Tin nông nghiệp ngày 07 tháng 11 năm 2020

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 07 tháng 11 năm 2020

Khai mạc hội chợ Nông nghiệp quốc tế đồng bằng Bắc bộ năm 2020

 

Nguồn tin:  Báo Thái Bình

 

Tối ngày 5/11, tại Công viên Kỳ Bá, thành phố Thái Bình, Ban Chỉ đạo tổ chức hội chợ chính thức khai mạc hội chợ Nông nghiệp quốc tế đồng bằng Bắc bộ năm 2020.

 

 

Các đồng chí lãnh đạo trung ương và lãnh đạo tỉnh thực hiện nghi lễ cắt băng khai mạc hội chợ.

 

Tới dự lễ khai mạc, về phía trung ương có đại diện lãnh đạo các Bộ: Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; đại diện Đại sứ quán các nước Indonesia và Lào. Về phía tỉnh có các đồng chí: Ngô Đông Hải, Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; Nguyễn Tiến Thành, Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh; Nguyễn Khắc Thận, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch thường trực, phụ trách điều hành UBND tỉnh; các đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy; các đồng chí Phó Chủ tịch HĐND, UBND tỉnh và lãnh đạo một số sở, ngành, đơn vị, địa phương.

 

Hội chợ Nông nghiệp quốc tế đồng bằng Bắc bộ năm 2020 có hơn 300 doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia với 400 gian hàng. Hội chợ năm nay sinh động và hấp dẫn vì ngoài 148 gian hàng bán và giới thiệu sản phẩm tiêu biểu lĩnh vực nông nghiệp, sản phẩm xây dựng trở thành sản phẩm OCOP của 8 huyện, thành phố trong tỉnh còn có các gian hàng do Sở Công Thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của 16 tỉnh, thành phố trong khu vực đưa những sản phẩm là thế mạnh của địa phương tới hội chợ để quảng bá, giới thiệu.

 

Trong 6 ngày (5 - 11/11), hội chợ cũng có các hoạt động văn hóa ẩm thực, triển lãm sinh vật cảnh, hội thảo, xúc tiến thương mại và giao lưu văn nghệ.

 

Phát biểu khai mạc hội chợ, đồng chí Nguyễn Quang Hưng, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng ban Chỉ đạo tổ chức hội chợ nhấn mạnh: Hội chợ là sự kiện nằm trong chương trình cấp quốc gia về xúc tiến thương mại năm 2020 nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của các tỉnh, thành phố khu vực đồng bằng Bắc bộ nói chung, tỉnh Thái Bình nói riêng. Đây là cơ hội để các tổ chức, cá nhân quảng bá thương hiệu doanh nghiệp và sản phẩm; giao thương, trao đổi kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh; tìm kiếm đối tác mở rộng thị trường kinh doanh. Đây là hoạt động rất có ý nghĩa nhằm thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng trong bối cảnh nền kinh tế gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Việc hỗ trợ các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân quảng bá và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất góp phần thúc đẩy sự phát triển toàn diện, vững chắc ngành Nông nghiệp, nông thôn của Thái Bình cũng như các tỉnh trong khu vực đồng bằng Bắc Bộ.

 

Đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh chúc các doanh nghiệp tiêu thụ được nhiều sản phẩm, quảng bá lan tỏa thương hiệu của doanh nghiệp, tìm kiếm, ký kết được nhiều hợp đồng sản xuất, tiêu thụ hàng hóa với đối tác từ hội chợ này.

 

Ngay sau lễ khai mạc, các đồng chí lãnh đạo tỉnh và đông đảo tầng lớp nhân dân đã đi tham quan các gian hàng tại hội chợ.

 

Nhân dịp này, Ban Chỉ đạo tổ chức hội chợ cũng đã phát động các đại biểu và doanh nghiệp, nhân dân tới hội chợ tham gia quyên góp, ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên khắc phục khó khăn do thiên tai gây ra.

 

Khắc Duẩn

 

Xuất khẩu rau quả 10 tháng của năm 2020 đạt gần 2,72 tỷ USD

 

Nguồn tin: Hà Nội Mới

 

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), giá trị xuất khẩu rau quả tháng 10-2020 đạt khoảng 230 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu rau quả 10 tháng năm 2020 đạt gần 2,72 tỷ USD, giảm 12,5% so với cùng kỳ năm trước.

 

Trung Quốc đứng vị trí thứ nhất về thị trường nhập khẩu rau quả của Việt Nam, chiếm 57,5% thị phần với giá trị xuất khẩu đạt 1,43 tỷ USD, giảm 25,9% so với cùng kỳ năm 2019. Ngoài ra, xuất khẩu rau quả sang thị trường Hong Kong (Trung Quốc) và Hà Lan cũng giảm lần lượt là 2% và 3,7%.

 

Ngược lại, xuất khẩu rau quả sang hầu hết các thị trường khó tính như: Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Hoa Kỳ, Nhật Bản đều tăng.

 

Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT), giá trị xuất khẩu rau quả từ đầu năm đến nay giảm do một số mặt hàng giảm. Trong đó, thanh long - mặt hàng chiếm thị phần cao nhất (với 36,4% tổng giá trị xuất khẩu) 10 tháng qua đạt hơn 906,7 triệu USD (giảm 7,2%); chuối đạt 138,2 triệu USD (chiếm 5,5%, giảm 11,7%); chanh đạt 108,6 triệu USD (chiếm 4,4%, giảm 2,4%); sầu riêng đạt 94,6 triệu USD (chiếm 3,8%, giảm 56,2%)...

 

Tại thị trường trong nước, theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, mưa bão khiến giá rau biến động tăng tại khu vực miền Trung. Cụ thể, tại thành phố Đà Nẵng, giá mỗi loại tăng từ 5.000 đến 10.000 đồng/kg; đậu cô ve và mướp đắng 30.000 đồng/kg (tăng 10.000 đồng/kg), cà rốt 25.000 đồng/kg; dưa leo 20.000 đồng/kg...

 

Tương tự, tại Quảng Ngãi, giá các loại rau xanh phổ biến như mồng tơi, rau má, mã đề, dưa leo... có giá 35.000-40.000 đồng/kg; xà lách 45.000-50.000 đồng/kg; các loại rau thơm có giá 50.000-60.000 đồng/kg...

 

Tại các tỉnh phía Nam, nguồn cung rau tại các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Lắk giảm, đẩy giá rau củ tăng so với tháng trước. Ngược lại, nhờ nguồn cung ổn định, giá rau tại các tỉnh phía Bắc ít biến động.

 

Trong khi đó, giá trái cây ổn định do nguồn cung dồi dào, không biến động mạnh, một số loại tăng nhẹ do vào cuối vụ như thanh long, dưa hấu; một số loại khác chính vụ nên giá ở mức thấp hơn như bưởi, cam; giá dừa tương đối ổn định so với tháng trước; nhãn trái vụ tại tỉnh Đồng Tháp tăng 8.000-10.000 đồng/kg so với thời điểm tháng 7 và tháng 9-2020, đạt mức giá tại vườn 30.000-32.000 đồng/kg đối với nhãn Edor và xuồng cơm vàng; nhãn tiêu da bò 15.000-20.000 đồng/kg. Giá nhãn tăng do cuối vụ thu hoạch, nguồn cung hạn chế, nhu cầu tiêu thụ có dấu hiệu tăng trở lại.

 

Theo nhận định của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, thị trường rau quả tại Trung Quốc trong tháng qua tăng đáng kể do nhu cầu tăng phục vụ ngày lễ Trung thu, Quốc khánh, trong khi nguồn cung một số loại rau, trái cây bị giảm do ảnh hưởng của đợt lũ lớn tại tỉnh Hồ Bắc.

 

Dự báo, những tháng cuối năm 2020, triển vọng xuất khẩu rau quả sẽ khả quan do nhu cầu nhập khẩu của Trung Quốc tăng và tác động của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU trở nên rõ rệt.

 

ĐỖ MINH

 

Quả ngọt từ trồng dưa lưới

 

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

 

Bỏ nghề nhôm kính, anh Nguyễn Tuấn Anh, thôn 10, xã Kiến Thành (Đắk R’lấp, tỉnh Đắk Nông), chuyển sang trồng dưa lưới. Sau thời gian kiên trì học hỏi, miệt mài lao động, gia đình anh đã bắt đầu thu về "quả ngọt" đầu mùa.

 

Cách đây ít năm, anh Nguyễn Tuấn Anh, mở tiệm kinh doanh nhôm kính và sắt ở gần nhà. Làm ăn không mấy phát đạt, chỉ có đồng ra đồng vào, bảo đảm chi tiêu gia đình.

 

 

 

Dưa lưới của gia đình anh Nguyễn Tuấn Anh được trồng trong cách bịch ni-lon trong nhà lưới, có hệ thống nước tưới nhỏ giọt

 

Năm 2019, trong một chuyến đi chơi cùng nhóm bạn, anh Anh đến tham quan một số mô hình nông nghiệp công nghệ cao. Trong số các mô hình cây trồng, anh mê mẩn với vườn dưa lưới xanh tốt, trái đều tăm tắp trong nhà lưới. Thấy anh tò mò, hỏi han nhiều, bạn bè chọc anh bỏ nghề kinh doanh về làm nông nghiệp.

 

Câu nói đùa của bạn bè không ngờ lại trở thành sự thật. Sau chuyến đi ấy, anh về bàn với vợ làm nhà lồng để trồng dưa lưới. Được sự ủng hộ của vợ, anh thanh lý tiệm nhôm kính, đầu tư gần 200 triệu đồng để làm một khu nhà lồng bao lưới rộng 750m2. Trong nhà lồng, anh cải tạo đất, đầu tư hệ thống nước tưới nhỏ giọt và bắt đầu tìm hiểu, đưa giống dưa lưới về trồng.

 

Vụ đầu tiên cách đây ít tháng, anh vun luống rồi trải toàn bộ bạt nilon lên đất. Trên các luống, anh khoét lỗ trên nilon rồi gieo hạt trực tiếp xuống. “Đây là loại cây rất khó tính, mình lại trồng vụ đầu tiên nên lo lắng lắm. Đầu tư một đống tiền rồi chứ đâu phải ít. Sau khi tìm hiểu, mua giống và bắt đầu trồng, ngày nào mình cũng lên Zalo, Facebook… tìm các nhóm, hội, người trồng dưa lưới để hỏi thăm kinh nghiệm. Cây có biểu hiện gì là mình hỏi bạn bè đi trước”, anh Anh tâm sự.

 

 

 

Nhờ đầu tư nhà lưới và áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăm sóc, vườn dưa lưới của anh Anh phát triển tốt

 

Nhờ siêng năng học hỏi, vườn dưa lưới của anh ngày một phát triển tốt. Vụ đầu tiên, một số cây bị bệnh chết, nên lợi nhuận chẳng đáng là bao. Đổi lại, vợ chồng anh học được rất nhiều kinh nghiệm chăm sóc dưa lưới, từ các triệu chứng bệnh cho đến cách xử lý các loại bệnh. Đây là tiền đề quan trọng để gia đình anh bước sang vụ thứ hai với nhiều kỳ vọng.

 

Sang vụ thứ hai, anh Anh đầu tư mua bịch nilon tròn cao khoảng 40 cm, đường kính khoảng 30 cm. Anh đục các lỗ tròn, đổ đầy đất vào bịch nilon rồi trực tiếp gieo giống đã ươm vào bịch, chứ không gieo xuống đất như vụ trước.

 

Lợi thế của việc trồng dưa lưới trong bịch là dễ kiểm soát nước, phân bón và các loại dinh dưỡng khác cho cây. Việc kiểm soát dịch bệnh cũng tốt hơn, vì chỉ cần di dời cây sâu bệnh ra ngoài luống là được. Hơn nữa, việc cải tạo đất trong các bịch cũng dễ dàng hơn, thuận lợi để gieo trồng liên tục các vụ dưa. Nhờ các kinh nghiệm này, vườn dưa lưới của anh phát triển tốt, mang nhiều triển vọng.

 

 

 

Dưa lưới của gia đình anh Anh có lưới đẹp, tỷ lệ đồng đều của trái ước đạt trên 90%

 

Theo tính toán của anh Anh, vườn dưa lưới rộng 750m2 chỉ tốn khoảng 20 triệu tiền giống, phân bón, thuốc vi sinh… đầu tư mỗi vụ. Sau khoảng 65 ngày công, nếu dưa sinh trưởng và phát triển tốt, vườn dưa có thể đạt sản lượng khoảng trên 3 tấn.

 

Qua tính toán của anh Anh, với trên 90% quả đạt loại 1 và với giá bán tại vườn 26.000 đồng/kg quả, gia đình thu về lợi nhuận trên 50 triệu đồng (trừ chi phí). “Từ khi trồng dưa, mình có cảm giác yêu nông nghiệp hơn. Ngày nào cũng ra vườn, đi đâu cũng phải chạy về xem qua vườn cây. Cảm giác cây lớn từng ngày, quả lớn từng ngày mình rất vui”, anh Anh phấn khởi.

 

Theo anh Anh, việc đầu tư nhà vòm ban đầu khá tốn kém kinh phí. Các chi phí như hệ thống nước tưới tự động, giống, phân bón… không đáng kể. Dưa lưới là một loại cây có lợi nhuận cao, nhưng khá khó tính, đòi hỏi ứng dụng khoa học kỹ thuật nhiều.

 

Anh chia sẻ: “Sau này, nếu có điều kiện, tôi sẽ xây dựng thêm 1 nhà vòm tương đương thế này nữa. Với 2 nhà vòm, gia đình mình sẽ có thu nhập khá, bảo đảm được cuộc sống. Mình cũng hy vọng những bà con có ý định đầu tư trồng dưa lưới mạnh dạn tìm hiểu, học hỏi kinh nghiệm. Bản thân sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm và hy vọng đây sẽ là loại cây giúp người nông dân tiếp cận với nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống”.

 

Bài, ảnh: Lê Phước

 

Ổn định sản xuất cây ăn trái

 

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

 

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng trồng cây ăn trái chủ lực, chiếm khoảng 58% diện tích cây ăn trái toàn miền Nam; những năm qua nhờ được quan tâm đầu tư nên cây ăn trái ở ĐBSCL phát triển khá toàn diện, liên tục tăng trưởng cả về diện tích, sản lượng và giá trị, phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu.

 

 

Các nhà vườn đang tích cực phục hồi và chăm sóc vườn cây ăn trái để giữ vững sản lượng, chất lượng sản phẩm. Ảnh: H.THU

 

Diện tích, sản lượng tăng

 

Theo Cục Trồng trọt, toàn vùng ĐBSCL có khoảng 362.000ha cây ăn trái, chiếm hơn 34% tổng diện tích cây ăn trái của cả nước. Từ năm 2013 đến nay, diện tích cây ăn trái không ngừng tăng với mức bình quân khoảng 4,2%/năm. Khoảng 10 năm gần đây, kim ngạch xuất khẩu rau quả của cả nước tăng ấn tượng; trong đó năm 2019 giá trị xuất khẩu rau quả đạt 3,7 tỉ USD, tăng 3,2 tỉ USD so với năm 2010.

 

 

 

Diện tích cây ăn trái ở đồng bằng sông Cửu Long không ngừng tăng. Ảnh: H.TÂN

 

Những năm gần đây, năng suất, sản lượng các loại trái cây ở ĐBSCL không ngừng tăng lên nhờ việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tăng cường đầu tư thâm canh, tuyển chọn sử dụng giống mới; đặc biệt là xoài, chôm chôm, khóm, chuối, cam, bưởi. Ngoài ra, chủng loại cây ăn trái của vùng cũng khá phong phú, nhiều loại cây ăn trái được tuyển chọn như xoài cát Hòa Lộc, xoài cát chu, sầu riêng cơm vàng hạt lép Ri6, bưởi da xanh... Đối với sản lượng thanh long tăng gấp 20 lần (hơn 500.000 tấn), bưởi tăng 0,5 lần (gần 100.000 tấn), sầu riêng tăng 5 lần (khoảng 300.000 tấn), riêng xoài dù diện tích tăng ít nhưng sản lượng tăng thêm khoảng 200.000 tấn do tăng cường thâm canh, đây là chủng loại có thị trường tiêu thụ mạnh cả trong nước và xuất khẩu với giá cao và tương đối ổn định.

 

Việc rải vụ trái cây cũng được các địa phương tăng cường thực hiện nhằm tạo điều kiện tốt cho tiêu thụ, giá cao, hiệu quả sản xuất; rải vụ giảm áp lực đầu ra khi sản lượng tập trung vào chính vụ, giúp giá trái cây ổn định, hiệu quả sản xuất rải vụ cao hơn chính vụ. Có 5 loại trái cây là thanh long, chôm chôm, sầu riêng, nhãn, xoài tại các tỉnh ĐBSCL được thực hiện tương đối thuận lợi về tiêu thụ. Giá bán 5 loại trái cây rải vụ tiếp tục ổn định, hiệu quả sản xuất rải vụ cao hơn từ 1,5 đến 2 lần so với chính vụ.

 

Mặt được là vậy, tuy nhiên diện tích cây ăn trái vẫn còn phân tán, nhỏ lẻ, không tập trung; khó khăn cho đầu tư cơ sở hạ tầng, tổ chức liên kết sản xuất và kiểm soát chất lượng sản phẩm. Hiện chỉ có một số loại cây như thanh long, chuối, cây có múi… đang hình thành vùng sản xuất tập trung quy mô tương đối lớn. Bên cạnh đó, mùa khô năm 2019-2020 đến sớm, hạn, mặn gay gắt kéo dài gây bất lợi cho cây ăn trái. Diện tích cây ăn trái vùng ĐBSCL bị ảnh hưởng khô hạn, xâm nhập mặn khoảng 25.000ha. Nguyên nhân do khô hạn kéo dài, thiếu nước ngọt tưới, một số nơi không thể vận chuyển nước được, dẫn đến đất khô không đủ ẩm; đất bị xì phèn, nước nhiễm phèn. Nước mặn xâm nhập (rò rỉ qua bờ bao, thẩm thấu) ảnh hưởng nghiêm trọng trên những vườn không có đê bao khép kín. Nhiều vườn cây bị sốc do môi trường bất lợi vì có những cơn mưa đầu mùa cây ra lá, rễ non nhưng sau đó nắng nóng kéo dài thêm 20-30 ngày, tiếp tục khô hạn làm rễ và đọt non bị tổn thương, cây không còn đủ sức phục hồi.

 

Ở Hậu Giang, tổng diện tích cây ăn trái chiếm 41.568ha. Tuy nhiên, nhiều ngày qua, triều cường trên các sông, kênh rạch dâng cao gây ngập úng cục bộ các vườn cây ăn trái trên địa bàn tỉnh với diện tích 2.906ha. Ngành nông nghiệp tỉnh cũng đã khuyến cáo nhà vườn thường xuyên chăm sóc, vệ sinh vườn và phòng trừ sinh vật gây hại, bơm thoát nước nhanh tránh để ứ đọng nước mưa gây ngập úng rễ. Ngoài ra, hướng dẫn người dân gia cố bờ bao để phòng tránh thiệt hại do nước lũ về và triều cường dâng cao. Bên cạnh đó, ngành chuyên môn và các địa phương trong tỉnh cũng tiếp tục hỗ trợ người dân trong việc tìm kiếm thị trường, liên kết tiêu thụ sản phẩm cây ăn trái để giúp đầu ra sản phẩm trái cây của nông dân được thuận lợi.

 

Tăng cường quản lý mã số

 

Bộ NN&PTNT đã đề nghị các tỉnh ĐBSCL khẩn trương khôi phục lại vườn cây ăn trái sau hạn hán, triều cường, mưa bão. Tập trung rửa mặn cho đất, dùng nước ngọt tưới thường xuyên để rửa trôi muối tích tụ trong đất, bón vôi, phục hồi bộ rễ và bộ lá; sử dụng phân hữu cơ sinh học, phòng trừ sâu bệnh kịp thời, tăng cường sử dụng các chế phẩm sinh học để tưới cho cây… Gia cố đê bao, bơm thoát nước để bảo vệ vườn cây ăn trái. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh lưu ý, mặc dù hiện nay ở ĐBSCL đang vào mùa lũ, nhưng ngay từ bây giờ các địa phương cần chuẩn bị phương án ứng phó với hạn, mặn của mùa khô năm 2020-2021, bởi theo dự báo có khả năng tương đương mùa khô năm 2015-2016. Dự kiến diện tích cây ăn trái ở ĐBSCL có khả năng bị ảnh hưởng hạn, mặn khoảng 80.500ha; vì vậy các địa phương cần khoanh vùng cụ thể theo từng chủng loại cây, từng khu vực, khảo sát hệ thống thủy lợi, cân đối nguồn nước, ưu tiên chăm sóc các loại cây mẫn cảm với mặn. Xây dựng các phương án bảo vệ cho từng vùng sản xuất cây ăn trái dưới các mức độ ảnh hưởng của hạn, mặn khác nhau. Đánh giá tính thích nghi của một số cây trồng phù hợp với từng loại đất, nhằm có định hướng phát triển lâu dài.

 

Đối với cấp mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói, ông Lê Văn Thiệt, Phó cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật cho hay, đến nay ở các thị trường khó tính đã cấp được 998 mã số vùng trồng; trong đó các mã số được cấp nhiều nhất là cho thị trường Hoa Kỳ (471), Australia và New Zealand (393), Hàn Quốc (199)... Ngoài ra, đã cấp 47 mã số cơ sở đóng gói cho nông sản xuất khẩu sang các thị trường này. Đối với thị trường Trung Quốc, đã có nhiều tỉnh gửi văn bản đề nghị và đã cấp được hơn 1.700 mã số vùng trồng. Riêng khu vực ĐBSCL hiện đã cấp hơn 600 mã vùng trồng và khoảng 1.000 cơ sở đóng gói phục vụ xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc.

 

Trong thời gian qua việc kiểm tra, giám sát các vùng trồng, cơ sở đóng gói được thực hiện cơ bản đáp ứng yêu cầu. Tuy nhiên, tháng 6-2020, Tổng cục Hải quan Trung Quốc thông báo cho cơ quan Kiểm dịch thực vật Việt Nam về 220 lô xoài (khoảng 3.300 tấn, trong tổng số 750.000 tấn đã xuất khẩu sang Trung Quốc trong năm 2019 và 2020) vi phạm quy định về kiểm dịch thực vật với nhiều nguyên nhân khác nhau. Phía Trung Quốc yêu cầu tạm ngưng xuất khẩu xoài từ 12 vùng trồng và 18 cơ sở đóng gói có liên quan, để phối hợp điều tra nguyên nhân, đề xuất khắc phục và nâng cao công tác quản lý; trong đó nhiều nhất là Tiền Giang (có 15 mã số nhà đóng gói và vùng trồng), An Giang (7 mã)…

 

Theo Cục Bảo vệ thực vật, tỷ lệ số mã số cơ sở đóng gói và vùng trồng đang bị phía Trung Quốc tạm ngưng xuất khẩu không lớn, nhưng điều này cho thấy việc kiểm tra, quản lý mã số vùng trồng đối với các sản phẩm nông sản xuất khẩu cần chấn chỉnh kịp thời. Nếu không kiểm tra, giám sát tốt sẽ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế, ảnh hưởng đến lợi ích nông dân. Thậm chí nguy cơ mất thị trường, không thể xuất khẩu được, nếu thường xuyên có các vùng trồng, cơ sở đóng gói vi phạm quy định của nước nhập khẩu…

 

H.TÂN - H.THU

 

Điểm sáng khôi phục vườn cây đặc sản sau hạn mặn ở Bến Tre

 

Nguồn tin: VOV

 

Sau đợt hạn mặn lịch sử, chính quyền và người dân tỉnh Bến Tre khẩn trương khắc phục thiệt hại, khôi phục vườn cây ăn trái để ổn định cuộc sống.

 

Những ngày này, gia đình ông Huỳnh Văn Thiết (nhà vườn ở ấp Mỹ Phú, xã Tân Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre) đang tất bật với việc trồng lại khoảng 1 hecta vườn cây đã bị thiệt hại do hạn mặn. Ông Thiết cho biết, đợt hạn mặn vừa qua đã làm chết 1 hecta cây sầu riêng gần 20 năm tuổi. Rút kinh nghiệm, hiện nay, ông đầu tư, cải tạo trồng lại các loại cây thích ứng với hạn mặn, từ bỏ cây sầu riêng.

 

“Hiện giờ tôi trồng lại cây dừa đỏ Mã lai, bưởi da xanh. Cây nào thích nghi với hạn mặn tôi mới chọn vì vùng tôi sau này thành vùng nước lợ rồi nên phải chọn loại thích nghi được. Kinh tế khi trồng 3-4 năm sau mà hạn lại lần nữa nông dân khổ. Bây giờ, nguồn điện ở đây rất yếu, tôi phải mua máy phát điện chạy máy lọc nước để cứu một số cây sầu riêng”, ông Thiết nói.

 

 

Ông Huỳnh Văn Thiết (nhà vườn xã Tân Phú) phá bỏ 1 hecta cây sầu riêng bị thiệt hại do hạn mặn trồng lại cây ăn trái khác

 

Xã Tân Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre có diện tích vườn cây ăn trái chuyên canh trên 2.400 hecta, gồm 3 loại đặc sản là: chôm chôm, bưởi da xanh và sầu riêng. Đợt hạn mặn lịch sử vừa qua đã làm thiệt hại gần 50% vườn cây ăn quả. Ngay sau mưa xuống, nước ngọt về, nhà vườn bắt tay ngay vào khắc phục vườn cây, đốn bỏ những diện tích đã chết hoặc già cỗi, kém năng suất, chọn những giống cây ăn quả vừa thích ứng hạn mặn vừa đảm bảo nhu cầu thị trường.

 

 

Nhiều vườn sầu riêng ở xã Tân Phú xanh tốt sau hạn mặn

 

Ông Lê Hoàng Huy, Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Phú cho biết, đa số nhà vườn đã khôi phục lại vườn cây; trong đó, có những diện tích đảm bảo an toàn, nhà vườn vẫn trồng lại cây sầu riêng đặc sản. Nhìn chung hiện nay, vườn cây phát triển tốt: “Vườn cây rất tốt, người dân tái đầu tư chủ yếu mua trồng cây thích hợp. Những vùng bảo vệ được hạn mặn thì người ta vẫn tái lại cây sầu riêng, cây khắc phục tương đối tốt vì người dân chủ động không trông chờ. Hỗ trợ chính sách thì nhà nước hỗ trợ làm cống trước, để bảo vệ vườn cây”.

 

 

Nhà vườn xử lý cây chôm chôm ra hoa để thu hoạch đúng dịp Tết

 

Chính quyền, đoàn thể địa phương đã tiến hành thống kê mức độ thiệt hại, đề nghị về tỉnh xem xét, hỗ trợ; đồng thời, tổ chức các cuộc hội thảo chuyển giao kỹ thuật giúp nhà vườn khôi phục sản xuất sau hạn mặn. Nhờ vậy mà hiện nay, vườn cây ăn trái tại xã Tân Phú đã xanh tươi. Nhiều nhà vườn còn xử lý cho cây ra hoa để có thu hoạch dịp Tết cổ truyền.

 

“Trồng lại cây mới thì mình đã liên hệ ngành chuyên môn để hỗ trợ kỹ thuật, hướng dân cho bà con cách rửa mặn. Do hạn mặn gây thiệt hại nên địa phương tập trung tuyên truyền cho bà con nắm được tình hình nước mặn thường xuyên, thông qua Đài truyền thanh, mạng, các cuộc họp để bà con nắm được”, ông Trần Hoàng Liêm, Chủ tịch UBND xã Tân Phú cho biết thêm.

 

 

Cống đập ngăn mặn đang được khẩn trương thi công tại xã Tân Phú

 

Để giúp nhà vườn xã Tân Phú sống chung với hạn mặn, từ nguồn kinh phí của trung ương, tỉnh đã và đang đầu tư xây dựng 3 hệ thống cống đập có quy mô lớn để ngăn mặn, trữ ngọt. Riêng các đê bao cục bộ bị sạt lở, xuống cấp đã được chính quyền và nhân dân gia cố, nâng cấp đảm bảo ngăn mặn an toàn.

 

Bằng trí tuệ, lòng quyết tâm, sự cần mẫn của nhà vườn đã giúp vườn cây đặc sản của xã Tân Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre sớm phục hồi, xanh tốt, hứa hẹn trúng mùa, trúng giá, là điểm sáng để nhân rộng ra các địa phương khác./.

 

Nhật Trường/VOV-ĐBSCL

 

Sôi nổi ngày hội trái cây ngon

 

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

 

Nhằm tôn vinh thành quả lao động và quảng bá sản phẩm đặc trưng, ngày hội trái cây ngon tỉnh Hậu Giang lần thứ I đã thu hút nhiều loại trái cây ngon của nhà vườn, doanh nghiệp trong tỉnh tham gia trưng bày và đông đảo khách tham quan.

 

 

Ông Lê Tiến Châu (bìa phải), Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh, tham quan khu trưng bày cuộc thi trái cây ngon của tỉnh.

 

Ngày hội trái cây ngon là sự kiện nằm trong chuỗi hoạt động của Giải marathon quốc tế “Mekong delta marathon” Hậu Giang năm 2020. Tuy đây là lần đầu tổ chức, nhưng ngày hội đã thu hút nhiều gian hàng của các địa phương trong tỉnh và một số doanh nghiệp tham gia trưng bày, quảng bá nhiều loại trái cây đặc trưng. Ông Võ Xuân Tân, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh, thông tin: Ngày hội lần này thu hút gần 50 gian hàng trưng bày trái cây. Trong đó, có 16 gian hàng của 8 huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh; 10 gian hàng của công ty, doanh nghiệp; 10 gian hàng tham gia hội thi trái cây an toàn và thi đấu xảo trái cây đẹp, độc, lạ. Các loại trái cây được trưng bày tại gian hàng là những sản phẩm mang tính đặc trưng của từng địa phương, đơn vị trong tỉnh.

 

Điển hình như tại gian hàng của huyện Phụng Hiệp, tham gia ngày hội lần đầu này, huyện Phụng Hiệp giới thiệu 10 loại sản phẩm trái cây đặc trưng và 6 loại sản phẩm tham dự hội thi trái ngon an toàn vệ sinh thực phẩm. Điển hình như: mít, mãng cầu xiêm, cam xoàn, dưa lưới, bưởi, khóm MD2... Tương tự, huyện Long Mỹ cũng giới thiệu nhiều loại trái cây đặc trưng của địa phương như: bưởi da xanh đạt chuẩn VietGAP, quýt đường, dưa lê, dưa lưới, mãng cầu xiêm, khóm Cầu Đúc...

 

 

Đông đảo du khách tham quan các gian hàng trưng bày trái cây đặc trưng của nhiều địa phương trong tỉnh.

 

Ông Trần Trung Tính, Trưởng trạm Khuyến nông huyện Phụng Hiệp, cho hay: Cây ăn trái đang là đối tượng sản xuất giàu tiềm năng, mang lại hiệu quả kinh tế cao của địa phương. Đặc biệt, các nhà vườn của huyện đang đẩy mạnh sản xuất trái cây theo hướng an toàn, chất lượng. Tin tưởng rằng, thông qua việc tham gia ngày hội trái cây ngon lần đầu của tỉnh sẽ là dịp để địa phương quảng bá hình ảnh sản phẩm trái cây đặc trưng của địa phương đến với đông đảo khách tham quan, các vận động viên tham gia chạy Giải Mekong delta marathon. Từ cơ hội có nhiều người biết đến trái cây của huyện sẽ mở thêm cơ hội trong việc đầu tư, bao tiêu sản phẩm cho bà con trong thời gian tới.

 

Chia sẻ niềm phấn khởi khi có trái cây trưng bày tại ngày hội lần này, ông Trần Phú Quốc, nhà vườn trồng 1ha mãng cầu xiêm tháp gốc bình bát ở ấp 2, xã Thuận Hòa, huyện Long Mỹ, bộc bạch: “Ngày hội đã thật sự tạo điều kiện cho những nhà vườn trong tỉnh như tôi có cơ hội gặp gỡ, giao lưu và chia sẻ kinh nghiệm trồng trái cây ngon đạt hiệu quả hơn trong thời gian tới. Tôi và nhiều nhà vườn mong rằng ngày hội sẽ được tổ chức thường xuyên để nhiều nhà vườn khác có dịp đem sản phẩm đến quảng bá, góp phần làm phong phú thêm trái cây ngon, chất lượng cho tỉnh”.

 

Ngoài những điểm nổi bật trên, Ban tổ chức ngày hội tin tưởng rằng, người dân trong tỉnh và khách tham quan sẽ có nhiều kỷ niệm ấn tượng với trái cây Hậu Giang, đặc biệt là những loại trái cây tham gia cuộc thi độc, lạ; đồng thời có được thời gian thư giãn, thưởng ngoạn và thưởng thức trái cây ngon tại các gian hàng trưng bày sản phẩm. Tham quan các gian hàng tại ngày hội, ông Trần Văn Khiêm, nhà vườn trồng hơn 1ha khóm Cầu Đúc ở ấp 2, xã Vị Tân, thành phố Vị Thanh, cho hay: “Khi biết có lễ hội trái cây ngon do tỉnh tổ chức, tôi rủ nhiều người bạn chung xóm đi xem cho biết. Bởi chỉ có dịp này mới thấy được sự đa dạng của các loại trái cây trong tỉnh. Khi đi tham quan tôi thật sự ấn tượng và thích thú với 12 mẫu trái cây tham gia hội thi trái cây đẹp, độc, lạ. Chẳng hạn như: khóm đột biến, vú sữa hoàng kim, hồng nhung, chuối rừng và một số loại trái tạo hình khắc chữ như: xoài khắc chữ Tài - Lộc, bưởi hồ lô khắc chữ Tài - Lộc...”.

 

Hậu Giang là tỉnh có thế mạnh về sản xuất nông nghiệp, trong đó ngoài cây trồng chủ lực là lúa (tổng diện tích khoảng 77.000ha) thì cây ăn trái đang là sản phẩm chủ lực thứ hai của tỉnh, với tổng diện tích hơn 41.000ha. Hiện nay, trong chiến lược phát triển kinh tế, ngành chức năng có liên quan của tỉnh rất chú trọng sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nhằm tạo ra sản phẩm an toàn và chất lượng, trong đó đó lĩnh vực cây ăn trái. Cụ thể, hiện có hơn 15% diện tích cây ăn trái của tỉnh được áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, khoảng 80% diện tích sản xuất theo hướng an toàn thực phẩm, có gần 30.000ha cây ăn trái các loại được liên kết sản xuất và bao tiêu sản phẩm, đồng thời xây dựng được 13 mặt hàng nông sản có nhãn hiệu trên thị trường.

 

Ông Trần Chí Hùng, Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh, cho biết: Thời gian tới, Hậu Giang tiếp tục tập trung phát triển cây ăn trái theo hướng đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đặc biệt, luôn coi trọng việc xây dựng và phát triển thương hiệu, mở rộng thị trường thông qua các chương trình xúc tiến thương mại, kết nối cung cầu, quảng bá thương hiệu nhằm tạo điều kiện trong việc tiêu thụ nông sản trái cây của tỉnh được tốt hơn. Điển hình là hoạt động ngày hội trái cây ngon đang được tổ chức. Với việc tham gia Giải Mekong delta marathon khá đông của vận động viên trong và ngoài tỉnh thì tin rằng ngày hội không chỉ tôn vinh thành quả lao động của bà con nông dân trong tỉnh, cũng như giới thiệu, quảng bá trái cây đặc sản, thơm ngon, chất lượng an toàn thực phẩm, cùng các sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh mà còn mở ra cơ hội lớn trong việc mời gọi nhà đầu tư đến hợp tác, đầu tư sản xuất, tiêu thụ, xây dựng chuỗi giá trị cho các loại trái cây thơm ngon, đặc trưng được thiên nhiên ưu đãi cho vùng đất Hậu Giang.

 

Gần 50 gian hàng tham gia ngày hội trái cây ngon

 

Sáng ngày 5-11, Sở NN&PTNT tỉnh tổ chức lễ khai mạc “Ngày hội trái cây ngon” tỉnh Hậu Giang lần thứ I. Tham dự có ông Lê Tiến Châu, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; cùng lãnh đạo Viện Cây ăn quả miền Nam; các sở, ban, ngành, địa phương của tỉnh và đông đảo nhà vườn trong tỉnh.

 

Tham gia ngày hội trái cây ngon lần này có gần 50 gian hàng trưng bày nhiều loại trái cây đặc trưng của các địa phương trong tỉnh và một số doanh nghiệp. Thông qua hoạt động này nhằm tôn vinh thành quả lao động của bà con nông dân trong tỉnh; đồng thời giới thiệu, quảng bá trái cây đặc sản, thơm ngon, chất lượng an toàn thực phẩm, cùng các sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh đến với đông đảo du khách trong và ngoài nước. Ngoài trưng bày các loại trái cây đặc trưng thì ngày hội còn diễn ra cuộc thi trái ngon an toàn và thi đấu xảo trái cây đẹp, độc, lạ.

 

Ngày hội trái cây ngon của tỉnh được diễn ra từ ngày 5 đến 8-11. Theo ban tổ chức ngày hội, đơn vị đã nhận 200 mẫu trái cây (với 6 loại, gồm: xoài, bưởi da danh, bưởi Năm Roi, mít, mãng cầu xiêm và khóm) từ các địa phương trong tỉnh và một số công ty, doanh nghiệp gửi dự thi trái cây ngon. Ban giám khảo đang tiến hành chấm điểm và tổ chức công bố kết quả tại Diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp về “Giải pháp phòng, chống hạn, mặn và liên kết sản xuất, tiêu thụ trái cây gắn với truy xuất nguồn gốc vùng ĐBSCL” vào sáng ngày 6-11.

 

Bài, ảnh: HỮU PHƯỚC

 

Diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp: 5 bài học nông dân cần nhớ trong phát triển cây có múi

 

Nguồn tin: Báo Bắc Giang

 

Sáng 6/11, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối hợp với Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bắc Giang tổ chức Diễn đàn Khuyến nông @ Nông nghiệp với chủ đề “Giải pháp phát triển bền vững cây có múi tại các tỉnh phía Bắc”.

 

 

Chủ tọa và Ban cố vấn tại Diễn đàn.

 

Tham gia Diễn đàn có các nhà khoa học, nhà quản lý, doanh nghiệp (DN) và hơn 200 nông dân đến từ các tỉnh: Lạng Sơn, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Phú Thọ và Bắc Giang.

 

Theo báo cáo tại Diễn đàn, cây có múi là cây ăn quả phổ biến, có mặt trong sản xuất tại khắp các tỉnh trong cả nước. Diện tích, sản lượng loại cây này liên tục tăng trong những năm gần đây, với tốc độ cao. Trong đó, tại phía Bắc 10 năm gần đây, tốc độ tăng trưởng bình quân 10%/năm (tương ứng 7,3 nghìn ha/năm); sản lượng tăng 12,5%/năm (tương ứng 69,4 nghìn tấn/năm).

 

Cây có múi là nhóm cây ăn quả có diện tích, sản lượng lớn nhất trong sản xuất cây ăn quả ở nước ta với tổng diện tích 256,86 nghìn ha (tính đến hết năm 2019), chiếm 24,07% tổng diện tích cây ăn quả. Tổng sản lượng đạt hơn 2,46 triệu tấn. Riêng các tỉnh phía Bắc, tổng diện tích cây có múi đạt 121,97 nghìn ha, chiếm 47,5% so với cả nước; chiếm hơn 29% so với diện tích cây ăn quả phía Bắc.

 

Bắc Giang hiện có khoảng hơn 50,4 nghìn ha cây ăn quả. Trong đó, cây có múi đạt khoảng 10,8 nghìn ha; sản lượng trên 80 nghìn tấn. Năm 2013, diện tích cây có múi khoảng 1,8 nghìn ha, nay tăng lên hơn 10,8 nghìn ha.

 

Việc phát triển cây ăn quả trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, trong đó có cây có múi luôn được quan tâm thông qua nhiều chương trình, đề án, chính sách. Tuy nhiên những kết quả đạt được trong sản xuất cây có múi của Bắc Giang cũng như các tỉnh phía Bắc đang gặp không ít khó khăn, như: Việc quản lý theo quy hoạch và bản đồ số vùng sản xuất tập trung gặp nhiều khó khăn, nông dân phát triển vùng trồng theo phong trào, tự phát.

 

Quản lý giống, vật tư đối với cây có múi còn nhiều bất cập, thiếu các nguồn giống sạch bệnh. Dịch bệnh vẫn xảy ra, việc lạm dụng phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật làm ảnh hưởng đến sinh thái nông nghiệp, môi trường, rút ngắn chu kỳ sản xuất dẫn đến chi phí sản xuất tăng cao, hiệu quả thấp. Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới, chuỗi liên kết chưa nhiều và chưa bền vững…

 

Tại Diễn đàn có 38 câu hỏi và 15 ý kiến giải đáp của “4 nhà” (nhà khoa học, nhà quản lý, nhà nông và DN) cùng thảo luận, chia sẻ thông tin, kiến thức và những kinh nghiệm quý xung quanh chủ đề của Diễn đàn, như: Giải pháp để trồng cây có múi đạt hiệu quả cao và bền vững; cách chăm sóc; điều chỉnh mùa vụ; ứng dụng khoa học kỹ thuật vào thâm canh; liên kết chuỗi từ sản xuất đến quảng bá, tiêu thụ sản phẩm.

 

Đặc biệt, nhiều nhà vườn mang các mẫu cây, quả có múi bị bệnh đến Diễn đàn để đề nghị các nhà khoa học giải đáp, hướng dẫn cách phòng trừ. Trên tinh thần đó, các nhà khoa học trong Ban cố vấn đã dành phần lớn thời gian trả lời, hướng dẫn bà con kỹ thuật chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh hại.

 

 

Các đại biểu trao đổi kinh nghiệm trồng cây có múi bên lề Diễn đàn.

 

Kết luận Diễn đàn, ông Kim Văn Tiêu, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đề nghị các cơ quan quản lý thực hiện tốt công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch; quản lý tốt chất lượng giống cây trồng; tổ chức lại sản xuất cho bà con nông dân theo hướng gắn kết với các DN, hợp tác xã, tổ hợp tác xã theo chuỗi. Các cơ quan nghiên cứu tiếp tục nghiên cứu tạo ra các sản phẩm có năng suất, chất lượng cao, mang lại hiệu quả cao, bền vững và thân thiện với môi trường.

 

Các cơ quan, đơn vị chuyển giao cây giống, kỹ thuật… cần tăng cường xây dựng mô hình sản xuất hiệu quả cao, an toàn thực phẩm, sản xuất hữu cơ; đẩy nhanh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào thực tiễn; xây dựng mô hình gắn với tập huấn, đào tạo, thông tin tuyên truyền với phương châm: “Một người làm, nghìn người biết, vạn người làm theo”.

 

Ông Tiêu đề nghị Trung tâm Khuyến nông các tỉnh phải đóng vai trò là cầu nối gắn kết bà con với khoa học, công nghệ, kết nối người sản xuất với thị trường để có đầu ra bền vững.

 

Các cơ quan thông tấn, báo chí phối hợp đẩy mạnh tuyên truyền các mô hình mới, mô hình hiệu quả để bà con nông dân biết, học tập và làm theo.

 

Đối với bà con nông dân cần thực hiện theo 5 bài học: Trước khi trồng cây phải tham quan, học hỏi trước các mô hình hiệu quả rồi mới áp dụng; chuẩn bị đầy đủ đất đai, kinh phí và kỹ thuật; thực hiện từ mô hình nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp; ghi chép sổ nhật ký đầy đủ để rút kinh nghiệm; luôn chủ động, sáng tạo, có khát vọng làm giàu.

 

Trong khuôn khổ Diễn đàn, chiều ngày 5/11 các đại biểu đã đến thăm mô hình thâm canh bưởi theo hướng hữu cơ tại xã Thanh Hải (Lục Ngạn).

 

Thế Đại

 

Hỗ trợ giống, thuốc thú y... cho 5 tỉnh miền Trung tái sản xuất sau lũ

 

Nguồn tin:  Lao Động

 

Huy động giống cây trồng, vật nuôi, thuốc thú y... trị giá 100 tỉ đồng hỗ trợ nông dân miền Trung tái sản xuất sau lũ.

 

Mưa lũ kéo dài trong tháng 10.2020 đã khiến nhiều tỉnh khu vực miền Trung chịu hậu quả hết sức nặng nề về người và tài sản. Cùng với đó, sản xuất nông nghiệp tại nhiều địa phương cũng bị ảnh hưởng lớn.

 

 

Sau lũ lụt, nông dân các tỉnh miền Trung đang rất thiếu các loại giống cây trồng, vật nuôi, thuốc thu y... để tái sản xuất. Ảnh: Nguyễn Giang

 

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NNPTNT) Phùng Đức Tiến cho biết, hiện nay bộ đang tích cực vận động, huy động nguồn hỗ trợ từ các tổ chức, đơn vị, cá nhân cho người dân các tỉnh miền Trung như: Giống cây trồng vật nuôi, thủy sản, thuốc, thức ăn chăn nuôi... Ước tính giá trị hỗ trợ đã tiếp nhận của bộ đến nay đạt khoảng 100 tỉ đồng đồng.

 

“Trước mắt, các tỉnh ảnh hưởng nặng nề bởi mưa lũ vừa qua như Quảng Trị, Quảng Bình, Huế, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quân khu IV và V, sẽ được hỗ trợ để khôi phục sản xuất, đặc biệt nhanh chóng khôi phục chăn nuôi gia cầm” - Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết.

 

Tính đến ngày 5.11, Bộ NNPTNT đã cấp phát hỗ trợ cho các địa phương khu vực miền Trung tổng số 18 tấn giống ngô, 10,8 tấn hạt rau giống; 30.000 liều vắc xin, 60.000 lít và 70 tấn hóa chất khử trùng. Hiện, Bộ đang tổng hợp báo cáo Chính phủ tiếp tục hỗ trợ cho các tỉnh miền Trung.

 

Bộ NNPTNT cũng đặt ra mục tiêu đảm bảo nguồn cung lương thực, thực phẩm, giúp ổn định số lượng và giá thành nông sản phục vụ Tết. Theo đó, chăn nuôi gia cầm sẽ được chú trọng khôi phục trong thời gian tới, vì đây gia cầm có chu kỳ sản xuất ngắn.

 

Nếu bắt đầu đẩy mạnh tăng đàn từ thời điểm này, Tết Nguyên đán sẽ có sản phẩm đưa ra thị trường, một mặt ổn định nguồn cung, một mặt tạo sinh kế cho những người nông dân vừa trải qua một đợt lũ lụt gây thiệt hại nặng nề, mặt khác tạo kết quả tái sản xuất cho những chu kỳ sau.

 

Theo Quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NNPTNT) Nguyễn Xuân Dương, để đảm bảo an toàn dịch bệnh, các địa phương phải thực hiện tốt công tác khử trùng, tiêu độc, đảm bảo môi trường an toàn, sạch bệnh thì mới tái chăn nuôi, nhằm tránh thiệt hại.

 

“Cục Chăn nuôi sẽ phối hợp với Trung tâm Khuyến nông Quốc gia xây dựng mô hình nuôi gia cầm sau mưa lũ để tuyên truyền, phổ biến tại các địa phương” – ông Nguyễn Xuân Dương nói.

 

Bộ NNPTNT cũng đề nghị các viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản và cơ quan quản lý địa phương tổ chức quan trắc môi trồng vùng nuôi nhằm đảm bảo môi trường an toàn trước khi thả nuôi. Tổng cục Thủy sản kết hợp với lực lượng thú y tổ chức hướng dẫn làm sạch môi trường, quan trắc môi trường nuôi đảm bảo các thông số mới khuyến cáo người dân đưa con giống vào sản xuất…

 

Thống kê của Bộ NNPTNT cho thấy, để khôi phục sản xuất nông nghiệp sau lũ, các tỉnh miền Trung đang cần hỗ trợ 5.600 tấn giống lúa, 225 tấn giống ngô, 44,2 tấn hạt rau giống; cùng với đó là 560.000 liều vắcxin, 140.000 lít và 105 tấn hóa chất khử trùng.

 

VŨ LONG

 

Các tỉnh miền Trung đang cần hỗ trợ 5.600 tấn giống lúa

 

Nguồn tin: Hà Nội Mới

 

Ngày 5-11, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã họp bàn về việc tái thiết sản xuất sau mưa lũ tại các tỉnh miền Trung.

 

 

Nước lũ dâng cao ở xã Hòa Tiến (Hòa Vang, Đà Nẵng) khiến hoa màu bị ngập nặng. Nguồn: TTXVN

 

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, để khôi phục sản xuất nông nghiệp sau lũ, các tỉnh miền Trung đang cần hỗ trợ 5.600 tấn giống lúa, 225 tấn giống ngô, 44,2 tấn hạt rau giống. Về vắc xin và hóa chất khử trùng, tổng nhu cầu các địa phương là 560.000 liều vắc xin, 140.000 lít và 105 tấn hóa chất khử trùng.

 

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang tổng hợp báo cáo Chính phủ hỗ trợ các tỉnh miền Trung. Đến nay, đã hỗ trợ cấp phát cho các tỉnh miền Trung được 18 tấn giống ngô, 10,8 tấn hạt rau giống và hỗ trợ 30.000 liều vắc xin, 60.000 lít và 70 tấn hóa chất khử trùng.

 

Cùng với đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã huy động được nguồn hỗ trợ từ các đơn vị cho người dân các tỉnh miền Trung như: Giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản, thuốc, thức ăn chăn nuôi... ước tính giá trị khoảng 100 tỷ đồng. Trước mắt, các tỉnh ảnh hưởng nặng nề bởi mưa lũ vừa qua như: Quảng Trị, Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quân khu IV và V sẽ được hỗ trợ để khôi phục sản xuất, đặc biệt nhanh chóng khôi phục chăn nuôi gia cầm.

 

Tại cuộc họp bàn, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến cho biết, ngay khi các tỉnh miền Trung bị mưa lũ, Bộ đã liên hệ với các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng cùng chung tay hỗ trợ người dân sớm khôi phục sản xuất.

 

Hiện, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã huy động được hơn 1,1 triệu con giống gia cầm, 300.000 tấn thức ăn chăn nuôi và vắc xin, thuốc thú y… để hỗ trợ cho nông dân phát triển sản xuất. Chăn nuôi gia cầm sẽ được chú trọng vì có chu kỳ sản xuất ngắn, từ nay đến Tết Nguyên đán sẽ có sản phẩm để người dân có sinh kế và tái sản xuất cho những chu kỳ sau.

 

Ngoài ra, để phát triển chăn nuôi, các địa phương phải khử trùng, tiêu độc, bảo đảm môi trường an toàn, sạch bệnh thì mới tái chăn nuôi, tránh thiệt hại. Bộ giao Cục Chăn nuôi phối hợp với Trung tâm Khuyến nông quốc gia xây dựng mô hình nuôi gia cầm để tuyên truyền, phổ biến tại các địa phương.

 

Về nuôi trồng thủy sản, Tổng cục Thủy sản kết hợp với lực lượng thú y tổ chức hướng dẫn làm sạch môi trường, quan trắc môi trường nuôi bảo đảm các thông số mới, khuyến cáo người dân đưa con giống vào sản xuất. Các địa phương cũng sẽ huy động lực lượng tổ chức các lớp tập huấn, xây dựng mô hình để tạo sức lan tỏa ở các địa phương nhằm khôi phục sản xuất sau mưa lũ.

 

NGỌC QUỲNH

 

Trồng nấm mối đen hữu cơ - hướng đi mới cho nông dân

 

Nguồn tin: Báo Ấp Bắc

 

Nắm bắt nhu cầu tiêu thụ nấm mối đen ngày càng cao của người tiêu dùng, anh Nguyễn Tấn Lương (ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Hạnh Trung, TX. Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang) đã quyết định đầu tư trồng nấm mối đen theo hướng hữu cơ. Sau gần 1 năm thực hiện, mô hình đã mang lại thu nhập đáng kể cho gia đình.

 

 

Mô hình trồng nấm mối đen hữu cơ của anh Lương.

 

Nấm mối đen trồng theo phương pháp hữu cơ có độ ngọt, dai như sản phẩm thiên nhiên. Sản phẩm này có giá trị dược tính cao, có lợi cho sức khỏe con người. Mô hình thích hợp cho nông hộ có diện tích canh tác nhỏ, nhưng cho hiệu quả kinh tế cao.

 

Anh Nguyễn Tấn Lương cho biết, trước đây gia đình anh nuôi trên 250 heo thịt và heo nái. Sau khi bệnh dịch tả heo châu Phi lây lan rộng, gia đình anh phải tiêu hủy toàn bộ số heo nuôi. Sau khi tốt nghiệp ngành Xây dựng, anh Lương quyết định về quê lập nghiệp. Qua nghiên cứu trên mạng về kỹ thuật trồng nấm mối đen hữu cơ, tham quan nhiều mô hình trồng nấm cho hiệu quả kinh tế cao ở tỉnh Đồng Nai và TP. Hồ Chí Minh, nhận thấy điều kiện khí hậu ở quê nhà thích hợp trồng nấm, anh bàn bạc với gia đình về đầu tư trồng nấm hữu cơ. Tháng 9-2019, anh Lương mạnh dạn đầu tư xây dựng nhà xưởng khép kín trồng nấm mối đen hữu cơ và sau gần 1 năm thực hiện đã mang lại thu nhập ổn định cho gia đình.

 

CHỦ TỊCH HỘI NÔNG DÂN XÃ MỸ HẠNH TRUNG - NGUYỄN VĂN CHÍ: Mô hình trồng nấm mối đen hữu cơ là một mô hình sản xuất mới, đầu ra sản phẩm ổn định, giá bán cao. Thời gian tới, Hội Nông dân xã sẽ tuyên truyền trong hội viên và nhân dân có điều kiện để nhân rộng mô hình này, giúp nông dân phát triển kinh tế.

 

Để hoàn thiện mô hình này, gia đình anh đã đầu tư 400 triệu đồng xây dựng nhà xưởng khép kín trên diện tích 300 m², với hệ thống làm mát tự động và phun sương, đảm bảo nhiệt độ phòng luôn ở mức 26 - 28 độ C, thích hợp cho nấm mối đen sinh trưởng và phát triển, đạt năng suất, chất lượng cao. Anh Lương cho biết, chu kỳ trồng nấm mối đen theo phương pháp hữu cơ khoảng 4 tháng là cho thu hoạch, nhưng đòi hỏi kỹ thuật rất khắt khe từ khâu xử lý phôi đến khâu trồng phải đảm bảo sạch. Sau khi thu hoạch nấm phải xử lý tốt khâu khử trùng môi trường cho đợt trồng tiếp theo.

 

Hiện với 300 m² nhà xưởng khép kín, trồng gần 8.000 phôi giống, trung bình mỗi ngày anh Lương thu hoạch trên 10 kg nấm mối đen. Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ nấm mối đen trên thị trường rất lớn, với giá bán trung bình từ 250 ngàn đồng đến 300 ngàn đồng/kg, một mùa nấm kéo dài khoảng 4 tháng, anh Lương thu lãi trên 100 triệu đồng. Hiện tại, anh đã liên kết với doanh nghiệp ở tỉnh Đắk Lắk cung ứng meo giống, liên kết với công ty ở TP. Hồ Chí Minh để bao tiêu sản phẩm nấm mối đen.

 

Từ thành công của mô hình, nhiều nông dân bắt đầu áp dụng trồng nấm mối đen theo phương pháp hữu cơ. Anh Lương đang hướng dẫn kỹ thuật, lắp đặt nhà xưởng trồng nấm mối đen cho nhiều nông dân ở xã Mỹ Phước Tây (TX. Cai Lậy), huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang… và các tỉnh lân cận.

 

HẢI VÂN

 

Phú Yên: Hướng tới nhân rộng mô hình tưới nhỏ giọt cho cây mía

 

Nguồn tin: Báo Phú Yên

 

 

Lắp đặt hệ thống tưới nhỏ giọt ở vùng nguyên liệu mía xã Sơn Nguyên, huyện Sơn Hòa. Ảnh: CTV

 

Hội đồng KH-CN cấp tỉnh đã đánh giá, nghiệm thu đề tài “Ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt trong sản xuất thâm canh mía tại các vùng nguyên liệu trên địa bàn tỉnh” do Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh Phú Yên làm chủ nhiệm. Đây là ứng dụng có khả năng phát huy hiệu quả trồng mía, giúp tăng năng suất, giảm chi phí và tăng thu nhập cho người trồng nếu được nhân rộng tại các vùng nguyên liệu.

 

Hiệu quả thực tế

 

Theo Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh, Phú Yên nằm trong vùng nguyên liệu mía Trung Trung Bộ và mía là 1 trong 3 cây trồng chủ lực mang lại thu nhập ổn định cho người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua, năng suất mía bình quân vẫn còn rất thấp do chưa áp dụng thâm canh tổng hợp kết hợp với tưới nước; phần lớn diện tích trồng mía chủ yếu nhờ nước trời, chưa chủ động khâu tưới nước. Qua nắm bắt tình hình thực tế tại các vùng nguyên liệu, tiếp thu công nghệ…, Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh đã xin chủ trương, mạnh dạn triển khai thử nghiệm ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt cho cây mía, với mục đích tăng năng suất, chất lượng cây trồng, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm để nâng cao thu nhập cho người dân.

 

Ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt trong sản xuất thâm canh mía tại các vùng nguyên liệu trên địa bàn tỉnh thuộc Chương trình Xây dựng mô hình ứng dụng, chuyển giao KH-CN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, miền núi được UBND tỉnh phê duyệt, thực hiện từ tháng 7/2017-3/2020 với kinh phí trên 380 triệu đồng. Mô hình này được áp dụng thử nghiệm đối với mía gốc giống Khonkean 3 (KK3), trồng trên diện tích 3ha tại hai vùng đất trồng mía khô hạn ở huyện Sơn Hòa và Sông Hinh. “Trong quá trình thực hiện, chúng tôi đã nhiều lần tổ chức hội nghị đầu bờ, tập huấn chuyển giao công nghệ tưới phối hợp với tuyên truyền để nông dân có thể ứng dụng vào sản xuất thâm canh mía. Qua 2 vụ, mặc dù thời tiết nắng nóng, khô hạn nhưng năng suất mía cây đều đạt trên 100 tấn/ha, tăng gần gấp đôi so với năng suất trồng theo hình thức truyền thống; chất lượng cây mía cũng tốt hơn, chi phí trồng giảm; lợi nhuận bình quân đạt hơn 20 triệu đồng/ha”, ông Nguyễn Đức Thắng, Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh nói.

 

Là người trực tiếp ứng dụng mô hình tưới nhỏ giọt cho cây mía, bà Trần Kim Tuyến ở thị trấn Hai Riêng, huyện Sông Hinh, cho biết: Khi lắp đặt hệ thống tưới nhỏ giọt, mía được tưới đầy đủ nước trong suốt quá trình sinh trưởng, phát triển, lá xanh tốt, ruộng mía không mọc cỏ như các ruộng đối chứng khác. Mô hình tưới này áp dụng hiệu quả khi thời tiết nắng hạn, kể cả ở những khu vực gò đồi, chỗ đất cao. Còn ông Đoàn Đắc Miên ở xã Sơn Nguyên, huyện Sơn Hòa thì cho hay: Bình quân mỗi năm, tôi trồng 12ha mía. Từ năm 2018 đến nay, tôi dành 1ha để trồng theo mô hình tới nhỏ giọt. Trước đây, mía trồng đại trà, sử dụng công nghệ tưới bằng phun trực tiếp, ăn theo nước trời không mấy hiệu quả, thậm chí có năm giá mía hạ, người trồng lỗ vốn. Còn trồng mía tưới nước theo mô hình nhỏ giọt thì cho năng suất cao hơn 30-40%, chi phí cũng giảm hơn 50% và cho thu nhập cao. Vấn đề là nếu trồng 1ha mía, vốn ban đầu mà người dân phải đầu tư là khoảng 40 triệu đồng để làm đường ống. Tuy nhiên, hệ thống ống này có thể sử dụng trên 5 năm, tính ra 1 năm tốn chưa đến 10 triệu đồng nhưng hiệu quả kinh tế cao, không tốn nhiều công sức.

 

Tính toán trong quá trình nhân rộng

 

Liên quan đến vấn đề sâu bệnh, theo Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh, từ thời điểm bắt đầu trồng đến nay, chưa phát hiện sâu bệnh gây hại trên diện tích mía của các hộ tham gia (rải rác xuất hiện rệp gây hại nhưng tỉ lệ không đáng kể). Các hộ tham gia mô hình không phải sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để xử lý các loại sâu bệnh trong suốt vụ sản xuất. Ứng dụng tưới nhỏ giọt sử dụng lượng nước ít, phân bón cũng được hòa tan và tưới theo hệ thống nhỏ giọt nên nước, phân bón được cây mía hấp thụ với tỉ lệ lớn, giúp tăng hiệu suất sử dụng phân bón, giảm thất thoát nước. Ngoài ra, vùng đất ngoài rễ mía không được cung cấp nước nên “hãm” được cỏ dại, giảm chi phí phun thuốc trừ cỏ, qua đó hạn chế ô nhiễm môi trường.

 

Theo đại diện các địa phương, ứng dụng mô hình tưới này có thể giải hạn cho vùng trồng mía khi gặp thời tiết nắng nóng. Nếu mô hình được nhân rộng, vùng nguyên liệu mía sẽ phát triển ổn định, tăng năng suất, chất lượng cây trồng; mang lại thu nhập ổn định cho nông dân, cải thiện đời sống nông thôn. Do vậy, các cơ quan chuyên môn cần tăng cường tuyên truyền và hỗ trợ vật tư, kỹ thuật cho nông dân để nhân rộng mô hình, hướng đến sản xuất nông nghiệp bền vững.

 

Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Phú Yên Trương Văn Tuấn cho biết: Với vùng nguyên liệu mía của tỉnh thì việc triển khai ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt trong sản xuất thâm canh cây mía là yêu cầu cấp thiết để giải quyết vấn đề nước tưới cho cây trồng. Đáng mừng là qua 2 năm triển khai thử nghiệm, mô hình tưới nhỏ giọt đã cho kết quả ngoài mong đợi, giúp nâng cao giá trị cây trồng, nhất là trong thời kỳ hội nhập, ứng phó biến đổi khí hậu như hiện nay. Chất lượng mía tăng, giá trị vùng nguyên liệu mía được nâng cao sẽ góp phần tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa 4 nhà trong quá trình sản xuất, tiêu thụ nông sản và tiến đến thực hiện thành công đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp của tỉnh.

 

TS NGUYỄN VĂN MINH, PHÓ TRƯỞNG KHOA NÔNG, LÂM NGHIỆP TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN: Cần hướng dẫn cụ thể để người dân áp dụng:

 

“Ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt trong sản xuất thâm canh mía tại các vùng nguyên liệu trên địa bàn tỉnh” là dự án triển khai thực tế tại vùng trồng. Do đó trong những niên vụ tiếp theo, nếu đưa vào triển khai ở các địa phương, các đơn vị cần hướng dẫn cụ thể để người dân có thể áp dụng được. Cùng với đó, vấn đề lắp đặt, vận hành quy trình hệ thống tưới, duy trì lượng nước, sâu bệnh, khả năng kháng bệnh,... cũng cần được tính toán chặt chẽ hơn; đồng thời tăng cường cung cấp thông tin, khuyến cáo người trồng trong quá trình thực hiện.

 

ÔNG DƯƠNG BÌNH PHÚ, GIÁM ĐỐC SỞ KH-CN: Đánh giá thêm tác động môi trường, hiệu quả kinh tế:

 

Qua nhận định ban đầu của các đơn vị triển khai, đơn vị đánh giá chuyên môn thì việc triển khai ứng dụng tưới nhỏ giọt trong thâm canh mía cho hiệu quả kinh tế, phù hợp với nhu cầu phát triển vùng nguyên liệu mía của tỉnh và có tính khả thi nếu được nhân rộng. Ứng dụng này cũng phù hợp với chủ trương của Bộ NN-PTNT và UBND tỉnh về ứng dụng công nghệ tiên tiến tưới nước tiết kiệm cho cây trồng. Song với đặc thù địa hình, thời tiết ở vùng nguyên liệu thì yếu tố về giống, tác động môi trường, hiệu quả kinh tế cũng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng, nhằm tránh thất thoát cho người dân.

 

VÕ PHÊ

 

Các vựa rau miền Trung mất trắng sau bão lũ, thị trường bị đẩy giá tăng cao

 

Nguồn tin: Lao Động

 

Giá rau xanh tại các tỉnh miền Trung như Quảng Nam, Đà Nẵng hiện đang tăng cao do tình hình mưa lũ kéo dài.

 

Rau ăn lá về chợ khan hiếm, giá tăng gấp 3 đến 4 lần

 

Trước tình hình đó, giá các loại rau ăn lá tăng cao tại các chợ miền Trung đồng loạt tăng cao. Cụ thể, tại TP Tam Kỳ, Quảng Nam, rau cải tăng từ 20.000 lên 50.000 đồng/kg, rau húng đã tăng lên 100.000/kg.

 

 

Rau ăn lá tại các chợ miền Trung dù giá tăng cao nhưng vẫn khan hiếm hàng. Ảnh: Thanh Chung

 

"Gía rau hiện tại tăng rất cao, người dân cũng cân nhắc nhiều trong việc chi tiêu nên việc buôn bán cũng khó khăn. Dự báo thời gian đến, giá rai ăn lá cũng sẽ tăng nữa vì lượng rau rất khan hiếm"- một tiểu thương ở chợ Phú Ninh, Quảng Nam cho biết.

 

Tại Đà Nẵng, vựa rau La Hường, nơi cung cấp rau sạch cho người dân cũng bị hư hỏng sau mưa bão nên các loại rau ăn lá cũng tăng cao. Giá một bó rau muống, mồng tơi tăng từ 5.000 đồng lên 20.000 đồng/kg, tức tăng gấp 4 lần. Giá rau cải tăng từ 10.000 đồng đến 100.000 đồng/kg, tức tăng gấp 10 lần.

 

Ngay từ chợ đấu mối Hoà Cường, hơn nửa tháng nay giá rau ăn lá nhập vào đã tăng gấp đôi nhưng vẫn khan hiếm.

 

Ông Đàm Văn Tẩu - Giám đốc Công ty Quản lý và phát triển các chợ Đà Nẵng cho biết: “Do tình hình mưa bão, ngập lụt vừa qua, các tỉnh Quảng Nam, Thừa Thiên Huế là những vựa rau chính của Đà Nẵng bị ngập lụt, rau bị hư hỏng khiến nguồn rau bị hạn chế. Tuy nhiên hiện nay các loại rau củ khác như su su, su hoài, bắp cải... được nhập từ các tỉnh khác về với giá chỉ tăng nhẹ hoặc giữ nguyên giá, người dân có thể chuyển qua sử dụng các sản phẩm thay thế này trong lúc đợi diễn biến của thời tiết khá hơn, các vựa rau cung cấp ổn định trở lại".

 

Các vựa rau mất trắng sau bão lũ

 

Ông Mai Kim Phương – Chủ tịch UBND phường Cẩm Hà, TP.Hội An, Quảng Nam cho hay, sau 2 cơn bão vừa qua đã khiến các vựa rau lớn trên địa bàn xã bị tàn phá nặng nề.

 

Riêng đối với làng rau Trà Quế - làng nghề truyền thống trồng rau hơn 400 năm qua tại Hội An bị hư hỏng hoàn toàn.

 

“Rau bỏ giống thì khoảng 15 ngày sẽ thu hoạch nhưng mưa bão liên tục ập đến khiến việc xuống giống gặp khó khăn, rau bị hư hỏng. Hiện nay, người dân cũng đã bắt đầu gieo giống mới để đáp ứng rau cho thị trường. Tuy nhiên, riêng loại rau cải giờ rất khan hiếm khiến giá rất cao” - ông Phương nói.

 

Tương tự, tại vùng rốn lũ huyện Đại Lộc, người dân trồng rau vẫn chưa thể xuống giống được vì mưa lũ liên tục.

 

Ông Đỗ Văn Hòa - Chủ tịch UBND xã Đại An, huyện Đại Lộc cho biết, vùng chuyên canh rau Bàu Tròn có gần 50ha trồng rau, đây là một trong những vựa rau lớn nhất ở Quảng Nam. Trong thời gian qua, mưa lũ liên tục ập đến khiến người dân đến nay vẫn chưa thể xuống giống, rau rất khan hiếm.

 

Hiện giá rau ở ngoài chợ có nơi đã tăng rất cao nhưng vẫn không có rau để bán. “Nếu cứ tiếp tục như thế này trong 15 ngày nữa thì khả năng không có rau để bán. Và giá rau trên địa bàn sẽ ở mức báo động cao”- ông Hòa nói.

 

THANH CHUNG - THUỲ TRANG

 

Bảo tồn nguồn gen, giữ vững thương hiệu gà Tiên Yên

 

Nguồn tin: VOV

 

Để có sản phẩm đặc sản trứ danh như gà Tiên Yên, phải kể đến công sức của những người luôn tìm tòi áp dụng các phương pháp khoa học tiên tiến, gìn giữ giống gà có nguồn gen quý hiếm này.

 

Gà Tiên Yên (Quảng Ninh) là giống gà bản địa với đôi mắt sáng, mào to đỏ rực, đặc biệt là có chòm râu dưới mỏ. Sau khi luộc da vàng ươm như thoa nghệ, có độ dày và bóng nhẫy. Thoạt trông, có cảm giác hơi ngậy, nhưng cắn một miếng mới thấy thật ngọt và giòn tan. Loài gà này, tính thuần hóa không cao, mỗi năm chỉ đẻ một vài lứa nhưng tỉ lệ trứng có phôi không cao nên giống gà này rất hiếm và chỉ được nuôi nhỏ lẻ trong các bản làng.

 

Ông Lý Văn Diểng, người Sán Dìu, Chủ tịch hội Nông dân huyện Tiên Yên cho biết, sau 3 năm nghiên cứu (2010-2013) với không biết bao nhiêu lần thất bại, ông đã thành công vì luôn khao khát bảo tồn nguồn gen quý cho dân bản.

 

 

Gà Tiên Yên là giống gà bản địa với đôi mắt sáng, mào to đỏ rực, đặc biệt là có chòm râu dưới mỏ

 

“Đây là công nghệ mới được thực hiện ở Việt Nam và được thực hiện từ năm 2013. Để gà trống đạp gà mái 1 cách tự nhiên thì tỷ lệ phôi không cao, đặc biệt chất lượng gà giống bị tạp giao, dẫn đến chất lượng giống thấp. Chỉ số nhân giống mới rất khó. Vì vậy, áp dụng công nghệ này tạo thuận lợi khi lấy tinh trùng thụ cho gà mái, tạo tính đồng đều cho gà giống rất cao và đặc biệt là tạo ra di truyền lớn nhất nhờ thụ tinh nhân tạo”, ông Lý Văn Diểng chia sẻ.

 

Gà Tiên Yên là 1 trong những sản phẩm OCOP chủ lực của tỉnh Quảng Ninh được dày công xây dựng thương hiệu thông qua dán tem điện tử và đeo nhẫn truy xuất nguồn gốc. Gà Tiên Yên luôn được giá từ 120.000 - 200.000 đồng/kg và thường “cháy hàng” nhất là vào các dịp lễ, tết. Vào ngày thường, hơn 1.000 con gà được bán ra qua hệ thống chợ, các điểm dừng chân và các quán ăn dọc Quốc lộ 18A địa bàn huyện Tiên Yên. Bên cạnh đó, địa phương tích cực quảng bá, giới thiệu gà Tiên Yên vào bán tại các công ty, nhà hàng, siêu thị, như: TKV, Big C Hạ Long và các địa bàn lân cận như Hà Nội, Hải Phòng.

 

 

Huyện Tiên Yên đã hỗ trợ các trại gà sản xuất gà giống theo quy trình thụ tinh nhân tạo để duy trì nguồn gen quý

 

“Đối với giống gà Tiên Yên được thụ tinh nhân giống rất khỏe mạnh. Từ khi nở đến 21 ngày tuổi sẽ được chăm sóc theo phương pháp nuôi gà đồi, sau đó được tiêm các vắc xin phòng chống dịch, chăn toàn bộ là ngô. Gà thả đồi ở không gian rất rộng để chạy nhảy. Một con gà mái đạt chất lượng ngon phải từ 6 tháng còn gà thiến là 8 tháng. Gà Tiên Yên đã giúp nhiều hộ nghèo thoát nghèo và thoát nghèo bền vững”, anh Tô Văn Hà, một hộ nuôi gà tại xã Tiên Lãng chia sẻ.

 

Dù đã có thương hiệu, tuy nhiên để gà Tiên Yên phát triển như kỳ vọng và giữ vững được chất lượng như hiện nay, huyện Tiên Yên cần ứng dụng khoa học công nghệ để lựa chọn 1 bộ giống chuẩn đồng bộ về kiểu dáng, chất lượng màu da, độ ngọt, dai mềm của thịt... Quan trọng là cần lựa chọn những trang trại gà giống uy tín thực hiện đúng quy trình nuôi, xử lý vắc xin phòng bệnh, thuần dưỡng tạo tính ổn định, tránh mùa vụ như hiện nay.

 

 

Gà Tiên Yên được dán tem điện tử và đeo nhẫn truy xuất nguồn gốc, trở thành sản phẩm nông nghiệp chủ lực của Quảng Ninh

 

“Chúng tôi sẽ phối hợp với những nhà khoa học để lựa chọn mã gen, tuyển chọn được bộ gen gốc và duy trì được hệ số duy trì tối ưu nhất để bảo tồn và gìn giữ chất lượng tốt nhất cho thương hiệu gà Tiên Yên”, ông Lâm Văn Phong, Phó Trưởng phòng Phòng Quản lý khoa học, Sở Khoa học và Công nghệ Quảng Ninh cho biết.

 

Từ truyền thuyết trên dãy Pạc Sủi, Tiên Yên đã xây dựng thành công hình tượng Vua gà với tên gọi gợi thương, gợi nhớ – "Tiên Yên nơi bình minh thức giấc". Việc áp dụng công nghệ thụ tinh nhân tạo cho gà Tiên Yên không chỉ là bước đột phá cho ngành nông nghiệp mà còn là câu chuyện đầy cảm hứng, giúp người nông dân nhất là cộng đồng người Tày, Dao, Sán Chỉ làm giàu trên mảnh đất khó, đưa gà Tiên Yên trở thành niềm tự hào của vùng đất vốn rất giàu bản sắc văn hóa vùng Đông Bắc, Quảng Ninh./.

 

Vũ Miền/VOV-Đông Bắc

 

Tái đàn chăn nuôi bảo đảm nguồn cung thực phẩm cuối năm: Chú trọng quản lý tốt dịch bệnh

 

Nguồn tin: Hà Nội Mới

 

Còn hơn 3 tháng nữa là đến Tết Nguyên đán Tân Sửu - 2021, nông dân ở các huyện của thành phố Hà Nội đang tập trung tái đàn vật nuôi phục vụ nhu cầu thực phẩm tăng cao của người dân Thủ đô vào dịp năm hết, Tết đến. Tuy nhiên, trước nguy cơ bệnh Dịch tả lợn châu Phi tái phát, người chăn nuôi cần thận trọng và phải quản lý tốt dịch bệnh khi tái đàn lợn, tăng quy mô đàn gia cầm.

 

 

Trang trại của gia đình ông Khổng Văn Hưng (xã Phú Minh, huyện Sóc Sơn) tập trung tái đàn lợn, góp phần đáp ứng nhu cầu thực phẩm tăng cao của thị trường dịp cuối năm.

 

Tăng tốc độ tái đàn...

 

Ông Khổng Văn Hưng ở xã Phú Minh (huyện Sóc Sơn) cho biết: "Hiện nay, trang trại của gia đình có 300 con lợn nái và hơn 1.000 lợn thương phẩm, dự kiến trong thời gian tới tăng thêm 500 con lợn thương phẩm để phục vụ dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu. Nếu giá thịt lợn duy trì ở mức 65.000-70.000 đồng/kg, người chăn nuôi sẽ có lãi".

 

Còn bà Phạm Thị Minh ở xã Phú Túc (huyện Phú Xuyên) cho hay: "Tôi đã nhập 200 con gà về nuôi, nếu thuận lợi dự kiến đến thời điểm Tết Nguyên đán Tân Sửu có thể bán ra thị trường với giá 80.000-90.000 đồng/kg, thì sẽ thu lãi hàng chục triệu đồng".

 

Tại các huyện Quốc Oai, Ứng Hòa, Thanh Oai, Ba Vì…, người chăn nuôi cũng đang đẩy nhanh tốc độ tái đàn. Theo Trạm trưởng Trạm Chăn nuôi và Thú y huyện Thanh Oai Hoàng Anh Tuấn, để bảo đảm nguồn cung thực phẩm, nhất là mặt hàng thịt lợn, ngay từ quý II-2020, huyện đã hướng dẫn người chăn nuôi tái đàn gia súc, gia cầm. Đến nay, riêng đàn lợn của huyện là 34.800 con, tăng gần 3.000 con so với quý I-2020.

 

Theo Sở NN&PTNT Hà Nội, thời điểm này, tổng đàn gia cầm của thành phố đạt khoảng 40,1 triệu con (tăng 14,3% so với cùng kỳ năm 2019); tương tự, đàn lợn đạt gần 1,4 triệu con (tăng 40%); đàn bò có 134.500 con (tăng 1,3%)… Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Huy Đăng cho biết: Với khả năng sản xuất như hiện nay, thịt gia cầm cơ bản đáp ứng đủ nhu cầu của người tiêu dùng, còn thịt bò chỉ đáp ứng khoảng 15%... Nhu cầu thịt lợn của người dân trong dịp Tết Nguyên đán Tân Sửu ước tính khoảng 22.300 tấn/tháng nhưng hiện thành phố mới sản xuất được 18.800 tấn/tháng, dự báo sẽ thiếu hụt nguồn cung. Sở NN&PTNT Hà Nội đang phối hợp với các địa phương đẩy mạnh việc tái đàn; đồng thời liên kết với các tỉnh, thành phố để bảo đảm nguồn cung thịt lợn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân Thủ đô.

 

... Nhưng phải bảo đảm quản lý dịch bệnh

 

Việc tái đàn gia súc, gia cầm đang được đẩy mạnh nhưng vấn đề đặt ra hiện nay là với tình hình bệnh Dịch tả lợn châu Phi cũng như một số bệnh trên gia súc, gia cầm đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ, việc này phải đi đôi với tăng cường kiểm soát dịch bệnh. Hiện tại, bệnh Dịch tả lợn châu Phi đang phát sinh ở các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ tại các huyện Chương Mỹ, Đông Anh, Thường Tín, Phú Xuyên và Thanh Oai. Ngành chăn nuôi, thú y địa phương đã tăng cường hướng dẫn vệ sinh chuồng trại, cung cấp địa chỉ con giống bảo đảm chất lượng cho nông dân...

 

Trao đổi về việc này, Phó Chủ tịch UBND huyện Sóc Sơn Hồ Việt Hùng cho biết: Thực hiện mục tiêu đến hết năm 2020 tăng đàn lợn lên 88.500 con (tăng 51,4% so với năm 2019), cùng với việc quan tâm đến khâu giống, Sóc Sơn hỗ trợ 100% kinh phí mua thuốc sát trùng chuồng trại cho 4.300 hộ chăn nuôi lợn; hỗ trợ 100% kinh phí xây dựng cơ sở an toàn dịch bệnh gia súc, gia cầm. Huyện cũng triển khai nhiều giải pháp nâng cao khả năng kiểm soát dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm, nhất là với bệnh Dịch tả lợn châu Phi.

 

Để hỗ trợ người chăn nuôi tái đàn, kiểm soát tốt dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, Giám đốc Sở NN&PTNT Chu Phú Mỹ thông tin: Ngành Nông nghiệp đã tham mưu với thành phố có chính sách hỗ trợ 5 triệu đồng cho các trang trại mua lợn giống về tái đàn; hỗ trợ thuốc sát trùng, tổng vệ sinh tiêu độc môi trường, đồng thời tăng cường kiểm tra việc tái đàn, bảo đảm đúng hướng dẫn của cơ quan chuyên môn. “Với các hộ nhập đàn không khai báo, nếu để xảy ra dịch bệnh đề nghị chính quyền địa phương xử phạt nghiêm”, ông Chu Phú Mỹ nhấn mạnh.

 

Việc đẩy mạnh tái đàn gia súc, gia cầm là đòi hỏi thực tế, vừa đáp ứng nhu cầu thực phẩm tăng cao của thị trường, vừa mang lại thu nhập cho người chăn nuôi.

 

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường: Các tỉnh, thành phố trong cả nước cần tái đàn gia súc, gia cầm để phục hồi chăn nuôi, đáp ứng nguồn cung thị trường cuối năm. Tuy nhiên, tái đàn hay mở rộng quy mô sản xuất phải chú ý đến dịch bệnh, cân đối thị trường, tránh đầu tư ồ ạt; tập trung tái đàn ở các trang trại chăn nuôi lớn, an toàn sinh học và phát triển mạnh chăn nuôi gia cầm, thủy cầm; tiếp tục vỗ béo đàn bò, trâu, dê... để tăng sản lượng.

 

NGỌC QUỲNH

 

Gia Lai siết chặt quản lý chăn nuôi động vật hoang dã

 

Nguồn tin: Báo Gia Lai

 

Những năm gần đây, ngành chức năng tỉnh Gia Lai tăng cường công tác quản lý các cơ sở và chủ thể chăn nuôi động vật hoang dã, góp phần hạn chế tình trạng mua bán, vận chuyển, săn bắn động vật hoang dã trái pháp luật.

 

Ông Nguyễn Duy Lân-Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh-cho biết: Thực hiện Chỉ thị số 21/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Công văn số 1620/UBND-NL của UBND tỉnh về tăng cường các giải pháp cấp bách quản lý, bảo vệ động vật hoang dã, thời gian qua, Chi cục Kiểm lâm tỉnh đã chỉ đạo lực lượng Kiểm lâm tăng cường kiểm tra, ngăn chặn và xử lý vi phạm về săn bắt, nuôi nhốt động vật hoang dã.

 

Cùng với đó, đơn vị phối hợp với các ngành, địa phương triển khai nhiều giải pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quản lý, bảo vệ, nuôi nhốt động vật hoang dã; hướng dẫn các cơ sở chăn nuôi động vật có nguồn gốc hoang dã thực hiện hồ sơ pháp lý theo quy định; chủ động vệ sinh, tiêu độc, khử trùng chuồng trại nhằm ngăn chặn dịch bệnh truyền nhiễm từ động vật rừng sang người và các loài vật nuôi khác, không để xuất hiện dịch bệnh trên địa bàn.

 

 

Mô hình nuôi hươu sao của một hộ dân trên địa bàn TP. Pleiku. Ảnh: Nguyễn Diệp

 

Theo Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh, toàn tỉnh hiện có khoảng 67 hộ dân, cá nhân đăng ký hoàn thiện hồ sơ chăn nuôi thương mại các loài động vật rừng thông thường và nhóm IIB có nguồn gốc tự nhiên như: hươu sao, nhím, dúi, nai, cầy vòi hương… Đa số cơ sở tập trung tại các huyện: Chư Sê, Krông Pa, Ia Grai, Chư Prông, Đức Cơ, thị xã An Khê, TP. Pleiku và đều được Chi cục cấp mã số cơ sở nuôi động vật rừng theo quy định.

 

Ông Phạm Tiến Tuất (thôn Nông Trường, xã Ia Glai, huyện Chư Sê) cho biết: Cách đây khoảng 10 năm, ông lên tỉnh Kon Tum học tập kỹ thuật và mua một cặp nhím sinh sản với giá gần 25 triệu đồng về nuôi. Những năm đầu, nhím sinh sản tốt, có thời điểm tăng đàn lên đến 48 con.

 

“Sau khi được lực lượng chức năng tuyên truyền các quy định của Nhà nước về quản lý chăn nuôi động vật hoang dã, gia đình tôi đã chấp hành nghiêm túc việc hoàn thiện hồ sơ, thủ tục pháp lý theo quy định. Hàng quý, gia đình đều báo cho cơ quan chức năng biết số lượng đàn nhím tăng hay giảm, khi xuất bán đều có giấy xác nhận về nguồn gốc động vật của Hạt Kiểm lâm huyện”-ông Tuất thông tin.

 

Tương tự, gia đình ông Trương Hồng Tâm (phường An Phú, thị xã An Khê) đang thuần dưỡng loại vật nuôi khá quý hiếm là cầy vòi hương. Ông Tâm chia sẻ: “Gia đình tôi đã nuôi cầy vòi hương sinh sản được vài năm nay. Đây là loài động vật quý nên các cơ quan nhà nước quản lý rất chặt. Hạt Kiểm lâm huyện và chính quyền địa phương thường xuyên kiểm tra và đã hướng dẫn gia đình hoàn thành các thủ tục hồ sơ theo quy định. Gia đình cũng thường xuyên báo cáo cơ quan chức năng về tình hình sinh trưởng, phát triển của đàn cầy vòi hương. Bên cạnh đó, gia đình tôi định kỳ vệ sinh chuồng trại, tiêu độc, khử trùng nhằm hạn chế dịch bệnh”.

 

Ông Thái Thượng Hải-Phó Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Chư Sê-cho hay: “Cùng với việc tăng cường kiểm tra, ngăn chặn hoạt động săn bắt động vật hoang dã, thời gian qua, chúng tôi thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc tuân thủ quy định của Nhà nước về chăn nuôi động vật có nguồn gốc hoang dã tại các hộ chăn nuôi trên địa bàn. Hạt phối hợp với Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện tuyên truyền, hướng dẫn các hộ chăn nuôi động vật hoang dã thực hiện hồ sơ pháp lý theo quy định của Nhà nước; đồng thời, hỗ trợ các hộ về quy trình, kỹ thuật chăm sóc, nuôi dưỡng, đảm bảo vệ sinh môi trường chăn nuôi nhằm hạn chế dịch".

 

 

Người nuôi nhím gặp khó khăn về đầu ra sản phẩm. Ảnh: Nguyễn Diệp

 

Tuy nhiên, thực tế hoạt động chăn nuôi động vật có nguồn gốc hoang dã trên địa bàn tỉnh chưa thực sự phát triển, công tác quản lý còn gặp nhiều khó khăn. Ông Nguyễn Duy Lân thông tin thêm: Thời gian qua, các chương trình, dự án khuyến nông đã hỗ trợ nuôi các loài động vật như: nhím, hươu sao… bước đầu phát huy hiệu quả, góp phần bảo tồn loài, hạn chế áp lực khai thác, sử dụng động vật hoang dã từ tự nhiên.

 

Công tác quản lý các loài động-thực vật hoang dã nói chung và quản lý hoạt động chăn nuôi động vật hoang dã nói riêng hiện vẫn còn những khó khăn, bất cập như: hoạt động chăn nuôi động vật hoang dã còn mang tính tự phát, quy mô nhỏ lẻ, số lượng cá thể ít nên vẫn còn một số hộ chưa thực hiện tốt quy định của Nhà nước về quản lý lĩnh vực này; chưa có kinh phí nghiên cứu đánh giá nuôi sinh sản, sinh trưởng của từng cá thể ở các địa phương để làm cơ sở phát triển hoạt động chăn nuôi.

 

Bên cạnh đó, chưa có quy trình kỹ thuật chăn nuôi, chăm sóc, phòng bệnh, quy cách chuồng trại để làm cơ sở hướng dẫn chủ nuôi thực hiện các quy định của Nhà nước trong chăn nuôi động vật hoang dã. Không loại trừ trường hợp trộn lẫn động vật rừng săn bắt được vào động vật hoang dã để tiêu thụ.

 

NGUYỄN DIỆP

 

Phú Yên: Nuôi bò lai cho hiệu quả kinh tế cao

 

Nguồn tin: Báo Phú Yên

 

 

Nông dân xã Hòa Bình 1 (huyện Tây Hòa) nuôi bò lai. Ảnh: LÊ TRÂM

 

Bò lai siêu thịt lớn nhanh, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người chăn nuôi nên nông dân chọn nuôi nhiều.

 

Nhà nhà nuôi bò lai

 

Ông Đào Lý Nhĩ, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Phú Yên, cho biết hiện nay toàn tỉnh có khoảng 200.000 con bò, tỉ lệ bò lai chiếm trên 74% (Sind, Brahman, Limousin...), là một trong những tỉnh có tỉ lệ bò lai cao trong cả nước. Chăn nuôi đã chuyển dần từ thả rông sang nuôi nhốt quy mô lớn, áp dụng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học gắn với kiểm soát dịch bệnh, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả. Cùng với đó, công tác xử lý môi trường chuồng trại được đầu tư, góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường.

 

Cũng theo ông Nhĩ, từ năm 2013 đến nay, Phú Yên đã tiến hành nhập tinh bò đực giống Bleu Blanc Belge (BBB gọi tắt 3B) để lai tạo với đàn bò cái nền lai Brahman tại địa phương. Kết quả đã thực hiện phối giống cho bò cái sinh sản với 54.500 liều tinh bò giống 3B. Số lượng liều tinh bò 3B cung ứng cho bà con chăn nuôi hàng năm tăng rất cao. Theo đó, 10 tháng đầu năm 2020 đạt 18.500 liều, tăng hơn 46 lần so với năm 2015 (400 liều); số bê khoảng 37.700 con. Qua theo dõi, bê lai F1 3B sinh ra có trọng lượng sơ sinh từ 30-40kg/con (trọng lượng của các giống Limousin, Red Angus… từ 25-30 kg/con). Bê lai F1 3B sinh ra khỏe mạnh, phát triển tốt. Trọng lượng bê ở 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 24 tháng và 30 tháng theo dõi tương ứng đạt 140kg/con, 226,2kg/con, 278,5kg/con, 320kg/con, 490kg/con và 670/kg con. Bình quân bò lai F1 3B tăng trọng được khoảng 20-25kg/con/tháng. Bò lai 3B rất phàm ăn, dễ nuôi và lớn nhanh nên người dân rất thích nuôi giống bò này.

 

“Hiện tại, trên thị trường, ở giai đoạn 12 tháng tuổi, bò lai Brahman bán được 17 triệu đồng/con, bò lai Limuosin 22 triệu đồng/con, bò lai 3B bán 30 triệu đồng/con. Giá bán con lai giống bò 3B cao hơn các giống bò thịt khác cùng tháng tuổi từ 8-10 triệu đồng/con. Như vậy, nuôi bê lai F1 mang lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi. Phong trào phối tinh bò siêu thịt 3B được người chăn nuôi đồng tình hưởng ứng”, ông Nhĩ nói.

 

Thời gian qua, nông dân xã Xuân Quang 2 (huyện Đồng Xuân), tập trung nuôi bò lai 3B phát triển kinh tế hộ gia đình. Ông Nguyễn Đức Thi, Chủ tịch UBND xã Xuân Quang 2, cho hay: Địa phương thực hiện đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp với trọng tâm là đầu tư phát triển các cây trồng, vật nuôi chủ lực có thế mạnh trong xã, mang lại năng suất cao như: chăn nuôi bò lai sinh sản, đặc biệt là bò 3B, mang lại hiệu quả cao cho người chăn nuôi. Năm 2019, thu nhập bình quân đầu người của xã đạt 38,7 triệu đồng/người/năm.

 

Theo thống kê của UBND huyện Đồng Xuân về công tác lai tạo đàn bò, trong quý I/2020 đã phối giống được 1.054 con bò cái nền bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo và nhảy trực tiếp, có 897 con bê lai ra đời. Hiện tổng đàn bò của huyện 27.690 con, tỉ lệ bò lai đạt 74% tổng đàn.

 

Đầu tư phát triển

 

Hiện nay các vùng nông thôn trong tỉnh, nông dân nuôi bò đều tiêm phòng đầy đủ. Ông Bùi Văn Dũng ở xã Sơn Định (huyện Sơn Hòa), cho biết: “Đối với nuôi bò lai thì trong khi các giống bò lai sind khác phải nuôi đúng sức mới phát, thì bò lai 3B nuôi lớn đến đâu bung đùi, đổ thịt đến đó nên nông dân chọn nuôi nhiều. Vừa qua, tôi bán con bò đực 3B được 28 triệu đồng, lãi 6 triệu đồng sau 4 tháng mua giống về nuôi”.

 

Theo ông Đào Ngọc Thanh, Phó Chủ tịch UBND xã Sơn Định, hiện tổng đàn bò ở Sơn Định là 455 con, tỉ lệ bò lai đạt 80% theo Nghị quyết HĐND xãgiao phát triển đàn bò lai. Nhờ đổi mới trong cách thức chăn nuôi bò truyền thống kết hợp phương pháp nuôi công nghiệp, bán công nghiệp, nên chất lượng đàn bò được nâng lên rõ rệt.

 

Ông So Y La, một người tham gia vỗ béo bò lai ở xã Ea Bá (huyện Sông Hinh), cho hay: “Tôi mua con bê lai 3B với giá 22 triệu đồng về nuôi vỗ béo bằng cách cho ăn cháo. Sau hơn 3 tháng nuôi, hiện con bò có giá khoảng 27 triệu đồng. Nuôi bò lai 3B tiêm phòng đầy đủ, cho ăn no là bò mau lớn”.

 

Theo thống kê của UBND huyện Sông Hinh, ngành Chăn nuôi trên địa bàn cơ bản ổn định, hiện đàn bò có 16.708 con, tỉ lệ tiêm phòng vắc xin lở mồm long móng cho đàn bò đạt 87%, vượt chỉ tiêu tỉnh giao 5%. Thực hiện Nghị định 50/CP của Chính phủ về hỗ trợ phát triển ngành Chăn nuôi, năm qua huyện đã hỗ trợ 25 con bò lai làm giống, trên 45 hầm biogas, 12 đệm lót sinh học cho người chăn nuôi trên địa bàn.

 

Mới đây, đoàn công tác của Bộ NN-PTNT làm việc với lãnh đạo tỉnh về kết quả phối hợp, hỗ trợ, chuyển giao giống, kỹ thuật trong thời gian qua; tiếp tục nghiên cứu khảo sát, đánh giá tình hình sản xuất các loại giống cây trồng, vật nuôi tại các địa phương trên địa bàn tỉnh, từ đó đưa ra giải pháp hỗ trợ phù hợp phát triển theo định hướng tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, đồng chí Phạm Đại Dương, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh: Phú Yên xác định nông nghiệp, trong đó có chăn nuôi, trồng trọt là ngành kinh tế chủ lực của tỉnh. Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII xác định, nông nghiệp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, đột phá để tập trung thực hiện thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.

 

HOÀI NAM

 

Chủ động biện pháp phòng, chống dịch bệnh viêm da nổi cục trên trâu, bò

 

Nguồn tin: Hà Nội Mới

 

Chiều 4-11, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức hội nghị phòng, chống dịch bệnh viêm da nổi cục trên trâu, bò.

 

Theo báo cáo của Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), bệnh viêm da nổi cục trên đàn gia súc lần đầu tiên được phát hiện tại Zambia vào năm 1929. Sau đó, dịch bệnh đã lây lan và lưu hành ở hầu khắp các châu lục. Đây là bệnh truyền nhiễm do một số loại vi rút thuộc họ Poxviridae gây ra chủ yếu trên trâu, bò. Thời gian ủ bệnh từ 4 đến 14 ngày; tỷ lệ gây chết từ 1 đến 5%. Tuy nhiên, vi rút gây bệnh viêm da nổi cục không lây nhiễm và không gây bệnh trên người.

 

Tại Việt Nam, từ giữa tháng 10-2020 đến nay, bệnh viêm da nổi cục đã xảy ra ở 13 xã thuộc 3 huyện của các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng. Tổng số gia súc mắc bệnh là 232 con, trong đó 19 con bị chết. Cụ thể, tại tỉnh Lạng Sơn, bệnh này xuất hiện tại 5 xã của huyện Hữu Lũng với tổng số 68 con bò mắc bệnh, trong đó, 6 con bị chết. Tại Cao Bằng, có 8 xã thuộc 2 huyện Hạ Lang, Hòa An có vật nuôi bị mắc bệnh, tổng số 164 con bò bị bệnh viêm da nổi cục,13 con bị chết.

 

Ngay sau khi xác định đàn bò ở 2 tỉnh nói trên bị bệnh, Cục Thú y đã thành lập 6 đoàn công tác trực tiếp đến phối hợp với chính quyền địa phương để chỉ đạo xử lý các ổ dịch và triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh lây lan diện rộng.

 

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến cho biết, Bộ đã yêu cầu Cục Thú y chuẩn bị sẵn sàng điều kiện về xét nghiệm để ứng phó với nguy cơ bùng phát bệnh viêm da nổi cục. Bộ cũng đã có công điện đề nghị các tỉnh, thành phố trên địa bàn cả nước tập trung ứng phó với nguy cơ bệnh.

 

Hiện, bệnh này mới chỉ xuất hiện ở một vài địa phương, không lây nhiễm và không gây bệnh trên người nên các hộ chăn nuôi và người dân nói chung không nên hoang mang. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã và đang tổ chức, hướng dẫn hỗ trợ các doanh nghiệp nhập khẩu khẩn cấp vắc xin phòng bệnh viêm da nổi cục.

 

Trong khi chờ vắc xin, Bộ chỉ đạo Cục Thú y phối hợp chặt chẽ với các địa phương, doanh nghiệp thí điểm sử dụng vắc xin phòng bệnh đậu ở dê để tiêm phòng cho đàn gia súc tại các xã đã có dịch, vì vi rút gây bệnh viêm da nổi cục cùng họ với vi rút gây bệnh đậu ở dê, có mức tương đồng kháng nguyên và gen di truyền hơn 95%...

 

Cùng với đó, các địa phương hướng dẫn người chăn nuôi chủ động giám sát gia súc, kịp thời phát hiện các trường hợp gia súc có biểu hiện bị bệnh, nghi bị bệnh, báo cáo chính quyền, cơ quan thú y và triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh; thường xuyên tổng vệ sinh, phun thuốc sát trùng hoặc sử dụng vôi bột để sát trùng khu vực nuôi...

 

NGỌC QUỲNH

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop