Tin nông nghiệp ngày 07 tháng 8 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 07 tháng 8 năm 2019

Xúc tiến trái cây vùng miền

Nguồn tin: Báo Sài Gòn Giải Phóng

Trái cây của các tỉnh phía Bắc chưa xuất hiện nhiều ở các tỉnh phía Nam và ngược lại. Để trái cây đặc sản vùng miền có thể đến nhiều thị trường các tỉnh thì vai trò của doanh nghiệp, hợp tác xã (HTX) cần phải liên kết với nông dân tạo vùng nguyên liệu, đầu tư công nghệ chế biến sâu để nâng cao giá trị sản phẩm.

Sản xuất nhỏ lẻ, địa hình khó khăn

Theo Cục Trồng trọt (Bộ NN-PTNT), tổng diện tích cây ăn quả các tỉnh miền Bắc năm 2018 ước đạt 393.000ha, chiếm 39,73% so cả nước. Tổng diện tích chứng nhận VietGAP cây ăn quả trên phạm vi cả nước khoảng 18.500ha; trong đó các tỉnh miền Bắc có hơn 7.900ha, tập trung vào các loại quả chủ yếu: cam, vải, nhãn, xoài, ổi…

Nhìn chung, tổng diện tích chứng nhận VietGAP hiện còn rất thấp, mới đạt gần 2% tổng diện tích cây ăn quả cả nước.

Bên cạnh những tiềm năng, lợi thế, miền Bắc còn gặp nhiều khó khăn. Đại diện Cục Trồng trọt chia sẻ, hạn chế lớn nhất là quy mô nhỏ lẻ, phân tán dẫn đến khó khăn cho đầu tư cơ sở hạ tầng, tổ chức liên kết sản xuất, kiểm soát chất lượng.

Thứ hai, vùng phía Bắc có nhiều khó khăn so cả nước do độ dốc cao, địa hình chia cắt mạnh; mùa mưa tập trung lớn trong thời gian ngắn thường gây xói mòn, lũ quét; mùa khô lượng bốc hơi lớn gây khô hạn nặng.

Thứ ba, cơ sở hạ tầng các vùng sản xuất chưa được quan tâm đầu tư, chưa đáp ứng kịp tốc độ phát triển của sản xuất.

Ngoài yếu tố tự nhiên, các doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, chủ yếu thu gom qua thương lái, nên khó khăn trong quản lý truy xuất nguồn gốc, chất lượng không đồng đều và giá thành cao.

Hệ thống phân phối, tiêu thụ sản phẩm chưa chuyên nghiệp, thiếu vắng các doanh nghiệp lớn. Tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch còn cao.

Nhãn Đồng Tháp có thể tiếp cận thị trường miền Bắc

Hiện nay, công tác xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị còn hạn chế. Rất ít nông dân, HTX ký kết được hợp đồng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm với các doanh nghiệp.

Để trái cây vùng miền có thể xuất hiện tại các hệ thống siêu thị trên toàn quốc, đại diện Sở NN-PTNT tỉnh Nghệ An đề nghị Bộ NN-PTNT đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá về các sản phẩm đặc sản, có thế mạnh của tỉnh. Thường xuyên tổ chức các sự kiện vinh danh về sản phẩm.

Tùy thuộc điều kiện, đặc điểm cụ thể, các doanh nghiệp lựa chọn bước đi, lộ trình thích hợp, phù hợp điều kiện thực tế để lựa chọn sản phẩm lợi thế, đầu tư phát triển, nâng cấp sản phẩm từ cấp xã, huyện lên cấp tỉnh, quốc gia.

Xây dựng chuỗi liên kết

Để phát huy lợi thế về đất đai, khí hậu, các tỉnh cần thực hiện chuyển đổi cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế thấp sang trồng cây ăn quả.

Xuất khẩu là con đường nâng cao giá trị, thương hiệu cho nông sản, trái cây Việt, nhưng ông Nguyễn Thành Công, Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Sơn La, nhìn nhận: “Các doanh nghiệp và chính quyền địa phương không nên “lơ là” thị trường tiêu dùng trong nước. Để khai thác hiệu quả thị trường trong nước, doanh nghiệp phải đẩy mạnh hoạt động kết nối tiêu thụ giữa các địa phương, vùng miền. Đơn cử, xoài Sơn La bắt đầu thu hoạch thì xoài Đồng Tháp hết mùa, hay Sơn La có trái cây ôn đới còn Đồng Tháp có trái cây nhiệt đới”.

Trong thời gian tới, Sở NN-PTNT tỉnh Đồng Tháp tiếp tục tạo điều kiện tối ưu để các doanh nghiệp tham gia tìm kiếm được thị trường, có thêm tiềm lực về vốn, chuyển giao kỹ thuật để hoạt động sản xuất tốt hơn. Song song đó, thị trường và doanh nghiệp phía Bắc rất tiềm năng để tỉnh Đồng Tháp tiếp cận và phát triển.

Tránh trùng lặp các sản phẩm để thị trường tiêu thụ được rộng mở, theo Cục Trồng trọt, mỗi địa phương chọn trái cây chủ lực, xây dựng vùng sản xuất tập trung, đầu tư phát triển ngành hàng theo chuỗi giá trị, gắn với các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển nông thôn mới trên địa bàn.

Song song đó, các tỉnh tăng cường khuyến cáo nông dân không gia tăng diện tích khi chưa có hợp đồng, đầu ra và tín hiệu tích cực từ thị trường. Khuyến khích đầu tư các cơ sở xử lý sau thu hoạch đảm bảo yêu cầu xuất khẩu trái cây tươi.

Đặc biệt, các doanh nghiệp lớn đầu tư liên kết với nông dân trong chuỗi giá trị cây ăn quả chủ lực trồng tập trung, từ sản xuất, thu mua, bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu. Tổ chức các hiệp hội ngành hàng nhằm tăng cường trao đổi thông tin thị trường, hợp tác sản xuất, tiêu thụ, xuất khẩu.

Liên kết với nông dân vẫn là khâu quan trọng nhất để phát triển thị trường sản phẩm, ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT, cho biết: “Hiện cả nước có hơn 14.500 HTX nông nghiệp, trong số hơn 50% hoạt động hiệu quả thì chỉ có 24% HTX liên kết theo chuỗi với doanh nghiệp và dự kiến năm 2025 mới nâng lên 50%. Cho nên, các HTX cần phải liên kết, kết nối đưa các sản phẩm nông sản của các HTX tiêu thụ tại thị trường trong nước là rất cần thiết. Các doanh nghiệp cũng cần xây dựng, đầu tư công nghệ để tạo niềm tin cho nông dân. Song, các HTX cần xây dựng được chuỗi giá trị bền vững, nâng cao giá trị sản phẩm, đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Từ đó, tạo một cơ chế để làm sao lưu thông hàng hóa nông sản của hai miền Nam - Bắc”.

THANH HẢI

Khai trương Chợ phiên nông sản an toàn tại các quận 6 và Bình Tân

Nguồn tin:  Báo Sài Gòn Giải Phóng

Ngày 4/8, Sở NN-PTNT TPHCM khai trương Chợ phiên nông sản an toàn tại Khu dân cư Vĩnh Lộc (đường số 3, phường Bình Hưng Hòa B, quận Bình Tân).

Đây là điểm chợ phiên thứ 2 trên địa bàn quận Bình Tân, diễn ra vào sáng chủ nhật hàng tuần. Trước đó, ngày 3-8, sở cũng đã khai trương Chợ phiên nông sản an toàn tại quận 6 tại Tòa nhà Lucky Place (số 50 đường Phan Văn Khỏe, phường 2) diễn ra vào sáng thứ bảy hàng tuần.

Chợ phiên tạo điều kiện cho người tiêu dùng tiếp cận nguồn thực phẩm an toàn, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, có chứng nhận. Bên cạnh đó, người tiêu dùng sẽ được tư vấn, giải đáp thắc mắc về các sản phẩm nông nghiệp đạt chứng nhận VietGAP, quy trình sản xuất VietGAP, xuất xứ sản phẩm...

Từ năm 2016 đến nay, Chợ phiên nông sản an toàn đã được tổ chức ở 10 địa điểm. Trong tháng 6 đầu năm 2019, đã tổ chức 182 phiên chợ, tổng số lượng đơn vị tham gia là 3.640 doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại sản xuất, kinh doanh nông sản trên địa bàn TPHCM và các tỉnh, thành lân cận. Theo Sở NN-PTNT, dự kiến thời gian tới sẽ khai trương chợ phiên tại Công viên Khu dân cư Him Lam, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, vào sáng thứ bảy hàng tuần.

THANH HẢI

Đồng Tháp: Hướng tới việc sản xuất rau, hoa màu theo tiêu chuẩn an toàn

Nguồn tin:  Báo Đồng Tháp

Rau, hoa màu an toàn, chất lượng đang được người tiêu dùng quan tâm. Nắm bắt nhu cầu đó, tỉnh đã triển khai các mô hình sản xuất rau, hoa màu theo hướng an toàn trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, các mô hình này hiện vẫn chưa thực sự mang lại hiệu quả, còn nhiều khó khăn cần được tháo gỡ...

Nhiều mô hình canh tác rau thủy canh theo hướng hiện đại đáp ứng tốt nhu cầu người tiêu dùng

Vẫn còn khó khăn trong sản xuất, tiêu thụ

Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (TT&BVTV) tỉnh Đồng Tháp, hiện toàn tỉnh có 306ha đăng ký đủ điều kiện vùng nông sản sản xuất an toàn thực phẩm, trong đó rau, hoa màu chiếm gần 200ha. Với định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, thời gian qua, trên địa bàn tỉnh xuất hiện nhiều mô hình trồng rau thủy canh trong nhà lưới tại TP.Cao Lãnh, huyện Tháp Mười, Thanh Bình, TX.Hồng Ngự hay mô hình trồng rau kết hợp nuôi cá Aquaponics tại huyện Lấp Vò...

Bên cạnh đó, tổ chức Seed To Table (Nhật Bản) phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Đồng Tháp thực hiện dự án trồng rau hữu cơ tại xã Mỹ Tân (TP.Cao Lãnh) với qui mô 1.000m2; xây dựng mô hình rau hữu cơ tại Trường THPT chuyên Nguyễn Quang Diêu (TP.Cao Lãnh) với qui mô 800m2... góp phần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, sức khỏe cộng đồng.

Thời gian qua, mặc dù chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm của các loại rau, hoa màu được nâng lên đáng kể nhưng trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ rau vẫn còn rất nhiều bất cập cần được tháo gỡ. Qua khảo sát của các ngành chuyên môn, tâm lý chung của nông dân hiện nay là sử dụng rất nhiều phân hóa học trong sản xuất rau, hoa màu để phòng ngừa sâu, dịch hại. Theo ước tính, có đến 50% lượng phân bón sử dụng trên rau, hoa màu bị bay hơi, rửa trôi, đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra ô nhiễm không khí, đất và nước.

Trong mỗi vụ sản xuất rau, hoa màu trên địa bàn tỉnh, vẫn còn đến 37,6% hộ nông dân tăng nồng độ sử dụng phân, thuốc so với khuyến cáo, 31,4% hộ phun thuốc khi sâu bệnh gây hại còn ở mức độ thấp, 59,2% hộ phun thuốc định kỳ không theo kết quả điều tra phân tích hệ sinh thái đồng ruộng. Ngoài ra, có 27% hộ sử dụng thuốc không đăng ký phòng trừ dịch hại trên rau, trong đó có một số loại thuốc thuộc danh mục hạn chế sử dụng như: Lannate 40SP, Demon 50EC...

Từ năm 2014 - 2018, trên địa bàn tỉnh, lượng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) nông dân sử dụng để phòng trừ sâu bệnh trên rau, hoa màu tăng từ 844 tấn/năm (năm 2014) đến 1.600 tấn/năm (năm 2017) và đến năm 2018 còn 1.400 tấn/năm. Về chủng loại sử dụng trên rau màu có khoảng hơn 90 hoạt chất. Điều này cho thấy, qua từng năm càng có thêm nhiều thương hiệu, nhãn hiệu phân bón hóa học ra đời.

Theo Thạc sĩ Nguyễn Thị Bích Phượng - Trung tâm Ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao Đồng Tháp: “Thực trạng hiện nay cho thấy, nông dân vẫn còn hạn chế về kiến thức sử dụng thuốc BVTV. Khi hiện nay danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng quá nhiều với nhiều hoạt chất và thương hiệu thương mại khác nhau, rất dễ dẫn đến tình trạng lạm dụng thuốc BVTV, tăng chi phí sản xuất và nguy cơ mất an toàn thực phẩm. Ngoài ra, việc xả thải chất rắn từ bao bì, chai lọ thuốc BVTV cũng gây tác động xấu đến môi trường đất và nước...”.

Mặt khác, do thị trường tiêu thụ rau, màu chưa ổn định, khả năng cạnh tranh của sản phẩm còn thấp được xem là những vấn đề mà người trồng rau, hoa màu quan tâm. Theo thống kê, hiện nay, chỉ có khoảng 10 - 20% sản lượng rau, hoa màu an toàn được các doanh nghiệp (DN), siêu thị hợp đồng thu mua. Số còn lại được bán cho các chủ vựa, tiểu thương chợ đầu mối đưa đi tiêu thụ trong và ngoài tỉnh. Ngoài ra, số lượng hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác (THT) sản xuất rau, hoa màu an toàn được cấp giấy chứng nhận VietGAP còn quá ít so với diện tích sản xuất hiện có...

Hợp tác xã Sản xuất - Tiêu thụ rau an toàn xã Long Thuận đầu tư cơ sở hạ tầng để sản xuất rau, hoa màu theo hướng an toàn

Giải pháp phát triển rau, màu an toàn

Để giải quyết những thực trạng trên, việc xây dựng kế hoạch vùng sản xuất rau, hoa màu an toàn trên địa bàn tỉnh là nhu cầu hết sức cần thiết. Qua đó, nhằm tổ chức và quản lý trong sản xuất rau, hoa màu an toàn đảm bảo theo đúng quy định, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ và nâng cao giá trị nông sản.

Theo Chi cục TT&BVTV tỉnh, để nâng cao hiệu quả sản xuất, trước tiên ngành nông nghiệp sẽ rà soát nhu cầu sử dụng và quy hoạch vành đai thực phẩm cung cấp cho thị trường trong tỉnh. Sau đó, mở rộng quan hệ hợp tác sang các tỉnh, thành lân cận và hướng tới hợp đồng xuất khẩu.

Là người đang theo đuổi mô hình trồng hoa màu theo hướng an toàn, ông Mai Phúc Dẫn - thành viên Nhân Tâm Hội quán (TP.Cao Lãnh) cho rằng: “Để phòng, trừ dịch hại và bảo vệ cây trồng thì việc sử dụng thuốc BVTV vẫn là một biện pháp quan trọng và chủ yếu. Thuốc tác dụng nhanh hạn chế sự phát triển của sâu bệnh, ngăn chặn và dập tắt các đợt dịch bệnh trên phạm vi lớn, bảo đảm được năng suất cây trồng. Tuy nhiên, việc lạm dụng nhiều phân bón hóa học đã làm ảnh hưởng tới sức khỏe không riêng người tiêu dùng mà còn cả người sản xuất. Vì vậy, bản thân rất cần được hỗ trợ từ các nhà khoa học về quy trình canh tác để có sự đầu tư phù hợp trong sản xuất hoa màu theo hướng an toàn”.

Theo ông Dương Minh Sang - Giám đốc HTX Sản xuất - Tiêu thụ rau an toàn, xã Long Thuận, huyện Hồng Ngự, hiện HTX có 160ha canh tác rau, hoa màu an toàn, trong đó có gần 20ha đạt chuẩn VietGAP. Thời gian qua, để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, đơn vị luôn chú trọng đảm bảo các khâu từ giống đến thành phẩm theo đúng tiêu chuẩn đã ký kết với đối tác. Khi tham gia vào HTX, người dân có ý thức hơn về việc sản xuất của mình, biết cân đối sản lượng rau đầu ra, đảm bảo sản phẩm rau sạch, chất lượng khi bán ra thị trường.

Người tiêu dùng lựa chọn mặt hàng rau, củ, quả tại các kênh phân phối siêu thị

Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp cũng phối hợp với các địa phương khuyến khích nông dân sản xuất và DN thu mua rau, hoa màu theo mô hình VietGAP. Để nâng cao hiệu quả sản xuất, các ngành hữu quan sẽ giám sát dư lượng, chất lượng rau, hoa màu an toàn, định kỳ và đột xuất lấy mẫu sản phẩm để phân tích.

Ông Trần Thanh Tâm - Chi cục trưởng Chi cục TT&BVTV tỉnh cho biết: “Để thực hiện hiệu quả các mô hình canh tác rau màu an toàn, thời gian tới, ngành nông nghiệp sẽ tập trung xây dựng và phổ biến các mô hình hiệu quả đến các vùng sản xuất chuyên canh rau màu. Trong đó, xây dựng kế hoạch hằng năm để chứng nhận thêm các vùng đủ điều kiện sản xuất an toàn thực phẩm và từng bước hỗ trợ nông dân, HTX, THT đăng ký mã số vùng trồng để thuận lợi phục vụ cho xuất khẩu”.

Theo ông Lê Minh Hùng - Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đồng Tháp, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất rau, hoa màu an toàn, thời gian tới, đơn vị sẽ phối hợp với các ngành liên quan tập huấn chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới đến nông dân. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra an toàn thực phẩm để người sản xuất có trách nhiệm đối với sản phẩm mình làm ra nhằm xây dựng lòng tin đến người tiêu dùng. Ngoài ra, đơn vị cũng sẽ hỗ trợ quảng bá, kết nối với các DN, siêu thị, bếp ăn tập thể để có đầu ra ổn định, giúp nông dân trồng rau, màu an tâm sản xuất.

Khánh Phan

Trồng dưa lưới trong nhà màng đem lại thu nhập cao

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Theo lời giới thiệu của ông Lê Văn Nhại, Chủ tịch Hội Nông dân thị trấn Bến Cầu, , tỉnh Tây Ninh, tôi đến khu phố 2 tham quan trại dưa lưới trồng trong nhà màng của anh Ðoàn Văn Nhân, sinh năm 1974, cán bộ Thương binh Xã hội của thị trấn Bến Cầu. Vợ anh là giáo viên, dạy tại một điểm trường THCS của huyện.

Một góc trại dưa lưới trồng trong nhà màng của anh Nhân đến đợt thu hoạch.

Ngoài công việc của cơ quan, nhà trường, vợ chồng anh Nhân còn tranh thủ sản xuất lúa trên 1 công đất của cha mẹ chia cho. Nhiều năm qua, việc trồng lúa thu nhập không bao nhiêu, anh được bạn bè giới thiệu mô hình trồng dưa lưới trong nhà màng cho thu nhập cao. Tích cực tham gia các lớp kỹ thuật trồng trọt tại địa phương, chịu khó học hỏi trên sách báo, các tài liệu, anh quyết định bỏ trồng lúa, bắt tay vào trồng dưa lưới trong nhà màng từ cuối năm 2018.

Anh Nhân đầu tư số tiền hơn 250 triệu đồng làm nhà màng trên diện tích 1 công đất sẵn có để trồng 2.400 gốc dưa, thiết kế theo tiêu chuẩn ISO 9001 (hệ mái 2 nóc gió), tất cả được bao phủ một lớp bạt nhựa màu trắng đục, mục đích ngăn cản côn trùng vào cắn phá dưa, hạn chế lượng nước mưa làm ướt dưa, không phải xịt thuốc trừ sâu rầy, từ đó cho ra loại dưa hoàn toàn sạch sẽ, an toàn cho người tiêu dùng.

Riêng phần tưới dưa, anh chi số tiền hơn 30 triệu đồng lắp đặt hệ thống tưới tự động, nhỏ giọt theo công nghệ cao; pha các loại diêm trực tiếp vào bồn chứa nước rồi dùng máy bơm nén lên bồn chứa, hệ thống tưới tự động chuyển lưu lượng nước nhỏ giọt từng gốc dưa phát triển. Kỹ thuật tưới này ít tốn kém chi phí, kể cả nhân công. Khi trồng dưa, anh Nhân cho trồng trong giá thể là phân, xơ dừa, trùn quế được lót bằng bạt ni-lông cách ly với nền đất để tránh được mầm bệnh, dưa phát triển tươi tốt.

Anh thường xuyên chăm sóc, cắt tỉa lá, cành cho vườn dưa thông thoáng tránh dịch bệnh và cây tập trung nuôi trái. Ðến khi dưa có trái chỉ để lại mỗi gốc 1 trái để nuôi. Từ khi trồng đến thu hoạch thường 75 ngày, mỗi lần thu hoạch đạt khoảng 3.000 ký dưa. Sau khi trừ các khoảng chi phí, anh Nhân còn lãi khoảng 40 triệu đồng. Riêng đợt thu hoạch thứ 3 đạt 3.500 ký, những trái dưa tươi ngon ngọt được nhiều người ưa chuộng, anh Nhân thu lãi được 46 triệu đồng.

Không chỉ tích cực lao động sản xuất, tăng thu nhập cho gia đình, anh Nhân còn truyền đạt kinh nghiệm cho 7 hội viên Hội Nông dân và người lao động địa phương về trồng dưa lưới trong nhà màng đem lại hiệu quả kinh tế cao. Anh Nhân kết hợp với Hội Nông dân Thị trấn triển khai mô hình này rộng rãi để giúp bà con nông dân áp dụng trong sản xuất, góp phần cải thiện thu nhập cho gia đình.

Ông Lê Văn Nhại cho biết thêm, tính đến thời điểm hiện nay, mô hình trồng dưa lưới trong nhà màng của anh Nhân là mô hình duy nhất của huyện Bến Cầu, bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế khá tốt và phù hợp với nhu cầu sử dụng thực phẩm an toàn của người dân nông thôn hiện nay.

THUỲ DUNG

Quảng Trị: Phát triển diện tích cây bơ sáp ở miền tây Gio Linh

Nguồn tin: Báo Quảng Trị

Sở Khoa học và Công nghệ đang phối hợp với Phòng Kinh tế hạ tầng, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị thực hiện đề án nhân giống bơ sáp cung cấp cho người dân các xã miền tây của huyện phát triển trên diện tích lớn. Huyện Gio Linh xem phát triển mạnh cây bơ là hướng đi phù hợp trong việc tái cơ cấu nông nghiệp vì quả bơ luôn có thị trường tiêu thụ ổn định.

Thu hoạch bơ sáp ở thôn Tân Văn, xã Gio An, Gio Linh

Những cây bơ sáp đầu tiên ở miền tây Gio Linh được trồng từ năm 1975 tại làng Gia Bình, xã Gio An. Từ đó đến nay không chỉ xã Gio An mà các xã khác của vùng này trồng rất nhiều bơ. Anh Hoàng Minh Khương ở thôn Tân Văn, xã Gio An có vườn bơ sáp 50 cây, độ tuổi trung bình 10 năm. Mỗi mùa thu hoạch cây bơ quả sai nhất bán được gần 3 triệu đồng. Chia đều cả vườn thì mỗi cây bơ của nhà anh Khương mỗi vụ cho trái bán được gần 1 triệu đồng. Anh Khương cho biết, so với trồng các loại cây khác trên cùng một đơn vị diện tích đất như cao su, hồ tiêu, cà phê thì giá trị kinh tế cây bơ mang lại hơn hẳn. Trồng cây bơ rất dễ, mỗi héc ta đất trồng được gần 500 cây. Sau mỗi vụ thu hoạch bơ, anh Khương lại chăm vườn bằng cách chặt tỉa cành già, trồng thêm những giống bơ ngon để năm nào cũng tăng được sản lượng bơ bán ra của vườn. Trong điều kiện ruộng cấy lúa có diện tích hạn hẹp, đất rẫy không nhiều thì việc tận dụng vườn nhà để trồng bơ tăng thu nhập là một cách phát triển kinh tế khá phù hợp của người dân nơi đây. Còn chị Nguyễn Thị Giang ở thôn An Hướng, xã Gio An trồng cây bơ sáp đã 12 năm, mỗi mùa thu hoạch bán trung bình từ 5- 6 triệu đồng. Nổi tiếng nhất ở miền tây Gio Linh là cây bơ sáp của chị Nguyễn Thị Trung, thôn An Khê, xã Gio Sơn, mỗi mùa thu hoạch bán được 12 triệu đồng.

Nhà anh Lê Lưu ở Thôn 4, xã Hải Thái có cây bơ sáp rất ngon. Cầm quả bơ sáp già trên tay, anh Lưu lắc nhẹ liền cảm nhận được hạt bơ như lăn tròn bên trong. Những cây bơ ngon này, hằng năm cứ đến đầu tháng 4 các thương lái tìm đến vườn đặt cọc mua luôn cả cây theo hình thức ước tính sản lượng trái của cây bơ. Đến giữa tháng 7, các thương lái trở lại những vườn bơ đã đặt cọc để thu hoạch bơ cung cấp cho thị trường chủ yếu là Hà Nội. Một vài gia đình khác đồng ý bán cây bơ cho thương lái nhưng chưa lấy tiền, đợi khi thu hoạch sẽ tính giá bơ theo giá thị trường.

Anh Lâm Công Sĩ, một người chuyên buôn bơ ở xã Gio An cho biết năm nay trời hạn nặng nên bơ mất mùa, năng suất khá thấp. Hiện giá bơ sáp tại vườn là 17.000 đồng/kg. Mỗi ngày anh Sĩ phải leo từng cây bơ hái quả sau đó một phần bán lại tại chỗ với giá 20.000 đồng/kg, phần lớn còn lại anh đưa về bán sĩ cho các thương lái ở thị trấn Gio Linh để sau đó cung ứng cho thị trường miền Bắc. Anh Sĩ cho biết ưu điểm nổi bật của bơ sáp so với các loại bơ thông thường là trái không quá to, không quá tròn, khi chín không bị xơ bên trong, vỏ quả bơ lúc gần chín căng mọng tuy nhiên vẫn hơi sần và cầm rất chắc tay . Bơ sáp có vỏ màu xanh hoặc xanh vàng có phấn lấm tấm trên vỏ, da hơi sần sùi là loại có thịt vàng, độ bở dẻo cao. Quả bơ sáp ngon không nên để chín trên cây mà phải thu hoạch trước vài ngày, đưa vào nhà để nơi thoáng mát, nắn nhẹ cảm thấy quả bơ mềm đều, khi ấy bơ đã chín.

Phó Chủ tịch UBND xã Gio An Lê Phước Hiếu cho biết, nhờ đẩy mạnh trồng bơ nên không ít gia đình ở xã này mỗi năm trung bình thu về thêm được vài chục triệu đồng, góp phần đáng kể để cải thiện cuộc sống. Từ khi các giống bơ đã được thuần hóa với khí hậu, thổ nhưỡng ở miền tây huyện Gio Linh thì việc phát triển bơ trên diện tích rộng đang được nhiều người dân ở đây quan tâm vì bơ là cây lâu năm, chịu hạn tốt. Thời tiết khô nắng nên quả bơ ít nước, rất ngon, dẻo. Vì thế bơ của xã Gio An cũng như các xã miền tây huyện Gio Linh được thị trường ưa chuộng.

Ông Nguyễn Văn Thức, Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Gio Linh cho biết, diện tích trồng bơ ở các xã miền tây của huyện đạt gần 100 ha là ít so với tiềm năng của vùng đất này. Trong đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, huyện xem phát triển cây bơ kinh tế ở các xã miền tây là bước đi phù hợp. Thị trường tiêu thụ bơ sáp miền tây Gio Linh rất ổn định, sản lượng bơ sáp năm nay không cung cấp đủ cho khách hàng. Theo ông Nguyễn Văn Thức, hầu hết người tiêu dùng chỉ sử dụng quả bơ để ăn tươi, chưa biết hết giá trị dinh dưỡng tuyệt vời cũng như cách sử dụng rất phong phú của quả bơ. Tại các nước như Mỹ, Úc, Pháp, Thái Lan… trái bơ được đánh giá cao và được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau như ăn quả tươi, chế biến nhiều món ăn ngon, tinh chiết dầu ăn và đặc biệt bơ được sử dụng rất nhiều trong mĩ phẩm cho việc chăm sóc sắc đẹp. Hiện tại các thị trường ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh đang phát triển công nghệ tinh chiết dầu bơ phục vụ bữa ăn gia đình và khách hàng đánh giá cao chất lượng bơ sáp Gio Linh. Những yếu tố này mang lại tiềm năng phát triển lớn cho người trồng bơ miền tây Gio Linh.

Ông Thức đánh giá ngoài giá trị dinh dưỡng, kinh tế, trồng bơ mang lại nhiều lợi ích cho môi trường. Cây bơ không chỉ có tác dụng làm bóng mát mà còn giúp làm giảm nhiệt độ không khí do việc thoát hơi nước từ lá, là nguồn cung cấp ôxi đáng kể và giúp cho không khí có sự trong lành tươi mát. Vườn bơ còn có thể làm giảm dòng chảy và lọc nước mưa nhờ đó làm giảm nguy cơ lũ lụt, nâng cao khối lượng và chất lượng nước, rễ cây bơ còn giúp chống lại sự xói mòn của đất.

Hiện Sở Khoa học và Công nghệ đang phối hợp với Phòng Kinh tế hạ tầng, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện đề án nhân giống bơ sáp cho người dân các xã miền tây. Chính quyền huyện Gio Linh và người dân các xã miền tây đang triển khai phát triển cây bơ như một hướng đi mới trong tiến trình tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp nhằm tăng thu nhập cho người dân.

Tú Linh 

Hàm Tân (Bình Thuận): Hứa hẹn mùa mì bội thu

Nguồn tin: Báo Bình Thuận

Màu xanh bát ngát của mì

Giữa vụ hè thu với bạt ngàn nương rẫy ở Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận là màu xanh tươi ngát của mì - cây trồng chủ lực hàng năm của huyện. Hầu như tất cả nông dân đều dồn đất trồng mì, khi giá chất bột củ cây này đang cao, cho thu nhập ổn định. Bởi thế, những trang trại, vườn keo lá tràm già nua đến kỳ thu hoạch cuối năm rồi đã được thay thế cho mì; những vườn điều già cỗi ở đồi rẫy cũng được người dân chặt bỏ để trồng mì; những vườn màu không mấy hiệu quả đã chuyển sang màu xanh của mì…

Rẫy mì xanh tốt của anh Trương Văn Đồng.

Chúng tôi trở lại trên tuyến đường liên xã Tân Xuân - Sơn Mỹ (Hàm Tân) mới đây, đều thấy trải rộng một màu xanh của mì hai bên đường, bạt ngàn tít tắp như lấn át những vườn keo non. Anh Trương Văn Đồng, một chủ trang trại nông nghiệp lâu năm cho hay: “Tôi xuống toàn bộ giống mì trên diện tích 11 ha keo giâm hom đã khai thác cuối năm rồi. Mì đang có giá tranh thủ làm vài mùa anh ạ. Vụ hè thu này thời tiết ban đầu hơi “đỏng đảnh”, bây giờ thuận lợi hơn, mì cả vùng trên tuyến đường liên xã khoảng 500 ha đang lên xanh tốt, sẽ cho năng suất khá. Không giấu gì anh, vài năm gần đây, gia đình tôi thu nhập chính từ cây mì đem lại”. Anh Đồng cho biết thêm, mì trồng sau thu hoạch keo ở khu vực này đều lên tươi tốt, chịu hạn, ít bị sâu bệnh. Vụ mùa năm trước, cả khu vực này cây mì bị bệnh nhện đỏ tấn công, người dân xịt thuốc kháng bệnh nhưng không mấy hiệu quả; nhờ những trận mưa xối xả của cây bão đầu năm đã xua tan nhện đỏ, mì lại lên xanh cho năng suất khá từ 28 - 30 tấn mì tươi/ha. Với giá bình quân 2.100 đồng/kg, trừ chi phí, mỗi ha mì thu về khoảng 40 triệu đồng. Nhiều hộ ở đây đều trồng 3 - 4 ha, thu nhập mỗi vụ mì từ 120 - 150 triệu đồng, đủ trang trải chi phí gia đình…

Ở xã Sông Phan, nhiều bà con cho hay, giá mì tươi đang trở lại đỉnh cao, họ không ngại ngần đưa cây trồng chủ lực này vào sản xuất, bởi cây mì không tốn kém đầu tư nhiều, thích hợp các loại đất, hiệu quả đang cao. Bởi vậy cây trồng chủ lực này tiếp tục phủ màu xanh bạt ngàn nương rẫy Sông Phan, chiếm phần lớn diện tích cây màu hàng năm hơn 2.100 ha ở đây. Với những yếu tố khách quan tiến triển tốt cho cây trồng hàng năm này trên nhiều vùng đất nông nghiệp Hàm Tân, diện tích mì toàn huyện tăng thêm là điều dễ hiểu. Trong khi đó, theo Cục Thống kê tỉnh, vụ hè thu này diện tích cây chất bột (chủ yếu cây mì) toàn tỉnh chiếm 23.804 ha, tăng 5,34% so cùng kỳ.

Thông thoáng đầu ra

Không chỉ người dân Hàm Tân mà nông dân trồng mì trong, ngoài tỉnh vui mừng khi nguồn nguyên liệu này được các nhà máy sản xuất cồn sinh học (ethanol), thành phần xăng sinh học E5 (5% ethanol), dùng thay thế xăng A92, theo quy định của Chính phủ. Ở nước ta, mì là một trong những loại cây trồng chủ lực bởi diện tích trồng trên 500.000 ha, sản lượng lớn trên 10 triệu tấn/năm, đem lại kim ngạch xuất khẩu cao (trên 1 tỉ USD/năm). Theo lãnh đạo Công ty TNHH MTV Nhà máy sản xuất cồn Tùng Lâm, đơn vị sản xuất cồn sinh học tại khu vực Xuân Hòa thượng nguồn sông Dinh, giáp ranh Hàm Tân, hiện cả nước đã có trên 100 nhà máy chế biến tinh bột mì, chỉ cần đẩy mạnh sử dụng xăng sinh học E5 trong người dân, đảm bảo được đầu ra cho người trồng mì rất bền vững.

Cụ thể, công suất thiết kế các nhà máy chế biến ethanol trong nước hiện ở mức 360.000 tấn/năm, đã vượt quá nhu cầu sử dụng để thay thế hoàn toàn loại xăng A92 thành xăng sinh học E5. Với tỷ lệ quy đổi 7 kg mì tươi ra 1 lít cồn sinh học, việc chuyển từ xăng A92 sang E5 có thể tiêu thụ được 1,4 triệu tấn mì tươi; các nhà máy ethanol chạy hết công suất tiêu thụ được 2,5 triệu tấn, tức 25% tổng sản lượng mì cả nước. Nếu tăng tỷ lệ ethanol trong xăng từ E5 lên E10 thì nhu cầu về dùng mì sinh học còn cao hơn nữa. Cùng với đó, nguyên liệu mì được nhiều doanh nghiệp chế biến thực phẩm, bột ngọt, thức ăn chăn nuôi… tiêu thụ rộng rãi trong, ngoài nước. Đầu ra cây mì đang thông thoáng cho người trồng sau nhiều năm thăng trầm…

T.KHOA

Ninh Thuận: Đánh thức tiềm năng cây dược liệu

Nguồn tin: Báo Ninh Thuận

Với 3/4 diện tích là đồi núi và khí hậu nắng nóng đặc trưng, tỉnh Ninh Thuận có điều kiện thuận lợi để phát triển nhiều loại cây dược liệu đặc hữu, có giá trị kinh tế cao.

Phong phú chủng loại cây dược liệu

Ông Nguyễn Xuân Tuyển, Chủ tịch Hội Đông y tỉnh, cho biết: Nhiều công trình nghiên cứu về cây dược liệu đã chỉ ra rằng: Ninh Thuận hoàn toàn có khả năng phát triển một số loài dược liệu đặc hữu có tính dược liệu cao. Điển hình như cây sa nhân ngoài công dụng làm dược liệu còn dùng để chiết xuất tinh dầu làm hương liệu gia vị thực phẩm. Quá trình khảo sát cho thấy, tỉnh ta có 6 loài sa nhân, trong đó loài sa nhân tím hiện trong nước và thế giới có nhu cầu rất cao. Sa nhân thường mọc dưới tán cây và phân bố đều tại các vùng rừng núi trong tỉnh. Một công trình nghiên cứu khác về cây dây khai cho thấy có công dụng chữa đau nhức khớp, tiêu hóa được nhiều người dân sử dụng phổ biến và lưu truyền từ rất lâu, chúng mọc nhiều ở các vùng rừng núi thuộc huyện Ninh Sơn và xã Phước Thành (Bác Ái). Hoặc cây xáo tam phân, loài dược liệu quý xuất hiện nhiều tại các vùng đồi núi thấp từ xã Xuân Hải (Ninh Hải) đến xã Lợi Hải (Thuận Bắc), vùng ven biển thôn Thái An, xã Vĩnh Hải (Ninh Hải), xã Phước Dinh (Thuận Nam), khu vực Vườn Quốc gia Núi Chúa. Ngoài ra, còn có nhiều loài có dược tính cao như: Ké hoa vàng, đầu ngựa, củ bình vôi, cây cối xay, tô mộc, mã tiền, tọa dương, hà thủ ô trắng, hoàng đằng, hoàng kỳ nam…

Cán bộ Viện Nghiên cứu Bông và Phát triển nông nghiệp Nha Hố kiểm tra vườn đinh lăng trồng thử nghiệm.

Từ nguồn dược liệu tự nhiên phong phú đó, cộng đồng các dân tộc trên địa bàn tỉnh đã khai thác, sử dụng và hình thành các làng nghề bốc thuốc truyền thống với kinh nghiệm hàng trăm năm. Trong đó, nổi tiếng nhất là nghề bốc thuốc Nam của người Chăm ở xã Xuân Hải (Ninh Hải). Toàn xã hiện có hơn 1.200 hộ gia đình hành nghề bốc thuốc Nam với 12 đại lý thuốc lớn nhỏ. Đó là chưa kể đến hệ thống các phòng thuốc, nhà thuốc và các cơ sở khám và chữa bệnh bằng y học cổ truyền trên địa bàn tỉnh.

Đánh thức tiềm năng

Trước đây, việc trồng cây dược liệu ở tỉnh ta chỉ tồn tại ở quy mô nhỏ, manh mún, dừng lại ở mức bảo tồn hoặc phục vụ nhu cầu của một số hộ dân. Tuy nhiên, thời gian gần đây, tiềm năng phát triển cây dược liệu ở tỉnh ta đã được đánh thức từ việc một số cá nhân, doanh nghiệp đã đầu tư vào lĩnh vực này.

Đầu tiên phải kể đến mô hình trồng cây xáo tam phân dưới tán cây xoài với quy mô khoảng 200 cây của ông Nguyễn Văn Thiệu tại thôn Ba Tháp, xã Bắc Phong (Thuận Bắc). Mô hình được ông triển khai từ năm 2012, đến nay, mỗi gốc xáo tam phân cho thu hoạch 5-6 kg rễ tươi. Với giá bán 1 triệu đồng/kg, đây là mô hình mang lại hiệu quả kinh tế cao cho gia đình ông. Hiện ông đã tự nhân giống và mở rộng quy mô.

Ngoài ra, còn có mô trồng thử nghiệm cây đinh lăng theo tiêu chí GACP của Viện Nghiên cứu Bông và Phát triển nông nghiệp Nha Hố. Qua quá trình nhân giống và trồng thử nghiệm 80.000 cây đinh lăng lá nhỏ trên diện tích 2 ha bước đầu cho thấy sự thích ứng tốt với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng nơi đây. Ở quy mô lớn hơn, có thể kể đến dự án trồng cây nhàu và cây đinh lăng của Công ty Cổ phần Nông nghiệp Thiên Đường tại huyện Thuận Bắc dự kiến triển khai vào tháng 8 tới, với quy mô ước tính ban đầu khoảng 10 ha. Hoặc Dự án Trồng cây ăn trái và dược liệu tại xã Phước Tiến (Bác Ái) đang được triển khai của Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển nông nghiệp công nghệ cao Ninh Thuận. Vừa qua, một tập đoàn dược phẩm của Canada đã có chuyến khảo sát thực địa tại xã Lợi Hải (Thuận Bác) để tìm hiểu nhằm triển khai đầu tư dự án 150 ha cây xáo tam phân tại khu vực này. Trong tương lai gần, khi được Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) chấp thuận, tỉnh ta sẽ triển khai Dự án “Ứng dụng tiến bộ KH&CN xây dựng mô hình trồng thâm canh một số loại cây ăn quả chất lượng cao kết hợp trồng cây sa nhân tím dưới tán vườn tại huyện miền núi Ninh Sơn và Bác Ái” thuộc Chương trình nông thôn miền núi thực hiện năm 2020, do Sở KH&CN đề xuất.

Mặc dù chỉ ở giai đoạn khởi điểm, nhưng những mô hình, dự án trên đã cho thấy tiềm năng phát triển nguồn dược liệu ở tỉnh ta đã được đánh thức. Điều này có ý nghĩa quan trọng, góp phần vào thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, thay thế những loại cây có giá trị kinh tế thấp bằng những loại cây có giá trị kinh tế cao. Để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của địa phương, vấn đề còn lại là các ngành chức năng cần có cơ chế phối hợp đề ra biện pháp tổ chức sản xuất hợp lý gắn với chế biến, tìm đầu ra sản phẩm; quy hoạch vùng chuyên canh, xen canh cây dược liệu; nghiên cứu chính sách khuyến khích và hỗ trợ người dân, doanh nghiệp tham gia đầu tư phát triển cây dược liệu.

Ngọc Diệp

Công nhận sản xuất thử 3 giống lúa mới của ThaiBinh Seed Group

Nguồn tin: Báo Thái Bình

Hội đồng khoa học Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn vừa họp nghe và nhất trí 100% công nhận sản xuất thử 3 giống lúa mới của Công ty Cổ phần Tập đoàn ThaiBinh Seed là: TBR89, QL301 và Nếp A Sào.

Tham quan vùng khảo nghiệm giống lúa mới của ThaiBinh Seed Group.

Theo đánh giá, giống lúa thuần TBR89 có ưu điểm cứng cây, hạn chế được ngã đổ, tỷ lệ hạt chắc khá cao và có khả năng kháng được nhiều loại sâu bệnh. Giống lúa này có năng suất cao, bình quân trên 71 tạ/ha. Giống lúa lai QL301 chống chịu sâu bệnh tốt, chất lượng gạo ngon, tạo nhiều kỳ vọng cho xây dựng những vùng lúa thương phẩm chất lượng cao. Giống Nếp A Sào cho năng suất trung bình đạt 45 - 50 tạ/ha, thâm canh tốt có thể đạt 55 - 60 tạ/ha. Giống chịu rét khá, ít nhiễm bạc lá, khô vằn nhẹ. Nếp A Sào là giống lúa cảm ôn, cấy được cả hai vụ trong năm.

Mai Thư

Tuy An (Phú Yên): Mô hình trồng sen cho thu nhập cao gấp 2 lần so với trồng lúa

Nguồn tin: Báo Phú Yên

Mô hình trồng sen thử nghiệm trên đất lúa 2 vụ tại xã An Cư, thuộc đề án Hỗ trợ phát triển sản xuất nhằm nâng cao thu nhập cho người nông dân huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên bước đầu đạt kết quả tốt.

Mô hình có 8 hộ nông dân và HTX Nông nghiệp An Cư tham gia trên diện tích 2,5ha, với kinh phí 116 triệu đồng, trong đó kinh phí Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới năm 2018 hỗ trợ gần 70 triệu đồng để mua trên 11.000 cây sen giống; phần còn lại do các hộ gia đình và tổ chức tham gia mô hình đầu tư.

Kết quả, năng suất thu hoạch vụ đầu đạt 7 tạ gương sen tươi/ha. Với giá bán 50.000 đồng/kg sen tươi, bình quân mỗi héc ta sen cho thu nhập trên 15 triệu đồng, cao gấp 2 lần so với sản xuất lúa. Ngoài ra, mô hình này còn giúp địa phương cải tạo một số diện tích thường xuyên bị nhiễm mặn, nhiễm phèn, đa dạng hóa cây trồng và tạo thêm việc làm, thu nhập ổn định cho nông dân.

Từ hiệu quả của mô hình này, trong thời gian đến xã An Cư tiếp tục vận động nông dân nhân rộng diện tích trồng sen tại các cánh đồng vùng trũng thấp, nhiễm phèn, nhiễm mặn.

KHẮC NHO

Chủ động nguồn giống rau, hoa chất lượng cao

Nguồn tin: Báo Hà Nội Mới

Trong 10 năm qua, cả nước chỉ có 16 giống hoa, giống rau mới được công nhận. Trước thực trạng này, yêu cầu đặt ra cho Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung là phải chủ động nguồn giống rau, hoa chất lượng cao để bảo đảm phát triển sản xuất hiệu quả.

Tây Tựu vốn là “vựa hoa” của Hà Nội, song hầu hết chủ vườn hoa tại đây cho biết, các giống hoa đang trồng chủ yếu nhập khẩu từ nước ngoài. Chị Trần Tú Anh - chủ vườn hoa Tú Anh ở phường Tây Tựu (quận Bắc Từ Liêm) chia sẻ: “Gia đình tôi trồng chủ lực là hoa ly và hoa hồng, nguồn giống đều nhập khẩu từ châu Âu. Dù giá thành nhập khẩu hạt giống, củ giống cao nhưng chất lượng hoa đẹp nên gia đình tôi vẫn chọn”.

Không chỉ giống hoa, hiện nay, nhiều giống rau cũng được người dân nhập khẩu từ các nước. Bà Khúc Thị Kim Dung ở xã Yên Mỹ (huyện Thanh Trì) là một trong những hộ trồng rau quy mô lớn của xã cho biết: Tại những ruộng rau của gia đình bà, ngoài sử dụng giống cà chua do Học viện Nông nghiệp Việt Nam sản xuất, còn lại toàn bộ các loại rau: Bắp cải, su hào, xà lách, rau cải… đều là giống nhập khẩu.

Về vấn đề này, Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Chu Phú Mỹ nhận định: Hà Nội là địa phương có nhiều lợi thế trong sản xuất giống rau, hoa..., song đến nay, 80% giống rau, hoa trên địa bàn thành phố nhập khẩu từ nhiều nước: Hàn Quốc, Nhật Bản, Pháp, Hà Lan… Thực tế, nhiều doanh nghiệp giống cây trồng chỉ tập trung nhập khẩu giống về đóng gói hoặc sản xuất gia công hạt giống để kinh doanh; rất ít doanh nghiệp trực tiếp làm công tác nghiên cứu, lai tạo giống mới...

Không chỉ Hà Nội mà nhiều tỉnh, thành phố trên địa bàn cả nước, việc nhập khẩu giống hoa, giống rau cũng phổ biến. Tại tỉnh Lâm Đồng, theo ông Trương Ðức Phú, Giám đốc Công ty cổ phần Cây giống Cao Nguyên, Phó Chủ tịch Hiệp hội Hoa Đà Lạt cho biết: Hiện có đến 90% giống rau, giống hoa trên địa bàn được nhập khẩu từ hơn 20 quốc gia trên thế giới.

Theo Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ NN&PTNT) Nguyễn Văn Việt, mỗi năm, Việt Nam chi khoảng 500-700 triệu USD để nhập giống cây trồng các loại; riêng nhập khẩu giống rau khoảng 70-90 triệu USD/năm. “Dù các viện nghiên cứu, trường đại học tại Việt Nam được đánh giá không thua kém các nước trong khu vực, song việc sản xuất giống vẫn còn hạn chế. Nguyên nhân chính là lĩnh vực nghiên cứu giống chưa được quan tâm đúng mức; nhiều giống được nghiên cứu thành công nhưng chất lượng và giá cả khó cạnh tranh với giống nhập khẩu...” ông Nguyễn Văn Việt nhìn nhận.

Để tháo gỡ khó khăn nhằm chủ động được nguồn giống chất lượng bảo đảm phục vụ sản xuất trong nước, Bộ trưởng Bộ NN& PTNT Nguyễn Xuân Cường cho rằng, các đơn vị, doanh nghiệp nghiên cứu, hoạt động lĩnh vực này cần nhạy bén với thị trường. Trong đó, cần có cuộc cách mạng trong tổ chức, quản lý, đầu tư cho nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh, thương mại hạt giống; gắn các viện nghiên cứu với doanh nghiệp; thành lập các bộ phận nghiên cứu trong công ty và công ty trong viện nghiên cứu. Cùng với đó là tổ chức tốt hệ thống sản xuất hạt giống cộng đồng - có sự tham gia của người dân với hướng dẫn của các nhà khoa học…

Trong khi đó, theo Giáo sư, Viện sĩ Trần Đình Long, Chủ tịch Hội Giống cây trồng Việt Nam, các bộ, ngành cần xây dựng hành lang pháp lý nhằm quản lý khoa học việc nhập khẩu, kinh doanh giống. Song hành, tập trung đầu tư nguồn lực về vật chất và con người đáp ứng yêu cầu phát triển lĩnh vực này. Kinh doanh giống cây trồng cũng là lĩnh vực tạo lợi nhuận cao, bởi vậy, ngành Nông nghiệp nên coi như một “mắt xích” quan trọng trong chiến lược phát triển.

BẠCH THANH

An Giang: Vào mùa thu hoạch măng núi Cấm

Nguồn tin: Báo An Giang

Hiện nay, nhà vườn trên núi Cấm (Tịnh Biên, tỉnh An Giang) đang bước vào mùa thu hoạch măng tre mạnh tông.

Vựa thu mua măng dưới chân núi Cấm

Theo kinh nghiệm của nhà vườn, Thời gian trồng tre mạnh tông đến khi thu hoạch măng kéo dài 3 năm. Thường tre vào mùa lấy măng khoảng giữa tháng 5 đến hết tháng 7 (âm lịch). Trồng măng ít tốn công chăm sóc, không sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chủ yếu lấy công làm lời. Ông Phạm Việt Tân (ngụ ấp Thiên Tuế) trồng trên 800 gốc tre mạnh tông lấy măng cho biết, hiện tại vườn măng của ông đang thu hoạch, trung bình từ 400-500kg, bán với giá 10.000 đồng/kg, kiếm thu nhập từ 300.000 - 400.000 đồng/ngày, sau khi trừ chi phí.

Tre mạnh tông là loại cây đặc hữu ở núi Cấm. Nhiều năm qua, bà con nơi đây áp dụng mô hình trồng tre mạnh tông xen canh dưới tán rừng cho thu nhập ổn định.

Tin, ảnh: T.C

Hiệu quả kép khi trồng xen mắc ca

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Tuy chưa phải là cây trồng chính song những năm gần đây, cây mắc ca đã đem lại giá trị kinh tế cao cho người nông dân.

Gia đình anh Nguyễn Văn Nguyên (thôn Lộc Xuân, xã Phú Lộc, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk) là hộ tiên phong trong việc trồng xen mắc ca tại địa phương từ năm 2011, với tổng diện tích là 8,5 ha, trong đó 6,5 ha xen tiêu còn lại trồng trong vườn cà phê.

Anh Nguyên chia sẻ, để mô hình xen canh phát huy hiệu quả cần tuân thủ chặt chẽ quy trình kỹ thuật trồng, chăm sóc. Đầu tiên tỷ lệ xen canh phải phù hợp, trung bình 1 ha trồng khoảng 300 cây mắc ca. Những năm đầu cần tỉa tán, rong cành cho cây lên tầng cao, tránh việc cọ xát với cà phê. Việc trồng xen mắc ca với các loại cây khác cũng gặp một số khó khăn trong khâu chăm sóc, song bù lại sẽ cho hiệu quả kép. Mắc ca vừa là cây chắn gió, tạo bóng mát giúp cây cà phê, tiêu sinh trưởng tốt, cho năng suất ổn định; đồng thời tạo thêm nguồn thu nhập đáng kể cho người trồng.

Vườn cây mắc ca của gia đình anh Nguyễn Văn Nguyên.

Cũng nhiều năm cho mắc ca "chung nhà" với cà phê, ông Đinh Minh Đại (thôn Quang Minh, xã Ea Púk, huyện Krông Năng) cho hay, chi phí đầu tư vào mắc ca khá thấp. Ngoài tiền mua giống trồng cây ở giai đoạn đầu, về sau ông chỉ tốn thêm một khoản nhỏ mua phân bón và thuốc trừ sâu bệnh. Một năm ông bón 1 đợt phân, với liều lượng khoảng 0,5 kg/gốc cây, bởi mắc ca có đặc thù là càng tưới nước, bón phân nhiều thì cây càng ít trái.

Hiện nhà ông Đại trồng được 2,6 ha mắc ca, trong đó có khoảng 280 cây trên 8 năm tuổi. Trung bình một cây cho từ 20 - 30 kg hạt/vụ, nếu chăm sóc tốt năng suất càng tăng. Năm 2018, ông thu hoạch được hơn 5 tấn quả, bán giá 95 nghìn đồng/kg, thu về hơn 400 triệu đồng. Năm nay, vườn cây đậu quả ít hơn các năm trước do ảnh hưởng thời tiết hồi đầu năm. Giá mắc ca hiện đang được thu mua tại vườn là trên 100 nghìn đồng/kg hạt tươi.

Trồng xen mắc ca vào vườn tiêu cho lợi nhuận kép.

Theo ông Cao Xuân Sơn, Trưởng Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật huyện Krông Năng, mắc ca chưa phải là cây trồng chủ lực của huyện như cà phê, hồ tiêu, sầu riêng... song mang lại giá trị kinh tế khá cao cho người trồng. Việc xen mắc ca vào tiêu, cà phê với một tỷ lệ phù hợp sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao trên cùng một đơn vị diện tích và kéo dài chu kỳ kinh doanh cho cây trồng chính. Khi trồng, người dân cần chú ý đến việc trồng cây chắn gió xung quanh vườn do mắc ca thuộc nhóm rễ chùm, rất dễ bị trốc gốc, gãy đổ khi gặp gió lớn. Theo khuyến cáo của các ngành chức năng, sản phẩm mắc ca chủ yếu tiêu thụ trong nước, chưa có thị trường ổn định nên cần thận trọng khi mở rộng diện tích; trồng xen canh mắc ca với các cây trồng khác để tạo nguồn thu nhập kép.

Toàn huyện Krông Năng có 240 ha mắc ca (bao gồm diện tích trong thời kỳ kiến thiết cơ bản và kinh doanh), chủ yếu là trồng xen canh. Song song với việc trồng, người dân còn chủ động đầu tư dây chuyền chế biến mắc ca sau thu hoạch. Hiện trên địa bàn huyện có 5 cơ sở thu mua chế biến mắc ca thành phẩm.

Thanh Thủy

Cần thực hiện an toàn sinh học trong chăn nuôi heo nông hộ

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Chuồng nuôi cần được thiết kế sao cho dễ vệ sinh, khử trùng tiêu độc; phải có nơi để chứa, ủ chất thải rắn, có hố để xử lý chất thải lỏng bảo đảm vệ sinh thú y, vệ sinh môi trường.

Heo giống được nuôi theo hướng “sạch” ở một gia trại.

Theo Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh Tây Ninh, chăn nuôi nông hộ tạo ra sản lượng thực phẩm lớn cho xã hội, góp phần tạo công ăn việc làm, giúp xóa đói giảm nghèo nhanh và bền vững ở nông thôn. Chăn nuôi nông hộ là một đầu mối tiêu thụ, chế biến những phụ phẩm của ngành nông nghiệp, các ngành nghề phụ ở nông thôn để tạo ra những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao như trứng, thịt, sữa... Ngoài ra, chăn nuôi nông hộ tận dụng được nguồn đất đai bạc màu, công lao động nhàn rỗi và vốn tự có của hộ nông dân.

Tuy nhiên, hạn chế đối với chăn nuôi heo nhỏ lẻ chính là khó đầu tư áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, phát triển chăn nuôi theo phương thức công nghiệp và kiểm soát dịch bệnh. Hiện nay, dịch tả heo châu Phi xuất hiện ở nhiều địa phương. Những ổ dịch được phát hiện cho tới thời điểm hiện tại phần lớn đều xuất hiện ở những hộ chăn nuôi nhỏ, không kiểm soát được nguồn lây nhiễm.

Việc thực hiện chăn nuôi an toàn sinh học tại các nông hộ là rất quan trọng, cần thiết nhằm bảo đảm an toàn, nâng cao chất lượng sản phẩm vật nuôi, sức khoẻ người chăn nuôi và người tiêu dùng, bảo vệ môi trường.

Do đó, Chi cục Chăn nuôi và Thú y nêu một số hướng dẫn để xây dựng cơ sở chăn nuôi an toàn sinh học tại nông hộ: Về chuồng trại chăn nuôi, cần có tường hoặc hàng rào bao quanh nhằm kiểm soát được người và động vật ra vào khu vực chăn nuôi; phải cách biệt giữa khu vực chăn nuôi với nhà ở và nguồn nước sinh hoạt.

Hộ nuôi cần có 2 ô chuồng cách ly tách biệt. Một ô để nuôi heo mới mua về, theo dõi trong 2 tuần, nếu không có biểu hiện bệnh mới cho nhập đàn. Một ô để tách riêng heo có bệnh ở vị trí cuối chiều gió.

Cần có hố khử trùng tại cổng ra vào trại chăn nuôi và tại lối ra vào mỗi dãy chuồng; đối với chăn nuôi nông hộ là các khay chứa thuốc sát trùng hoặc vôi bột. Người chăn nuôi trước khi vào chuồng nuôi phải mang ủng và nhúng qua vôi hoặc dung dịch sát trùng.

Chuồng nuôi cần được thiết kế sao cho dễ vệ sinh, khử trùng tiêu độc; phải có nơi để chứa, ủ chất thải rắn, có hố để xử lý chất thải lỏng bảo đảm vệ sinh thú y, vệ sinh môi trường.

Khu vực xử lý chất thải, nước thải cần tách biệt với chuồng nuôi chính. Ðường thoát nước thải từ chuồng nuôi đến nơi xử lý chất thải phải kín, bảo đảm dễ thoát nước và không trùng với đường thoát nước khác.

Heo giống phải có nguồn gốc rõ ràng. Con giống phải khoẻ mạnh và được tiêm phòng đầy đủ các loại vắc-xin phù hợp với lứa tuổi theo quy định của thú y.

Không dùng thức ăn ôi, thiu, mốc. Không dùng thức ăn không rõ nguồn gốc hoặc quá hạn sử dụng. Không cho heo ăn các phụ phẩm từ lò mổ, thức ăn thừa từ nhà hàng khách sạn, từ chợ mà không qua nấu chín.

Không sử dụng thức ăn thừa của đàn heo đã xuất chuồng, thức ăn của đàn heo đã bị bệnh dịch cho đàn heo mới. Bao bì, dụng cụ đựng thức ăn của đàn heo bị dịch bệnh phải được tiêu độc, khử trùng.

Trong trường hợp phải trộn thuốc, hoá chất vào thức ăn, nước uống nhằm mục đích phòng hoặc trị bệnh phải tuân thủ thời gian ngừng thuốc, ngừng hóa chất theo hướng dẫn của nhà sản xuất; không sử dụng kháng sinh, hóa chất trong danh mục cấm theo quy định hiện hành.

Chất sát trùng tại các hố sát trùng hoặc khay sát trùng phải bổ sung hoặc thay hằng ngày. Tất cả các phương tiện vận chuyển khi vào cơ sở chăn nuôi, khu chăn nuôi phải đi qua hố khử trùng và phải được phun thuốc sát trùng. Mọi người trước khi vào khu chăn nuôi phải mang ủng hoặc giày dép và mặc quần áo bảo hộ của cơ sở; trước khi vào các chuồng nuôi phải nhúng ủng hoặc giày dép vào hố khử trùng.

Ðịnh kỳ phun thuốc sát trùng xung quanh khu chăn nuôi, các chuồng nuôi tuỳ vào nguy cơ dịch bệnh. Trường hợp nơi chưa có dịch thì thực hiện ít nhất 1 lần/2 tuần; phun thuốc sát trùng lối đi trong khu chăn nuôi và các dãy chuồng nuôi ít nhất 1 lần/tuần khi không có dịch bệnh, và ít nhất 1 lần/ngày khi có dịch bệnh; phun thuốc sát trùng trên heo 1 lần/tuần khi có dịch bệnh bằng các dung dịch sát trùng thích hợp theo hướng dẫn của nhà sản xuất.

Không vận chuyển heo, thức ăn, chất thải hay vật dụng khác chung một phương tiện; sát trùng phương tiện vận chuyển trước và sau khi vận chuyển; vệ sinh máng ăn, máng uống hằng ngày.

Sau mỗi đợt nuôi, người nuôi phải làm vệ sinh, tiêu độc khử trùng chuồng, dụng cụ chăn nuôi và để trống chuồng ít nhất 7 ngày trước khi đưa heo mới vào. Trường hợp hộ chăn nuôi bị dịch bệnh, phải để trống chuồng ít nhất 21 ngày. Ðối với hộ chăn nuôi bị dịch tả heo châu Phi thì phải để trống chuồng ít nhất 30 ngày.

Ngành Thú y cũng lưu ý người nuôi heo tuyệt đối không mang thịt heo và các sản phẩm nấu chín từ heo vào khu chăn nuôi.

ÐÌNH CHUNG

Vĩnh Phúc: Nhiều gia đình chuyển hướng chăn nuôi vì dịch tả lợn Châu Phi

Nguồn tin: Báo Vĩnh Phúc

Bệnh dịch tả lợn Châu Phi (DTLCP) đã xảy ra ở hơn 5.000 hộ thuộc 721 thôn của 121 xã, phường, thị trấn trên địa bàn 9 huyện, thành phố của tỉnh Vĩnh Phúc với tổng số lợn ốm chết và tiêu hủy hơn 83 nghìn con, gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và đời sống nhân dân. Thực trạng này cho thấy, nếu không có giải pháp cấp bách và đồng bộ thì rất có thể sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung thịt lợn những tháng cuối năm.

Gia đình ông Nguyễn Văn Kho, xã Đồng Văn (Yên Lạc) đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gà đẻ

Do ảnh hưởng của bệnh DTLCP khiến nhiều người chăn nuôi dừng tái đàn, dẫn đến nguồn cung thịt lợn giảm, nhất là vào những tháng cuối năm. Để bù đắp lượng thịt lợn được dự báo sẽ thiếu hụt trong thời gian tới, các địa phương đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn người chăn nuôi lợn tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống bệnh DTLCP theo hướng dẫn; phát triển chăn nuôi gia cầm, trâu, bò thịt cũng như các loại vật nuôi khác có ưu thế đối với từng địa phương; khuyến khích người chăn nuôi nuôi gia cầm hướng thịt, hướng trứng; áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi để nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm; đẩy mạnh thực hiện việc lai tạo các giống bò sữa, bò thịt mới có năng suất, chất lượng cao bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo; áp dụng tiến bộ kỹ thuật nuôi vỗ béo bò thịt để tăng trọng lượng xuất chuồng, tỷ lệ thịt xẻ và chất lượng thịt. Mở rộng diện tích nuôi thâm canh, bán thâm canh các giống cá cho năng suất cao như Rô phi đơn tính, chép lai và các giống cá truyền thống.

Phát huy lợi thế của từng địa phương, nhiều hộ chăn nuôi chủ động chuyển đổi cơ cấu chăn nuôi, tăng số lượng đàn gia cầm, gia súc ăn cỏ... để thay thế lượng thịt lợn thiếu hụt.Chúng tôi đến thăm trang trại của anh Đỗ Trung Lương, thôn Quang Trung, xã Tiên Lữ (Lập Thạch) đúng thời điểm gia đình đang úm 1.000 vịt con để nuôi kế tiếp bởi 2.000 con vịt thương phẩm của gia đình chuẩn bị xuất bán. Anh Lương cho biết, do ảnh hưởng của bệnh DTLCP nên giá vịt thương phẩm tương đối cao. Đầu tháng 7 vừa rồi, với 1.000 con vịt xuất bán, gia đình thu lãi 17 triệu đồng.

Được biết, trước đây, gia đình anh Lương chăn nuôi khá nhiều lợn nhưng 2 năm nay, hết “bão giá” rồi lại “bão bệnh” lời lãi chẳng được bao nhiêu. Đầu năm 2019, gia đình chuyển sang nuôi vịt thương phẩm; mở rộng phát triển nuôi trồng thủy sản theo mô hình 1 vụ lúa, 1 vụ cá với diện tích hơn 9ha, sản lượng đạt 25 tấn cá/năm.

Với 10.000 gà Ai Cập, mỗi năm cung cấp cho thị trường hơn 1 triệu quả trứng, mô hình trang trại của ông Nguyễn Văn Kho, xã Đồng Văn (Yên Lạc) cho hiệu quả cao. Theo ông Kho, hiện nay, giá trứng đã tăng ổn định sau chuỗi dài giảm sâu khiến người chăn nuôi gia cầm phấn khởi hơn. Nhiều năm qua, gia đình lựa chọn giống gà Ai Cập trắng để chăn nuôi bởi đây là giống gà cho năng suất cao về sản lượng trứng, có khả năng chống chịu bệnh tật tốt, thích nghi với điều kiện khí hậu miền Bắc nước ta. Đặc biệt, trứng gà Ai Cập có hàm lượng dinh dưỡng cao, được thị trường rất ưa chuộng nên đầu ra khá thuận lợi. Thời gian tới, gia đình mở rộng quy mô, đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Bệnh DTLCP đã “xóa sổ” toàn bộ đàn lợn của gia đình bà Nguyễn Thị Hoa, xã Ngọc Thanh (thành phố Phúc Yên). Theo quy định của cơ quan chức năng, gia đình chưa được phép tái đàn lợn nhưng cũng không thể bỏ trống chuồng, gia đình chuyển sang nuôi vịt để tăng thu nhập.

Mặc dù giá gia cầm và các vật nuôi khác đã tăng giá nhưng theo khuyến cáo của cơ quan chức năng, người chăn nuôi nên thận trọng, cân nhắc kỹ khi tái đàn và mở rộng quy mô chăn nuôi đáp ứng nguồn cung thực phẩm thay thế cho thịt lợn nhưng không nên chạy theo phong trào vào đàn ồ ạt, tránh cung vượt cầu như đã từng diễn ra.

Bài, ảnh Lâm Hải

Hiệu quả mô hình chăn nuôi vịt biển

Nguồn tin: Báo Thái Bình

Thực hiện chủ trương đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, đa dạng đối tượng vật nuôi, nâng cao hiệu quả sản xuất, năm 2019, Trung tâm Khuyến nông Thái Bình tiếp tục thực hiện mô hình chăn nuôi vịt biển. Mô hình áp dụng kỹ thuật chăn nuôi an toàn sinh học, qua đánh giá cho hiệu quả kinh tế cao.

Đàn vịt nuôi theo hướng an toàn sinh học ở các điểm thực hiện mô hình đều phát triển tốt, không bị dịch bệnh.

Vừa qua, Trung tâm Khuyến nông tổ chức đánh giá hiệu quả mô hình chăn nuôi vịt biển thuộc dự án “Xây dựng mô hình chăn nuôi giống vịt biển 15 - Đại Xuyên cho các tỉnh ven biển miền Bắc và miền Trung” do Trung tâm Khuyến nông phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên (Viện Chăn nuôi) phối hợp thực hiện năm 2019.

Mô hình triển khai tại 3 xã: Thái Đô, Thái Thành, Thái Thượng (Thái Thụy) với quy mô 7.500 con, 18 hộ chăn nuôi tham gia được hỗ trợ 100% giống, 30% giá trị thức ăn chăn nuôi và thuốc thú y. Giống vịt trong mô hình là giống vịt biển 15 - Đại Xuyên, do Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên lai tạo, có khả năng thích nghi rộng, có thể sống tại các vùng cửa sông, cửa biển và bãi biển. Mục tiêu của mô hình nhằm chuyển giao đến nông dân giống vịt mới có khả năng thích nghi ở nhiều môi trường nước, đặc biệt là nước mặn, đưa thêm con giống mới vào bộ giống chăn nuôi, tạo sinh kế cho các hộ dân vùng nước lợ, nước mặn và người chăn nuôi trên địa bàn tỉnh.

Kỹ sư Bùi Thị Chuyên, Trung tâm Khuyến nông (cán bộ phụ trách thực hiện mô hình) cho biết: Ngoài được hỗ trợ giống, một phần vật tư, các hộ chăn nuôi còn được hướng dẫn ghi chép nhật ký chăn nuôi, kỹ thuật chăn nuôi an toàn sinh học. Nhờ chọn con giống đạt tiêu chuẩn, chăm sóc nuôi dưỡng đúng quy trình kỹ thuật và giữ gìn tốt vệ sinh môi trường, đặc biệt là khâu tiêm chủng đầy đủ nên đàn vịt nuôi theo hướng an toàn sinh học ở các điểm thực hiện mô hình đều phát triển tốt, không bị dịch bệnh. Vịt biển nuôi mau lớn và có khả năng cho lợi nhuận cao hơn so với nuôi giống vịt ở địa phương, tiêu tốn thức ăn thấp nên rất thích hợp với hình thức nuôi công nghiệp hoàn toàn. Từ đó có thể khuyến cáo người dân chuyển đổi cơ cấu giống, thay đổi tập quán chăn nuôi vịt tận dụng mùa vụ đuổi đồng chuyển sang nuôi công nghiệp hoàn toàn góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường do hoạt động chăn nuôi gây ra, đồng thời tạo ra sản phẩm thịt vịt với số lượng lớn, chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu thị trường. Mô hình cho thu lãi bình quân 6 triệu đồng/hộ.

Sau hơn 2 tháng nuôi đàn vịt biển 15 - Đại Xuyên do dự án hỗ trợ theo quy trình chăn nuôi an toàn sinh học, ông Phạm Ngọc Phi, xã Thái Thành (Thái Thụy) cho biết: Giống vịt biển 15 - Đại Xuyên có sức đề kháng cao, đồng thời gia đình đã làm đầy đủ quy trình phòng bệnh do cán bộ kỹ thuật hướng dẫn nên có tỷ lệ nuôi sống đạt trên 96%, cao hơn so với các giống vịt tại địa phương. Vịt tăng trọng nhanh, chất lượng thịt thơm ngon, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. So với các giống vịt khác tại địa phương đây là giống vịt đem lại hiệu quả kinh tế cao, dễ chăm sóc nên cần tuyên truyền rộng rãi để bà con chăn nuôi biết đến, làm theo.

Kỹ sư Bùi Thị Chuyên cho biết thêm: Dự án “Xây dựng mô hình chăn nuôi giống vịt biển 15 - Đại Xuyên cho các tỉnh ven biển miền Bắc và miền Trung” do Trung tâm Khuyến nông Thái Bình phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên triển khai từ năm 2017 - 2019. Thực tế sau 3 năm thực hiện dự án tại tỉnh Thái Bình cho thấy giống vịt biển 15 - Đại Xuyên thích nghi tốt với điều kiện chăn nuôi ở nhiều môi trường từ nước ngọt, nước lợ đến nước mặn nên có thể nuôi tại các vùng cửa sông, cửa biển và bãi biển. Mô hình nuôi vịt biển được xem là bước ngoặt lớn trong ngành chăn nuôi thủy cầm, bởi xưa nay, vịt chưa bao giờ chịu được nước biển mà chỉ sống trong đất liền ở những vùng nước ngọt.

Hiện nay, bệnh dịch tả lợn châu Phi đang gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi; vì vậy chuyển đổi giống vật nuôi nhằm thay thế con lợn để bảo đảm sinh kế cũng như nguồn cung ứng thịt cho thị trường là rất cần thiết. Cuối tháng 6 vừa qua, từ kinh phí của tỉnh, mô hình nuôi vịt biển theo hướng an toàn sinh học tiếp tục được thực hiện tại 4 xã: Đông Hoàng, Đông Quý, Đông Long, Đông Trà (Tiền Hải) với quy mô 2.220 con. Mong rằng thành công ở đối tượng vật nuôi mới này sẽ không dừng lại ở những mô hình.

Ngân Huyền

Phú Thọ: Khuyến nghị không tái đàn ồ ạt sau dịch

Nguồn tin: Báo Phú Thọ

Người dân chủ động rẩy vôi bột xung quanh nhà cửa, khu vực chuồng trại để phòng chống dịch tả lợn châu Phi.

Toàn tỉnh Phú Thọ hiện nay đã công bố dịch tả lợn châu Phi (TLCP) tại 176 xã, phường; hơn 1970 hộ thuộc 13 huyện, thị, thành; số lợn tiêu hủy tại các xã công bố dịch là 35.162 con, khối lượng 2.172.175 kg. Trong 30 ngày qua, có 31 xã công bố dịch đã qua 30 ngày không phát sinh thêm lợn ốm, chết và 21 xã đã công bố hết dịch. Nhiều hộ dân tại các xã hết dịch nhanh chóng bắt tay vào việc tái đàn để khôi phục chăn nuôi. Tuy nhiên, với tình hình dịch bệnh vẫn còn khá phức tạp, ngành Nông nghiệp chưa khuyến khích các hộ chăn nuôi tái đàn vào thời điểm này.

Tính đến ngày 3-8, dịch TLCP tiếp tục có những diễn biến phức tạp nhưng tốc độ lây lan có chiều hướng chậm hơn, số ổ dịch mới phát sinh giảm, số hộ có lợn ốm, chết buộc tiêu hủy giảm dần. Tuy vậy dịch bệnh có xu hướng lây lan đến một số cơ sở chăn nuôi quy mô từ 400 đến gần 1000 con tại huyện Thanh Thủy, Lâm Thao và Yên Lập. Đặc biệt xã Phú Lộc (Phù Ninh) dịch bệnh đã tái phát sau khi công bố hết dịch.

Các phương tiện được phun khử trùng khi qua lại các chốt kiểm soát ngăn bệnh dịch tả lợn châu Phi – Chốt kiểm soát ngăn chặn bệnh dịch tả lợn châu Phi xã Mai Tùng, huyện Hạ Hòa.

Trong điều kiện hiện tại, ngành thú y tỉnh khuyến cáo người chăn nuôi không ồ ạt tái đàn, kể cả tại các vùng đã công bố hết dịch để ngăn chặn nguy cơ dịch tái bùng phát. Ông Nguyễn Tất Thành - Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y cho biết: Dù đã công bố hết dịch, nhưng có thể mầm bệnh, nguồn virus vẫn còn lưu hành, địa phương đó vẫn có thể tái dịch nếu không áp dụng các biện pháp phòng ngừa nghiêm ngặt. Người dân tái đàn vào lúc này thì việc vận chuyển thực phẩm, thức ăn gia súc, phế phẩm nông nghiệp... giữa các vùng với nhau cũng là điều kiện thuận lợi khiến dịch bệnh lây lan trở lại, vốn đầu tư, công sức của người dân trong chống dịch sẽ đổ xuống sông, xuống biển. Vì thế, người dân cần thận trọng theo dõi tình hình dịch bệnh, không nên nôn nóng khôi phục đàn lợn, có thể tạm thời chuyển hướng sang chăn nuôi gia cầm hoặc các loại đại gia súc khác để tránh thiệt hại về kinh tế.

Virus dịch TLCP chưa có vắc xin và thuốc điều trị nên nguy cơ tái phát và tiếp tục lây lan ra diện rộng là rất cao. Người dân tại các địa phương vẫn cần nêu cao tâm lí đề phòng, làm tốt các biện pháp đảm bảo chăn nuôi an toàn sinh học, đảm bảo rõ nguồn gốc lợn, tiêm phòng đầy đủ. Đối với các hộ đảm bảo đủ các điều kiện để tái đàn, cần lưu ý đảm bảo việc áp dụng theo quy trình chăn nuôi an toàn sinh học, nên nuôi thăm dò với số lượng nhỏ trước, sau đó nếu thấy ổn thì mới tăng tiếp quy mô lớn hơn.

Huy Lê

Dịch tả heo Châu Phi xảy ra tại 15 huyện, thị xã, thành phố của Long An

Nguồn tin: Báo Long An

Dịch tả heo Châu Phi (DTHCP) xuất hiện và có chiều hướng lan rộng, khó kiểm soát trên địa bàn tỉnh Long An. Hiện nay, DTHCP đã xảy ra trên 232 hộ tại 77 xã của 15 huyện, thị xã và thành phố của tỉnh với tổng số heo tiêu hủy trên 7.200 con.

Ước tính trong thời gian qua, ngành nông nghiệp hỗ trợ 5.160 lít thuốc sát trùng và 83.680kg vôi để các địa phương chống và dập dịch.

Dịch tả heo Châu Phi xảy ra tại 15 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Long An

Để tăng cường công tác chống dịch lây lan, UBND tỉnh Long An đề nghị các thành viên Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch bệnh gia súc, gia cầm tỉnh và các địa phương phát huy tối đa tinh thần trách nhiệm, xem công tác xử lý, khống chế DTHCP là nhiệm vụ cấp bách, hàng đầu.

Bên cạnh đó, các lực lượng chức năng tăng cường chốt chặn, kiểm tra heo và sản phẩm từ heo ra vào vùng dịch cũng như các “cửa ngõ” của tỉnh.

Các địa phương cần tăng cường theo dõi tình hình, nắm kỹ số lượng hộ chăn nuôi và đàn heo trong bán kính 1km cách ổ dịch để quản lý nghiêm, tránh trường hợp hộ chăn nuôi bán heo chạy bệnh; đồng thời, phải xây dựng các phương án cụ thể, kịp thời xử lý đối với vùng có nguy cơ cao bán kính 3km cách vùng dịch.

Song song đó, các địa phương cần chủ động làm tốt công tác tuyên truyền để doanh nghiệp, người dân hiểu rõ về tình hình dịch bệnh, chủ động phối hợp chống dịch bệnh lây lan và an tâm sử dụng thịt heo sạch, an toàn./.

Huỳnh Phong

Hiệu quả chăn nuôi gà gia công

Nguồn tin: Báo Thái Bình

Nhằm giảm thiểu rủi ro trong chăn nuôi, mang lại nguồn thu nhập ổn định, nhiều hộ chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Thái Bình đã chọn phương thức liên kết chăn nuôi gia công cho các doanh nghiệp; điển hình như mô hình chăn nuôi gà gia công của gia đình ông Phan Văn Năng ở thôn Trấn Tây, xã Vũ Chính (thành phố Thái Bình) cho thu lãi hơn một trăm triệu đồng mỗi năm.

Sau khi trừ mọi chi phí, gia đình ông Phan Văn Năng thu lãi 120 triệu đồng mỗi năm.

Trước năm 2000, ông Năng đấu thầu và xin chuyển đổi khu đất canh tác kém hiệu quả diện tích 1ha (gồm đất vườn và diện tích mặt nước) sang xây dựng trang trại để phát triển mô hình VAC với mục đích nuôi tôm càng xanh, cá rô phi đơn tính kết hợp chăn nuôi lợn hướng nạc. Tuy nhiên, những năm đầu do thiếu kinh nghiệm chăn nuôi nên hiệu quả kinh tế chưa cao. Đang loay hoay thì ông được người quen gợi ý phối hợp với doanh nghiệp để thực hiện mô hình chăn nuôi gia công. Thời điểm đó, Công ty Cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam đang tìm hiểu thị trường và muốn đầu tư mô hình chăn nuôi gia công tại Thái Bình. Công ty đã tổ chức chuyến tham quan một số cơ sở chăn nuôi, mô hình chuồng trại, phương thức chăn nuôi gà gia công tại Hà Nội, Hải Phòng cho những người có nhu cầu, trong đó có ông Năng. Sau buổi tham quan, ông Năng quyết định liên kết với Công ty thực hiện mô hình chăn nuôi gà gia công và bắt tay triển khai xây dựng chuồng trại chăn nuôi.

Ông Năng cho biết: Áp dụng mô hình này, Công ty đầu tư toàn bộ về con giống đạt tiêu chuẩn, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, hướng dẫn và giám sát việc thực hiện quy trình kỹ thuật chăn nuôi, bao tiêu sản phẩm. Còn người chăn nuôi phải đầu tư xây dựng chuồng trại và bỏ công chăm sóc. Tôi đã huy động nguồn vốn đầu tư xây dựng chuồng trại chăn nuôi khép kín có diện tích gần 1.000m2 với quy mô nuôi 10.000 con gà mỗi lứa. Bên trong chuồng trại được trang bị hệ thống làm mát, quạt thông gió, máy sưởi, máy cho ăn uống tự động giúp điều hòa nhiệt độ chuồng nuôi ổn định, giảm công lao động cho người chăn nuôi. Mô hình này tuy phải đầu tư kinh phí khá cao nhưng cho hiệu quả kinh tế lâu dài, nhờ áp dụng toàn bộ quy trình chăn nuôi khép kín nên gà lớn nhanh, tránh được dịch bệnh, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường. Trung bình mỗi năm trại gà nuôi từ 4 - 5 lứa, mỗi lứa nuôi từ 6.000 - 8.000 con với thời gian nuôi khoảng 45 ngày/lứa, Công ty sẽ đến thu mua lại gà thành phẩm và trả tiền công chăm sóc cho người chăn nuôi. Trại gà tạo việc làm thường xuyên cho 3 lao động với thu nhập từ 6 - 7 triệu đồng/người/tháng. Sau khi trừ mọi chi phí, gia đình tôi thu lãi khoảng 120 triệu đồng/năm.

Ông Năng cho biết thêm: Chăn nuôi gà gia công cho lợi nhuận không cao nhưng bảo đảm thu nhập ổn định. Việc liên kết với Công ty giúp người chăn nuôi không phải đối mặt với những khó khăn về con giống, thức ăn, thú y, kỹ thuật chăn nuôi, tránh được những rủi ro trước tình hình giá cả biến động, dịch bệnh vì đã được Công ty bao tiêu sản phẩm.

Thanh Huyền

Thị trường thịt lợn có nhiều biến động

Nguồn tin: Báo Hà Nội Mới

Theo Bộ NN& PTNT, hiện giá lợn hơi tại miền Bắc tăng mạnh (2.000-6.000 đồng/kg) do nguồn cung thịt lợn không còn dồi dào bởi ảnh hưởng của bệnh Dịch tả lợn châu Phi.

Cụ thể, giá lợn hơi tại các tỉnh: Hà Nam, Vĩnh Phúc, Tuyên Quang dao động trong khoảng 36.000-39.000 đồng/kg; Hưng Yên, Nam Định, Hà Nội, Lào Cai, Thái Nguyên khoảng 40.000-41.000 đồng/kg; Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng, Bắc Kạn, Hà Giang, Quảng Ninh, Điện Biên khoảng 42.000-45.000 đồng/kg...

Trong khi đó, giá lợn hơi tại miền Trung giảm nhẹ (1.000 đồng/kg), hiện còn 30.000-33.000 đồng/kg. Tương tự, giá lợn hơi tại miền Nam giảm 3.000-5.000 đồng/kg do nhu cầu tiêu thụ thấp. Giá lợn hơi tại Tây Ninh, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Nai, giá lợn hơi dao động trong khoảng 27.000-29.000 đồng/kg…

Bộ NN&PTNT dự báo, thời gian tới, giá lợn hơi sẽ tăng do nguồn cung thịt lợn khan hiếm. Bộ NN&PTNT khuyến cáo các địa phương tập trung sản xuất các loại vật nuôi khác như: Gia súc, gia cầm, thủy cầm... nhằm bảo đảm cân đối cung - cầu thực phẩm cho các tháng cuối năm.

NGỌC QUỲNH

Hiếu Giang tổng hợp

 

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop