Tin nông nghiệp ngày 07 tháng 05 năm 2016

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 07 tháng 05 năm 2016

Trồng bắp lai trên đất lúa cho năng suất cao

Nguồn tin: Báo Phú Yên

Giới thiệu mô hình trồng bắp lai tại xã Hòa Tân Tây - Ảnh: H.NAM

Đề án “Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững” của Bộ NN-PTNT, trong đó xác định chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa là giải pháp quan trọng nhằm tăng thu nhập cho nông dân theo hướng chuyển đổi đất lúa sang trồng cây hàng năm. Triển khai đề án này, ngành Nông nghiệp Phú Yên vừa trồng 27,1ha bắp lai, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Với kết quả này, sắp tới tỉnh sẽ chuyển đổi 1.200ha sang trồng bắp.

Tiến sĩ Nguyễn Trọng Tùng, Giám đốc Sở NN-PTNT Phú Yên, cho biết: Vụ đông xuân 2015-2016, tại xã Hòa Tân Tây (huyện Tây Hòa) và xã Hòa Quang Nam (huyện Phú Hòa), ngành Nông nghiệp tỉnh trồng thử nghiệm mô hình bắp lai trên diện tích hơn 27ha, với các giống CP111, CP333, NK67, NK7328. Cuối vụ, năng suất đạt bình quân 10 tấn/ha. Với giá bán 3.300 đồng/kg bắp hạt như hiện nay, người trồng bắp lãi ròng trên 14 triệu đồng/ha, gấp đôi so với trồng lúa. Đây là mô hình được UBND tỉnh ký kết với Tập đoàn InVivo (Pháp) và Công ty TNHH Kinh doanh - Xuất nhập khẩu Vạn Thắng thực hiện nhằm chuyển đổi những diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng bắp để mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần tái cơ cấu ngành Nông nghiệp của tỉnh theo hướng gia tăng giá trị và phát triển bền vững, nhất là trong điều kiện biến đổi khí hậu, hạn hán kéo dài.

Vùng đất xã Hòa Tân Tây canh tác 1 vụ lúa và 1 vụ màu, sản xuất thử nghiệm giống bắp lai NK67, NK7328 của Công ty TNHH Syngenta Việt Nam, trên diện tích 7,1ha. Nông dân Ngô Văn Lân ở thôn Hội Cư tham gia mô hình này, cho hay: Tôi trồng 0,5ha bắp lai, thu được 4 tấn. Trước đây tôi trồng các giống bắp khác cũng trên diện tích này, năng suất đạt 3,5 tấn là cao lắm rồi. Hơn nữa, lâu nay trồng bắp dựa vào tự nhiên, đầu ra thì người trồng tự lo nên lúc cao lúc thấp. Còn nay trồng theo kỹ thuật, đầu ra cũng ổn định hơn.

Còn tại xã Hòa Quang Nam, vùng đất 2 vụ lúa/năm, mô hình thử nghiệm hai giống bắp lai CP111 và CP333 của Công ty Hạt giống CP Việt Nam, trên diện tích 20ha, nông dân Nguyễn Văn Sơn nói: Chi phí trồng 1ha bắp lai hơn 22 triệu đồng, cao hơn trồng lúa 4,2 triệu đồng. Tuy nhiên, với năng suất bắp đạt 10 tấn/ha, với giá bán 3.300 đồng/kg, thu về được 33 triệu đồng/ha. Trong khi đó năng suất lúa đạt 5 tấn/ha, với giá bán 5.000 đồng/kg thì chỉ thu về 25 triệu đồng. Vì vậy thu nhập người trồng bắp cao hơn trồng lúa 8 triệu đồng/ha.

Tại ruộng bắp trồng thử nghiệm ở xã Hòa Quang Nam và Hòa Tân Tây, trong 4 giống bắp lai chỉ có giống CP333 cây thấp, sinh trưởng khá tốt trên chân đất lúa chuyển đổi và chịu hạn khá, các giống còn lại đều thuộc nhóm cây cao. Các giống đều có tỉ lệ 2 trái/cây, đặc biệt giống CP333, NK67 có độ che phủ rất kín. Cuối vụ, năng suất đạt 9-10 tấn/ha. Riêng giống CP333 đạt thấp hơn các giống khác khoảng 1 tấn/ha, nhất là giống CP111 năng suất đạt cao nhất 10 tấn/ha.

Theo ông Huỳnh Đức Nghĩa, Giám đốc Công ty TNHH Kinh doanh Xuất nhập khẩu Vạn Thắng, mô hình trồng bắp lai cho thu nhập cao hơn trồng lúa (trồng bắp 33 triệu đồng/ha, trồng lúa 25 triệu đồng/ha). Lãi ròng trồng bắp theo mô hình là 14,1 triệu đồng/ha, trong khi lãi ròng trồng lúa chỉ 7 triệu đồng/ha.

Với kết quả này, TS Nguyễn Trọng Tùng nhận định: Ngành Nông nghiệp tỉnh đang xem xét, cho phép các địa phương phát triển diện tích bắp trên đất lúa chuyển đổi với quy mô lớn để tạo vùng nguyên liệu, đáp ứng bắp hạt thương phẩm và các phụ phẩm thương mại như thân, lá, cùi cho các doanh nghiệp, góp phần tăng thu nhập cho nông dân. Theo đó, cùng với các chính sách hỗ trợ sản xuất, từ năm 2016-2020, tỉnh sẽ chuyển đổi khoảng 2.000ha đất canh tác lúa sang cây trồng khác, trong đó bắp chiếm 1.200ha. Cây trồng chuyển đổi phải có thị trường tiêu thụ, lợi thế cạnh tranh và hiệu quả kinh tế cao hơn trồng lúa.

LÊ TRÂM

Hậu Giang: Trồng bông súng đỏ

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Bông súng thường mọc nơi ao hồ hoặc vùng trũng thấp vào mùa nước nổi. Thế nhưng thời gian gần đây, nhiều hộ dân ở xã Phương Phú, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang tận dụng diện tích mặt nước mương vườn trồng bông súng đỏ (bông súng Đà Lạt) đã mang lại nguồn thu nhập đáng kể.

Thu hoạch bông súng của bà con nông dân xã Phương Phú.

Chị Nguyễn Thị Diện, ở ấp Phương Thạnh, xã Phương Phú, cho biết hàng năm vào mùa nước nổi, vùng này bông súng mọc rất nhiều ngoài đồng. Nhiều nhất là bông súng trắng (bông súng đồng) và một số bà con nghèo nhờ bán bông súng mà có thêm thu nhập trong mùa lũ. Nhưng loài bông súng này cũng không thể tồn tại trên đồng ruộng, vì cây lúa một năm làm 2 - 3 vụ. Nhất là có không ít người chuyển đất ruộng thành liếp, lập vườn trồng loại cây trồng khác có giá trị kinh tế cao hơn, từ đó bông súng không còn đất sống. Thời gian gần đây, xuất phát từ một vài hộ trong xã trồng bông súng đỏ dưới mương vườn, mục đích là cải thiện bữa ăn trong gia đình, nào ngờ khi bông súng bắt đầu nở rộ và nhiều người đến hỏi mua. Từ đó, bông súng đỏ của những hộ này đã trở thành tâm điểm hàng “nông sản” của nhiều thương lái.

Theo kinh nghiệm của một số hộ dân đã trồng bông súng, mô hình này không tốn diện tích, cũng không cần phải đầu tư chi phí và công chăm sóc nhiều. Loại bông súng đỏ sống ở môi trường tự nhiên trong ao, mương, nếu mực nước càng sâu, đáy mương càng nhiều đất bùn non thì bông súng phát triển càng mạnh. Bông súng có thời gian sinh trưởng và thu hoạch từ 3 - 4 năm mới trồng lại một lần, đây cũng là khoảng thời gian thuận lợi cho người trồng, kết hợp nuôi thêm các loại cá nước ngọt, ốc bươu đen… Theo các hộ dân thì 3 - 4 ngày thu hoạch bông súng một lần, thương lái đặt mua tại nhà từ 10.000 - 13.000 đồng/kg đã qua công đoạn rửa sạch, cắt bó thành lọn, trung bình 1ha mặt nước trồng bông súng kết hợp nuôi cá, một năm có thể thu nhập vài chục triệu đồng.

Một cán bộ xã Phương Phú cho biết, hiện toàn xã có khoảng 60 hộ dân đang thực hiện mô hình này, nhiều nhất là tuyến kênh Giải Phóng, thuộc ấp Phương Thạnh tiếp giáp Khu bảo tồn thiên nhiên Lung Ngọc Hoàng. Do nhu cầu tiêu thụ nhiều nên được thương lái từ các nơi về đây thu gom, vận chuyển với số lượng không giới hạn. Lý giải nguyên nhân bông súng gần đây tiêu thụ mạnh, nhiều người cho rằng, loại này không có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật nên được người tiêu dùng ưa chuộng.

Ông Nguyễn Thanh Hùng, Chủ tịch UBND xã Phương Phú, cho biết mô hình này bước đầu mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho những gia đình có đời sống kinh tế khó khăn. Đây cũng là sự lựa chọn chuyển đổi giống cây trồng phù hợp với điều kiện của nhiều hộ dân trong công cuộc xóa đói giảm nghèo mà các cấp, các ngành trong xã đang chung tay xây dựng. Những năm gần đây, nhiều hộ nghèo trong xã vươn lên thoát được nghèo ngoài sự giúp đỡ của chính quyền địa phương, thì bà con còn tự tìm tòi học hỏi, trao đổi kinh nghiệm trong chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng, đất đai có giá trị kinh tế lâu dài. Hướng tới, UBND xã kết hợp với các ngành chức năng, nghiên cứu làm như thế nào để đảm bảo được đầu ra cho cây bông súng ổn định lâu dài để bà con an tâm sản xuất.

QUANG HẢI

Những cánh đồng 300 triệu đồng/ha ở Giao Phong (Nam Định)

Nguồn tin: Báo Nam Định

Với lợi thế vùng đất cát pha, nguồn nước tưới dồi dào phù sa, xã Giao Phong là một trong những vùng đất trồng màu lớn của huyện Giao Thủy (Nam Định). Đất đai ở đây đang được coi như “tấc đất tấc vàng” bởi những giá trị về kinh tế mà nó mang lại. Với sự cần cù chịu thương chịu khó và sự sáng tạo, người nông dân xã Giao Phong đã làm chủ được kỹ thuật canh tác, khai thác tốt tiềm năng đất đai tạo ra những cánh đồng cho thu nhập 300 triệu đồng/ha.

Những ngày này, người nông dân xã Giao Phong vẫn đang cần mẫn bên những thửa vườn, luống rau chuẩn bị cho vụ thu hoạch. Ngoài sản xuất rau màu theo chính vụ, nông dân trong xã đã khai thác hiệu quả điều kiện canh tác để trồng trái vụ. Những giống cây rau màu mới được lựa chọn canh tác như khoai tây Đức, khoai tây Hà Lan… đã được cán bộ của Viện Cây lương thực và thực phẩm chuyển giao kỹ thuật và đang được nông dân nơi đây áp dụng có hiệu quả. Bên cạnh đó, với sự hỗ trợ của Ban Nông nghiệp và HND xã Giao Phong, nhiều lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật được tổ chức, thu hút hàng trăm hộ nông dân trong xã tham dự. Theo chân đồng chí Lâm Quang Hướng, xóm trưởng xóm Lâm Quan, xã Giao Phong, chúng tôi đi thăm những cánh đồng lớn trồng khoai tây vụ đông khi những luống khoai tây đã phủ kín, một màu xanh ngút ngàn hứa hẹn một vụ bội thu. Chị Nguyễn Thị Liễu, hội viên nông dân xóm Lâm Quan đã có hàng chục năm gắn bó với đồng màu cho biết, ngoài kinh nghiệm trồng màu đã tích lũy từ nhiều năm qua, cùng với sự hướng dẫn kỹ thuật của cán bộ HND và Ban nông nghiệp xã, mỗi thửa ruộng màu tại Giao Phong đã xen canh gối 4 - 5 vụ trong năm cho thu nhập cao gấp nhiều lần so với trồng lúa.

Nông dân xã Giao Phong chăm sóc rau màu vụ đông xuân.

Là địa phương có thế mạnh phát triển nông nghiệp, những năm qua xã Giao Phong có chủ trương khuyến khích người dân mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất thâm canh nhằm tăng giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích canh tác. Với diện tích đất nông nghiệp 270ha, trong đó có 250ha sản xuất màu; diện tích còn lại trồng 1 vụ lúa và 2 đến 3 vụ màu đều cho năng suất cao đã và đang được nông dân áp dụng theo hướng quay vòng gối vụ, trong đó diện tích đất trồng màu + lúa của địa phương đạt giá trị 65 tỷ đồng/năm. Ngoài diện tích trồng màu, xã Giao Phong còn có 145ha diện tích chuyên canh nuôi trồng thủy sản; trong đó, diện tích nuôi tôm công nghiệp có hơn 80ha, sản lượng thủy sản ước đạt 350 tấn/năm. Riêng sản lượng tôm sú và tôm thẻ chân trắng đạt 320 tấn/năm. Đối với sản xuất muối mặc dù thu nhập không cao song xã chỉ đạo diêm dân tiếp tục duy trì hơn 50ha sản xuất muối truyền thống cho sản lượng 500 tấn/năm.

Đồng chí Phạm Văn Sơn, Phó Chủ tịch UBND xã kiêm Trưởng Ban nông nghiệp xã Giao Phong cho biết: Với lợi thế ven biển, tận dụng tối đa nguồn đất, người nông dân xã Giao Phong đã khai thác có hiệu quả từng mảnh đất từ nội đồng đến ven biển tạo nên nét đặc trưng riêng có của địa phương. Bà con tận dụng từng tấc đất, chuyển đổi đất hoang hóa thành vùng màu lên tới cả hàng trăm ha. Trên cơ sở quy hoạch được phê duyệt, xã đã xây dựng thành vùng sản xuất chuyên canh trồng rau màu, vùng nuôi thủy sản… khuyến khích các hộ nông dân nuôi, trồng theo hướng VietGAP nhằm đáp ứng thị trường rau sạch cho các siêu thị và thành phố lớn. Cũng từ định hướng này đã dần thay đổi tập quán canh tác theo hướng sản xuất hàng hóa. Chính vì vậy đến vụ thu hoạch, các Cty về lấy hàng tận ruộng nên nông dân luôn yên tâm về đầu ra cho nông sản. Cùng với đó địa phương đã có quy hoạch chuyển đổi diện tích làm muối kém hiệu quả sang trồng màu cho thu nhập cao gấp nhiều lần so với làm muối.

Hiện nay ở Giao Phong, mỗi vụ cây trồng đều được rút ngắn hơn so với trước bởi những giống cũ được thay thế bằng giống mới cho năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn được nhập từ Đức, Hà Lan, Thái Lan như khoai tây, rau, củ cải, dưa lê siêu ngọt, dưa hấu với thời gian sinh trưởng chỉ từ 1,5 đến 3 tháng. Với hệ thống kênh mương cấp 3 được kiên cố hóa đạt gần 90%, hệ thống nước tưới bằng giếng khoan ra tận ruộng đã tạo thuận lợi cho cả khâu tưới và tiêu ở mỗi vụ. Nhiều hộ nông dân còn mạnh dạn đầu tư hệ thống tưới hoa sen tự động tạo nên những cánh đồng màu hiện đại, giải phóng sức lao động cho nông dân, đáp ứng tốt yêu cầu sản xuất. Với phương thức trồng xen cây, gối vụ đã mang lại thu nhập cho những cánh đồng màu đạt giá trị trung bình từ 300-400 triệu đồng/ha, cá biệt có diện tích cấy 5 vụ lên tới 500 triệu đồng/ha. Với giá trị kinh tế do sản xuất màu, thủy sản mang lại, từ năm 2014, UBND xã Giao Phong đã trình các cấp có thẩm quyền về việc quy hoạch chuyển đổi diện tích làm muối năng suất thấp sang trồng màu có giá trị cao hơn được bà con đồng tình hưởng ứng tích cực. Là địa phương đã về đích trong xây dựng NTM năm 2014; trong đó, một trong những tiêu chí mà Giao Phong đạt được đầu tiên là mức thu nhập bình quân của người dân đạt trên 31 triệu đồng/người/năm. Với sự đồng thuận của người dân, sự góp công, góp của đã tạo nên diện mạo NTM của địa phương có bước chuyển biến rõ rệt. 100% số xóm đạt khu dân cư văn hóa, hơn 92% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa. Đây cũng là một trong những mục tiêu quan trọng trong quá trình xây dựng NTM ở Giao Phong./.

Hoàng Tuấn

Bình Thuận: Các xã vùng cao Hàm Thuận Bắc: Điều mất mùa nhưng được giá

Nguồn tin: Báo Bình Thuận

Năm nay, 3 xã vùng cao của huyện Hàm Thuận Bắc (Bình Thuận) là Đông Tiến, Đông Giang và La Dạ hầu hết nông dân bị mất mùa điều nhưng bù lại giá điều tăng cao so mọi năm.

Giống điều cũ cho năng suất thấp cần phải được thay giống mới.

Những ngày giữa tháng 4, hầu hết nông dân trồng điều ở xã Đông Giang và La Dạ đã thu hoạch gần xong vụ điều. Theo những người trồng điều ở vùng này, vụ điều năm nay bà con bị mất mùa nhưng giá bán cao hơn mọi năm, nhờ đó nhiều nông dân dù thu hoạch ít nhưng bán rất được giá. Đây là thời điểm các hộ đồng bào dân tộc đang thu hoạch rộ hạt điều nên đi đến đâu cũng nghe mọi người bàn tán xôn xao về giá điều, bởi đã lâu lắm rồi giá điều mới tăng cao trở lại, có thời điểm đạt mốc 34.000 – 35.000 đồng/kg. Nhờ giá điều cao, nhiều hộ đồng bào dân tộc có thu nhập khá góp phần trang trải cuộc sống trong mùa khô này.

Ghé thăm gia đình anh K’Văn Chớp ở thôn 2, xã Đông Giang, anh cho biết gia đình có 1ha điều, nhưng năm nay thời tiết diễn biến thất thường cộng với nắng nóng nên điều bị rụng bông khá nhiều, sản lượng thu hoạch không như ý, dù vậy thời gian gần đây giá điều tăng cao nên anh đã thu hoạch và bán được hơn 30 triệu đồng. Anh Chớp dự định sắp tới sẽ tiếp tục trồng điều ở diện tích đất còn lại của gia đình. Hiện tại ở xã Đông Giang có rất nhiều hộ thu hoạch điều được vài chục triệu đồng, thậm chí có hộ diện tích trồng điều lớn nên thu nhập hàng trăm triệu đồng như hộ ông K’Văn Hạng, K’Văn Véo... Lý giải về nguyên nhân giá điều năm nay tăng cao đột biến, anh Chớp cho rằng có thể do nhiều địa phương trong tỉnh năm nay bị mất mùa, nhất là vùng điều Hàm Tân, Tánh Linh và Đức Linh, dẫn đến cầu vượt cung, điều khan hiếm nên giá bán tăng cao so mọi năm.

Theo Ban Dân tộc tỉnh, nhiều năm trước cây điều được đưa vào trồng ở vùng Đông Giang, La Dạ theo Chương trình 327 của Ban Dân tộc. Sau một thời gian trồng thử nghiệm, bà con nhận thấy cây điều rất dễ chăm sóc lại có khả năng thích ứng tốt với vùng đất này nên đồng bào dân tộc ở 2 xã đã tự mở rộng diện tích trồng điều. Đến nay theo thống kê sơ bộ của các xã, diện tích điều của Đông Giang và La Dạ khoảng hơn 1.000ha. Trong đó, tại xã La Dạ điều được trồng trải dọc ở hai bên đường từ thôn 1 đến thôn 3, còn xã Đông Giang thì điều tập trung chủ yếu ở khu vực Đan Sách. Tuy nhiên do sử dụng các giống điều cũ nên năng suất điều tại 2 xã Đông Giang và La Dạ còn thấp, trung bình đạt 1 - 1,2 tấn/ha, trong khi năng suất cao nhất có thể đạt tới 3 tấn/ha.

Điều là cây trồng chịu hạn tốt, ít tốn công chăm sóc lại thích hợp khi trồng trên đất đồi dốc, tương đối phù hợp với tập quán canh tác của đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng này. Do đó các ngành chuyên môn cần có giải pháp giúp đồng bào phát triển cây điều như tổ chức tập huấn kỹ thuật, lai ghép cải tạo vườn điều già cỗi, đưa giống điều cao sản mới vào trồng… Bên cạnh đó, người trồng điều cũng cần tập trung chăm sóc tốt cho vườn điều để đạt năng suất cao hơn ở những vụ tới. Hy vọng thời gian tới, cây điều vẫn là loại cây chủ lực xóa đói giảm nghèo cho những gia đình nhiều đất, ít vốn và phù hợp với thổ nhưỡng ở các xã vùng cao Hàm Thuận Bắc.

A.NHIÊN

Phụng Hiệp (Hậu Giang): Hơn 700ha mía giảm sâu bệnh

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Sau hơn 1 tháng phát hiện và đưa ra những biện pháp phòng trị kịp thời, đến nay đã có 700ha mía giảm sâu bệnh. Theo báo cáo từ ngành nông nghiệp huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang), chỉ còn 340ha bị nhiễm nặng. Trong đó, hai đối tượng bệnh gỉ sắt và rầy đầu vàng giảm hơn 570ha. Một số nông dân trồng mía cho biết, nhờ bơm sình loãng vô chân cho mía, đồng thời kết hợp với phun thuốc trừ rầy và trị nấm thường xuyên cho mía nên các đối tượng gây hại trên rẫy mía trong thời gian qua đã giảm đáng kể.

Hiện, mía đang trong giai đoạn vươn lóng, khả năng chống chịu sâu, bệnh là tương đối cao. Bên cạnh đó, những cơn mưa đầu mùa những ngày qua đã phần nào làm giải nhiệt sau những ngày nắng nóng kéo dài, đồng thời cung cấp lượng nước cần thiết cho cây mía phát triển.

LÊ ĐĨNH

Đặt mục tiêu 50.000ha cacao tại Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và ĐBSCL

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Đến năm 2020, cả nước sẽ có 50.000ha cacao, phát triển tập trung tại Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và ĐBSCL.

Đến năm 2020, cả nước sẽ có 50.000ha cacao.

Theo Bộ NN&PTNT, từ nay đến năm 2020, cả nước phấn đấu đưa diện tích cây cacao tăng lên 50.000ha; trong đó diện tích cacao kinh doanh đạt 38.500ha, năng suất đạt bình quân 1,19 tấn/ha, với sản lượng hạt cacao khô ủ lên men 45.700 tấn.

Diện tích cacao này phát triển tập trung tại Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và ĐBSCL.

Để đạt được mục tiêu trên, Bộ NN&PTNT đề nghị các tỉnh thuộc các vùng trên đánh giá lại tình hình phát triển cây cacao thời gian qua, rà soát lại quy hoạch phát triển cacao của từng tỉnh phù hợp với đặc điểm sinh lý của cây này và điều kiện thời tiết khí hậu, đất đai, tập quán canh tác và chế độ đầu tư của từng vùng.

Các địa phương có kế hoạch trồng cacao cần sớm ban hành một số chính sách hỗ trợ để khuyến khích, tạo điều kiện để người dân phát triển cây cacao. Trước mắt, tập trung vào một số chính sách như hỗ trợ cây giống trồng mới, tái canh, hỗ trợ các hoạt động khuyến nông như đào tạo, tập huấn kỹ thuật, xây dựng các mô hình, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, thông tin, xúc tiến thương mại.

Các tỉnh cũng cần hỗ trợ, hình thành và phát triển các mối liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị ngành hàng cacao để gia tăng giá trị và phát triển bền vững. Tiếp tục tuyển chọn, nhân rộng các giống cacao có năng suất cao, ít sâu bệnh chuyển giao đến người trồng.

Đồng thời, củng cố, phát triển mạng lưới thu mua, các cơ sở chế biến lên men, công khai giá thu mua ổn định trong thời gian dài để khuyến khích người dân tham gia phát triển cây cacao.

Hiện nay, diện tích cây cacao của cả nước chỉ mới có trên 11.698ha; trong đó diện tích cho thu hoạch chiếm trên 70%, trồng thuần chiếm dưới 10%, còn lại là trồng xen.

Ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ chủ yếu trồng xen với cây điều. Vùng ĐBSCL trồng xen với cây dừa và cây ăn quả. Đắk Lắk là tỉnh có diện tích cacao nhiều nhất với trên 2.000ha.

Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT, mặc dù sản xuất cacao 10 năm qua đạt được một số tiến bộ đáng khích lệ, nhưng diện tích, năng suất, sản lượng cacao tăng chậm, hiệu quả kinh tế thấp chưa đáp ứng kỳ vọng. Tâm lý người trồng cacao nhiều nơi chưa an tâm, vẫn còn tình trạng nông dân chặt bỏ cacao chuyển sang trồng cây khác.

Cacao là cây công nghiệp nhiệt đới tạo ra mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao đang được ưa chuộng trên thế giới. Với khả năng thích nghi rộng và không đòi hỏi nhiều về kỹ thuật chăm sóc, cây cacao thường được trồng nhiều tại những vùng đất trống hoặc phủ xanh đồi trọc, làm cây lâm sinh hay là trồng xen.

Đào Chi

Làng nuôi dê trong vùng khoai lang

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Chỉ sau 5 năm phát triển, đến nay làng nuôi dê ở xã Thành Đông (Bình Tân, Vĩnh Long) có gần 100 hộ nuôi dê với hơn 1.500 con. Người nuôi dê thu nhập từ vài chục đến hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Đến xã Thành Đông vào những ngày này, ít ai nghĩ rằng giữa mênh mông đồng ruộng khoai lang lại có một làng nuôi dê đến hàng ngàn con đang mang lại lợi nhuận cao cho bà con nông dân nơi đây.

Đàn dê của ông Hùm cho thu nhập từ 200 - 300 triệu đồng/năm.

Ông Trần Văn Hùm, 67 tuổi ở ấp Thành Tiến, xã Thành Đông được xem là người khởi đầu và giàu lên nhờ dê ở xứ này. Ông Hùm chia sẻ: “Tui nuôi dê từ năm 2000, chỉ có vỏn vẹn 5 con dê cái, nếu đẻ ra dê cái thì để lại nuôi, còn dê đực thì nuôi lớn lên bán thịt.

Nhờ có dê cái là cứ để lại nuôi mà đàn dê tăng lên nhanh chóng, tới vài chục con, thậm chí cả trăm con.

Cao điểm đàn dê nhà tui lên tới 150 con và hiện nay vẫn duy trì số lượng này. Ngoài việc để một số dê cái giống đẹp lại nuôi để tăng đàn, tui còn bán dê cái giống với giá từ 3 - 5 triệu đồng/con, tùy lớn nhỏ. Dê đực thì nuôi độ 9 tháng là có thể bán thịt, với giá 105.000 đ/kg dê hơi.

Dê cái cũng chỉ nuôi 9 tháng là đã sinh sản được rồi. Dê cái mang thai 5 tháng là sinh sản, mỗi lứa từ 3 - 4 dê con. Sau 2 - 3 tháng là dê con thôi bú, có thể xuất chuồng, bán giống. Mỗi năm, số tiền thu được từ bán dê từ 200 - 300 triệu đồng, đó là chưa tính số dê cái để lại nuôi”.

Từ thành công của ông Hùm, nhiều hộ trong ngoài ấp của ông cũng tham gia nuôi dê và bước đầu đã thành công.

Ông Nguyễn Văn Đức, 63 tuổi, ngụ ấp Thành Thới, xã Thành Đông, vui vẻ tâm sự: “Nhờ Hội nông dân xã cho vay được 20 triệu đồng cùng với góp tích lũy của gia đình, tôi mua được 4 con dê giống về nuôi. Sau 2 năm, ngoài những con dê đực tôi bán thịt, hiện đàn dê của tôi đã phát triển được 16 con cái giống”.

Hội Nông dân tỉnh Vĩnh Long tham quan mô hình nuôi dê ở Thành Đông đang ăn nên làm ra.

Ông Hùm cho biết thêm: “Nuôi dê không quá khó, nhưng đòi hỏi người nuôi phải siêng năng và kiên nhẫn. Vì số lượng đàn lớn phải chuẩn bị nguồn thức ăn khá lớn. Nhưng mà ở Bình Tân thì khoẻ lắm, cả vùng đều là khoai lang, chỉ cần mình siêng một chút là đi xin dây khoai của chủ ruộng về cho dê ăn thoả thích.

Đặc biệt là con dê rất khoái lá khoai lang, nên mau lớn, phát triển rất nhanh và không có bệnh hoạn gì hết trọi.

Cái hiệu quả nhất chính là việc tận dụng nguồn thức ăn cho dê từ dây lá khoai lang sẵn có vô cùng dồi dào tại địa phương nên không phải tốn kém chi phí gì, nên cứ bỏ công ra là chắc có lời, mà là lời nhiều. Với 150 con dê này, chỉ cần tui và 2 đứa con là có thể lo đủ nguồn dây lá khoai lang cho dê ăn đến chăm sóc, vệ sinh chuồng trại.

Bên cạnh đó, nguồn chất thảy, phân của dê còn có thể bán làm phân hữu cơ cho rất nhiều người trồng hoa ở Đà Lạt.

Chỗ tui là đầu mối, họ đặt tui 500 bao phân, giá 10.000 đ/bao, 2 tháng giao hàng một lần, nhưng tui chỉ đáp ứng được chừng 100 bao/tháng, còn lại tui liên kết với những chủ nuôi dê trong ấp để đủ số lượng giao cho họ”.

Ông Trần Văn Lành - Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Thành Đông, cho biết: “Toàn xã hiện có gần 100 hộ nuôi dê với khoảng 1.500 con tập trung ở 3 ấp: Thành Tiến, Thành Thới và Thành Khương. Với địa bàn có trên 8.600ha trồng khoai lang nên nguồn thức ăn cho dê lúc nào cũng dồi dào.

Khoai loang cho dê ăn không chỉ là nguồn thức ăn tốt mà còn là vấn đề giải quyết phụ phẩm khoai mang tránh tình trạng ô nhiễm môi trường ở địa phương.

Chính nhờ nguồn thức ăn này mà người nuôi dê ít tốn chi phí lại được lời cao. Điều đáng mừng là đầu ra của dê thịt cũng như dê giống ở đây không đủ cung cấp cho thị trường trong và ngoài tỉnh, nhất là TPHCM”.

Ông Võ Văn Vũ - Trưởng Ban kinh tế - Hội Nông Dân tỉnh Vĩnh Long, cho biết: “Thành Đông là địa phương có hộ nuôi dê đông nhất tỉnh. Chính nhờ thức ăn chính lại là phụ phẩm của khoai lang nên hiệu quả rất cao.

Đa phần những hộ dân nơi đây khá lên nhờ dê. Tùy số lượng đàn mà có hộ thu nhập từ vài chục đến vài trăm triệu đồng mỗi năm, góp phần xóa đói giảm nghèo ở địa phương. Hiện phong trào nuôi dê ở Thành Đông đang phát triển mạnh, nâng cao tiêu chí thu nhập cho xã Nông thôn mới Thành Đông được bền vững hơn”.

BÁ HÙNG

Huyện Xuyên Mộc (Bà Rịa - Vũng Tàu): Trồng cây có múi mang lại hiệu quả kinh tế cao

Nguồn tin: Báo Bà Rịa Vũng Tàu

Mô hình chuyển đổi cây trồng sang các loại cây có múi như bưởi, cam, quýt mang lại hiệu quả cho một số bà con nông dân trên địa bàn huyện Xuyên Mộc. Trong ảnh: Ông Nguyễn Hùng Cường bên vườn quýt chuẩn bị cho thu hoạch.

Huyện Xuyên Mộc là địa phương có diện tích trồng cây có múi như cam, quýt, bưởi… lớn nhất tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu với gần 1.000ha, trong đó, khoảng 50% diện tích đã cho thu nhập. Theo các hộ nông dân, sau khi trừ chi phí, nông dân thu lãi từ 200 - 400 triệu đồng/ha. Hiện các loại cây có múi được huyện Xuyên Mộc nhân rộng để tăng thu nhập, xóa nghèo cho bà con nông dân.

Gia đình anh Nguyễn Hùng Cường (ấp 4, xã Hòa Bình) hiện có 2ha trồng 2.500 gốc quýt, năm 2016 cho thu hoạch vụ đầu tiên, năng suất trái đạt hơn 55 tấn. Với giá bán từ 25.000 - 30.000 đồng/kg, vụ quýt đầu tiên gia đình anh thu về 1,5 tỷ đồng. Sau khi trừ chi phí, anh Cường thu lãi hơn 400 triệu đồng. “Từ việc tham quan, học hỏi các mô hình nông nghiệp hiệu quả tại các địa phương, tôi thấy mô hình trồng quýt phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu của địa bàn Xuyên Mộc. Đồng thời, giá quýt cũng như thị trường tiêu thụ ổn định nên đến vụ thu hoạch bán cũng dễ dàng. Tuy chi phí đầu tư ban đầu cao hơn so với các loại cây khác, khoảng 3 năm mới thu hoạch, nhưng bù lại, lãi thu về từ trồng quýt cũng cao hơn” - anh Cường cho biết.

Do dễ trồng, dễ chăm sóc và có thể trồng xen canh với nhiều loại cây khác nhau trên cùng một diện tích, lại có đầu ra ổn định, nên các loại cây trồng có múi đang được nhiều nông dân trên địa bàn huyện Xuyên Mộc phát triển mạnh và xem đây là loại cây thoát nghèo bền vững. Với diện tích ban đầu 1ha trồng nhãn, cho hiệu quả thấp, năm 2009, bà Lê Thị Tới (ấp Nhân Hòa, xã Xuyên Mộc) quyết định phá bỏ toàn bộ vườn nhãn, chuyển sang trồng quýt đường, bưởi và cam sành. Hiện gia đình bà Tới đầu tư trồng xen 250 gốc cam sành, 250 gốc quýt đường cùng 100 gốc bưởi da xanh đang cho hiệu quả khá tốt so với việc trồng nhãn trước đây. Mỗi năm, bà Tới thu nhập khoảng 500 triệu đồng từ các cây bưởi, cam, quýt. Theo bà Tới, do đây là mô hình mới chưa được phát triển rộng rãi nên bà vừa làm vừa học hỏi, rút kinh nghiệm, tìm hiểu kiến thức qua sách báo và từ những người đi trước, tư vấn của các nhà khoa học, đồng thời đến tham quan các mô hình trồng cây ăn trái ở trong và ngoài tỉnh để tham khảo phương pháp trồng và kỹ thuật chăm sóc cây với hy vọng áp dụng cho vườn cây của gia đình đạt năng suất cao. “Từ khi chuyển sang trồng cam, quýt và bưởi cho thu nhập cao hơn gấp 2 - 3 lần so với lúc trồng nhãn”, bà Tới cho biết thêm.

Mô hình trồng xen canh cây có múi trên cùng một mảnh đất tại huyện Xuyên Mộc đã cho thấy hiệu quả trong việc chuyển đổi cây trồng, đặc biệt là khai thác đặc tính phù hợp của thổ nhưỡng, điều kiện khí hậu tại địa phương. Ông Phạm Tấn Phong, Chi hội trưởng nông dân ấp Nhân Hòa, xã Xuyên Mộc cho biết, đất ở Xuyên Mộc là loại đất cát pha, rất thích hợp cho việc trồng các loại cây có múi, cây sinh trưởng và phát triển tốt, ít sâu bệnh và cho năng suất ổn định. Thời gian qua, địa phương đã vận động, khuyến khích bà con thay thế các loại cây già cỗi, năng suất thấp như điều, nhãn để chuyển sang trồng quýt, cam, mang lại lợi nhuận kinh tế cao hơn. Để tăng năng suất và chủ động phòng bệnh cho cây, Hội Nông dân huyện đã phối hợp với các cơ quan chức năng tập huấn, hướng dẫn áp dụng khoa học kỹ thuật. Đồng thời đầu tư thâm canh và sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP để nâng cao năng suất và giá trị hàng hóa cho cây có múi.

Đánh giá về mô hình trồng cây có múi tại huyện Xuyên Mộc, Tiến sĩ Nguyễn Đăng Nghĩa, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu đất, phân bón và môi trường phía Nam cho biết, huyện Xuyên Mộc có đất đai phù hợp với các loại cây có múi dài ngày. Tuy nhiên, hiện nay cây có múi trên địa bàn vẫn chỉ trồng manh mún, nhỏ lẻ, chưa đáp ứng nhu cầu lớn của thị trường. Vì vậy, để phát triển cây có múi thành cây có thế mạnh ở địa phương, các ngành chức năng của huyện cần biết cách khai thác hợp lý.

Trước mắt, huyện Xuyên Mộc tập trung đầu tư thâm canh và sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP để nâng cao năng suất và giá trị hàng hóa cho sản phẩm cây có múi. Tiếp đó, huyện xây dựng thương hiệu cho từng vùng và liên kết các mô hình sản xuất cây có múi, để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp địa phương cần quan tâm rà soát lại những diện tích đã có, hướng dẫn người dân trồng những nơi có lợi thế đất đai khí hậu, phù hợp từng nhóm cây có múi, không để phát triển tràn lan. “Bởi cây có múi chỉ thực sự đem lại hiệu quả bền vững khi có các vùng chuyên canh được trồng, thu hoạch và bảo quản một cách chuyên nghiệp. Những sản phẩm mang tính chuyên nghiệp luôn có lượng khách hàng đông đảo, ổn định và xu hướng phát triển thị trường sẽ ngày một rộng mở hơn” - Tiến sĩ Nguyễn Đăng Nghĩa cho biết.

NGÔ THANH

Trồng bưởi Diễn trên đất Mường, đếm tiền mỏi tay

Nguồn tin: Dân Việt

Sau hơn chục năm vật lộn với cây, với đất, giờ đây ông Chiểu mới được hưởng cái ung dung của người làm trang trại. Hơn 1.000 cây bưởi đã ra hoa, kết trái, mỗi năm mang lại cho ông cả “núi tiền”.

Nói đến vườn, đến cây là ông Nguyễn Viết Chiểu ở Lương Sơn, Hòa Bình “ưng” cái bụng lắm. Dù đang ở tận đất Thủ đô xa xôi, song ông vẫn sẵn lòng lên xứ Mường tiếp khách bởi trang trại của ông ở đó. Với tác phong nhanh nhẹn và nhiệt tình, ông Chiều hồ hởi đón vị khách lạ cứ như người quen lâu ngày mới gặp nhau. “Gì chứ, sống ở đời được gặp nhau đã là một cái duyên lành. Giờ có người muốn thăm vườn bưởi của mình là thêm một điều lành nữa rồi. Đời tôi có những lúc, tìm người san sẻ cái ý tưởng, cái quyết tâm của mình cũng khó đấy” - ông Chiểu mở đầu câu chuyện làm ặn của mình một cách đầy cảm thán như thế.

Sau 15 năm, ông Chiểu mới tạo dựng được cơ ngơi vững chãi. Ảnh: Linh Nhi

Bưởi Diễn bén rễ xứ Mường

Trang trại của ông Chiểu nằm sâu trong thôn Om Ngái, xã Cao Dương, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Nơi được bao bọc bởi những dãy núi đá vôi trập trùng nối dài tới đường chân trời. Đứng từ xa nhìn lại vườn bưởi của ông tựa như một thành lũy mọc lên giữa đất xứ Mường. Xung quanh vườn là những bụi tre gai cao vút, ken dày, chẳng con gì chui lọt được. Người chủ của vườn bưởi rộng lớn, năm nay đã ở độ tuổi thất thập nhưng nom ông còn khỏe lắm. Ông đi lại phăng phăng trong vườn, giọng nói cứ sang sảng.

Những cây bưởi Diễn được trồng thành hàng lối, phủ kín cả vùng núi non rộng lớn. Cây nào cũng to, tán xòe ra tựa như một cái ô nằm giữa trời. Vườn bưởi đang độ ra hoa, tỏa hương thơm ngào ngạt. Ông Chiểu bảo: “Trong vườn chủ yếu là bưởi Diễn. Tôi đã cất công mang giống từ đất Diễn lên đây trồng. Giờ nó phát triển mạnh và cho chất lượng ngon hơn cả trồng ở Diễn đấy”.

Ông Chiểu sẽ đưa thử bưởi Diễn sang Nhật vào cuối năm nay. Ảnh: Linh Nhi

Loáng thoáng trong vườn vẫn còn sót lại một vài quả bưởi mà ông chưa kịp hái. Ông nhanh nhẹn hái trái bưởi màu vàng óng xuống. Quả bưởi vẫn rắn, chắc, chưa có dấu hiệu bị khô múi. Năm vừa rồi, có cây bưởi cho tới 400 quả, cây ít cũng gần 200 quả, giá bán 35.000 đồng/quả. Như vậy, có cây bưởi mang lại cho ông hơn chục triệu đồng. Tư thương ở khắp nơi về ăn thử bưởi của ông rồi tranh nhau đặt hàng. So với việc trồng bưởi Diễn ở đất Diễn, trồng bưởi ở Cao Dương năng suất cao gấp 3 lần.

Như để chứng minh về chất lượng của thứ bưởi hảo hạng sống trên đất Mường, ông Chiểu rảo bước về căn nhà sàn rợp bóng cây, lấy mấy quả bưởi Diễn hái từ trước tết ra thết khách. Ông nhẹ nhàng dùng con dao bổ cau, tách lớp vỏ bưởi. Lưỡi dao đưa đến đâu là hương bưởi tỏa ra đến đó. Vỏ bưởi mỏng tựa như vỏ cam. Chẳng thế mà ông Chiểu phải rất nhẹ nhàng mới không cắt vào cùi bưởi.

Đĩa bưởi vàng óng, múi nào cũng căng mọng nước, ông Chiểu đưa mời khách với ánh mắt tràn ngập niềm vui. Đón nhận tấm lòng thịnh tình của ông chủ trang trại, tép bưởi vừa chạm đầu lưỡi tôi đã cảm nhận được vị ngọt, thanh, mát. Ăn một lại muốn ăn hai. “Tôi hái bưởi cách đây 3 tháng, để đến hôm nay, bưởi mới chỉ héo vỏ. Bưởi này có thể để đến tháng tư âm lịch vẫn còn ngon, ngọt. Giá trị của nó là ở chỗ đó” - ông Chiểu chia sẻ.

Ông Chiểu kể, cách đây 5 năm, ông mang bưởi về quê - cũng là đất Diễn để mời các cụ cao niên thẩm định chất lượng. Biết ông trồng bưởi ở đất Mường, các cụ đã đằng hắng, gì chứ bưởi Diễn phải trồng ở đất Diễn mới đúng danh phận. Anh có chăm sóc kiều gì cũng không thể ngon hơn bưởi quê nhà được. Nói là vậy, nhưng trước tấm lòng thịnh tình của người con đất Diễn, các cụ cũng chiếu cố nếm thử bưởi. Khi ăn hết múi bưởi do ông dâng, các cụ đã rất lấy làm hài lòng. Một cụ còn nghi ngờ, liệu cháu có lấy nhầm bưởi Diễn để mời chúng tôi không đấy. Thứ bưởi này có vị đặc trưng bưởi Diễn rồi, nhưng vị ngọt của nó đậm hơn so với Diễn. Điều này chứng tỏ, vùng đất đó rất tốt và phải dày công lắm mới tạo được vị bưởi ngon vượt cả nơi xuất xứ.

“Một mình một ngựa”

Vườn bưởi đơm hoa, kết trái lại cho chất lượng ngon hảo hạng là động lực để ông Chiểu vượt qua bao gian nan. Năm vừa rồi, mấy trăm cây bưởi Diễn cho quả, ông thu được tiền tỷ. Điều ông vui nhất là ông đã vượt qua được chính mình. Bên ngôi nhà sàn đã nhuốm màu thời gian, ông Chiểu ôn lại quãng thời gian đầy gian khó và khổ cực. Ông sinh năm 1949 và lớn lên tại làng Diễn. So với thế hệ cùng trang lứa, ông thuộc diện may mắn vì được đi du học tại Tiệp Khắc (nay là Cộng hòa Séc) chuyên về ngành cơ khí. Tốt nghiệp, ông được nhận vào một cơ quan “oách” ở Thủ đô Hà Nội. Sau mấy chục năm cống hiến, ông đã xin nghỉ hưu sớm để ra ngoài làm.

Ông kể từng đi làm thuê cho ông chủ Tàu chuyên về bả matitz. Được một thời gian, ông lại “nhảy” ra ngoài làm với quyết tâm không đi làm thuê cho kẻ khác. Năm 1990, cái nghề bả matitz đang thịnh hành nên ông kiếm tiền nhiều như nước. Từ người đi làm thuê, ông Chiểu trở thành ông chủ, tiền kiếm được có thể sống ung dung cả đời.

Những lần lên xứ Mường làm từ thiện đã khiến ông mê đắm cái xứ sở đất đai rộng lớn, khí hậu ôn hòa này. Năm 2001, ông đã mạnh dạn bỏ ra hơn 200 triệu đồng mua 4ha đất ở thôn Om Ngái để trồng bưởi Diễn. Quyết định của ông bị vợ con cho là “hấp”. Bởi lẽ với số tiền đó, ông có thể mua được cả một cơ ngơi rộng lớn ở đất Diễn. Ông chỉ nghĩ, đất Diễn đang mất dần đi, ông muốn tìm một nơi để lưu lại giống bưởi quý. Thế là mặc sự phản đối của gia đình, ông ôm tiền đổ vào mảnh đất ở Om Ngái.

Có tới 5 người con, nhưng không một ai đi theo ông. Khi đó ông đã gần 60 tuổi, song ông vẫn quyết tâm ôm chăn chiếu lên rừng ở. Một mình ông cặm cụi đào đất làm hàng rào, dựng lều. Các cụ thường bảo, ăn một mình thì đắng, làm một mình cực thân, vậy mà suốt mấy năm đằng đẵng, mình ông âm thầm bới đất, lật cỏ trồng bưởi. Ngày nối ngày, mùa sang mùa, ông Chiểu sống và làm việc cô đơn giữa núi rừng. Một mình cơm niêu, nước lọ, nhiều lúc ông chỉ thèm nghe có tiếng người quen đến thăm mình. Dường như ông trời thấu hiểu tấm lòng của ông, suốt mấy năm trời làm từ sáng tinh mơ cho đến khi mặt trời khuất núi, ông vẫn đủ sức cáng đáng.

Mấy năm đầu, vợ con không một lời hỏi han, lý do họ đưa ra là không thể gàn được ông. Thế rồi vườn bưởi Diễn cũng ra hoa, kết trái, ông mừng rơi nước mắt. Đến giờ ông vẫn còn nhớ cái cảm giác run run khi bổ quả bưởi đầu tiên. “Ngày đầu hái thử trái bưởi vàng rực, căng tròn, chất lượng ăn khỏi chê, tôi đã khóc. Mồ hôi công sức và cả quyết tâm của tôi đã nuôi lớn trái bưởi, công sức của mình đổ ra không uổng chút nào” – ông Chiểu nói.

Vườn bưởi có thu, ông lại phải đối mặt với việc có nguy cơ bị “mất trắng” cả 4ha đất. UBND xã Cao Dương ra quyết định cưỡng chế, phá toàn bộ vườn bưởi của ông với lý do chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đứng trước nguy cơ bị trắng tay, một lần nữa ông lại phải chạy vạy khắp nơi để lo cho xong thủ tục. Vụ này cũng khiến ông tốn kém kha khá, nhưng ông bảo, mình gây dựng thành quả được, giờ dù khó khăn đến mấy cũng phải “chiến đấu” giữ vườn bưởi. Ông Chiểu chia sẻ: “Đứng trước những khó khăn, tôi lại nhớ đến lời dạy của bố đẻ: “Người sống có đức cứ mặc sức mà ăn con à”. Tôi vẫn bình tĩnh xử lý, tôi tin là ông trời sẽ không bất công với mình”. Quả nhiên, ông đã đúng, ông đấu tranh một cách ôn hòa, cuối cùng ông cũng làm xong được thủ tục công nhận 4ha đất là của mình.

Câu chuyện đầy cay đắng và nước mắt của ông Chiểu đã trải qua khiến ông thêm yêu cây, yêu đất. Ông Chiểu chia sẻ, bưởi Diễn cũng dễ trồng, dễ chăm sóc. Một năm chỉ phun thuốc có 3 lần. Bưởi ra lộc phun phòng vẽ bùa, sâu khoang, trước mùa mưa phòng loét, và phun thuốc phòng ruồi vàng. Quan trọng nhất với người trồng bưởi là phải phun đúng, phun trúng. Nếu không làm đúng quy trình bưởi sẽ kém chất lượng.

Sau việc bảo tồn được giống bưởi quý của quê hương, ông còn đang trồng giống bưởi ngọt, vỏ mỏng như cam. Ông Chiểu kể: “Tôi may mắn được thưởng thức giống bưởi ngọt của một lão nông. Bưởi bằng cái bát to, cho thu vào tháng 9. Đặc biệt là giống bưởi này rất khỏe cây, quả sai, chất lượng tuyệt hảo. Giờ tôi đã trồng khoảng 100 cây để lấy giống. Nếu thử nghiệm này thành công, vườn của tôi sẽ cung cấp thêm cây giống cho bà con”.

Ông Chiểu vui mừng thông báo, đối tác Nhật Bản đã về vườn của ông khảo sát chất lượng bưởi và đã thỏa mãn được nhiều điều kiện họ đưa ra. Dự kiến năm nay, ông sẽ đưa một số lô hàng xuất sang Nhật Bản. Đây là điều ông mong muốn nhất, vì khi trái cây xuất khẩu được, giá trị của nó sẽ cao gấp đôi so với việc bán ở trong nước. Ông cũng mong muốn triển khai trồng bưởi Diễn thành một vùng rộng lớn để đủ hàng cho xuất khẩu.

Linh Nhi

Phát triển trái cây đặc sản, tại sao không?

Nguồn tin: Báo An Giang

Thay vì cứ “trung thành” với cây lúa hoặc những loại cây có sẵn ở địa phương, nhiều nông dân đã mang những giống cây đặc sản về trồng thử nghiệm. Qua thời gian cải tạo, đúc kết kinh nghiệm, những loại cây này cho phẩm chất trái thơm ngon, mang lại giá trị kinh tế cao hơn nhiều lần so các loại cây trồng truyền thống.

Sầu riêng… Châu Đốc

Nghe có vẻ lạ nhưng hoàn toàn là sự thật. Giống sầu riêng múi to, cơm vàng, hạt lép những tưởng chỉ có ở vùng miền Đông, Tây Nguyên, vùng chuyên canh cây ăn trái Tiền Giang, cùng lắm là trên núi Cấm, núi Dài nhưng ngay ở vùng không có lợi thế về cây ăn trái như TP. Châu Đốc, một nông dân đã trồng được loại sầu riêng “thơm ngon nức mũi”. Người làm nên sự đột phá ấy là ông Phùng Văn Giàu (khóm Châu Long 8, phường Châu Phú B, TP. Châu Đốc).

Trong khi nhiều nông dân khác vẫn “trung thành” với lúa thì ông Giàu mạnh dạn cải tạo 4 héc-ta đất sang trồng xoài Thái, xoài cát Hòa Lộc, xoài Đài Loan và sầu riêng. Trong khi các giống xoài mang lại nguồn thu nhập ổn định thì sầu riêng đang cho hiệu quả vượt trội. Ông Giàu cho biết, năm 2006, ông trồng thử nghiệm 10 gốc sầu riêng, giống cơm vàng, hạt lép. Đến nay, sầu riêng cho trái quanh năm, phẩm chất không thua kém các vùng chuyên canh khác. “Sầu riêng ra được bao nhiêu trái đều có người vào mua hết, giá bán 50.000 đồng/kg. Tính ra, loại cây này cho hiệu quả kinh tế rất cao. Tôi đang nhân rộng ra thêm” – ông Giàu phấn khởi.

Nông dân Chợ Mới giới thiệu trái cây ngon

Châu Đốc là thành phố lễ hội, du lịch, thu hút hơn 5 triệu du khách/năm, nhu cầu mua trái cây lễ Phật, cúng Bà, tiêu thụ tại chỗ luôn rất lớn. Do địa phương không có lợi thế về cây ăn trái nên phần lớn trái cây phải nhập từ nơi khác về. Thấy được nhu cầu đó, nông dân Đào Hòa Hưng (ấp Mỹ Thuận, xã Vĩnh Châu, TP. Châu Đốc) đã cải tạo 3.000m2 đất sang trồng cam xoàn. Đây là giống cam cho phẩm chất trái rất ngon, trọng lượng thu hoạch từ 250 – 300 gram/trái. Hiện tại, vườn cao của ông Hưng cho khoảng 20.000 trái/vụ, tương đương 4 tấn. Với giá thu mua tại chỗ 40.000 đồng/kg, 3 công đất vườn của ông cho nguồn thu trên 160 triệu đồng, số tiền mà dân làm lúa cùng diện tích “nằm mơ” cũng không dám nghĩ đến. Đối với ông Trần Văn Phát, khóm Châu Long 6 (phường Vĩnh Mỹ, TP. Châu Đốc), từ khi chuyển đổi sang vườn cây ăn trái vào năm 2000, cuộc sống gia đình khá lên thấy rõ. Với 2 héc-ta đất, ông Phát là người đầu tiên trồng bưởi Năm Roi, sau chuyển qua bưởi da xanh. Nhờ chịu khó học hỏi khắp nơi, không ngừng cải tiến kỹ thuật, 800 gốc bưởi da xanh của ông hiện đã cho trái đến năm thứ 6. Bình quân mỗi vụ, vườn bưởi thu hoạch được hơn 32.000 trái (khoảng 40 trái/cây). Tất cả số bưởi đều được thương lái đến tận vườn thu mua với giá trên dưới 40.000 đồng/kg.

Đặc sản khắp nơi

Ở vùng núi Két (xã Thới Sơn, Tịnh Biên), trong điều kiện khô cằn, cây cối phát triển èo uột nhưng nhiều nông dân vẫn thành công với mô hình chuyển đổi sang trồng xoài cát Hòa Lộc. Ông Huỳnh Huy Hoàng, đang canh tác 2 héc-ta xoài, cho biết, phong trào trồng xoài cát Hòa Lộc ở núi Két bắt đầu từ năm 1998, đến nay đã phát triển lên hàng chục héc-ta. Để xoài bán được giá, nông dân đã nghiên cứu kỹ thuật xử lý ra hoa trái vụ và dùng vải bao trái để tránh bị côn trùng chích hút. “Tại đây đã hình thành một số cơ sở chuyên may túi vải bao trái xoài, giá từ 500 – 700 đồng/túi. Nhờ bao từ nhỏ nên trái rất đẹp, không bị dính nhựa xoài gây sần sùi vỏ hoặc bị hư hỏng do côn trùng chích. Vào khoảng tháng 7 đến tháng 10 âm lịch, xoài trái vụ ở đây được thu mua với giá hơn 60.000 đồng/kg. Sang khoảng tháng 2 đến tháng 4 là mùa xoài chính vụ, giá bán cũng được 15.000 đồng/kg. Tính ra, giá nào nông dân cũng có lời” – ông Hoàng phấn khởi.

Dù sử dụng nguồn nước mưa tụ nhiên nhưng 2 héc-ta xoài cát Hòa Lộc của ông Hoàng vẫn đạt năng suất 15 tấn vào mùa chính vụ, đạt 7 tấn vào mùa trái vụ. “Nếu có được thêm nguồn nước tưới thì năng suất sẽ còn cao hơn, bà con nơi đây có thể làm giàu với cây xoài” – ông Hoàng mong mỏi. Ở vùng Tịnh Biên, nông dân đã tận dụng độ cao trên núi Cấm để trồng bơ sáp. Đây là giống bơ cho phẩm chất trái ngon, béo tự nhiên, được đánh giá là hấp dẫn hơn bơ Đà Lạt. Còn ở Tri Tôn, nông dân có đất trên núi Dài, núi Cô Tô đã phát triển cây sầu riêng núi, trồng giống dâu trái vàng, phát triển cây vú sữa, xoài thanh ca, xoài đu đủ, cây điều (đào lộn hột), mãng cầu gai… không sử dụng phân bón, thuốc hóa học. Đây là những loại đặc sản được nhiều du khách ưa chuộng khi đến với vùng Bảy Núi.

Ở TX. Tân Châu, nông dân đã xây dựng được thương hiệu tại địa phương, như: Chuối cau Long Phú, xoài thơm Vĩnh Hòa, bưởi da xanh Long Thạnh, nhãn Long Sơn… Trong khi đó, ở Chợ Mới đã phát triển được vùng chuyên canh xoài ba màu, xoài cát hồng, ổi, cam xoàn sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Những mô hình này đều cho hiệu quả kinh tế cao, đóng góp quan trọng vào danh sách những loại trái cây ngon, đặc sắc của vùng đất An Giang.

NGÔ CHUẨN

Giá nho tăng mạnh, nông dân Ninh Thuận bớt khổ

Nguồn tin: Người Lao Động

Với mức giá và năng suất hiện nay, người trồng nho VietGap ở Ninh Thuận lãi trên 30 triệu đồng/sào/vụ.

Giá nho được sản xuất theo tiêu chuẩn VietGap (giống nho xanh NH01-48) bất ngờ tăng mạnh trong khoảng 1 tháng trở lại đây, dao động ở mức 45.000 - 50.000 đồng/kg bán tại vườn. So với gần một năm trước thì mức giá nói trên tăng trên 20%.

Theo Hiệp hội Nho Ninh Thuận, do nắng hạn kéo dài nên mùa nho VietGap chính vụ năm nay (bắt đầu từ khoảng tháng 3 đến tháng 7) năng suất khá cao, trên 3 tấn/sào; gấp 1,5 lần so với các giàn nho đỏ Red Cardinal sản xuất theo cách truyền thống.

Với mức giá và năng suất trên, người trồng nho VietGap lãi trên 30 triệu đồng/sào/vụ.

Nho tăng giá mạnh giúp người nông dân Ninh Thuận bớt khổ trong cơn hạn nặng

Hiện diện tích các vườn nho VietGap ở Ninh Thuận khoảng 210ha, chiếm khoảng 1/6 tổng diện tích cây nho toàn tỉnh.

Trong khi đó, cừu thịt ở Ninh Thuận rớt giá mạnh. Theo những nông dân chuyên chăn nuôi giống gia súc này thì một kg cừu hơi chỉ khoảng 42.000 - 45.000 đồng, giảm hơn 70% so với năm 2015.

Những đàn cừu ở Ninh Thuận đói khô vì thiếu nước và thức ăn

Đồng cỏ thiếu hụt, nước uống cạn kiệt do nắng hạn dữ dội kéo dài gần 2 năm qua đã khiến đàn gia súc (dê, bò, cừu) ở Ninh Thuận suy kiệt nghiêm trọng, ốm yếu, bệnh tật. Đây là một trong những những nguyên nhân chính khiến cừu mất giá.

L.Trường

Tạo “chỗ đứng” cho thị trường trái cây ngay trên sân nhà

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Nhiều loại trái cây của nhà vườn tại TP Cần Thơ và các tỉnh ĐBSCL đã và đang bước vào mùa thu hoạch. Năm nay, phần lớn các loại trái cây đều có giá bán khá cao so với cùng kỳ năm trước, nhiều nhà vườn phấn khởi. Song, để giá cả đầu ra các loại trái cây nội địa tiếp tục được ổn định lâu dài vẫn còn là "bài toán khó" nếu không kịp thời tạo "chỗ đứng" vững chắc cho trái cây nội địa ngay tại thị trường trong nước…

* Giá trái cây tăng

Từ đầu năm 2016 đến nay, nhiều loại trái cây của nhà vườn tại các địa phương trong nước được bán tại thị trường TP Cần Thơ có giá cao hơn ít nhất từ 10.000 - 30.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước. Nhiều loại trái cây của nhà vườn vùng ĐBSCL vào mùa thu hoạch, giá một số loại trái cây có giảm so với trước nhưng vẫn ở mức cao so với mọi năm.

Thời gian qua, nhờ đa dạng hóa các mặt hàng mà nhiều điểm kinh doanh trái cây tại chợ Xuân Khánh, TP Cần Thơ luôn thu hút được nhiều khách mua hàng.

Vào mùa thu hoạch nên giá nhiều loại xoài, sầu riêng, măng cụt, dâu…đã giảm khoảng 5.000 - 20.000 đồng/kg so với cách nay hơn 1 tháng. Tuy nhiên, giá nhiều loại trái cây vẫn cao hơn từ 10.000 - 30.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước. Tại nhiều chợ và siêu thị ở TP Cần Thơ, giá bán lẻ các loại sầu riêng ngon, hạt lép (như sầu riêng Chuồng Bò, Ri 6, Mỏn Thon…) ở mức 50.000 - 56.000 đồng/kg; măng cụt và bòn bon có giá: 70.000 - 100.000 đồng/kg, tùy loại; xoài cát Hòa Lộc loại 1 có giá khoảng 50.000 đồng/kg; xoài giống Úc và Đài Loan giá 25.000 - 30.000 đồng/kg. Trong khi đó, chôm chôm Java có giá 18.000 - 20.000 đồng/kg; chôm chôm nhãn và chôn chôm Thái: 40.000 - 53.000 đồng/kg; dâu xanh giá 20.000 đồng/kg. Các loại trái cây thông thường như: ổi, dưa hấu, đu đủ, mận… có giá từ 7.000 - 15.000 đồng/kg. Gần đây, các loại trái cây có múi như: cam, bưởi và quýt tiếp tục duy trì giá ở mức cao do nguồn cung hạn chế và nhu cầu tăng cao trong những tháng mùa nắng. Cam sành và cam mật loại 1 có giá khoảng 35.000 - 40.000 đồng/kg; cam xoàn: 45.000 - 50.000 đồng/kg; quýt đường 55.000 - 62.000 đồng/kg; bưởi Năm Roi giá khoảng 30.000 - 35.000 đồng/kg; bưởi da xanh loại 1: 80.000 - 85.000 đồng/kg. Khoảng 1 - 2 tháng trở lại đây, nhiều loại trái cây của các vùng miền trong nước bán tại thị trường TP Cần Thơ cũng có giá khá cao. Cụ thể, Thanh Long (Bình Thuận) giá bán lẻ khoảng 25.000 - 30.000 đồng/kg; mãng cầu ta loại 1 (hàng xuất xứ các tỉnh miền Đông Nam bộ) giá 55.000 - 65.000 đồng/kg; các loại bơ có giá phổ biến từ 25.000 - 65.000 đồng/kg; dưa lưới: 35.000 - 47.000 đồng/kg.

Giá trái cây tăng chủ yếu do nguồn cung giảm và các chi phí sản xuất đầu vào tăng. Nhiều nhà vườn và tiểu thương kinh doanh trái cây cho biết, do các yếu tố thời tiết bất lợi, hạn hán và mặn xâm nhập, năm nay nhiều loại trái cây ở ĐBSCL không chỉ ra trái muộn so với mọi năm mà năng suất trái cũng bị sụt giảm mạnh. Trong khi đó, các loại trái cây có xuất xứ từ các vùng miền khác trong nước và trái cây nhập ngoại từ các nước lân cận như: Campuchia, Thái Lan… cũng không được bày bán nhiều trên thị trường ở các tỉnh, thành ĐBSCL.

* Cần ổn định "đầu ra" lâu dài

Dù giá đang ở mức cao nhưng điệp khúc "rộ mùa, rớt giá" của các loại trái cây ĐBSCL là rất khó tránh khỏi, nhất là khi các khâu tổ chức tiêu thụ, bảo quản và chế biến sau thu hoạch còn nhiều yếu kém.

Ông Huỳnh Minh Hiếu, ngụ ấp Trường Trung B, xã Tân Thới, huyện Phong Điền, cho biết: "Gia đình tôi tích cực chăm sóc vườn cây không bị thiếu nước tưới nên hơn 1 công đất trồng sầu riêng hạt lép Ri 6 trong vụ này vẫn cho trái khá tốt. Hiện sầu riêng hạt lép được nông dân bán ngay tại vườn cho lái với giá khá cao, 30.000 đồng/kg. Nếu giá cứ ổn định ở mức này thì quá tốt, nhưng sợ không duy trì được vì đã bước vào mùa thu hoạch rộ". Theo ông Lê Văn Dũng, Chủ vựa thu mua trái cây Dũng-Diễm, nhiều khả năng cho thấy giá cả và đầu ra của các loại trái cây trong năm nay sẽ tốt hơn. Năm trước giá dâu vàng (dâu bòn bon) tại huyện Phong Điền đã nhanh chóng giảm mạnh chỉ còn trên dưới 2.000 đồng/kg, nhưng năm nay nhờ tiêu thụ trong nước khởi sắc hơn và xuất khẩu tăng khá sang thị trường Campuchia, giá dâu vàng đang giữ được ở mức 5.000 - 6.000 đồng/kg, còn dâu xanh giá 11.000 - 12.000 đồng/kg. Tuy nhiên, khi vào vụ thu hoach rộ, giá trái cây giảm là điều khó tránh khỏi bởi phần lớn các loại trái cây trong nước vẫn chủ yếu được tiêu thụ ở "dạng thô" và không thể bảo quản được lâu để đem tiêu thụ ở xa.

Theo bà Huỳnh Kim Xuyến, tiểu thương bán trái cây tại chợ thị trấn Phong Điền, TP Cần Thơ, để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, vào mùa trái cây, các điểm kinh doanh trái cây cũng ưu tiên mua các mặt hàng trong nước đã tạo nhiều thuận lợi cho nhà vườn tiêu thụ sản phẩm. Song, do khâu bảo quản, chế biến sau thu hoạch còn hạn chế và việc tiêu thụ chủ yếu ở "dạng thô" nên trái cây thường gặp cảnh "thừa hàng, dội chợ", nhất là với những loại được nhà vườn trồng nhiều nhưng đầu ra trong xuất khẩu còn hạn chế. Do vậy, để ổn định đầu ra lâu dài cho trái cây, ngoài việc tổ chức sản xuất lại cho phù hợp, đòi hỏi các cơ quan chức năng cần nghiên cứu nâng cao khả năng bảo quản và phát triển các sản phẩm chế biến từ trái cây để nhà nông không bị áp lực tiêu thụ ngay trái cây trong các mùa thu hoạch rộ. Chị Phan Nguyễn Bích Phương, chủ một điểm kinh doanh trái cây tại chợ Xuân Khánh, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ, cho biết: "Khách hàng mua trái cây để phục vụ nhu cầu tiêu dùng tại gia đình vừa làm quà biếu tặng sẵn sàng trả giá cao để chọn mua được các loại trái cây chất lượng cao. Song, nhiều điểm kinh doanh trái cây chưa đáp ứng được yêu cầu này, không ít người tiêu dùng còn tâm lý sính ngoại nên đã tạo điều kiện cho trái cây nhập ngoại chen chân vào chiếm lấy phân khúc thị trường cấp cao".

Để nâng cao giá bán các loại trái cây trong nước, thì việc tổ chức lại các kênh tiêu thụ và các điểm kinh doanh nhằm tạo thuận lợi cho người tiêu dùng có thể chọn mua được các sản phẩm trái cây nội địa đảm bảo chất lượng là cấp thiết. Các loại trái cây nội địa vẫn còn khó thâm nhập vào các kênh bán hàng hiện đại, nhất là các siêu thị và trung tâm thương mại lớn. Trên thị trường dù có nhiều điểm và cửa hàng kinh doanh trái cây nhưng nhiều lúc, nhiều nơi người tiêu dùng còn gặp khó trong việc tìm các điểm kinh doanh có bày bán đầy đủ tất cả các mặt hàng với chất lượng cao, đáp ứng các nhu cầu của người dân.

Khánh Trung

Trồng xoài thu nhập cao

Nguồn tin: Báo Bình Định

Nhiều năm qua, bình quân mỗi năm ông Bùi Văn Viên, ở thôn Văn Trường - xã Mỹ Phong (huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định) đã thu về trên dưới nửa tỉ đồng từ trồng xoài trên chân núi Lớn (thuộc địa bàn thôn Diêm Tiêu - xã Mỹ Trinh).

Ông Viên (bên trái) giới thiệu cây xoài 3 năm tuổi. Ảnh: X.L

Ông Viên bộc bạch, cách đây 17 năm, khi ông bổ nhát cuốc đầu tiên trên chân núi Lớn, ai cũng bảo ông khùng. Mặc! Ông cứ cần cù chặt, đốt, cuốc, đào, xếp dọn từng cục đá, gốc cây, khai hoang được đến đâu trồng xoài đến đó. 3 năm sau, 220 cây xoài giống “ba mùa mưa” mua từ Đồng Nai về trồng cho trái bói đầu tiên. Ông rất vui và tin tưởng tương lai cây xoài trên đất này. Ông tiếp tục đầu tư, mua thêm rẫy, đưa diện tích xoài lên gần 3ha với hơn 450 cây.

Từ đó, năm nào ông cũng thu ít nhất 200 - 300 triệu đồng từ vườn xoài. Có năm xoài được mùa, được giá, ông thu trên 400 triệu đồng. Nhất là năm 2013, cây nào cây nấy quằn trái, đạt sản lượng 80 tấn, bán chỉ 8.000 đồng/kg, ông đã tổng thu 640 triệu đồng. Còn vụ xoài năm 2015, tuy sản lượng có thấp nhưng vẫn đạt gần 40 tấn, giá bán 10.000 đồng/kg, ông thu gần 400 triệu đồng.

Ông Viên cho biết: “Vụ xoài năm nay, cũng với hơn 450 gốc xoài, trên diện tích 3ha, nhờ thời tiết rất thuận, xoài đang trĩu quả, trái nào trái nấy rất đẹp, dự kiến sẽ đạt 50 - 70 tấn, bán thấp nhất 10.000 đồng/kg thì cũng cầm chắc thu hơn nửa tỉ đồng”.

3 năm trước, ông lại tậu thêm 2ha đất ở thôn Gia Hội - xã Mỹ Phong trồng tiếp 100 gốc xoài, cũng giống “3 mùa mưa”, hiện đã cho quả trĩu cành. “Vụ đầu tiên này, với giá xoài bình quân 12.000 - 13.000 đồng/kg, tui sẽ thu hơn 30 triệu đồng” - ông nói chắc nịch.

“Từ mô hình trồng xoài, cũng như từ sự hướng dẫn, giúp đỡ của ông Viên, ở Mỹ Phong đã có hàng chục hộ thoát nghèo và khấm khá lên nhờ trồng xoài” - ông Tô Đình Quy, Chủ tịch Hội Nông dân xã Mỹ Phong, cho biết.

XUÂN LỘC

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop