Tin nông nghiệp ngày 08 tháng 12 năm 2016

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 08 tháng 12 năm 2016

Hiệu quả bước đầu từ phương pháp canh tác tự nhiên

Nguồn tin: Báo Quảng Trị

Phương pháp canh tác tự nhiên là phương pháp canh tác hoàn toàn dựa vào tự nhiên từ nguồn phân bón, thức ăn cho đến đặc tính sinh học của các loại cây trồng, vật nuôi để đưa ra giải pháp canh tác và cách bảo vệ thực vật (BVTV) thích hợp có ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất, được quản lý một cách chặt chẽ. Trong sản xuất nông nghiệp hiện nay phần lớn sử dụng phân bón hóa học, thuốc BVTV và thức ăn công nghiệp cho cây trồng, vật nuôi. Tác dụng của phương pháp canh tác vô cơ là thúc đẩy cây trồng, vật nuôi phát triển nhanh, cho năng suất cao nhưng đi cùng với đó là để lại những hậu quả nặng nề trên nông sản cũng như môi trường sản xuất, môi trường sinh thái, đất đai sản xuất bị chai cứng, những sinh vật có lợi bị tiêu diệt, về lâu dài cây trồng bị giảm năng suất, nhiều dịch bệnh, tồn dư hóa chất trong sản phẩm làm ảnh hưởng đến sức khỏe của người sử dụng...

Trước những “lợi bất cập hại” đó, thời gian qua, các tổ chức bảo vệ môi trường đã có những hoạt động hỗ trợ và khuyến cáo người dân quay trở lại phương pháp canh tác tự nhiên (hay còn gọi là phương pháp canh tác hữu cơ) nhằm tạo sự bền vững cho sản xuất nông nghiệp. Được sự hỗ trợ của dự án Bảo vệ môi trường huyện (dự án do UBND huyện Triệu Phong (Quảng Trị) phối hợp Cơ quan Hợp tác Quốc tế Hàn Quốc (KOICA), Ngân hàng Ngoại hối Hàn Quốc (KEB Foundation) Chương trình Phát triển vùng huyện Triệu Phong (Tổ chức Tầm nhìn Thế giới) thực hiện), Trạm Khuyến nông Triệu Phong đã chỉ đạo triển khai các mô hình sản xuất theo phương pháp canh tác tự nhiên như chăn nuôi gà, lợn; trồng rau màu và lúa. Dự án được triển khai tại 4 xã: Triệu Thượng, Triệu Sơn, Triệu Trung và Triệu Tài với 12 nhóm hộ sản xuất với tổng diện tích thực hiện mô hình là gần 1 ha. Sau hơn 1 năm triển khai các mô hình chăn nuôi, trồng trọt theo phương pháp hữu cơ đã thu được những kết quả bước đầu, mở ra hướng mới trong sản xuất cho nông dân.

Canh tác rau sạch

Các mô hình được triển khai theo hộ sản xuất, nhưng các hộ có sự liên kết để cùng cam kết với dự án về việc không sử dụng thuốc BVTV; không lạm dụng phân bón hóa học; không cho gia súc, gia cầm ăn thức ăn công nghiệp, thuốc kháng sinh. Cây trồng được bón phân hữu cơ hoai mục, tưới các chất dinh dưỡng hữu cơ tạo ra từ mắm động vật, trái cây dầm với mật mía; vật nuôi được cho ăn các loại thức ăn tự phối trộn bằng cám, gạo, ngô... với men vi sinh và phòng trừ sâu bệnh hại cây trồng, dịch bệnh hại vật nuôi bằng các loại chế phẩm sinh học tự chế biến từ các loại thảo mộc (sử dụng các sản phẩm như tỏi, ớt, lá cây, gừng, đường, dấm, bia, rượu gạo…) dưới sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật.

Trước khi tham gia dự án, gia đình ông Nguyễn Hữu Đạt ở tại thôn An Hưng, Triệu Tài, Triệu Phong hàng năm canh tác lúa đã sử dụng nhiều loại phân hóa học thay cho phân hữu cơ và sử dụng thuốc BVTV mỗi khi cây trồng bùng phát sâu bệnh. Từ ngày ông cùng 10 hộ trong thôn tham gia nhóm canh tác tự nhiên do dự án tài trợ, ông mới nhận ra rằng muốn sản xuất nông nghiệp bền vững điều tiên quyết là phải dựa vào các yếu tố tự nhiên. Dưới sự hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật khuyến nông, ông chỉ sử dụng phân bón hữu cơ cho trồng lúa và cung cấp dinh dưỡng cho cây lúa bằng các chất hữu cơ được làm từ mắm động vật, trái cây ủ với mật mía. Quy trình làm phân hữu cơ cũng khá công phu như phân chuồng, phân xanh được ủ với men vi sinh (men này được làm ra từ cơm đã lên men ủ với mật mía), phân chuồng được tưới 3- 4 lần chế phẩm sinh học tự chế sẽ hết mùi hôi, hoai mục hoàn toàn rồi đem bón lót với lượng 3 tạ phân/sào. Việc bón phân hữu cơ được thực hiện một lần duy nhất trong cả vụ canh tác và trong quá trình phát triển cứ 7 - 10 ngày cây trồng được phun chế phẩm sinh học tự chế nhằm cung cấp dinh dưỡng cho cây. Khi lúa bị sâu bệnh, ông sử dụng chế phẩm sinh học tự tạo từ gừng, ớt, tỏi ủ với mật mía để phun. Lúa được canh tác theo phương pháp tự nhiên mặc dù không xanh mướt như bón phân hóa học nhưng xanh đậm đà hơn, lá dày chắc hơn, cây cứng cáp, không đổ ngã. Đặc biệt là người dân khi phun chế phẩm sinh học phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng không cần phải mặc bảo hộ do chế phẩm sinh học thân thiện với môi trường. Năng suất lúa vụ đầu tiên của nhóm canh tác trên diện tích 1 ha có sụt giảm hơn 2- 3 tạ so với phương pháp canh tác thông thường nhưng họ tin chắc rằng sau vụ thứ 2 trở đi năng suất sẽ tăng bền vững nhờ chất dinh dưỡng từ phân hữu cơ làm cho đất được cải tạo độ mùn, các chế phẩm sinh học kích hoạt khả năng tích lũy đạm sinh học trong đất và thúc đẩy sự phát triển các sinh vật có lợi sẽ làm cho cây trồng phát triển tốt hơn. Điều đáng quan tâm hơn là giá lúa được trồng theo phương pháp canh tác tự nhiên bán cao hơn 1,5 lần so với lúa được canh tác theo phương pháp thông thường, góp phần tăng nguồn thu nhập đáng kể cho nông dân.

Sau 3 vụ triển khai, các mô hình canh tác tự nhiên ở Triệu Phong đã đạt được những kết quả nổi bật. Ông Đào Văn Đức, Quản lý Dự án Bảo vệ môi trường huyện Triệu Phong cho biết: “Phương pháp canh tác này rất có lợi cho người sản xuất và cả cộng đồng. Tuy nhiên, phương pháp canh tác này cần phải có sự kiên trì, phối kết hợp giữa các hộ trong sản xuất. Việc trở lại bón phân hữu cơ cần nhiều công sức hơn bón phân vô cơ trước đây nên ban đầu nông dân còn e ngại. Nhưng nhờ sự cán bộ thực hiện dự án tuyên truyền, giải thích, vận động giúp cho người dân hiểu ra vai trò, ý nghĩa và tác dụng to lớn của phương pháp canh tác này. Cán bộ kỹ thuật cũng hướng dẫn tận tình cách làm chế phẩm sinh học phun để bảo vệ cây trồng nên người dân hiện nay đã thực hiện thành thạo. Sản phẩm người dân sản xuất theo phương pháp này đạt chất lượng tốt. Dự án và các ngành chức năng, chính quyền địa phương sẽ hỗ trợ quảng bá, tuyên truyền, đăng kỹ nhãn hiệu nông sản sạch và giới thiệu sản phẩm cho các doanh nghiệp nhằm tăng cường các kênh tiêu thụ sản phẩm cho nông dân”.

Với mô hình canh tác tự nhiên, người nông dân không còn tiếp xúc với các loại phân bón hóa học và thuốc BVTV. Vì vậy, sản phẩm làm ra hoàn toàn sạch, đảm bảo cho sức khỏe của người tiêu dùng. Trên cơ sở những kết quả đạt được, dự kiến trong thời gian tới dự án sẽ tiếp tục nhân rộng ra các xã trong và ngoài vùng dự án nhằm góp phần bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe cho người tiêu dùng và nâng cao thu nhập cho nông dân .

TRẦN CÁT LINH

Ðưa cây trồng biến đổi gen vào sản xuất nông nghiệp: Nỗ lực vượt “định kiến”

Nguồn tin: Báo Bình Định

Cây trồng biến đổi gen (BÐG) và những mặt lợi - hại của nó là chủ đề gây chú ý trong thời gian gần đây. Ðiều quan trọng là xác định đúng tiềm năng phát triển, giá trị thật sự của cây trồng BÐG để có hướng phát triển phù hợp tại nước ta.

Ðó là lý do để Viện Di truyền nông nghiệp Việt Nam phối hợp Viện KHKT Nông nghiệp duyên hải Nam Trung bộ tổ chức hội thảo Công nghệ sinh học và tiềm năng ứng dụng ở Việt Nam, được tổ chức tại TP Quy Nhơn cuối tuần qua.

Viện KHKT Nông nghiệp Duyên hải Nam Trung bộ đã trồng khảo nghiệm một số giống bắp biến đổi gen tại xã Mỹ Tài (huyện Phù Mỹ).

Khởi đầu của bắp BĐG

Theo PGS.TS. Lê Huy Hàm, Viện trưởng Viện Di truyền nông nghiệp Việt Nam, tính bình quân đầu người, Việt Nam là một trong những nước có quỹ đất thấp nhất thế giới. Ðất sản xuất nông nghiệp ngày càng teo dần, mỗi năm mất đi 50.000 - 70.000 ha, trong khi dân số không ngừng tăng. Trong khi đó, tiềm năng sản xuất nông nghiệp bị hạn chế bởi vấn nạn phá rừng, xói mòn; bóc lột đất quá mức; thay đổi môi trường; thiếu đất canh tác... diễn ra ngày càng nghiêm trọng. Với nhu cầu về lương thực ngày càng tăng, trong bối cảnh nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt, một trong những giải pháp là phải ứng dụng công nghệ sinh học vào sản xuất.

Từ năm 2006, Việt Nam đã thí nghiệm cây trồng BÐG trên đồng ruộng, giai đoạn 2010 - 2015 thương mại hóa sản phẩm. Dự kiến đến năm 2020, diện tích một số cây trồng BÐG đã được chọn như bắp, bông, đậu nành chiếm 30 - 50% tổng diện tích sản xuất. “Sở dĩ, Chính phủ chọn các loại cây tiên phong ứng dụng cây trồng BÐG nói trên vào sản xuất là để giảm áp lực về nhập khẩu nguyên liệu, đặc biệt trong ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi. Ðưa giống bắp và đậu nành BÐG vào sản xuất sẽ giải được bài toán về nguyên liệu sản xuất, với sản lượng các loại cây BÐG tăng lên 22%” - PGS.TS. Lê Huy Hàm cho hay.

Thông tin đưa ra tại hội thảo, đến tháng 6.2016, tại Việt Nam đã có 8 giống bắp kháng sâu, kháng thuốc diệt cỏ, vừa kháng sâu vừa kháng thuốc diệt cỏ đưa vào sản xuất. Gần 15.000 ha bắp BÐG đã được trồng từ năm 2014-2016. Chi phí cho cây BÐG thấp hơn nhưng sản lượng tăng 22%, từ đó tăng 68% lợi nhuận cho nông dân so với giống bắp truyền thống.

PGS.TS. Lê Huy Hàm khẳng định: “Sau khi triển khai thí nghiệm trồng bắp BÐG ở tỉnh Hưng Yên và nhiều mô hình ở một số nơi khác cho kết quả khả quan, chúng tôi tin loại cây trồng này có thể vững vàng trước các điều kiện thời tiết cực đoan bởi khả năng kháng sâu và thuốc diệt cỏ tốt; năng suất nhờ đó tăng lên, giảm chi phí đầu tư. Bên cạnh đó, bắp BÐG không hề có sự khác biệt về đa dạng sinh học và môi trường so với loại cây trồng cũ”.

Tại tỉnh Bình Ðịnh, đến thời điểm này cũng đã trồng khảo nghiệm một số giống bắp BÐG tại huyện Phù Mỹ. TS. Nguyễn Thanh Phương, Phó Viện trưởng Viện KHKT Nông nghiệp duyên hải Nam Trung bộ, cho biết: Kết quả trồng khảo nghiệm đã tuyển chọn được giống bắp BÐG 6919S sinh trưởng phát triển tốt, đạt năng suất cao (74,14 tạ/ha, tăng 16,6% so với giống đối chiếu CP333). “Từ kết quả đó, việc đánh giá mở rộng so sánh giống bắp BÐG này ở một số địa phương khác trên các chân đất hiện đang sản xuất bắp trong chính vụ, nhất là trong vụ Hè Thu trên chân đất chuyển đổi ở Bình Ðịnh và vùng duyên hải là cần thiết” - TS. Phương đề xuất.

Chưa hết nghi ngại

Theo PGS.TS. Lê Huy Hàm, hiện nay vẫn còn sự nghi ngại nhất định về loại cây trồng BÐG. Nhưng, thế giới đã có lịch sử trồng và sử dụng sản phẩm BÐG từ rất lâu, với khoảng 350 triệu người sử dụng, song đến nay chưa từng ghi nhận bất kỳ bằng chứng nào cho thấy cây trồng này và sản phẩm của nó không an toàn cho môi trường, đa dạng sinh học, sức khỏe con người và vật nuôi.

TS. Trương Thị Huệ, Phó Trưởng khoa Sinh - Kỹ thuật nông nghiệp, Trường Ðại học Quy Nhơn, đặt vấn đề: “Thông tin tại hội thảo cho thấy có rất nhiều nghiên cứu đã chứng minh cây trồng BÐG không có nhiều nguy cơ và rủi ro so với cây trồng truyền thống cùng loại. Vậy thì tại sao ở các nước, cũng như Việt Nam, việc xuất hoặc nhập cây trồng BÐG lại hết sức thận trọng. Chúng ta có khuyến khích cây trồng BÐG hay không?”.

PGS.TS. Lê Huy Hàm cho biết: Hiện nay, Chính phủ, Bộ NN&PTNT cũng rất hiểu những quan ngại của công chúng đối với cây trồng BÐG, vì có rất nhiều luồng tuyên truyền khác nhau, với mục đích khác nhau, ảnh hưởng đến tâm trạng chung của người dân. Hiện Chính phủ chỉ cho phép 3 giống cây trồng BÐG là bắp, bông và đậu nành. Chúng ta nhập khẩu 50 - 60% bắp, nhập khẩu 95% bông, và đậu nành cũng nhập đến 95%. “Có điểm khác biệt trong chính sách đối với cây trồng BÐG của Việt Nam so với các nước; đó là sản phẩm BÐG để được trồng cấy, sử dụng tại Việt Nam phải được 5 nước phát triển cho sử dụng với cùng một mục đích. Ðó là những nước có nền tảng khoa học, hệ thống quản lý an toàn sinh học và an toàn thực phẩm cao nhất” - ông Hàm cho biết thêm.

Trong khi đó, ông Ðinh Quốc Huy, cán bộ nghiên cứu Viện KHKT Nông nghiệp duyên hải Nam Trung bộ, cho rằng, nên phát triển cây trồng BÐG vì đây là một tiến bộ khoa học. Tuy nhiên, hầu hết giống đều do các công ty nước ngoài sản xuất, liệu có tình trạng “độc quyền” hạt giống của các công ty nước ngoài?”.

Về vấn đề này, PGS.TS. Lê Huy Hàm cho rằng, hiện có khoảng chục công ty đa quốc gia kinh doanh giống cây trồng BÐG trên thị trường Việt Nam. Khó có khả năng xảy ra độc quyền, bởi các công ty này phải cạnh tranh với nhau. Bên cạnh đó, một trong những điều kiện mà Bộ NN&PTNT đưa ra đối với các doanh nghiệp là phải song song cung cấp cả giống BÐG và giống truyền thống khi nông dân cần.

“Việt Nam là một trong 28 quốc gia trên thế giới “thương mại hóa” cây trồng BÐG. Có ít nhất 14 văn bản pháp lý liên quan đến cây trồng và sản phẩm BÐG ở các mức khác nhau như luật, nghị định, thông tư đã được xây dựng và hoàn thiện từ năm 2006; trong đó có 3 luật là Luật Bảo vệ môi trường, Luật Bảo tồn đa dạng sinh học và Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm. Có 5 Bộ (KH&CN, Công Thương, Y tế, TN-MT, NN&PTNT) và Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam tham gia trong việc đưa ra các quyết định liên quan đến sinh vật BÐG. Ðây là một quá trình hết sức phức tạp để xây dựng thể chế, điều phối giữa các bộ, ngành nhằm hoàn thiện quy chế ứng dụng công nghệ này tại Việt Nam” - PGS.TS. LÊ HUY HÀM, Viện trưởng Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam

THU HIỀN

Trồng nấm bào ngư Nhật cho thu nhập khá

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Mô hình trồng nấm bào ngư Nhật được gia đình bà Nguyễn Thị Phượng, ở ấp Trường Hòa A, xã Trường Long A, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang thực hiện khoảng 1 năm nay. Theo đó, mỗi đợt thu hoạch cách nhau từ 30-40 ngày, liên tiếp trong vòng 5-6 tháng thì trồng mới lại, tuy nhiên, chi phí đầu tư phôi nấm khá cao và không dễ chăm sóc.

Thu nhập khá từ việc trồng nấm bào ngư Nhật.

Bà Phượng cho biết, với hai trại nấm phía sau nhà, trung bình mỗi đợt trồng mới, bà phải tốn trên 200 triệu đồng cho tất cả các khoản chi phí từ mua phôi nấm đến tưới tiêu... Mặc dù chưa thống kê cụ thể lợi nhuận mỗi năm, nhưng với giá bán hiện tại từ 40.000-43.000 đồng/kg, nấm bào ngư Nhật đã đem về cho gia đình nguồn thu nhập khá để ổn định cuộc sống. Hiện nấm bào ngư Nhật được bỏ mối cho các nhà hàng, quán ăn trên địa bàn thành phố Cần Thơ. Có thể gọi đây là nấm sạch và an toàn, phải dùng nước sạch để tưới, làm trại nấm hẳn hoi chứ không dễ trồng như những loại khác.

KỲ ANH

Lục Nam: Thu nhập từ củ đậu gần 280 triệu đồng/ha

Nguồn tin: Báo Bắc Giang

Theo Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Lục Nam (Bắc Giang), vụ thu đông năm nay, toàn huyện trồng hơn 100 ha củ đậu thành vùng chuyên canh.

Những xã có diện tích trồng củ đậu lớn là: Chu Điện, Thanh Lâm, Đông Phú, Tam Dị, Khám Lạng và thị trấn Đồi Ngô.

Thời điểm này, củ đậu đang thu hoạch rộ, năng suất ước đạt 55 tấn/ha; thương nhân từ các tỉnh: Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định... đến mua với giá bình quân 5 nghìn đồng/kg, mỗi ha cho thu gần 280 triệu đồng. Do năm nay thời tiết thuận lợi, củ đậu sinh trưởng, phát triển tốt, nông dân áp dụng một số kỹ thuật canh tác mới nên củ đậu cho năng suất cao.

Ngọc Tâm

Tuyên Quang: Hiệu quả dự án tưới ẩm cho mía

Nguồn tin: Báo Tuyên Quang

Năm 2015, Sở Nông nghiệp và PTNT triển khai dự án tưới ẩm cho mía, tổng kinh phí thực hiện trên 960 triệu đồng, qua đó góp phần tăng năng suất, chất lượng và sản lượng mía trên địa bàn. Đây cũng được xem là một giải pháp hữu hiệu nhằm chống hạn cho vùng mía nguyên liệu.

Cán bộ nông vụ Công ty cổ phần Mía đường Sơn Dương kiểm tra diện tích mía đang được ứng dụng công nghệ tưới giữ ẩm.

Toàn tỉnh Tuyên Quang hiện có trên 11.500 ha mía nguyên liệu, với các giống mía như ROC 22, ROC 203, ROC 10, ROC 6, Quế đường 11... có khả năng cho năng suất, trữ đường cao. Tuy nhiên, năng suất mía thực tế tại các địa phương đều đạt thấp, bình quân chỉ đạt trên 58 tấn/ha, trữ đường mía trồng của tỉnh đứng thứ 8, trong số 11 nhà máy đường trong khu vực miền Bắc.

Ngoài nguyên nhân là nhiều diện tích mía manh mún, nhỏ lẻ dẫn đến việc chăm sóc hạn chế thì một nguyên nhân lớn nữa là diện tích mía nguyên liệu trồng trên đất đồi dốc chiếm 83% tổng diện tích mía toàn tỉnh.

Việc trồng mía trên đất đồi dốc thường xuyên gặp phải hiện tượng khô hạn do độ ẩm trong đất kém, nguồn nước tưới hạn chế, đặc biệt trong thời gian từ tháng 2 đến tháng 4 và từ tháng 9 đến tháng 11 tương ứng với giai đoạn đầu phát triển của cây mía và giai đoạn cuối khi chuẩn bị thu hoạch. Điều này đã gây chết mía, nhiều diện tích bị mất khoảng, giảm năng suất.

Đẩy mạnh phát triển công nghệ mía đường của tỉnh, bên cạnh việc quy hoạch mở rộng diện tích vùng nguyên liệu, bố trí cơ cấu giống hợp lý, Sở Nông nghiệp và PTNT đã thực hiện ứng dụng mô hình tưới chủ động cho gần 6 ha mía nguyên liệu của 41 hộ dân tại thôn Tân Bình 2, xã Bình Xa (Hàm Yên).

Công nghệ tưới được áp dụng là tưới nhỏ giọt và tưới phun mưa và được áp dụng khác nhau cho từng vườn. Đối với địa hình bằng, độ dốc dưới 6%, dùng ống mềm không bù áp để giảm chi phí đầu tư. Địa hình có độ dốc cao hơn trên 6%, dùng loại ống có bù áp để đảm bảo áp suất nước ổn định giữa đầu và cuối luống.

Ông Trần Xuân Hạnh, Trưởng thôn Tân Bình 2, xã Bình Xa, phấn khởi cho biết: Nhờ có hệ thống tưới ẩm mà tỷ lệ đẻ nhánh cao hơn rất nhiều, mía không bị chết, mất khoảng như những vụ trước. Cũng nhờ được tưới ẩm thường xuyên cộng với quy trình chăm sóc đúng kỹ thuật nên cây mía phát triển rất tốt. Dự tính nếu không bị mưa bão làm gãy đổ năng suất mía niên vụ 2016 - 2017 của gia đình ông Hạnh có thể đạt khoảng 5,7 tấn/sào, tăng gần 2 tấn so với những vụ trước không áp dụng tưới ẩm.

Theo ông Trần Ngọc Thanh, Trưởng Phòng Trồng trọt, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh (Sở Nông nghiệp và PTNT), sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt sẽ tích hợp được công nghệ hòa tan phân bón, tiết kiệm được từ 20% đến 30% nước so với công nghệ tưới truyền thống.

Năng suất có khả năng tăng từ 40% đến 50% so với đối chứng. Hiệu quả bước đầu của mô hình đã có một số huyện, thành phố tính đến việc áp dụng phương pháp tưới ẩm cho diện tích mía nguyên liệu trong niên vụ tới.

Nhận định của Sở Nông nghiệp và PTNT, từ nay đến tháng 2-2017, mưa sẽ giảm dần, lượng nước tự nhiên sẽ bị sụt giảm, những diện tích mía trên đất đồi dốc lại bước vào giai đoạn vươn lóng và chín. Do đó, việc áp dụng biện pháp tưới ẩm trong thời kỳ này sẽ rất tốt để tăng năng suất, trữ đường.

Dự án tưới ẩm cho mía đã và đang phát huy được hiệu quả trong việc tăng năng suất, chất lượng, sản lượng mía nguyên liệu, làm tăng hiệu quả kinh tế. Qua đó còn góp phần làm giảm áp lực chuyển đổi đất trồng mía sang các cây trồng khác.

Đoàn Thư

Trồng hành lợi nhuận khoảng 70 triệu đồng/ha

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Do đợt hành nhiễm bệnh lá đỏ vừa qua đã dẫn đến hiện tượng hành sốt giá, từ 600.000 đ/tạ lên đến 1.700.000 đ/tạ. Theo ông Nguyễn Cao Miên - Giám đốc HTX Rau củ quả Tân Bình (Bình Tân, Vĩnh Long), tuy giá hành thời điểm đó cao nhưng lại không có hành để cung cho thị trường do hành trồng lại chưa đến tuổi thu hoạch.

Còn thời điểm này,“do thời tiết thuận lợi, hành đạt năng suất khoảng 20 tạ/công, giá hành mua tại ruộng vẫn đứng ở mức khá cao, với 1.000.000 đ/tạ. Với giá này, bà con lời khoảng 7.000.000 đ/công” - ông Miên cho biết thêm.

Hiện, gần 50ha hành được các hộ dân thuộc HTX Rau củ quả Tân Bình xuống giống để phục Tết Nguyên đán đang trong giai đoạn phát triển tốt.

TRẦN NGỌC

Trồng nghệ đen ở Gia Bình

Nguồn tin: Báo Bắc Ninh

Mô hình trồng nghệ đen của gia đình anh Nguyễn Tùng Sơn xã Giang Sơn, Gia Bình, Bắc Ninh được coi là thành công, góp phần thay đổi tư duy, phương thức sản xuất của người dân địa phương.

Thu hoạch nghệ đen ở Gia Bình.

Theo anh Sơn, năm nay cây nghệ tốt, năng suất cao. Nghệ sau khi thu hoạch chỉ việc cắt bỏ phần rễ rồi đóng bao, đơn vị ở Bắc Giang và Hưng Yên về tận nơi thu mua theo hợp đồng đã ký với giá 10.000 đồng/kg. Qua thu hoạch cho thấy năng suất đạt từ 1,5-1,6 tấn/sào tính ra 1 sào trồng nghệ thu từ 15-16 triệu đồng, trừ mọi chi phí thu lãi hơn 10 triệu đồng/sào, cao gấp 12-13 lần so với các loại cây mầu truyền thống của địa phương. Với 1,5 ha nghệ, dự kiến anh Sơn sẽ thu lãi khoảng 400 triệu đồng. Cũng từ phát triển cây nghệ, anh Sơn đã tạo việc làm thời vụ cho hơn 30 lao động người địa phương với thu nhập từ 120-130 nghìn đồng người/ngày.

Với việc đưa cây nghệ dược liệu về trồng trên đồng đất quê hương đã mang lại nguồn thu nhập cao, thu hút hàng chục hộ dân đăng ký tham gia trồng nghệ vào năm sau.

Xuân Thủy (Đài Gia Bình)

Xã Bạch Đằng, Tx.Tân Uyên (Bình Dương): Tất bật mùa bưởi tết

Nguồn tin: Báo Bình Dương

Những ngày này, người trồng bưởi ở xã Bạch Đằng, TX. Tân Uyên, tỉnh Bình Dương lại tất bật chăm sóc, bón phân, áp dụng các biện pháp kỹ thuật để chuẩn bị cho mùa bưởi tết. Người trồng bưởi ở đây kỳ vọng thị trường bưởi tết năm nay tiếp tục hút hàng.

Ông Huỳnh Văn Ly đang chăm sóc vườn bưởi tết của gia đình. Ảnh: QUỲNH NHIÊN

Xử lý cho trái đúng dịp tết

Chúng tôi đến vườn bưởi đường lá cam của ông Huỳnh Văn Ly, xã Bạch Đằng đúng lúc ông đang tập trung chăm sóc để có bưởi chất lượng tốt nhất cung ứng thị trường Tết Nguyên đán sắp tới. Khác với nhiều hộ trồng bưởi tại địa phương, nắm bắt nhu cầu thị trường, vườn bưởi được ông điều chỉnh cho trái 1 vụ duy nhất vào dịp tết. Ngay từ đầu tháng 6 âm lịch, gia đình ông đã tích cực chăm sóc, xử lý ra hoa để bưởi kịp phục vụ tết.

Ông Ly cho biết, do thời tiết không thuận lợi, vào thời điểm xử lý ra hoa lượng mưa nhiều đã ảnh hưởng đến quá trình đậu trái nên sản lượng bưởi tết năm nay không bằng những năm trước và nhiều khả năng giá bưởi sẽ tăng vào dịp cận tết. Dịp tết năm ngoái, vườn bưởi của gia đình ông xuất ra thị trường hơn 6.000 trái, với giá bán bình quân 65.000 đồng/kg.

Theo nhiều nông dân trồng bưởi ở xã Bạch Đằng, đây là đợt bưởi ra hoa chính vụ và cho trái nhiều nhất trong năm. Hiện giá bán bưởi tại vườn gần 50.000 đồng/kg, vào dịp Tết Nguyên đán sắp tới có thể tăng lên khoảng 65.000 - 70.000 đồng/kg. Năm nay, thời tiết thay đổi thất thường, tuy bưởi ra hoa vào thời điểm mưa ít nhưng vẫn rụng nhiều khiến cây bưởi đậu ít trái.

Anh Nguyễn Hữu Tâm, Tổ trưởng Tổ hợp tác bưởi Bạch Đằng cho biết, hiện tổ hợp tác có 12 thành viên, diện tích trồng bưởi khoảng 4,96 ha. Ngoài thị trường trong tỉnh, bưởi của tổ hợp tác đã có mặt tại Đồng Nai, TP.Hồ Chí Minh, Hà Nội và được người tiêu dùng ưa chuộng. Đặc biệt, bưởi do tổ hợp tác làm ra được bán trực tiếp cho Siêu thị Co.opmart Bình Dương, đều đặn hàng tuần hơn 150kg bưởi được xuất vào siêu thị với giá 45.000 đồng/kg.

Bảo đảm bưởi chất lượng

Hiện nay, xã Bạch Đằng có trên 400 ha trồng bưởi đường lá cam, bưởi da xanh đặc sản. Đây là hai giống bưởi phát triển tốt, ít sâu bệnh và phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng của xứ cù lao này. Những năm qua, giống bưởi ở đây được các nhà vườn cải tiến, lai tạo cho hiệu quả, năng suất cao hơn nhưng vẫn giữ được hương vị và nét đặc trưng riêng.

Những vườn bưởi ở Bạch Đằng được thị trường đánh giá cao nhờ chất lượng ổn định. Thời gian qua nhiều chủ vườn ở đây đã đăng ký vào tổ hợp tác bưởi Bạch Đằng và chuyển sang sản xuất theo quy trình VietGAP. Có thể nói, việc ứng dụng quy trình chăm sóc cây bưởi theo tiêu chuẩn kết hợp với kỹ thuật mới đã đem lại năng suất cao, giúp tăng hiệu quả kinh tế; sản phẩm đưa ra thị trường an toàn cho người tiêu dùng. Bưởi Bạch Đằng được trồng và bảo quản sau thu hoạch bằng mô hình khép kín theo tiêu chuẩn VietGAP. Nhờ đó, thương hiệu bưởi Bạch Đằng đã được đăng ký tại Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học - Công nghệ) và được Nhà nước bảo hộ độc quyền.

Ông Ngô Văn Hải, Chủ tịch Hội Nông dân xã Bạch Ðằng cho biết, bưởi ở đây đã được chứng nhận thương hiệu tập thể. Đây là điều kiện thuận lợi để bưởi Bạch Đằng vươn ra thị trường vững chắc hơn. Nhờ giá bưởi cao và ổn định nên thu nhập của người trồng bưởi trong xã ngày một khá lên; có nhiều hộ thu nhập 800 triệu đến 1 tỷ đồng/ha. Bên cạnh sự nỗ lực của các gia đình trồng bưởi, bưởi Bạch Đằng ngày càng có tiếng còn nhờ chính sách hỗ trợ, giữ gìn và phát triển vườn cây ăn quả đặc sản của tỉnh. Riêng trong năm 2016, toàn xã có 47 hộ được hỗ trợ 100% cây giống, 50% vật tư nông nghiệp và 5 triệu đồng/ha cho việc trồng vườn bưởi mới, theo hướng VietGAP; 307 hộ được hỗ trợ tiền công chăm sóc, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật đối với vườn bưởi đang trồng.

Theo bà Võ Thị Bảo Xuyên, Phó Chủ tịch UBND xã Bạch Đằng, ngoài việc chuẩn bị tốt cho mùa bưởi tết năm nay, địa phương đang tích cực phối hợp tổ chức Lễ hội “Hương bưởi Bạch Đằng” sẽ diễn ra vào ngày 7 và 8-1-2017 tới.

QUỲNH NHIÊN

Trồng chanh không hạt cho năng suất cao

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Năm 2014, với nguồn vốn vay hỗ trợ từ ngân hàng, gia đình ông Lê Văn Cuông ở ấp Thạnh Tân, xã Thạnh Bình, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh đã mạnh dạn đầu tư trồng chanh không hạt.

Sau hai năm gắn bó, cùng với sự cần cù, chịu khó chăm sóc, sản phẩm chanh không hạt bước đầu đã cho hiệu quả kinh tế rõ rệt. Mô hình sản xuất mới này đã tạo nguồn thu nhập ổn định cho gia đình ông.

Ông Lê Văn Cuông chăm sóc vườn chanh không hạt của gia đình.

Ông Cuông cho biết: “Cây chanh không hạt từ khi trồng tới lúc thu hoạch khoảng 20 tháng, trái chanh đầu mùa cho quả bóng đẹp, vỏ mỏng. Tuy nhiên, mùa trái đầu tiên thì chỉ nên lấy phân nửa, số còn lại phải cắt bỏ đi, như vậy cây mới xanh tốt, khoẻ mạnh và cho trái nhiều”.

Theo ông Cuông, giống chanh không hạt cho trái quanh năm, từ năm thứ ba đến năm thứ tư, cây bắt đầu cho nhiều trái, trung bình mỗi cây trên 1.000 trái. Giống chanh không hạt thường cho trái to, vỏ mỏng, màu xanh sáng, nhiều nước, có mùi thơm.

Một cây chanh không hạt có thể cho thu hoạch trái trên 10 năm cây mới bị lão hóa. Giá bán loại chanh này tại vườn dao động từ 8.000 - 9.000 đồng/kg, có lúc giá lên hơn 40.000 đồng/kg nhưng vẫn không có đủ đáp ứng theo đơn đặt hàng.

Hiện nay, vườn chanh không hạt của ông Cuông được Công ty TNHH MTV The Fruit Rebulic bao tiêu sản phẩm theo giá thị trường nên đầu ra của sản phẩm rất ổn định. Mỗi tháng ông Cuông thu hoạch trái hai lần, năng suất trung bình 15 tấn/ha.

Trồng chanh không hạt đem lại doanh thu cho gia đình ông Cuông khoảng 135 triệu đồng/ha mỗi vụ. Ông Cuông cho biết: “Ưu điểm lớn nhất của cây chanh không hạt là cho trái quanh năm, nếu muốn cây cho trái tốt cần phải chăm sóc vườn tốt, tưới nước, bón phân đầy đủ là chanh ra bông, có trái”.

Tâm Giang

Giá mít Thái và chanh không hạt giảm mạnh

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Nhiều nhà vườn trồng mít Thái ở xã Long Thạnh, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang cho biết, nếu như ở thời điểm tháng 8 âm lịch giá tăng trên 20.000 đồng/kg thì hiện nay mít Thái loại 1 được thương lái cân tại vườn chỉ còn 8.000 đồng/kg, loại 2 có giá 4.000 đồng/kg, giảm khoảng 3 lần so với trước. Nguyên nhân giá mít Thái giảm mạnh là do thị trường mít sấy ế ẩm và ở thời điểm này một số loại cây ăn trái khác đang bước vào vụ thu hoạch. Tuy nhiên, do mít Thái là loại cây trồng cho trái quanh năm nên khi giá giảm mạnh vẫn không ảnh hưởng nhiều đến lợi nhuận của nhà vườn. Theo thống kê, với diện tích 1.000m2 nhà vườn có thể trồng 200 gốc mít Thái, sau 1 năm chăm sóc có thể cho trái, mít càng lớn tuổi thì năng suất trái càng tăng cao. Trung bình mít trên 3 năm tuổi có thể thu hoạch được 4 tấn trái mỗi năm.

Nhà vườn trồng mít Thái tin tưởng giá bán sẽ tăng trở lại trong những ngày cận tết. Ảnh: LÊ ĐĨNH

- Sau thời gian giữ giá ở mức cao, hiện chanh không hạt trên địa bàn huyện Châu Thành A rớt giá mạnh. Thời điểm này, thương lái đến vườn thu mua chanh chỉ 7.000 đồng/kg, giảm phân nửa so với tháng trước. Với giá này, sau khi thuê mướn nhân công hái trái thì người trồng chanh không có lời. Theo một số thương lái mua chanh cho biết, giá giảm mạnh như hiện nay là do trước đây chanh thường xuất khẩu sang Trung Quốc và các nước khác. Còn hiện nay các thị trường này không thu mua, nên chỉ tiêu thụ nội địa, trong khi đó thời tiết mưa nhiều, nhiệt độ thấp nên người tiêu dùng hạn chế mua chanh.

LÊ ĐĨNH - PHÚ HỮU

Thương hiệu và thị trường tiêu thụ cho quýt Bắc Kạn

Nguồn tin: Báo Bắc Kạn

Kinh tế nông - lâm nghiệp Bắc Kạn đang trong quá trình đẩy mạnh tái cơ cấu, tập trung đầu tư liên doanh, liên kết phát triển sản xuất hàng hóa, tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường. Để phát triển bền vững, hiệu quả cao, nông - lâm nghiệp Bắc Kạn cần phải chú trọng xây dưng thương hiệu hàng hóa, tìm thị trường tiêu thụ ổn định.

Diện tích cây cam, quýt toàn tỉnh hiện có gần 2.500ha, cho sản lượng quả khá lớn, trên 10.000 tấn mỗi năm.

Nỗi niềm người trồng quýt

Trung tuần tháng 10 đến tháng 11 âm lịch là thời điểm vùng quýt Quang Thuận, Đôn Phong, Dương Phong (Bạch Thông) bước vào thu hoạch rộ nhất. Theo đánh giá của người dân và thương lái, năm nay sản lượng quýt giảm, giá thấp và tiêu thụ châm hơn so với mọi năm.

Anh Lưu Hùng Cường, một thương lái đã gắn bó với nghề mua bán quýt ở Bắc Kạn từ những năm 1997 cho biết: Nếu như năm ngoái, mỗi ngày gia đình tiêu thụ được 2-3 tấn quả, chủ yếu lên Cao Bằng và về Thái Nguyên, thì năm nay có ngày chỉ tiêu thụ được vài tạ. Nguyên nhân do quýt của Trung Quốc tràn sang Việt Nam rất nhiều, đúng vào thời điểm này, giá lại rẻ và ngọt hơn. Ở Cao Bằng người dân cũng bắt đầu phát triển cây quýt nên nhu cầu tiêu thụ ở đây giảm hẳn. Giá thu mua năm nay dao động từ 5.000 đến 9.000 đồng/kg quả.

Người dân chủ yếu tiêu thụ quýt qua các thương lái, chứ chưa ký kết được hợp đồng được với bất cứ đơn vị đầu mối nào

Hai vợ chồng chị Trịnh Thị Thảo và anh Nguyễn Văn Thành ở tổ 19 phường Sông Cầu (thành phố Bắc Kạn) làm nghề thu mua quýt hơn 10 năm nay cho biết: Trung bình mỗi vụ, anh chị mua của bà con khoảng 200 tấn quýt để xuất bán đi các nơi. Có 2 hình thức thu mua đó là mua cả vườn từ lúc quả non và mua tại nhà bà con đem đến. Quýt thua mua về sẽ được phân ra từng loại theo cỡ quả, Năm nay loại quả to 4 quả/kg chiếm tỷ lệ chưa đến 10%, giá cao nhất khoảng 14.000 đến 15.000 đồng/kg; loại 2 khoảng 8 quả/kg, chiếm 50%, giá trung bình 8.000 đến 9.000 đồng/kg; loại bé từ 12 đến 14 quả/kg hay còn gọi là quýt bi, giá chỉ 5.000 đồng/kg, chiếm tới 40%.

Trên tuyến tỉnh lộ qua các xã Quang Thuận, Dương Phong có khoảng 20 điểm thu mua quýt. Tư thương thu gom mang đi tiêu thụ chủ yếu ở các tỉnh lân cận, chứ chưa đến được các thị trường lớn như Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng. Không có thương hiệu nên cũng phần nào quý Bắc Kạn giá thấp. Trong khi đó cam Cao Phong, quýt Đường Canh có giá gấp 3, 4 lần. Diện tích quýt Bắc Kạn hiện nay có khoảng gần 2.500ha, sản lượng khoảng trên 10.000 tấn/năm, đã lâm vào cảnh tiêu thụ chật vật.

Chị Đặng Thị Phương, thôn Vằng Bó, xã Đôn Phong cho biết: 2 vợ chồng chị hái quýt từ sáng sớm, chở bằng xe máy 15km đường rất khó đi để ra tỉnh lộ bán quýt. Nhưng hôm nay ít xe ô tô đến mua, tư thương trả giá thấp, chị mới bán một sọt 40kg giá 8.000 đồng/kg, còn 3 sọt vẫn chờ xem có người trả giá cao hơn mới bán. Trồng quýt cách đây 20 năm, nay gia đình chị có khoảng 600 cây. Năm ngoái thu được 10 tấn, giá trung bình 10.000 đồng/kg. Năm nay mất mùa chỉ được khoảng 5 tấn mà giá lại thấp hơn, chỉ 7.000 đến 8.000 đồng/kg. Cả vụ may ra được khoảng 40 triệu đồng, chưa trừ chi phí.

Chị Đặng Thị Phương ở thôn Vằng Bó xã Đôn Phong, Bạch Thông vẫn đang chờ thương lái đến mua quýt.

Thế nhưng những vườn quýt lớn như hộ ông Lưu Chấn Thụ ở thôn Nà Thoi; Cao Xuân Lãng ở thôn Khuổi Piểu, xã Quang Thuận (Bạch Thông), do áp dụng đầu tư thâm canh theo hướng VietGap nên chất lượng quả cao, lúc nào cũng được giá, tiêu thụ tốt không lo ế. Ông Lưu Chấn Thụ cho biết năm nay do ảnh hưởng của thời tiết nên sản lượng quả giảm khoảng 20 tấn. Với 3.000 gốc quýt, trừ chi phí gia đình thu về khoảng 500 triệu đồng mỗi năm.

Vì sao quýt Bắc Kạn khó tiêu thụ?

Nếu như các sản phẩm cây ăn quả có múi như cam Cao Phong Hoà Bình, cam quýt Văn Chấn Yên Bái; cam Hà Giang, Tuyên Quang diện tích, sản lượng lớn gấp nhiều lần so với Bắc Kạn nhưng sản phẩm tiêu thụ rất tốt, giá thành cao thì sản phẩm quýt Bắc Kạn vẫn ở mức giá bình quân không quá 10.000 đồng/kg trong nhiều năm qua. Anh Ma Ngọc Vị- người trồng quýt ở thôn Nà Thoi, xã Quang Thuận cho biết nếu giá nâng lên khoảng 12.000 đồng/kg thì người dân mới có lãi. Ngay cả thương lái cũng công nhận quýt Bắc Kạn rẻ, muốn nâng giá cho bà con nhưng không tự điều chỉnh được vì phụ thuộc vào đầu mối tiêu thụ. Đối tượng tiêu thụ quýt chủ yếu vẫn là người dân có thu nhập trung bình, bán lẻ ở các chợ huyện, chợ xã chưa vươn tới thị trường lớn, đưa vào được hệ thống siêu thị thì không thể nâng giá cao được.

Theo anh Nguyễn Văn Thành, chủ cơ sở thu mua quýt mặc dù anh cũng cất công đi tìm thị trường cho quýt của bà con, nhưng ở Hà Nội người tiêu dùng chưa quen ăn quýt có vị chua, mà thích quýt ngọt hơn. Thực tế có một số bà con tham giá cao đầu vụ nên dù quả xanh cũng hái, vị còn rất chua. Điều này cũng gây ảnh hưởng đến danh tiếng của quả quýt Bắc Kạn. Quýt ngon nhất phải được thu hoạch vào tháng 11 âm, khi đó đã chín vàng, đủ độ ngọt, vị chua giảm đi.

Dù đã có chỉ dẫn địa lý, nhưng quýt Bắc Kạn vẫn chưa được nhiều người biết tới. Điều đó chứng tỏ công tác quảng bá của tỉnh đối với các sản phẩm nông nghiệp nói chung và quả quýt nói riêng còn rất hạn chế. Mặc dù tỉnh đã xây dựng chỉ dẫn địa lý cho quả quýt nhưng trên thực tế thương hiệu còn rất mờ nhạt. Trong thời gian qua các sở, ngành cũng đã nỗ lực đưa các sản phẩm nông nghiệp trong đó có quả quýt đi trưng bày, giới thiệu sản phẩm ở các hội chợ, tuy nhiên đó mới chỉ là một trong những cách quảng bá. Người tiêu dùng muốn mua cũng không biết mua ở đâu, vì quýt Bắc Kạn chưa đưa được vào hệ thống siêu thị ở Hà Nội cũng như các trung tâm thương mại lớn. Nguyên do bởi thiếu những điều kiện cần thiết từ chứng nhận an toàn vệ sinh thực phẩm đến mẫu mã, chất lượng, hệ thống phân phối chuyên nghiệp… Tỉnh chưa xây dựng chiến lược quảng bá mạnh cho sản phẩm nông nghiệp, ví dụ như tổ chức các lễ hội cam Cao Phong ở Hoà Bình, cam quýt Văn Chấn Yên Bái trong thời gian qua. Ngay một tỉnh miền núi như Yên Bái, mấy năm gần đây cây ăn quả có múi phát triển rất mạnh, do tỉnh có chiến lược đầu tư khuyến khích phát triển và đặc biệt chú trọng đến khâu quảng bá, tìm thị trường tiêu thụ.

Hiện nay tỉnh Bắc Kạn chưa có một doanh nghiệp, HTX nào đứng ra liên doanh liên kết tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm quýt cho bà con. Về vấn đề thành lập HTX, hiện nay nhiều hộ dân trồng quýt với diện tích lớn cũng rất muốn tham gia, tuy nhiên cái khó ở đây là khi trình độ sản xuất của bà con trồng quýt đa số còn thấp, chủ yếu vẫn duy trì thói quen trồng nhưng ít bỏ công đầu tư chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, đến mùa thì thu hoạch. Chất lượng không cao, quả chua, mẫu mã xấu, nhỏ thì không thể phát triển được thương hiệu đưa vào thị trường lớn được. Chính vì nguyên nhân đó mà chương trình hướng dẫn người dân sản xuất quýt theo hướng VietGap được ngành Nông nghiệp triển khai chỉ dừng lại ở mô hình, việc nhân rộng rất khó, đa số bà con kêu khó không áp dụng được...Như vậy, nếu không được tổ chức sản xuất lại, áp dụng quy trình kỹ thuật nâng cao chất lượng, củng cố thương hiệu thì quýt Bắc Kạn có nguy cơ ngày càng khó tiêu thụ, giá kéo xuống thấp.

Phương Thảo

TX Bình Minh (Vĩnh Long): Nông dân tích cực chăm sóc bưởi Năm Roi đón tết

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Trong những ngày này, bà con nông dân TX Bình Minh (Vĩnh Long) đang tích cực chăm sóc các vườn bưởi Năm Roi nhằm tạo ra sản phẩm có kích cỡ đồng đều, mẫu mã đẹp để cung ứng cho thị trường Tết Nguyên đán Đinh Dậu 2017.

TX Bình Minh hiện có gần 2.000ha bưởi Năm Roi được nông dân trồng chuyên canh ở xã Mỹ Hòa và trồng nhiều ở các xã Đông Thành, Đông Bình, Thuận An; chiếm khoảng 70% diện tích vườn của toàn thị xã, trong đó diện tích đang cho trái trên 1.800ha.

Bưởi Năm Roi cho trái quanh năm nhưng để có sản lượng nhiều, mẫu mã đẹp bán được giá cao thì các nhà vườn phải xới đất xung quanh gốc, bón phân, tưới nước cho cây ra bông rộ vào tháng 5, tháng 6 âm lịch để thu hoạch trái tập trung dịp Tết Nguyên đán.

Hiện TX Bình Minh có 18 đầu mối tiêu thụ bưởi Năm Roi cung cấp cho các chợ đầu mối và siêu thị ở TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ và xuất khẩu ra nước ngoài.

Hàng năm, các nhà vườn trồng bưởi Năm Roi ở TX Bình Minh cho ra thị trường từ 35.000 - 40.000 tấn bưởi, trong đó riêng mùa bưởi tết khoảng 9.000 - 10.000 tấn.

Do giá bưởi Năm Roi trong những năm gần đây ở mức khá cao, nông dân có thu nhập ổn định nên trong năm 2016 bà con nông dân TX Bình Minh đã cải tạo diện tích vườn già cỗi và mạnh dạn chuyển đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng bưởi được 45ha.

HOÀNG MINH (TX Bình Minh)

Hiếu Giang tổng hợp

 

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop