

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Sau hơn 3 năm đầu tư nuôi dê Boer lai, gia đình bà Đoàn Thị Thọ (thôn Tân An, xã Ia Sao, huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai) đã thu được thành công. Hiện tại, gia đình bà thu nhập gần 25 triệu đồng/tháng từ việc bán dê giống và dê thương phẩm.

Bà Thọ cho biết: Qua tìm hiểu trên các phương tiện thông tin đại chúng, bà nhận thấy giống dê Boer lai được thị trường ưa chuộng vì thịt thơm ngon, dễ chăm sóc, nguồn thức ăn lại đơn giản. Vì vậy, tháng 1-2017, bà vào tỉnh Đồng Nai mua 50 con dê Boer lai, trong đó có 2 con dê đực hết 130 triệu đồng đem về nuôi. Do chăm sóc chưa đúng kỹ thuật, cộng với môi trường sống thay đổi nên dê bị bệnh, chết hơn 1/3 đàn. Không bỏ cuộc, bà Thọ tiếp tục học hỏi trên các diễn đàn chăn nuôi cũng như trực tiếp đến các trang trại nuôi dê trong và ngoài tỉnh để tham quan, học tập kinh nghiệm. Từ đó, đàn dê của gia đình bà phát triển ổn định.

Bà Đoàn Thị Thọ (thôn Tân An, xã Ia Sao, huyện Ia Grai) chăm sóc đàn dê Boer lai. Ảnh: P.T

Sau hơn 3 năm vừa nuôi vừa nhân giống, gia đình bà Thọ hiện có hơn 300 con dê giống và dê thương phẩm. Bà Thọ chia sẻ: “Dê Boer lai trung bình 2 năm sinh sản được 3 lứa, mỗi lứa 1-4 con. Dê nuôi tầm 7-8 tháng thì đạt trọng lượng 30-35 kg, có thể xuất bán. Mỗi tháng, gia đình tôi bán trung bình 10-15 cặp dê. Dê thịt bán với giá 120 ngàn đồng/kg, dê giống bán 200 ngàn đồng/kg. Các chủ buôn thường tìm đến tận nơi để mua dê. Ngoài ra, tôi còn cung cấp thịt dê cho các nhà hàng trong và ngoài tỉnh”.

Chia sẻ về kinh nghiệm nuôi dê, bà Thọ cho hay, ngoài chọn giống có nguồn gốc rõ ràng từ các cơ sở uy tín, người chăn nuôi cần chú trọng đến khâu chăm sóc, đặc biệt là giai đoạn dê còn nhỏ, sức đề kháng yếu. Lúc này, cùng với việc bú sữa mẹ, dê con cần được bổ sung thêm sắt và vitamin. “Khi dê con được 2 tháng tuổi, tôi tách khỏi dê mẹ. Sau đó, tôi phân chia dê sinh sản và dê thương phẩm vào 2 dãy chuồng riêng biệt. Mỗi con dê được đánh số thứ tự để dễ theo dõi và có chế độ chăm sóc cho phù hợp”-bà Thọ nói.

Theo bà Thọ, dê là loài động vật không ưa độ ẩm cao nên cần nuôi theo kiểu chuồng sàn. Chuồng được thiết kế cách mặt đất 60-80 cm để tạo không gian thông thoáng, dễ vệ sinh và tiện cho việc thu gom phân dê. Ngoài nguồn thu từ bán dê giống và dê thương phẩm, bà Thọ còn thu được 7 triệu đồng/tháng từ việc bán phân dê.

Để đảm bảo đủ lượng thức ăn cho dê, bà Thọ trồng hơn 5 sào cỏ voi và cỏ sả. Đây là giống cỏ có hàm lượng dinh dưỡng cao. Ngoài ra, bà còn cho dê ăn một số phụ phẩm khác như bắp, chuối… Trong quá trình chăn nuôi, bà luôn tuân thủ đúng quy trình phòng-chống dịch bệnh cho dê. Chuồng trại được phun thuốc khử trùng 1 lần/tuần đảm bảo vệ sinh chăn nuôi. Thời gian đến, bà Thọ dự tính mở rộng thêm diện tích chăn nuôi dê Boer lai để đáp ứng nhu cầu thị trường.

Đánh giá về mô hình nuôi dê Boer lai của gia đình bà Thọ, bà Nguyễn Thị Mến-Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Ia Sao-cho biết: Mô hình nuôi dê Boer lai của gia đình bà Thọ được xây dựng rất bài bản. Dê được chăn nuôi sạch, đảm bảo an toàn vệ sinh nên thị trường rất ưa chuộng. Mô hình nuôi này đã mang lại thu nhập cao cho gia đình bà Thọ và tạo việc làm cho 1 lao động tại địa phương. “Thời gian đến, tôi mong nhiều hội viên, phụ nữ của xã mạnh dạn tiếp cận các mô hình mới để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, người chăn nuôi cần tìm hiểu kỹ thị trường, tránh tình trạng phát triển ồ ạt, khó tiêu thụ sản phẩm, ảnh hưởng đến kinh tế gia đình”-Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Ia Sao nói thêm.

Phan Thương

Công phu nghề nuôi ngựa bạch

Nguồn tin: Nhân Dân

Ngựa bạch được người dân xóm Phẩm chăm sóc công phu.

Kế thừa nghề gia truyền lâu năm, sự cần mẫn, giữ uy tín của những người làm nghề hôm nay đã làm cho ngựa bạch và các sản phẩm từ ngựa bạch xóm Phẩm, xã Dương Thành, huyện Phú Bình (Thái Nguyên) phát triển, ngày càng được nhiều nơi biết đến.

Ngựa là vật nuôi gắn bó với người dân xóm Phẩm từ nhiều thập niên trước, khi giao thông còn rất nhiều khó khăn, phương tiện đi lại không có, ngựa làm phương tiện đi lại, thồ hàng, sau đó dùng ngựa để cày ruộng, kéo xe. Từ khoảng hơn 20 năm trở lại đây, với kinh nghiệm chăn nuôi sẵn có, lại được sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật, nghề nuôi ngựa bạch ở xóm Phẩm phát triển không ngừng, hình thành làng nghề ngựa bạch, phát triển lên thành HTX Ngựa bạch xóm Phẩm.

Cùng Bí thư Đảng ủy xã Dương Thành Nguyễn Văn Ái thăm cơ sở nuôi ngựa của gia đình Phó Giám đốc HTX Ngựa bạch xóm Phẩm Dương Văn Trường thấy chuồng trại chăn nuôi ngựa được xây dựng kiên cố, mỗi con ngựa được nuôi nhốt một khoang riêng biệt, trong chuồng đang có mười con ngựa, trong đó, có năm con ngựa bạch.

Ngựa bạch đang được nuôi ở xóm Phẩm nói chung, gia đình anh Dương Văn Trường nói riêng được cung cấp từ hai nguồn, đó là mua của các gia đình chuyên nuôi ngựa bạch sinh sản ở trong xóm và mua ở các tỉnh biên giới phía bắc, mua từ nước ngoài về. Vuốt ve chú ngựa bạch vóc dáng cao lớn, béo tốt, mỡ màng, vợ anh Trường là chị Nguyễn Thị Nguyên tả: “Đặc điểm nổi bật của ngựa bạch là trắng toàn phần, mõm và móng màu hồng, mắt hoe cá chày. Ngựa bạch rất hiếm và có giá trị, ngựa giống có giá khoảng 30 triệu đồng, nuôi trưởng thành khoảng hơn ba năm có giá 65- 70 triệu đồng, gấp gần hai lần ngựa thường”.

Nhằm bảo tồn nguồn gien ngựa bạch và phát triển loài động vật đặc thù này, những năm vừa qua xóm Phẩm được tỉnh Thái Nguyên, huyện Phú Bình, Trường đại học Nông lâm Thái Nguyên, Trại ngựa Bá Vân - cơ sở bảo tồn nguồn gien ngựa quý hiếm (thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) chuyển giao kỹ thuật chăn nuôi, bảo tồn nguồn gien ngựa bạch; đầu tư, hỗ trợ làm chuồng trại, đường giao thông, kênh mương tưới nước phục vụ trồng cỏ nuôi ngựa.

HTX Ngựa bạch xóm phẩm có 60 thành viên, trong đó, có những gia đình thành viên chuyên nuôi ngựa bạch sinh sản, với kinh nghiệm gia truyền và được chuyển giao khoa học kỹ thuật, đây là những cơ sở bảo tồn nguồn gien ngựa bạch. Những con ngựa bạch tốt, các gia đình dùng để làm giống, phần còn lại bán cho các hộ nuôi thương phẩm. Bí thư Đảng ủy xã Dương Thành Nguyễn Văn Ái chia sẻ: “Sở dĩ ngựa bạch có giá trị kinh tế cao là bởi bộ xương dùng để nấu cao, dùng cao ngựa bạch tốt cho sức con người; phổi ngựa bạch dùng chữa viên họng, giảm ho. Một số bộ phận khác của ngựa bạch cũng được người tiêu dùng ưa chuộng”.

Với giá trị như vậy nên nghề nuôi ngựa bạch ở xóm Phẩm đòi hỏi công phu, bên cạnh việc cho ăn uống đầy đủ, hằng ngày ngựa được tắm, chuồng trại được vệ sinh sạch sẽ, gắn camera theo dõi. Là người chuyên chăm sóc ngựa của gia đình, hằng ngày, chị Nguyên cắt cỏ voi trồng ngoài ruộng, mang về dùng máy băm nhỏ, sơ chế, trộn lẫn với cám và nước sạch làm thức ăn cho ngựa, cuối ngày tắm cho chúng và vệ sinh chuồng trại. Vào chuồng nuôi ngựa mà thấy sạch sẽ, không có mùi hôi. Những ngày nắng nóng vừa qua, hệ thống làm mát cho ngựa bao gồm quạt thông gió, ngăn lạnh hoạt động hết công suất.

Đối với nhiều người, cao ngựa bạch giúp đẩy lùi bệnh và tăng cường sức khỏe. Bí thư Đảng ủy xã Dương Thành Nguyễn Văn Ái tâm đắc: “Bố Giám đốc HTX Ngựa bạch xóm Phẩm Dương Văn Huyên là ông Nguyễn Văn Điều, từng là Hiệu phó Trường phổ thông cơ sở xã Dương Thành bị ho hen, ốm yếu tưởng không qua khỏi, nhưng dùng cao và phổi ngựa bạch, nay 90 tuổi mà da hồng hào, khỏe mạnh, đạp xe đi khắp xã”.

Người dân xã Dương Thành nói chung, người nuôi ngựa bạch xóm Phẩm nói riêng rất chân thành, không bao giờ “lòe” khách hàng, giữ uy tín làng nghề bằng chất lượng sản phẩm, cao ngựa thường thì nói là cao ngựa thường, cao ngựa bạch thì nói là cao ngựa bạch. Cao ngựa bạch được cắt thành miếng, đóng gói cẩn thận; phổi ngựa bạch được ngâm với mật ong đựng trong lọ, đăng ký nhãn hiệu, mã vạch với cơ quan chức năng để khách hàng truy xuất nguồn gốc. Nhờ đó, cao và phổi ngựa bạch xóm Phẩm bán đi nhiều nơi, bán cả qua mạng cho khách hàng ở xa. Giám đốc HTX Ngựa bạch xóm Phẩm Dương Văn Huyên cho biết: “Nếu không giữ uy tín làng nghề thì HTX chúng tôi không thể tồn tại và phát triển như ngày hôm nay”.

Nhờ nghề nuôi và chế biến sản phẩm ngựa bạch, đời sống các gia đình thành viên KTX Ngựa bạch xóm Phẩm ngày càng cải thiện, không có hộ nghèo và ngày càng có nhiều hộ giàu.

THẾ BÌNH

Tập trung chống nóng cho cây trồng, vật nuôi

Nguồn tin: Hà Nội Mới

Hà Nội đang chịu đợt nắng nóng kéo dài, do đó để bảo vệ cây trồng, vật nuôi khỏi tác động xấu của thời tiết, ngay lúc này người dân cần tập trung thực hiện các biện pháp chống nóng như: Đầu tư, cải tạo cơ sở hạ tầng; kết hợp các giải pháp chăm sóc đặc biệt nhằm bảo đảm cây trồng, vật nuôi sinh trưởng, phát triển tốt.

Ông Nguyễn Hưng Thỉnh ở xã Thọ Lộc (huyện Phúc Thọ) phun nước làm mát cho đàn lợn trong những ngày nắng nóng.

Theo ông Nguyễn Văn Minh, Giám đốc Hợp tác xã Sản xuất, kinh doanh dịch vụ nông nghiệp xã Văn Đức (huyện Gia Lâm), xã có 226ha rau an toàn, trung bình mỗi ngày cung cấp ra thị trường 30-40 tấn rau các loại. Với thời tiết nắng nóng như hiện nay, nếu rau không được tưới đủ nước rất dễ cháy lá, ảnh hưởng đến sự phát triển của cây, có thể giảm năng suất 20-30% so với thời tiết bình thường. “Nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại do ảnh hưởng của thời tiết, Hợp tác xã đã khuyến cáo người dân tích cực chăm sóc rau, hộ nào có điều kiện thì làm nhà lưới hoặc làm vòm che bằng ni lông chống nóng cho rau”, ông Nguyễn Văn Minh cho biết thêm.

Tại những vùng trồng cây ăn quả, nông dân cũng đang nỗ lực bảo vệ cây trồng trong điều kiện thời tiết nắng nóng. Bà Hoàng Thị Nhung, xã Hồng Thái (huyện Phú Xuyên) cho biết: “Gia đình tôi có 2ha trồng bưởi Diễn đang đậu quả, thời tiết nắng nóng kéo dài, nếu không chăm sóc, bảo vệ tốt, bưởi sẽ bị rám vỏ, rụng quả, lá khô cháy. Vì vậy, tôi đang mua vật liệu để bọc quả kết hợp hằng ngày tưới nước 2 lần vào sáng sớm và chiều mát”.

Tương tự, với các hộ chăn nuôi, việc chống nóng cho đàn vật nuôi cũng được đặc biệt ưu tiên. Theo ông Nguyễn Hưng Thỉnh, Giám đốc Hợp tác xã Sản xuất - kinh doanh sản phẩm nông nghiệp Phúc Thọ (huyện Phúc Thọ), để chống nóng cho đàn lợn thương phẩm 200 con, Hợp tác xã đã đầu tư lại hệ thống mái chuồng bằng tôn lạnh, trồng thêm cây xanh tạo bóng mát. Ngoài ra, Hợp tác xã còn lắp quạt thông gió, yêu cầu công nhân thường xuyên rửa chuồng nuôi, tắm cho đàn lợn 2 lần/ngày vào buổi sáng và chiều.

Ông Nguyễn Mạnh Hà ở xã Phù Đổng (huyện Gia Lâm) cho biết, gia đình ông đang nuôi 17 con bò sữa. Đàn bò là sản nghiệp của cả gia đình ông nên những ngày nắng nóng cao điểm, việc chăm sóc đàn bò được đặc biệt chú trọng. Bên cạnh việc chủ động nguồn thức ăn xanh, thức ăn tinh, gia đình ông đầu tư thêm hệ thống phun sương, tạo độ mát cho chuồng trại.

Để hạn chế tác động bất lợi của thời tiết nắng nóng đến các loại cây trồng, bà Vũ Thị Hương, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Hà Nội khuyến cáo: Đối với cây rau màu, người dân nên phủ rạ mặt ruộng, làm giàn che lưới đen; thường xuyên duy trì nước trong rãnh giữa các luống để làm mát đất. Đối với cây ăn quả, cây công nghiệp, cần tiến hành tưới nước ẩm hằng ngày hoặc ít nhất 2-3 ngày/lần. Khi tưới nước, nông dân cần thực hiện vào sáng sớm hoặc chiều mát, tuyệt đối không tưới cây giữa trưa nắng vì cây có thể bị chết do chênh lệch nhiệt hoặc khúc xạ nhiệt.

Nhằm bảo vệ vật nuôi trong những ngày nắng nóng, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Huy Đăng cho biết: Sở NN&PTNT đề nghị các địa phương hướng dẫn người dân cải tạo chuồng trại, che phủ mái bằng vật liệu chống nắng, tạo thoáng mát cho chuồng trại, sử dụng quạt làm mát, thông gió, lắp đặt hệ thống phun sương tạo độ ẩm; thường xuyên cung cấp đủ nước sạch cho đàn gia súc, gia cầm; giảm thức ăn giàu năng lượng, tăng thức ăn có nhiều vitamin, khoáng chất, điện giải. Đối với đại gia súc cần tăng lượng thức ăn thô xanh. Không chăn thả gia súc, gia cầm, trong thời điểm nắng nóng, nhiệt độ cao... Đây là những biện pháp hữu hiệu để bảo đảm chăn nuôi đạt hiệu quả như mong muốn.

NGỌC QUỲNH

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop