Tin nông nghiệp ngày 08 tháng 8 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 08 tháng 8 năm 2019

Xây dựng chỉ dẫn địa lý cho nông sản

Nguồn tin:  Báo Nhân Dân

Chỉ dẫn địa lý (CDĐL) là thông tin về nguồn gốc của hàng hóa từ một quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương mà hàng hóa được sản xuất ra từ đó. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đối với các mặt hàng nông sản, CDĐL trở thành công cụ hữu hiệu để bảo hộ các sản phẩm đặc sản, thúc đẩy tổ chức sản xuất, quản lý chất lượng và mở rộng thương mại. Chính vì vậy, đẩy mạnh xây dựng và khai thác hiệu quả CDĐL nông sản là yêu cầu cấp bách với nền nông nghiệp nước ta hiện nay.

Người dân huyện Cao Phong (Hòa Bình) hưởng lợi khi cây cam được chỉ dẫn địa lý.Ảnh: HỒNG DUYÊN

Bài 1 : Gia tăng giá trị từ chỉ dẫn địa lý

Tính đến tháng 5-2019, Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã bảo hộ CDĐL cho 63 sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam. Nhờ có CDĐL, giá trị và giá bán của các sản phẩm đều tăng đáng kể. Đồng thời đây cũng là cơ sở giúp các địa phương hình thành các tổ chức tập thể như hội, hiệp hội, đại diện doanh nghiệp, hộ sản xuất, kinh doanh nhằm tham gia tích cực vào sản xuất nông sản.

Hiệu quả từ những sản phẩm “biết mặt đặt tên”

Năm 2014, cam Cao Phong (tỉnh Hòa Bình) được cấp CDĐL, là dấu mốc quan trọng và là bước ngoặt mang tính chiến lược để tiếp tục xây dựng và phát triển thương hiệu. Từ chỗ chỉ là sản phẩm nông sản địa phương ít người biết, đến nay cam Cao Phong đã có tiếng ở nhiều vùng, miền. Thị trường cam đang được mở rộng tại miền bắc và vươn tới các tỉnh phía nam. Đáng chú ý, kênh tiêu thụ sản phẩm cam ngày càng đa dạng và chuyên nghiệp với những doanh nghiệp lớn tham gia ký hợp đồng tiêu thụ. Từ khi được cấp CDĐL, giá cam Cao Phong đã tăng từ 15.000 đồng/kg lên 25 đến 30.000 đồng/kg. CDĐL mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người trồng cam cũng kéo theo diện tích trồng cam ngày càng tăng thêm. Anh Bùi Cảnh Hưng (huyện Cao Phong) chia sẻ: “Từ khi cam được cấp CDĐL, người trồng cam được hưởng lợi rất nhiều. Hiện nay, gia đình tôi trồng 5 ha cam, lợi nhuận khoảng hai tỷ đồng/năm. Cam có CDĐL, sản xuất ra bao nhiêu tiêu thụ hết bấy nhiêu. Cứ đến mùa cam chín, thương lái, doanh nghiệp tấp nập đến mua với mức giá cao”.

Từ năm 2011, nước mắm Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang) đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp văn bằng quốc gia bảo hộ CDĐL. Đây là một trong những sản phẩm có lịch sử lâu đời, là niềm tự hào của người dân Phú Quốc. Từ khi được cấp CDĐL, nước mắm Phú Quốc đã nhanh chóng vươn ra khắp dải đất Việt Nam và nhiều thị trường thế giới. CDĐL không chỉ mang đến giá bán ổn định, thương hiệu cho nước mắm Phú Quốc mà còn là tiền đề để sản phẩm này được công nhận trên phạm vi quốc tế. Năm 2012, nước mắm Phú Quốc được Ủy ban châu Âu cấp văn bằng bảo hộ tên gọi xuất xứ địa lý, là sản phẩm đầu tiên của Việt Nam được bảo hộ trên thị trường của các nước thuộc Liên hiệp châu Âu. Có thể khẳng định, đây là một trong ít những sản phẩm phát huy tốt nhất và mạnh nhất “hiệu ứng” của CDĐL, trở thành thương hiệu sắc nét của ngành nông nghiệp Việt Nam.

Mới đây, hành tím Vĩnh Châu (thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng) đã được đăng ký CDĐL. Vĩnh Châu vốn được biết đến là “thủ phủ” của hành tím cả nước. Tuy nhiên, liên tiếp những năm qua, sản phẩm này long đong trên thị trường với giá bán trồi sụt thất thường. Năm 2015, một cuộc “giải cứu” hành tím đã diễn ra khi Vĩnh Châu có khoảng hơn 50.000 tấn hành thương phẩm tồn đọng tại các doanh nghiệp, cơ sở thu mua và các hộ dân. Số lượng này chiếm đến hơn một nửa sản lượng của cả niên vụ. Hành tím ế ẩm, chất thành đống tại các hộ gia đình, giá thu mua ở mức quá thấp do các cơ sở thu mua không tìm được đầu ra, khiến người trồng hành thua lỗ nặng. Chính vì vậy, CDĐL đang trở thành niềm hy vọng cho hành tím Vĩnh Châu ổn định sản xuất và giá cả. Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Sóc Trăng Nguyễn Thành Phước chia sẻ: “Hành tím Vĩnh Châu được cấp CDĐL chắc chắn sẽ đưa tên tuổi của sản phẩm này đến được nhiều hơn với người tiêu dùng trên cả nước, từ đó có thể mở rộng thị trường tiêu thụ, ổn định giá bán. Khi đã có tên tuổi thì không chỉ phát triển ở thị trường trong nước mà còn có cơ hội xuất khẩu sang một số nước lân cận. Đây cũng là cơ sở quan trọng để địa phương quy hoạch lại vùng trồng cũng như áp dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, hình thành những vùng trồng đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP”.

Đa dạng hóa sản phẩm có CDĐL

CDĐL đang mở ra thêm nhiều cơ hội cho việc tiêu thụ hàng hóa nông sản cũng như nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay, số sản phẩm có CDĐL chưa nhiều, mới chỉ có 63 CDĐL, bao gồm 28 CDĐL là các sản phẩm hoa quả, 17 CDĐL bảo hộ các sản phẩm từ cây công nghiệp, lâm nghiệp, còn lại là các sản phẩm thủy sản, gạo...

Trong khi đó, cả nước hiện có hơn 1.000 sản phẩm đặc sản, bao gồm các sản phẩm nông nghiệp, thủy sản và lâm nghiệp. Ngoài ra, khu vực nông thôn còn có gần 5.400 làng nghề và làng có nghề sản xuất ra các loại sản phẩm truyền thống khác nhau. Đây là tiềm năng lớn cho việc khai thác CDĐL, mang lại giá trị cao hơn cho hàng hóa. Đơn cử sản phẩm xoài Cao Lãnh (tỉnh Đồng Tháp) đã có tiếng từ lâu đời nhưng cho đến thời điểm này mới chỉ có chứng nhận nhãn hiệu tập thể chứ chưa được cấp CDĐL. Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cao Lãnh, Huỳnh Thanh Sơn cho biết: Hiện, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh đang phối hợp các đơn vị liên quan hoàn thành hồ sơ thủ tục đăng ký CDĐL. Những năm gần đây, nhiều lô xoài của Cao Lãnh đã được xuất khẩu ra nước ngoài cho nên việc chậm đăng ký CDĐL cũng ít nhiều hạn chế năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Theo dự kiến, cuối năm 2019 sẽ hoàn thành việc đăng ký CDĐL, hy vọng mở ra nhiều cánh cửa mới cho xuất khẩu sản phẩm xoài chất lượng cao.

Cũng như xoài Cao Lãnh, cam sành Hàm Yên (tỉnh Tuyên Quang) được biết đến rộng rãi nhưng hiện vẫn chưa có CDĐL. Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Hàm Yên Đàm Ngọc Hưng chia sẻ: Hiện toàn huyện có khoảng 7.000 ha cam, chủ yếu tiêu thụ trong tỉnh và một phần bán ra thị trường phía bắc với giá thấp dẫn đến hiệu quả kinh tế không cao. Nếu có CDĐL chắc chắn sẽ góp phần quan trọng mở rộng thị trường cho cam sành Hàm Yên. Khi đó cũng tạo tiền đề cho việc quy hoạch lại vùng trồng trên cơ sở áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và xây dựng hệ thống kiểm soát chất lượng toàn diện.

Bên cạnh thực tế sản phẩm nông sản có CDĐL còn ít, thì còn xảy ra hiện tượng những sản phẩm đã có CDĐL nhưng khai thác không hiệu quả, gây lãng phí lớn về xây dựng thương hiệu cũng như giá trị kinh tế. Theo Trung tâm Hợp tác quốc tế nghiên cứu nông nghiệp vì sự phát triển - CIRAD (Pháp), hiện nước ta có tới 50% số lượng CDĐL chưa được quản lý, khai thác thật sự hiệu quả. Cụ thể, CDĐL quế Hưng Yên hay trà Mộc Châu được giao cho các hiệp hội quản lý nhưng việc tuyên truyền, khai thác chưa tập trung. Thậm chí nhiều nhà sản xuất tại địa phương được bảo hộ CDĐL cũng không biết mình có quyền được sử dụng CDĐL cho sản phẩm, khiến hình ảnh sản phẩm ít được quảng bá và khó mở rộng thị trường tiêu thụ. Cá biệt, có những trường hợp chính quyền tỉnh thực hiện đăng ký CDĐL xong, giao cho địa phương quản lý, khai thác nhưng địa phương cũng không có chiến lược sử dụng hiệu quả, dẫn đến tình trạng đăng ký xong để đó khiến việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm không có bất kỳ sự thay đổi tích cực nào.

Có thể thấy, nguồn lợi từ CDĐL mang lại cho sản xuất và xuất khẩu nông sản rất lớn. Thực trạng nước ta còn nhiều nông sản có giá trị cao cả về mặt xuất xứ và chất lượng nhưng vẫn chưa được quan tâm xây dựng CDĐL đang tạo ra sự lãng phí đáng kể trong sản xuất nông nghiệp, cần sớm có sự thay đổi và điều chỉnh hiệu quả...

CDĐL không chỉ mang đến ý nghĩa về xuất xứ hàng hóa, mà quan trọng hơn, nó mang lại giá trị gia tăng cho nhà sản xuất; giúp doanh nghiệp và địa phương chống hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng; quảng bá sản phẩm địa phương, thu hút khách du lịch; giúp bảo vệ, gìn giữ những nét văn hóa truyền thống. Một số địa phương đã triển khai công tác quản lý và sử dụng CDĐL rất tốt có thể kể đến là Kiên Giang (nước mắm Phú Quốc), Hòa Bình (cam Cao Phong), Hà Giang (mật ong bạc hà Đồng Văn)... Về giá trị, sau khi được bảo hộ CDĐL, cam Cao Phong có giá bán tăng gấp hai lần, chuối ngự Đại Hoàng tăng 100 đến 130%, bưởi Phúc Trạch tăng 10 đến 15%, đáng chú ý, bưởi Luận Văn giá bán tăng lên 3,5 lần so với trước khi được bảo hộ…

(Còn nữa)

ÁNH TUYẾT, HOÀNG HÙNG, TRẦN HẢO

Bạc Liêu: Liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản: Tín hiệu vui cho nông dân

Nguồn tin:  Báo Bạc Liêu

Gần đây, nhiều địa phương trong tỉnh đã tăng cường vận động nông dân thành lập các tổ hợp tác (THT), hợp tác xã (HTX) và kêu gọi các doanh nghiệp ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm cho nông dân. Theo đó, nhiều mô hình liên kết sản xuất tôm, lúa được doanh nghiệp bao tiêu, từng bước hạn chế tình trạng nông dân trúng mùa rớt giá. Tuy sản lượng bao tiêu chưa nhiều, nhưng đây vẫn là tín hiệu vui cho nông dân.

Doanh nghiệp bao tiêu tôm (ảnh trái) và lúa cho nông dân huyện Vĩnh Lợi. Ảnh: M.Đ

Trước đây, nông dân trong tỉnh tự tìm đầu ra tiêu thụ các mặt hàng nông sản. Đây là nguyên nhân chính để các thương lái ép giá khi đến mùa thu hoạch rộ. Gần đây, tỉnh đã chủ trương hình thành chuỗi liên kết trong sản xuất để bao tiêu nông sản cho nông dân, từng bước tháo gỡ khó khăn về đầu ra, điển hình là xây dựng cánh đồng lúa lớn.

Đến nay, toàn tỉnh có 23 cánh đồng lớn với diện tích canh tác 11.643ha. Vụ lúa hè thu 2019, toàn tỉnh có 16.249ha lúa được bao tiêu. Các đơn vị liên kết sản xuất và bao tiêu gồm: HTX Quyết Tiến, Công ty Cổ phần vật tư nông nghiệp Bạc Liêu, HTX Vĩnh Cường (huyện Hòa Bình), HTX Chí Phải…

Nổi bật là HTX Vĩnh Cường, hàng năm, bao tiêu khoảng 13.000ha lúa với hơn 300.000 tấn lúa (sản lượng của 3 vụ lúa) cho nông dân ở các huyện: Hòa Bình, Vĩnh Lợi, Phước Long và TX. Giá Rai. Ngoài ra, các THT, HTX ký kết sản xuất lúa nguyên chủng, lúa cấp xác nhận cho Trung tâm Giống nông nghiệp tỉnh cũng được doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm.

Ở lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, nhất là con tôm, cũng được liên kết sản xuất từ khâu đầu vào đến bao tiêu sản phẩm. Đơn cử như mô hình liên kết giữa Công ty TNHH MTV Chế biến thủy hải sản xuất nhập khẩu Thiên Phú (Công ty Thiên Phú) với HTX Đồng Tiến và THT Tiền Phong (nuôi tôm sú quảng canh cải tiến theo tiêu chuẩn Global Gap/ASC) bao tiêu 412,50ha tôm nuôi cho 237 hộ ở xã Định Thành (huyện Đông Hải). Công ty Thiên Phú cũng đã ký kết với THT nuôi trồng thủy sản Long Điền Đông (xã Long Điền Đông, huyện Đông Hải) với mô hình tôm - rừng và bao tiêu 496ha tôm nuôi của 95 hộ (vùng nuôi đã được công nhận tiêu chuẩn Organic). Tôm thương phẩm được Công ty Thiên Phú bao tiêu (tùy theo từng loại) có giá cao hơn so với giá thị trường từ 15.000 - 30.000 đồng/kg.

Ngoài ra, Công ty Tôm miền Nam ký kết với HTX nuôi tôm Thành Đạt (xã Long Điền, huyện Đông Hải), THT Thành Công (xã Phong Thạnh A, TX. Giá Rai) nuôi tôm sú quảng canh cải tiến theo tiêu chuẩn ASC. Tổng diện tích bao tiêu là 146ha gồm 80 hộ, sản lượng bao tiêu hơn 100 tấn tôm.

Việc bao tiêu sản phẩm mang lại sự yên tâm cho người nuôi tôm, nhất là trong thời điểm giá tôm xuống thấp. Tuy nhiên, diện tích và sản lượng tôm, lúa trên địa bàn tỉnh được bao tiêu còn rất thấp. Vì vậy, tỉnh đã đẩy mạnh kêu gọi doanh nghiệp tham gia chuỗi liên kết bao tiêu nông sản.

Hiện nay, Sở NN&PTNT tiếp tục chỉ đạo phát triển chuỗi giá trị lúa, tôm, heo... để gắn kết giữa sản xuất với chế biến, tiêu thụ nông sản, nâng cao vai trò của doanh nghiệp đối với phát triển theo chuỗi giá trị. Tổ chức lại sản xuất theo hướng hợp tác, liên kết giữa nông dân với nông dân, giữa THT, HTX với doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu (cả đầu vào và đầu ra). Hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện các quy định và điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm trong chế biến nông, lâm, thủy sản và muối; tham gia chuỗi sản xuất với mô hình liên kết cộng đồng và thực hiện truy xuất nguồn gốc cho các nhà máy chế biến trên địa bàn tỉnh. Hỗ trợ các doanh nghiệp liên kết sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm trồng trọt; tạo điều kiện thuận lợi, giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản; tham gia thực hiện các phương án hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững mối quan hệ với các đối tác đã được thiết lập; đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu…

MINH ĐẠT

Thừa Thiên Huế: Hồ thủy lợi trơ đáy, gần 3.000 ha lúa, hoa màu thiếu nước trầm trọng

Nguồn tin:  Báo Thừa Thiên Huế

Bốn tháng nắng nóng kéo dài, không mưa, khiến mực nước nhiều hồ thủy lợi trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế xuống thấp, hiện có hồ thậm chí đã cạn trơ đáy.

Toàn cảnh hồ Hòa Mỹ

Trong khi hồ khe Lời (xã Thủy Phù – thị xã Hương Thủy) ngấp nghé mực nước chết khiến chính quyền phải cân đối nước để tưới cho 2 cánh đồng của xã diện tích hơn 630ha thì đã 2 tháng qua, hồ thủy lợi Sơn Thọ (xã Hương Thọ - thị xã Hương Trà) rộng hơn 28ha, phục vụ tưới tiêu cho 80 ha lúa, rau màu đã không còn nước, lòng hồ trở thành một sân bóng rộng mênh mông, bò có thể ung dung xuống lòng hồ gặm cỏ.

Theo ông Nguyễn Văn Quý, Chủ tịch UBND xã Hương Thọ, hồ thủy lợi Sơn Thọ cạn khô khiến hơn 20ha lúa vụ hè thu trên địa bàn bị thiếu nước tưới khiến nhiều người dân trên địa bàn phải thuê máy múc đào ao lấy nước. “Có một số người thuê máy múc đào mương lấy nước song không hiệu quả”, ông Quý nói.

Tình hình có đỡ hơn, nhưng ở hồ thủy lợi Thọ Sơn (phường Hương Xuân – thị xã Hương Trà) có dung tích 6 triệu m3, tưới tiêu cho hơn 300ha lúa, hoa màu của các phường Hương Chữ, Hương Xuân, Hương An cũng ngấp nghé tình trạng khô kiệt nước nếu nắng nóng tiếp tục kéo dài.

Còn ở hồ Hòa Mỹ (xã Phong Mỹ - huyện Phong Điền), hàng năm phục vụ tưới tiêu hơn 300 ha lúa của các xã: Phong Mỹ, Phong Xuân cũng đang rơi vào tình trạng trơ đáy.

Theo BCH Phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tỉnh, hiện nhiều hồ thủy lợi trên địa bàn đang ở mực nước chết, nhiều diện tích lúa thiếu nước tưới. Hiện nay, có khoảng 867 ha lúa, hoa màu bị hạn nặng tập trung ở huyện Phong Điền và A Lưới, còn diện tích có nguy cơ hạn, thiếu nước là gần 1.900 ha.

Hình ảnh một số hồ ngấp nghé mực nước chết và trơ đáy trên địa bàn tỉnh:

Dù chưa trơ đáy nhưng mực nước hồ Thọ Sơn (phường Hương Xuân – thị xã Hương Trà) xuống sâu, ngấp nghé mực nước chết

Hàng cọc đo mực nước nhô lên khỏi lòng hồ khá cao

Hạn nặng, lòng hồ nứt nẻ, bùn bong tróc từng miếng to

Hồ Hòa Mỹ (xã Phong Mỹ - huyện Phong Điền) đã cạn, trơ lên từng ụ đất to

Những chiếc thuyền từng là phương tiện di chuyển trên hồ giờ vô tác dụng, nằm chỏng chơ

Cá lớn, cá bé không tránh khỏi số phận khi nước hồ cạn kiệt

Cuộc "đào thoát" bất thành của một bầy cá xấu số ở hồ Hòa Mỹ

Nước cạn, cá chết, bè canh cá không một bóng người

Hồ A Lá (xã A Ngo - huyện A Lưới) cũng cùng chung số phận

Trong số các hồ nói trên, hồ Sơn Thọ (xã Hương Thọ - thị xã Hương Trà) có thể thả bò và đá bóng ở lòng hồ

Hàn Đăng (thực hiện)

Khởi nghiệp Nông nghiệp - Chọn hướng để thành công - Hiện thực hóa giấc mơ cùng nông dân làm giàu

Nguồn tin:  Báo Vĩnh Long

 

Từ 15 thành viên với 11,5ha, sau 2 năm thành lập, hiện HTX Sản xuất- Dịch vụ nông nghiệp Tấn Đạt đã tăng lên 65 thành viên với hàng trăm hecta lúa an toàn, hữu cơ.

Đam mê, kiên trì trên hành trình triển khai ý tưởng, dự án khởi nghiệp từ nông nghiệp, nhiều người trong số đó không chỉ đã làm giàu cho mình mà còn lan tỏa phương thức làm ăn hiệu quả cho cộng đồng.

Họ chia sẻ, noi theo lời Bác: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm”, nên dốc sức cùng địa phương giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho nông dân, thực hiện các tiêu chí “mềm” trong xây dựng nông thôn mới…

Đưa nông dân vào sản xuất lớn

Từ 3 công ruộng, vợ chồng chị Lê Thị Nga và anh Đoàn Văn Tài ở ấp Kinh (xã Trung Ngãi- Vũng Liêm) mạnh dạn thử nghiệm sản xuất lúa an toàn, lúa hữu cơ và nghiên cứu nâng cao giá trị hạt lúa sau thu hoạch…

Đến nay, anh chị đã có trong tay 3ha ruộng và 1ha vườn. Bên cạnh, Hợp tác xã (HTX) Sản xuất- Dịch vụ nông nghiệp Tấn Đạt do anh làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc từ 15 thành viên/11,5ha hiện đã tăng lên 65 thành viên với hơn 62ha chuyên sản xuất lúa giống, lúa an toàn, lúa hữu cơ.

Ngoài ra, HTX còn liên kết với nông dân hơn 400ha. Phần lớn sản phẩm được bao tiêu và hiện ở TP Hồ Chí Minh, các tỉnh- thành ĐBSCL đều có đại lý. Riêng trà gạo lứt cung cấp ra thị trường khoảng 400 kg/tháng với giá 100.000 đ/kg cho doanh thu 40 triệu đồng/tháng.

Để đưa xã Trung Ngãi về đích nông thôn mới, việc thực hiện tiêu chí 13 về tổ chức sản xuất là rất đáng quan tâm. Theo đó, xã phải có HTX, có mô hình liên kết gắn với tiêu thụ nông sản chủ lực đảm bảo bền vững.

Lúc bấy giờ, tổ hợp tác sản xuất lúa giống của vợ chồng anh Đoàn Văn Tài và chị Lê Thị Nga là một trong những tổ hợp tác làm ăn có hiệu quả của địa phương.

Tổ hợp tác đã thực hiện liên kết sản xuất lúa gắn với tiêu thụ theo chuỗi giá trị bằng cách đại diện nông dân ký hợp đồng với các công ty hoặc doanh nghiệp cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm cho dân. Năm 2017, tổ hợp tác sản xuất lúa giống đã chính thức chuyển lên thành HTX Sản xuất dịch vụ nông nghiệp Tấn Đạt.

Canh cánh nỗi lo khi “thấy làm lúa xịt phân, thuốc nhiều” nên khi việc trồng lúa hữu cơ “manh nha” ở các địa phương, năm 2011, anh chị tìm mua 2kg lúa tím ở tỉnh Thanh Hóa về trồng thử.

Đến nay, diện tích được mở rộng gần 1ha và ra mắt thêm sản phẩm trà gạo lứt. Anh Tài cho biết, để khẳng định chất lượng và đưa sản phẩm đi xa hơn, HTX đang đầu tư xây dựng nhà kho, máy xay xát hơn 2 tỷ đồng và đang làm giấy chứng nhận lúa hữu cơ đạt chuẩn Châu Âu.

Bên cạnh được bao tiêu, sản phẩm của HTX Tấn Đạt có mặt TP Hồ Chí Minh và các tỉnh- thành ĐBSCL qua các đại lý.

Bà Đặng Thị Mỹ Tiên- chuyên viên Quản lý kinh tế tập thể, Phòng Tài chính Kế hoạch huyện Vũng Liêm- cho biết: HTX Tấn Đạt là một trong những HTX làm ăn có hiệu quả nhất, được chọn làm điểm để chỉ đạo nhân rộng mô hình.

Cũng bắt tay từ khởi nghiệp nông nghiệp rồi thành lập HTX, Nguyễn Văn Thảo (sinh năm 1990, ở Thuận Thới- Trà Ôn) đã góp phần cùng địa phương xây NTM về tổ chức sản xuất. HTX Nông nghiệp Thuận Thới chuyên nuôi bò kết hợp nuôi trùn quế do anh Thảo là phó giám đốc, phụ trách kinh doanh và kỹ thuật được thành lập năm 2018 với 15 thành viên (nay là 18 thành viên).

Chia sẻ về lý do chuyển hướng thành lập HTX so dự định ban đầu là thành lập công ty, anh Nguyễn Văn Thảo nói: Hiểu được những vất vả của nghề nông nên tôi luôn trăn trở tìm cách giúp nông dân nâng cao thu nhập, làm giàu trên mảnh đất của mình.

Việc thành lập HTX là cách để giải quyết “bài toán” về tận dụng phế phẩm và tiến dần đến nông nghiệp hữu cơ. Hiện, bên cạnh hỗ trợ thành viên, HTX thu mua phân bò, hỗ trợ con giống trả chậm và thu mua thành phẩm, hỗ trợ sinh viên tới nghiên cứu, thực tập. Dự định trong năm nay sẽ xúc tiến mở rộng thị trường sang Campuchia.

Mở rộng cánh cửa cho khởi nghiệp nông nghiệp

Là đơn vị tổ chức thường niên cuộc thi khởi nghiệp vùng ĐBSCL, bà Huỳnh Thiên Trang- Phó Giám đốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) chi nhánh Cần Thơ- cho hay, những năm qua, số lượng các dự án tham gia thi chưa có tính mới chiếm hơn 90%, các dự án khởi nghiệp sáng tạo chưa đầy 10%.

Về phía Vĩnh Long, bà Huỳnh Thiên Trang cho rằng, việc tỉnh thành lập Hội đồng Tư vấn khởi nghiệp để tư vấn, hỗ trợ kịp thời cho chương trình khởi nghiệp của tỉnh rất cần thiết. Theo đó, có thể phối hợp với mạng lưới khởi nghiệp ĐBSCL để cùng thực hiện hoạt động khởi nghiệp của tỉnh.

Hiệu quả từ các ý tưởng, dự án khởi nghiệp góp phần nâng cao giá trị sản phẩm từ nông nghiệp.

Ông Trương Đặng Vĩnh Phúc- Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Kế hoạch- Đầu tư cho hay, cũng như nhiều địa phương khác, Vĩnh Long rất quan tâm, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện chương trình khởi nghiệp.

Tỉnh đã có những chủ trương, chính sách rộng mở đón nhận các ý tưởng mới và chương trình hành động cụ thể khuyến khích hoạt động khởi nghiệp sáng tạo. Năm 2016, UBND tỉnh đã ban hành Chương trình khởi nghiệp giai đoạn 2016- 2020.

Đồng thời, đã thành lập Hội đồng tư vấn khởi nghiệp; đã phê duyệt đề án thành lập Quỹ Hỗ trợ khởi nghiệp của tỉnh với vốn điều lệ khi thành lập là 10 tỷ đồng nhằm hỗ trợ nguồn vốn ban đầu. Đồng thời, tỉnh cũng ban hành đề án xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp nhằm tạo ra các hoạt động khởi nghiệp bài bản, thiết thực hơn và đón nhận nhiều hơn các ý tưởng, dự án khởi nghiệp.

Hàng năm, tỉnh đều xây dựng chương trình khởi nghiệp gắn với hoạt động đổi mới, sáng tạo trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp… để tạo ra những sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao cũng như thúc đẩy nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm….

Tuy còn nhiều khó khăn nhưng ông Trương Đặng Vĩnh Phúc khẳng định: Vĩnh Long đã, đang và sẽ tiếp tục mở rộng cánh cửa cho các hoạt động khởi nghiệp hình thành và được tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để phát triển.

Ông Nguyễn Tường Nam- Chủ tịch Hội Doanh nhân trẻ tỉnh- nhấn mạnh: Cần có những lực nâng từ phía cộng đồng doanh nghiệp và cơ quan nhà nước để không chỉ hỗ trợ mà là truyền cảm hứng, nuôi dưỡng niềm tin để người khởi nghiệp dấn thân sâu hơn vào thực hiện ý tưởng, dự án.

Theo đó, tỉnh cần quan tâm những ý tưởng, dự án khai thác tài nguyên bản địa, nguyên liệu tại địa phương trong đó chú trọng khai thác thế mạnh nông nghiệp. Ông cũng cho biết thêm, thời gian qua, các hội viên Hội Doanh nhân trẻ tỉnh đã hỗ trợ các doanh nghiệp và các bạn trẻ khởi nghiệp.

Theo đó, hội đã mở cửa hàng bán những sản phẩm đặc trưng địa phương, xây dựng website giới thiệu về các sản phẩm Vĩnh Long, về du lịch, văn hóa và con người Vĩnh Long,…

“Hiện làm ra sản phẩm không quá khó nhưng làm sao đưa được những sản phẩm đó ra thị trường, cách thức thương mại như thế nào- đó mới là chuyện quan trọng”- ông Nguyễn Tường Nam nói.

Riêng về khởi nghiệp nông nghiệp, ông Nguyễn Văn Liêm- Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp- PTNT cho rằng, đối với ý tưởng khởi nghiệp lĩnh vực nông nghiệp không cần phải “quá cao siêu” nhưng cần có “yếu tố mới”.

Người khởi nghiệp có thể tận dụng đất đai, nhà xưởng, trang trại, ruộng rẫy của gia đình nhưng nên tiến thêm một bước, chẳng hạn như sơ chế, chế biến để nâng cao giá trị nông sản sau thu hoạch.

Ông cũng cho rằng, để có thêm ý tưởng, dự án khởi nghiệp nông nghiệp thành công, tỉnh cần mở rộng đối tượng tham gia, “xúc tiến” những ý tưởng, dự án từ người khởi nghiệp trong và ngoài tỉnh; tạo môi trường thuận lợi nhất để triển khai vào thực tế… Về phía người khởi nghiệp, cần am hiểu, nắm bắt nhu cầu thị trường, linh hoạt thay đổi chiến lược phù hợp.

Trong khi nông nghiệp là mảnh đất màu mỡ cho khởi nghiệp thì mở rộng cánh cửa khởi nghiệp cũng là mở cửa cho khởi nghiệp nông nghiệp chắp cánh.

Tuy nhiên, với thế mạnh nông nghiệp và số lượng ý tưởng, dự án khởi nghiệp nông nghiệp chiếm đa số, nên chăng, tỉnh cần có một “cơ chế đặc thù” cho hoạt động khởi nghiệp từ nông nghiệp nhằm “thu hút đầu tư” thật nhiều ý tưởng, dự án khởi nghiệp thành công. Qua đó, sẽ có thêm nhiều nông dân làm giàu ngay trên mảnh đất của mình, đưa sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển và hội nhập..

Khởi nghiệp nông nghiệp để làm giàu đẹp quê hương

“Tôi học ở Bác Hồ tinh thần dân tộc, đưa đất nước từ nô lệ giành lấy độc lập tự do, từ nghèo đói trở thành một nước đang phát triển như hiện nay… Là một người con của làng quê, tôi muốn làm giàu trên quê hương bằng chính suy nghĩ và lối đi riêng. Tôi cho rằng, lựa chọn khởi nghiệp- “đầu tư chất xám” nông nghiệp, mạnh dạn trở thành nông dân thời đại mới là cách để nâng cao chất lượng, giá trị nông sản, từ đó góp phần giúp quê hương thêm giàu đẹp”- anh Nguyễn Thanh Tân (Bình Hòa Phước - Long Hồ) nói.

Bài, ảnh: TUYẾT HIỀN - XUÂN TƯƠI

Thu nhập hàng trăm triệu đồng từ trồng bưởi da xanh

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Với 500 cây bưởi da xanh, hàng năm mang lại nguồn thu nhập hàng trăm triệu đồng cho gia đình hộ nông dân Trần Văn Yên (Thôn Trung Hậu, xã Ninh Loan, Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng).

Ông Trần Văn Yên bên vườn bưởi da xanh trĩu quả

Ông Trần Văn Yên (sinh năm 1953) kể, nếu không có lần thất bại lỗ vài tỷ đồng khi gà mắc cúm H5N1 vào năm 2003 thì có lẽ tới bây giờ ông vẫn còn gắn bó với trang trại gà. Sau thất bại đó, ông lại bắt tay vào nuôi bò, rồi lại nếm trải thêm một lần thất bại nữa. Khó khăn như thử lòng người, càng thất bại, ông càng quyết tâm phải đi lên và phải thành công trên chính mảnh đất của mình. Và, năm 2013, trong lúc còn đang loay hoay với bài toán trồng cây gì cho hiệu quả kinh tế cao thì ông Yên nhận được lời mời của một người bạn đi thăm các mô hình trồng cây ăn trái tại các tỉnh miền Tây. Sau khi thăm thú các mô hình, vì quá thích với những vườn cây ăn trái trĩu cành của vùng đất này, ông đã quyết định kéo dài lịch trình của chuyến đi, ở lại và đến tận nhà của Giám đốc Viện cây trồng Bến Tre để tìm hiểu thêm về đặc tính của các loại cây trồng. Cũng trong quá trình đi tham quan, học hỏi đó, ông nhận thấy, trồng bưởi da xanh rất có triển vọng nên ông đã đặt mua hơn 500 cây giống bưởi da xanh ở Viện Nghiên cứu cây trồng tỉnh Bến Tre để về trồng thử nghiệm. Chia sẻ về thời gian đầu khi bắt tay vào trồng bưởi da xanh, ông Yên cho biết, ông cũng gặp không ít khó khăn. Và để khắc phục những khó khăn này, một mặt, ông tìm về các tỉnh miền Tây thêm vài lần nữa, học hỏi từ chính những chủ vườn bưởi da xanh tại đây. Mặt khác, ông lại lên mạng tìm tòi, học hỏi, thấy cách làm nào hay, phù hợp với thổ nhưỡng của vùng đất Ninh Loan ông lại mày mò áp dụng.

Vừa dẫn chúng tôi đi một vòng trang trại, thỉnh thoảng lại với tay cắt những quả bưởi đã tới lúc thu hoạch, ông Yên hồ hởi nói: “Năm thứ 2 sau khi trồng, gặp thời tiết mưa nhiều, vì chưa biết cách xử lý như thế nào nên nhiều gốc bưởi đã bị úng nước, nguy cơ chết cao. Đến năm thứ 3, rút kinh nghiệm của năm trước, vào đầu mùa mưa, tôi tiến hành đào rãnh thoát nước cho cây, không để tình trạng ngập úng dưới gốc, nhờ đó mà cây bưởi đã phát triển bình thường trở lại và bắt đầu cho thu bói. Đất đã không phụ lòng người, cây bưởi da xanh dần bén duyên và cho trĩu quả. Hiện tại, với 500 cây bưởi da xanh, bình quân mỗi cây cho thu hoạch 40 trái/năm”.

Theo ông Trần Văn Yên, cũng như các loại cây ăn trái khác, trồng bưởi da xanh phải áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, nhất là các tiêu chuẩn VietGAP để cho ra sản phẩm sạch mới bán được giá cao. Trồng bưởi da xanh quan trọng nhất là đất. Mặt khác, muốn đạt hiệu quả cao khi trồng bưởi da xanh phải tuân thủ theo lịch trình bón phân, chăm sóc. Phải sử dụng phân bón hữu cơ sinh học, kết hợp bổ sung Ni tơ, phân Lân và Kali để cây tốt, trái đẹp hơn. Và vườn bưởi da xanh của ông Yên cũng được lắp đặt hệ thống tưới nước tự động khắp vườn nên giảm công lao động, tiết kiệm nước và cung cấp nước cho cây đủ đầy.

Do được áp dụng sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP nên vườn bưởi của ông cho năng suất cao, da và ruột trái bưởi có màu sắc đẹp, mỗi trái bưởi có khối lượng từ 1,5 kg trở lên, với giá bình quân là hơn 50 ngàn đồng/kg. Mỗi năm vườn bưởi đã mang lại nguồn thu nhập cho gia đình ông khoảng 250 triệu đồng.

Thị trường chủ yếu của loại quả này là Hà Nội, Sài Gòn và ngay tại Đức Trọng. Đặc biệt, từ lúc cho thu hoạch, lúc nào cũng ở trong tình trạng cung không đủ cầu nên năm đầu 2019, ông Yên quyết định trồng thêm 1.000 cây bưởi da xanh trên diện tích 4ha đất của gia đình. Và hiện, ngoài việc phát triển vườn bưởi da xanh cho hiệu quả kinh tế cao, ông Trần Văn Yên đang tiến hành trồng xen thêm cây sầu riêng và cây cam trên tổng diện tích 4 ha vườn nhà. Ông cho biết, việc trồng xen các loại cây ăn trái sẽ không ảnh hưởng đến việc hấp thụ chất dinh dưỡng của cây bưởi da xanh vì mỗi loại cây trồng đều có khoảng cách nhất định, mà còn làm tăng thu nhập cho gia đình.

Từ hiệu quả mô hình trồng bưởi da xanh của ông Trần Văn Yên cho thấy, việc phát huy tiềm năng cây bưởi da xanh không chỉ làm thay đổi tập quán sản xuất từ độc canh chuyển sang đa dạng cây trồng, mà còn giúp nâng cao thu nhập cho người nông dân, góp phần thúc đẩy tiến trình xây dựng nông thôn mới tại địa phương.

THY VŨ

Nâng tầm thương hiệu, phát triển bền vững Na Chi Lăng

Nguồn tin: Báo Công Thương

Đó là chủ đề của Ngày hội Na Chi Lăng lần thứ ba kết hợp Diễn đàn sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Na Chi Lăng và nông, đặc sản của tỉnh Lạng Sơn, sẽ diễn ra tại Lạng Sơn và Hà Nội từ ngày 11-21/8/2019.

Mục đích của Ngày hội Na Chi Lăng kết hợp Diễn đàn sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Na Chi Lăng và các nông đặc sản xủa tỉnh Lạng Sơn năm 2019 là nhằm tôn vinh các cá nhân, hộ gia đình, tập thể, hợp tác xã, các doanh nghiệp… tiêu biểu, xuất sắc, có nhiều đóng góp trong việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm na và các sản phẩm nông nghiệp theo tiêu chuẩn VietGAP. Bảo vệ và nâng cao uy tín, giữ vững thương hiệu Na Chi Lăng và các sản phẩm nông nghiệp địa phương khác đã được cấp nhãn hiệu sản phẩm thông qua các chương trình sản xuất sạch, an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, nông nghiệp hữu cơ… nhằm tạo ra sức lan tỏa rộng khắp trong nhận thức của người nông dân. Tăng giá trị kinh tế và thu nhập cho người nông dân trên một đơn vị diện tích canh tác, quảng bá, kết nối tiêu thụ na và các sản phẩm nông sản đặc trưng của tỉnh Lạng Sơn nói chung và huyện Chi Lăng nói riêng.

Hướng tới Ngày hội Na Chi Lăng 2019

Tại cuộc họp báo giới thiệu Ngày hội Na Chi Năng kết hợp Diễn đàn sản xuất, tiêu thụ na và các nông sản đặc trưng tỉnh Lạng Sơn, chiều ngày 5/8/2019, ông Đinh Hữu Học - Chủ tịch UBND huyện Chi Năng cho biết: Thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, huyện Chi Lăng đã xây dựng được một vùng trái cây, trong đó chủ lực là cây na và đã khẳng định được thương hiệu Na Chi Lăng trên thị trường trong nước và khu vực. Huyện Chi Lăng hiện có khoảng 1.600 ha trồng na, trong đó có khoảng hơn 200 ha đã được sản xuất theo qui trình VietGAP, tổng sản lượng năm 2019 ước đạt trên 16.000 tấn, giá trị kinh tế ước đạt trên 600 tỷ đồng, đảm bảo đời sống cho khoảng 3.500 hộ dân của 08 xã, thị trấn trên địa bàn.

Na Chi Lăng có những đặc trưng riêng biệt như mẫu mã đẹp, mắt to, vị ngọt thanh mát, cùi dầy ít hạt, có hàm lượng giá trị dinh dưỡng cao. Sản phẩm Na Chi Lăng có mức giá trên thị trường hiện nay trung bình khoảng từ 30.000đ/kg đến 50.000đ/1kg, thậm chí có thời điểm lên tới 70.000-80.000 đồng/kg.

Họp báo giới thiệu Ngày hội Na Chi Lăng năm 2019

Định hướng của tỉnh Lạng Sơn cũng như của huyện Chi Lăng là phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng an toàn, chất lượng, hiệu quả, bền vững. Ngay từ đầu năm 2019, UBND huyện Chi Lăng đã phát động tổ chức sản xuất na và các nông đặc sản trên địa bàn tuân thủ các tiêu chuẩn VietGAP, sản xuất nông nghiệp hữu cơ, qua đó nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của người nông dân sản xuất đưa ra thị trường những sản phẩm chất lượng và có giá trị cao hơn.

Ngoài cây na, tại huyện Chi Lăng còn có một số cây ăn quả chủ lực khác cũng đã góp phần làm tăng thu nhập cho người dân, mang lại giá trị kinh tế như: Cam, quýt, bưởi và ớt... Để thúc đẩy mạnh sản xuất, phát triển các sản phẩm nông sản đặc trưng trên địa bàn, huyện Chi Lăng đã xác định vai trò của công tác truyền thông, quảng bá, giới thiệu sản phẩm, xúc tiến thương mại, phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa cho nông dân, bao gồm cả thị trường xuất khẩu và tiêu thụ nội địa… là hết sức quan trọng. Đó là lý do Ngày hội Na Chi Lăng lần thứ 3 và Tuần lễ quảng bá kết hợp Diễn đàn sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Na Chi Lăng và nông sản, đặc sản tỉnh Lạng Sơn năm 2019 tiếp tục được tổ chức, qua đó tạo cơ hội kết nối để các doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất và nông dân huyện Chi Lăng cũng như của tỉnh Lạng Sơn quảng bá thương hiệu, giao thương, tiêu thụ sản phẩm, đưa Na Chi Lăng tiếp cận và khẳng định thương hiệu tại các phân khúc thị trường lớn, khó tính ở trong nước như thị trường Hà Nội, TP Hồ Chí Minh... Huyện Chi Lăng và tỉnh Lạng Sơn với sự hỗ trợ cũng đã kêu gọi các doanh nghiệp phân phối có hệ thống siêu thị, bán lẻ lớn ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành khác như Coopmar, BigC... hợp tác đưa Na Chi Lăng vào bán tại các hệ thống siệu thị của họ.

Ngoài đẩy mạnh mở rộng thị trường tiêu thụ ở trong nước, ông Đinh Hữu Học cho biết, huyện Chi Lăng cũng đã kiến nghị với tỉnh Lạng Sơn kiến nghị với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương… và các bộ, ngành có liên quan đàm phán với phía Trung Quốc để đưa sản phẩm Na Chi Lăng vào danh mục nhóm mặt hàng xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Trung Quốc. Huyện Chi Lăng sẽ tiếp tục tuyên truyền, vận động, hỗ trợ người nông dân tiếp tục chuyển đổi từ sản xuất na truyền thống sang qui trình VietGAP nhằm đưa ra thị trường các sản phẩm chất lượng cao, an toàn, thực hiện đầy đủ truy xuất nguồn gốc, tem nhãn…đảm bảo các tiêu chuẩn xuất khẩu.

Ngọc Quỳnh

Cần khai thác hiệu quả nhãn hiệu ‘Sầu riêng Cai Lậy’

Nguồn tin: Báo Tiền Giang

Trong những lần tiếp xúc gần đây, người dân xã Ngũ Hiệp (huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang) đã đề nghị UBND tỉnh đôn đốc các ngành chuyên môn đẩy nhanh tiến độ xây dựng thương hiệu sầu riêng Cai Lậy; khi được công nhận thì cơ sở nào được thu mua, sản xuất và được phép sử dụng thương hiệu sầu riêng Cai Lậy; đồng thời, đề nghị các ngành liên quan có kế hoạch hướng dẫn nông dân thực hiện quy trình sản xuất trái cây sạch, an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu…

Sầu riêng Cai Lậy được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu tập thể. Ảnh: Ngọc Lan

Trên cơ sở ý kiến của người dân, mới đây Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Lê Văn Nghĩa cho biết, nhãn hiệu tập thể “Sầu riêng Cai Lậy” đã chính thức được Cục Sở hữu trí tuệ cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu số 318303 tại Quyết định 28475 vào ngày 16-4-2019.

Sở Khoa học và Công nghệ sẽ phối hợp với UBND huyện Cai Lậy và các ngành có liên quan tổ chức Lễ công bố nhãn hiệu tập thể “Sầu riêng Cai Lậy”.

Theo quy chế quản lý và sử dụng nhãn hiệu tập thể “Sầu riêng Cai Lậy”, tất cả các thành viên của Hội Làm vườn huyện Cai Lậy sẽ được sử dụng, khai thác nhãn hiệu “Sầu riêng Cai Lậy”.

Ngoài ra, Sở Khoa học và Công nghệ cũng đã xây dựng một số công cụ quảng bá cơ bản làm tiền đề cho hoạt động quảng bá, phát triển nhãn hiệu tập thể “Sầu riêng Cai Lậy” như: Biểu trưng (logo) sầu riêng Cai Lậy, bộ nhận diện thương hiệu sầu riêng Cai Lậy; quy chế sử dụng tem, nhãn sản phẩm khoa học và công nghệ, quy trình kiểm soát việc sử dụng nhãn hiệu tập thể “Sầu riêng Cai Lậy”; quy trình cấp, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể “Sầu riêng Cai Lậy”…

Bên cạnh đó, để áp dụng quy trình sản xuất nông nghiệp tốt theo tiêu chuẩn VietGAP, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã và đang hỗ trợ 9 tổ hợp tác, hợp tác xã thực hiện 100 ha sầu riêng trên địa bàn huyện Cai Lậy áp dụng quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt theo Quyết định 04/2015 của UBND tỉnh.

Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sầu riêng là một trong những loại cây mang lại giá trị kinh tế cao và tăng dần đều qua từng năm.

Nếu như vào năm 2013 lợi nhuận của cây sầu riêng trên địa bàn tỉnh bình quân chỉ đạt 380 triệu đồng/ha/năm thì đến cuối năm 2018 đạt hơn 936 triệu đồng/ha/năm.

Theo kế hoạch của ngành Nông nghiệp, đến năm 2020 toàn tỉnh có khoảng 12.000 ha trồng sầu riêng, tập trung chủ yếu ở huyện Cai Lậy…

A.P

Chiêu trò bán thuốc bảo vệ thực vật quá ‘đát’

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Mùa mưa, nước ngập, ở xã Thanh Bình (Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long), nhiều vườn cây đặc sản trồng bưởi, sầu riêng, mít… bị hỏng nặng do nước ngập làm cho bộ rễ bị thối. Đó cũng là lúc nhiều công ty bảo vệ thực vật (BVTV) mang phân bón, thuốc trừ sâu về quê để quảng cáo bán hàng.

Nhận được thư mời hội thảo của một công ty BVTV, ông Hai mừng rỡ vì sẽ được tư vấn giải quyết tình trạng vườn bưởi nhà mình bị ngập úng. Trong thư là lời chào mời hấp dẫn, nào là giới thiệu sản phẩm, nào là cho thêm phân thuốc khi mua hàng… Buổi hội thảo thu hút rất nhiều nhà vườn tham dự, mặc dù diễn ra trong một không gian nhỏ hẹp tại một nhà dân.

Sau phần tư vấn giới thiệu sản phẩm, nhân viên được cho là của một công ty BVTV X. giới thiệu là có cơ sở đặt tại TP Hồ Chí Minh bắt đầu mang các loại phân bón và thuốc trừ sâu để chào hàng.

Điều thu hút các nhà vườn ở đây chính là cách thuyết phục của các nhân viên với những chiêu trò hấp dẫn, sử dụng hình ảnh bắt mắt bằng cách đưa ra các khu vườn điển hình đã điều trị tình trạng bệnh vàng lá trên cây bưởi do ngập úng nên các nhà vườn cảm thấy hài lòng.

Công ty X. này còn hứa hẹn, nếu bà con mua số lượng lớn thì sẽ cử kỹ sư đến để trực tiếp theo dõi quá trình điều trị bệnh cho vườn cây. Khi đã chiếm trọn lòng tin của các nhà vườn, các nhân viên mang rất nhiều sản phẩm với nhiều mẫu mã khác nhau để cho người dân lựa chọn.

Tùy theo nhu cầu tiêu dùng của khách hàng mà các nhân viên này sẽ có chiêu trò khuyến mãi để “chiêu dụ” nhà vườn. Bất kỳ ai mua sản phẩm đều được “cho thêm” các mặt hàng phân bón hoặc thuốc trị bệnh trên cây ăn trái. Bằng cách đó, họ đã bán được rất nhiều sản phẩm chính và sản phẩm “cho thêm”.

Buổi hội thảo hôm ấy diễn ra rất sôi nổi, ai cũng mua được cho mình một số thuốc ưng ý với hy vọng sẽ trị được bệnh vàng lá do ngập úng.

Như bao bà con đi dự hội thảo khác, ông Hai cũng mua được hơn 10 túi thuốc trị bệnh vàng lá trên cây bưởi với giá 500.000đ và được “cho thêm” 5 gói phân bón lá giúp cây tăng trưởng. Ngày hôm sau, ông Hai bèn mang các sản phẩm ra để xem hướng dẫn sử dụng thì phát hiện 2 gói phân bón lá trong số sản phẩm cho thêm đã quá hạn sử dụng.

Ông Hai nghi ngờ chất lượng của các mặt hàng nên mang tất cả các loại thuốc mà mình đã mua ra cơ sở thuốc BVTV nhờ kiểm định thành phần.

Tại đây, ông Hai được tư vấn phần lớn các hoạt chất trong các bao thuốc đều không có chức năng trị bệnh giống như lời giới thiệu của các nhân viên công ty X. Mặt khác, các bao thuốc đều hết hạn hoặc sắp hết hạn. Bà con không chú ý là do dòng chữ in ngày sản xuất và hạn sử dụng nằm ở dưới đáy và rất nhỏ nên rất khó để nhìn thấy.

Sau khi nghe người có chuyên môn tư vấn, ông Hai đã không dám lấy số thuốc đã mua sử dụng trên vườn cây mình nữa. Dù rất tức giận nhưng cũng đành ngậm ngùi chịu mất trắng 500.000đ cùng thời gian ngồi nghe hội thảo.

Đánh vào lòng tham của bà con muốn nhận hàng khuyến mãi, bọn lừa đảo thường dùng các sản phẩm kém chất lượng hoặc quá hạn để “dụ dỗ” nhà vườn đồng thời phối hợp với người đứng đầu ban nhân dân ấp (khóm) để tạo niềm tin và thực hiện nhiều chiêu trò nhằm thu lợi cá nhân.

“Chiêu bài” mua hàng khuyến mãi tuy không mới nhưng cách thức tiến hành của bọn xấu là khá tinh vi. Bà con chú ý nên chọn sản phẩm ở những cửa hàng hoặc đại lý uy tín để tránh bị lừa- nhất là các mặt hàng như phân bón, thuốc trừ sâu, phòng trị bệnh.

HOÀNG LÊ

Hậu Giang: Trồng chuối xiêm thu nhập 15 triệu đồng/công/năm

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Khoảng một tháng nay, nhà vườn trồng chuối xiêm vô cùng phấn khởi, vì giá tăng liên tục.

Chuối xiêm hiện được thu mua theo hình thức cân ký thay cho mua chục như trước đây.

Hiện giá chuối xiêm được thương lái thu mua tại vườn 5.000 đồng/kg, tăng 1.000 đồng/kg so với cách nay một tháng và cao hơn 1.500 đồng/kg so với thời điểm cùng kỳ năm trước. Với giá bán như hiện nay cùng với năng suất 4,5-5 tấn/công/năm, trừ hết chi phí, nhà vườn trồng chuối xiêm cho thu nhập hơn 15 triệu đồng/công.

Theo nhiều thương lái thu mua chuối cho biết, giá chuối xiêm hút hàng là do nhu cầu xuất qua Campuchia tăng mạnh. Theo dự báo, do lượng chuối xiêm vụ này khá ít, nên giá bán nhiều khả năng sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới.

Tin, ảnh: DUY KHÁNH

Kiểm soát việc kinh doanh, sử dụng thuốc trừ cỏ cháy

Nguồn tin: Báo Tuyên Quang

Đang vào thời điểm trồng ngô vụ thu đông, các địa phương trong tỉnh bà con đang tập trung làm cỏ, vệ sinh đồng bãi. Tuy nhiên, thay vì sử dụng các biện pháp an toàn, tình trạng sử dụng thuốc trừ cỏ có hoạt chất độc hại vẫn diễn ra khá phổ biến.

Trước đây, sau mỗi vụ ngô, cánh đồng Ba Lông, phường Nông Tiến (T.P Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang) rộng gần 10 ha trở thành điểm chăn thả gia súc lý tưởng của của người dân thuộc các tổ 7, tổ 8. Tuy nhiên, vài năm trở lại đây không một hộ chăn nuôi nào dám chăn thả gia súc vì tình trạng sử dụng thuốc trừ cỏ diễn ra tràn lan. Điều đáng nói, loại thuốc bà con sử dụng để diệt cỏ là các loại thuốc vô cùng độc hại như Gardon 2.4D, Fansipan 200SL, Parato 276SL, Sư tử đỏ…

Anh Phạm Quốc Khánh, tổ 8, phường Nông Tiến, người có đất canh tác trên cánh đồng cho biết, hầu hết những hộ dân có đất canh tác ở cánh đồng này sử dụng thuốc trừ cỏ cháy để diệt cỏ dại. Theo anh Khánh, với thuốc diệt cỏ cháy chỉ sau khi phun thuốc chừng 3-4 tiếng, cỏ dại xanh tốt đến mấy cũng cháy khô và chết. Sự tiện lợi, không tốn sức lao động, nên dù biết độc hại nên bà con vẫn sử dụng.

Cánh đồng Ba Lông đã bị phun thuốc trừ cỏ cháy để diệt cỏ trước khi vào vụ gieo trồng mới.

Thuốc trừ cỏ, nhất là trừ cỏ cháy vô cùng độc hại, nguy hiểm, song không ít người dân xã Thái Bình, Thắng Quân (Yên Sơn) vẫn sử dụng và coi đó như một giải pháp hữu hiệu nhất để diệt cỏ dại. Ông Trần Hồng Quảng, thôn Hoắc, xã Thái Bình (Yên Sơn) cho rằng, gia đình ông có hơn 1 ha vườn, về mùa mưa cỏ dại phát triển rất nhanh, phát dọn không xuể nên ông vẫn lựa chọn phun thuốc để diệt cỏ. Mỗi năm, gia đình ông Quảng phải sử dụng 2-3 lần phun thuốc để làm sạch cỏ vườn.

Việc mua bán thuốc trừ cỏ có chứa chất độc hại cũng rất dễ dàng. Tại các cơ sở kinh doanh vật tư nông nghiệp thuốc trừ cỏ không thiếu. Theo chủ một cửa hàng kinh doanh giống, vật tư nông, lâm nghiệp trên địa bàn xã Xuân Vân (Yên Sơn), các mặt hàng thuốc trừ cỏ khá phong phú từ thuốc trừ cỏ thông thường đến thuốc trừ cỏ cháy. Hiện nay thuốc trừ cỏ cháy vẫn bán chạy nhất, do tác dụng nhanh, hiệu quả rõ rệt.

Kiểm soát việc buôn bán, sử dụng thuốc trừ cỏ trong sản xuất nông nghiệp, bảo đảm cho nền sản xuất nông nghiệp an toàn, bền vững, ngày 1-10-2018, UBND tỉnh đã có văn bản yêu cầu các ngành chức năng, các địa phương tăng cường công tác quản lý việc sử dụng thuốc trừ cỏ. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có Quyết định 278/QĐ-BNN-BVTV, ngày 8-2-2017 và Quyết định 1186/QĐ-BNN-BVTV, ngày 10-4-2019 về việc loại bỏ thuốc bảo vệ thực vật chứa hoạt chất 2.4 D và Paraquat, Glyphosate ra khỏi danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng tại Việt Nam. Hoạt chất 2.4D và Paraquat, Glyphosate gây ảnh hưởng rất lớn đến chức năng phổi, thận, tim. Người khi bị phơi nhiễm trực tiếp qua đường da, đường hô hấp trên hay đường miệng đều có thể dẫn đến ngộ độc, thậm chí là tử vong mà không có thuốc giải độc.

Ông Nguyễn Văn Thuấn, Chi cục trưởng Chi cục Quản lý chất lượng nông, lâm sản, thủy sản tỉnh cho biết, đơn vị đã phối hợp với các cơ quan liên quan đẩy mạnh công tác tuyên truyền giúp người dân nâng cao nhận thức tác hại của thuốc bảo vệ thực vật có chứa hoạt chất độc hại đối với sức khỏe cộng đồng. Từ đó vận động người dân ký cam kết thực hiện nghiêm quy định tuyệt đối không sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật có chứa hoạt chất độc hại trong sản xuất nông nghiệp. Đơn vị cũng thực hiện kiểm tra các cơ sở kinh doanh, nếu phát hiện thuốc bảo vệ thực vật có chứa hoạt chất sẽ tịch thu và xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Bài, ảnh: Đoàn Thư

Giá lúa tăng nhưng nhiều nông dân không hưởng lợi

Nguồn tin: Báo Long An

Khoảng 2 tuần qua, giá lúa tăng trở lại so với trước. Thế nhưng, nhiều diện tích lúa Hè Thu 2019 ở các huyện khu vực Đồng Tháp Mười của tỉnh Long An đã cho thu hoạch trước đó nên nông dân không được hưởng lợi.

Lúa Hè Thu 2019 năng suất đạt thấp

Theo số liệu của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, toàn tỉnh gieo sạ 222.296ha lúa Hè Thu 2019, đạt 100,3% kế hoạch (221.600ha), đến nay, cho thu hoạch 116,467ha (tập trung các huyện Tân Hưng, Vĩnh Hưng, Tân Thạnh, Mộc Hóa và thị xã Kiến Tường), năng suất lúa khô ước đạt 45,9 tạ/ha, sản lượng 234.398 tấn.

So với tuần trước, giá lúa tăng từ 100 - 600 đồng/kg. Cụ thể, đối với lúa tươi bán tại ruộng, giống lúa IR50404 từ 4.000 - 4.200 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; lúa OM các loại (OM4900, OM6976,…) từ 5.000 - 5.700 đồng/kg, tăng 400 - 600 đồng/kg; nếp từ 5.300 - 5.800 đồng/kg, tăng 300 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 từ 5.500 - 5.900 đồng/kg, tăng 200 - 400 đồng/kg; lúa ST 24 từ 5.500 - 5.700 đồng/kg, tăng 200 - 300 đồng/kg.

Vụ lúa Hè Thu 2019, toàn huyện Vĩnh Hưng xuống giống 28.700ha. Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Vĩnh Hưng - Tô Văn Chảnh cho biết, đến thời điểm này, nông dân trên địa bàn thu hoạch cơ bản dứt điểm 28.210/28.700ha, với năng suất bình quân 5 - 6,5 tấn/ha tùy từng thời điểm.

Hiện, giá lúa tại huyện Vĩnh Hưng tăng từ 200 - 400 đồng/kg, tuy nhiên, giá này vẫn thấp hơn so với cùng kỳ. Anh Nguyễn Trường Sơn (xã Khánh Hưng, huyện Vĩnh Hưng) cho biết, vụ Hè Thu này, gia đình anh canh tác 4,5ha lúa OM 7347, đến nay đã cho thu hoạch xong. Trong vụ sản xuất này, thời tiết không thuận lợi, nắng hạn kéo dài; sâu, bệnh xuất hiện nhiều, năng suất đạt 4,5 tấn/ha (giảm khoảng 1 tấn/ha so với cùng kỳ), giá bán 5.000 đồng/kg (tăng 300 đồng/kg so với tuần trước). Trừ các khoản chi phí thu lợi nhuận khoảng 5 triệu đồng/ha, lợi nhuận thấp hơn so với năm trước.

Giá lúa tăng nhưng nhiều diện tích lúa Hè Thu 2019 đã thu hoạch trước đó nên nông dân không được hưởng lợi

Giá lúa tăng nhưng rất nhiều nông dân không được hưởng lợi vì nhiều diện tích đã thu hoạch trước đó. Đến thời điểm này, nông dân trên địa bàn huyện Tân Hưng thu hoạch gần 35.000/37.400ha lúa Hè Thu 2019, năng suất 4,5 - 6 tấn/ha (lúa tươi), giá bán dao động từ 4.000 - 6.000 đồng/kg.

Ông Võ Văn Tung (xã Hưng Thạnh, huyện Tân Hưng) cho biết đã thu hoạch gần 12ha lúa Đài Thơm 8 cách nay hơn 10 ngày với năng suất 5,5 tấn/ha (cùng kỳ 6 tấn/ha), giá bán 5.000 đồng/kg (cùng kỳ 5.900 đồng/kg), trừ các khoản chi phí (giống, phân bón, thuốc, công lao động,…), thu lợi nhuận khoảng 10 triệu đồng/ha.

Tập trung phòng trừ sâu, bệnh gây hại trên trà lúa Hè Thu và Thu Đông

Toàn tỉnh còn hơn 100.000ha lúa Hè Thu 2019 và nông dân gieo sạ 23.977ha/kế hoạch 47.200ha lúa Thu Đông 2019, đạt 50,8% kế hoạch. Hiện lúa Hè Thu có rầy nâu, bệnh đạo ôn cổ bông, lem lép hạt, cháy bìa lá phát sinh và gia tăng diện tích nhiễm trên lúa giai đoạn trổ chín; trên lúa Thu Đông có bệnh đạo ôn lá, bệnh cháy bìa lá phát sinh trên lúa giai đoạn đẻ nhánh, đòng trổ.

Ngành Nông nghiệp tập trung chỉ đạo phòng trừ sâu bệnh trên lúa Hè Thu và Thu Đông, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nông dân thường xuyên thăm đồng, chú ý các đối tượng như sâu năn, ốc bươu vàng, rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, bệnh đạo ôn lá, ngộ độc phèn, chuột, bọ trĩ đặc biệt trên các trà lúa Hè Thu./.

Văn Đát

Cần đẩy mạnh liên kết sản xuất theo chuỗi trong nông nghiệp

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

Liên kết trong sản xuất nông nghiệp góp phần bảo đảm đầu ra ổn định cho nông sản, nâng cao giá trị canh tác, hướng đến sản xuất bền vững. Dù vậy, hiện nay việc liên kết sản xuất trên địa bàn tỉnh còn rất hạn chế, nhất là đối với những loại cây trồng chủ lực như cà phê, hồ tiêu.

Một số hộ gia đình ở xã Đắk Ru (Đắk R’lấp) liên kết với đơn vị thu mua thu hoạch cà phê chín hoàn toàn, giá bán cao hơn giá thị trường từ 3.000 đồng trở lên

Gia đình ông Phạm Văn Thạch, trú tại thôn Tân Hòa, xã Đắk R'moan (Gia Nghĩa) đang sản xuất gần 10 ha hồ tiêu. Từ cuối năm 2017, ông Thạch liên kết với Công ty TNHH Hương Gia Vị Sơn Hà để sản xuất hồ tiêu sinh thái. Quy trình chăm sóc cây trồng theo yêu cầu của đối tác là không sử dụng các loại phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật chứa hóa chất. Do đó, gia đình ông Thạch đã sử dụng các loại phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hữu cơ, phân được ủ hoai mục hoặc các loại phân bón trên thị trường đủ tiêu chí chứng nhận sinh thái, hữu cơ sinh học.

Quy trình chăm sóc khắt khe, nhưng bù lại toàn bộ sản phẩm ông Thạch sản xuất ra được thu mua với giá cao hơn rất nhiều so với giá thị trường. Cụ thể, vụ mùa 2018, ông Thạch sản xuất được khoảng 20 tấn hồ tiêu theo hướng sinh học và được Công ty TNHH Hương Gia Vị Sơn Hà thu mua với giá 97 ngàn đồng/kg. Trong khi giá tiêu trên thị trường vào thời điểm đó là 50 - 55 ngàn đồng/kg.

Ông Thạch chia sẻ: "Quy trình sản xuất này đang là xu hướng phát triển của ngành nông nghiệp. Nhờ có sự liên kết, nên tôi mới biết sản xuất nông sản sạch. Nó gắn liền với sản xuất hữu cơ, sinh thái để bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe người sản xuất, người tiêu dùng. Hiện nay, vườn hồ tiêu của gia đình tôi đã được cấp chứng nhận sinh thái và sản phẩm đủ điều kiện xuất khẩu".

Tương tự, gia đình ông Phạm Đình Bộ, trú tại thôn 3, xã Đắk Sin (Đắk R'lấp), có 3 ha cà phê đang cho thu hoạch năm thứ 5. Năm 2017, từ chỗ sản xuất cà phê theo hướng truyền thống, ông đã liên kết với Công ty TNHH MTV Bốn Hiệp để sản xuất cà phê theo hướng nông sản sạch.

Tham gia liên kết, ông Bộ được hướng dẫn sản xuất cà phê theo quy trình sạch vừa giảm chi phí vừa tăng hiệu quả đầu tư. Nhờ đó, rẫy cà phê tăng năng suất từ 2 – 2,5 tấn/ha lên thành 3,5 - 4 tấn/ha, lợi nhuận mỗi ha cũng tăng từ 30 – 40 triệu đồng. Điều quan trọng hơn, toàn bộ sản phẩm cà phê sau thu hoạch của gia đình ông Bộ được Công ty TNHH MTV Bốn Hiệp (Đắk R'lấp) thu mua với giá cao hơn thị trường từ 3.500 đồng đến 6.000 đồng/kg.

Vườn cà phê dây của anh Hoàng Đức Chương trú tại thôn Thuận Nam, xã Thuận An (Đắk Mil) hiện vẫn chưa liên kết đầu ra sản phẩm

Theo Sở Nông nghiệp và PTNT, hiện tổng diện tích cà phê được liên kết sản xuất chỉ là 10.755 ha, chiếm 8,4 % tổng diện tích cà phê của toàn tỉnh. Tương tự, thống kê năm 2018 của Chi cục Phát triển nông nghiệp tỉnh, tổng diện tích hồ tiêu toàn tỉnh 34.552 ha, sản lượng năm 2018 đạt 42.227 tấn. Việc liên kết sản xuất hồ tiêu còn ít, đa số người nông dân thông qua các công ty, đại lý thu mua trên địa bàn để tiêu thụ sản phẩm.

Cà phê, hồ tiêu là 2 cây chủ lực nhưng trong quá trình sản xuất, sự liên kết giữa người dân và doanh nghiệp còn quá ít so với tổng diện tích toàn tỉnh cũng như nhu cầu đặt ra. Đa số người dân bán sản phẩm thông qua các công ty, đại lý buôn bán phân bón và thu mua nông sản mà không có sự liên kết. Giá bán sản phẩm cũng vì thế mà lên xuống thất thường, phụ thuộc vào thương lái là chính.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, yêu cầu cơ bản để đủ sức cạnh tranh là sản phẩm phải sạch, chất lượng tốt, truy xuất được nguồn gốc… Để đáp ứng được những yêu cầu này, việc liên kết trong sản xuất nông nghiệp là xu thế tất yếu.

Tính đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có 34 công ty, doanh nghiệp, HTX và nhóm hộ tham gia liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ cà phê, hồ tiêu, cây ăn trái, rau quả, với 11.302 ha, và 7.150 hộ tham gia.

Bài, ảnh: Đức Hùng

Cung vượt cầu, giá cà phê nội địa giảm sâu

Nguồn tin: Báo Công Thương

Từ đầu năm đến nay, giá cà phê thế giới giảm kéo giá trong nước tiếp tục giảm sâu. Theo các chuyên gia, thị trường cà phê trong nước vẫn hết sức ảm đạm do hai nước sản xuất cà phê lớn trên thế giới là Brazil và Indonesia sắp vào vụ thu hoạch.

Xuất khẩu giảm mạnh cả lượng và giá trị

Theo báo cáo của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn- NN&PTNT), xuất khẩu cà phê tháng 7/2019 ước đạt 157 nghìn tấn với giá trị đạt 253 triệu USD, lũy kế xuất khẩu cà phê 7 tháng đầu năm ước đạt 1,08 triệu tấn và 1,82 tỷ USD, giảm 8,2% về khối lượng và giảm 19,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2018.

6 tháng đầu năm, Đức và Mỹ tiếp tục là hai thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam với thị phần lần lượt là 13,7% và 9,4%. Giá cà phê xuất khẩu bình quân 6 tháng đầu năm đạt 1.706 USD/tấn, giảm 11,6% so với cùng kỳ năm 2018.

Khuyến khích nông dân sản xuất cà phê theo hướng hữu cơ

Tại thị trường trong nước, giá cà phê cũng giảm so với tháng 6/2019, giá cà phê vối nhân xô các tỉnh Tây Nguyên giảm 200 – 400 đồng/kg xuống còn 32.700 - 33.800 đồng/kg. Hiện, giá cà phê ở khu vực Tây Nguyên tiếp tục giảm 500 đồng/kg dao động trong khoảng 31.900 - 32.800 đồng/kg. Trong đó, giá cà phê cao nhất ghi nhận tại Đăk Lăk, thấp nhất tại Lâm Đồng. Giá cà phê quanh cảng TP. Hồ Chí Minh giảm 31 USD/tấn xuống 1.377 USD/tấn.

Lý giải nguyên nhân của tình trạng trên, ông Nguyễn Quốc Toản – Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT) - cho hay, trên thị trường thế giới, trong tháng 7, giá cà phê biến động giảm. Đầu tháng 7, giá sàn Robusta tại London, nơi các nhà kinh doanh cà phê Việt Nam thường sử dụng để tham chiếu vẫn còn giao dịch ở khu vực 1.490 USD/tấn. Từ ngày 15 đến 17/7 đã giảm gần 100 USD mỗi tấn. Giá cà phê giảm do áp lực bán hàng vụ mới tiếp tục đè nặng các thị trường cà phê kỳ hạn và tác động lên thị trường trong nước.

Thị trường vẫn chưa có dấu hiệu khởi sắc

Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) dự báo, thị trường cà phê toàn cầu trong thời gian tới sẽ vẫn gặp khó khăn do nguồn cung vượt nhu cầu. Theo dữ liệu từ Công ty Nghiên cứu thị trường IHS Markit, tiêu thụ cà phê toàn cầu được dự báo sẽ tăng 1,8% trong năm nay, nhưng mức tăng này chưa đủ hỗ trợ thị trường cà phê thế giới. Bên cạnh đó, căng thẳng thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc leo thang sẽ gây bất lợi lên giá các mặt hàng nông sản thời gian tới, trong đó có cà phê.

Đồng quan điểm về vấn đề này, theo ông Stefan Uhlenbrock - một nhà phân tích hàng hóa cao cấp tại IHS Markit - mặc dù mức tiêu thụ cà phê toàn cầu đang tăng, nhưng thật khó để tăng giá vào thời điểm này. Sự gia tăng trong nhu cầu là rất nhỏ và sự dư thừa cà phê trong những tháng tới có khả năng sẽ duy trì mức giá thấp hiện tại.

Lạc quan hơn, ông Nguyễn Quốc Toản phân tích, sự kháng giá hiện hành tại thị trường nội địa của các nước xuất khẩu sẽ sớm kéo giá cà phê trong nước và thế giới ra khỏi vùng giá thấp. Tuy vậy, áp lực bán cà phê Robusta từ Brazil vẫn lớn sẽ gây sức ép đáng kể cho giá cà phê trên thị trường London. Tại thị trường trong nước, do lượng tồn kho không nhiều nên người giữ hàng có tâm lý kỳ vọng giá cà phê nội địa sẽ tăng lên mức 35 - 36 triệu đồng/tấn. Tuy nhiên, do lượng cà phê Việt Nam còn ít nên mức độ ảnh hưởng lên giá kỳ hạn tại sàn London rất hạn chế.

Theo ông Nguyễn Quốc Toản, trong dài hạn, chất lượng sẽ là yếu tố quyết định lên giá cà phê, do đó cần có chính sách giúp đỡ và thúc đẩy nông dân sản xuất cà phê theo hướng hữu cơ, đồng thời xây dựng và quảng bá thương hiệu của từng địa phương đến các thị trường trên thế giới.

Theo báo cáo tháng 6/2019 của Tổ chức Cà phê thế giới (ICO), mặc dù có sự gia tăng nhập khẩu cà phê toàn cầu trong 6 tháng đầu năm, nhưng không theo kịp tốc độ tăng trưởng sản xuất trong hai năm qua.

Nguyễn Hạnh

Lợi ích thiết thực cho nông dân tham gia Dự án Chuyển đổi nông nghiệp bền vững

Nguồn tin: Báo Long An

Long An là một trong 8 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long triển khai Dự án (DA) Chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam (DA VnSAT). Sau hơn 3 năm thực hiện, quá trình canh tác lúa thay đổi theo hướng an toàn, bền vững, đời sống của nông dân trong vùng DA dần cải thiện, thu nhập tăng lên nhiều so với trước đây.

Chuyển biến tích cực từ Dự án VnSAT

Tại Long An, DA VnSAT được triển khai tại 5 vùng lúa trọng điểm là huyện Vĩnh Hưng, Tân Hưng, Mộc Hóa, Tân Thạnh và thị xã Kiến Tường. Tổng diện tích thực hiện khoảng 49.500ha, với 25.000 hộ nông dân tham gia.

Tính đến hết năm 2018, DA VnSAT tại Long An tổ chức 294 lớp tập huấn “3 giảm, 3 tăng” (3G3T), có 7.989 người dự với diện tích 19.075ha; 170 lớp đào tạo tập huấn “1 phải, 5 giảm” (1P5G), có 4.117 người dự với diện tích 13.104ha; thực hiện 34 điểm trình diễn với diện tích 17ha, trong đó có 13 điểm trình diễn 3G3T, diện tích 6,5ha và 21 điểm trình diễn 1P5G, diện tích 10,5ha.

Tham gia DA, nông dân được tập huấn và áp dụng quy trình canh tác bền vững 3G3T, 1P5G. Lượng giống gieo sạ trung bình giảm còn dưới 100kg/ha, lượng phân đạm sử dụng không quá 130kg/ha, không phun thuốc bảo vệ thực vật quá 3 lần và ghi chép sổ tay kỹ thuật đầy đủ. Do đó, sản xuất lúa theo 3G3T và 1P5G giúp nông dân nâng cao kiến thức và kỹ năng quản lý đồng ruộng, ứng dụng tốt các giải pháp kỹ thuật như sạ thưa, bón phân cân đối, bảo vệ nguồn thiên địch, góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường, giảm dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và bảo vệ sức khỏe người sản xuất cũng như người tiêu dùng; giúp giảm chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận.

Tính đến hết năm 2018, sau hơn 3 năm triển khai thực hiện DA VnSAT, tổng diện tích lúa sản xuất trong vùng DA được doanh nghiệp bao tiêu là 6.500ha, tăng thêm lợi nhuận khoảng 20%/ha cho nông dân. Trong đó, việc áp dụng quy trình sản xuất lúa 3G3T, 1P5G giúp nông dân giảm được chi phí sản xuất gần 3 triệu đồng/ha so với phương thức sản xuất truyền thống.

Anh Võ Nhật Thạc - nông dân xã Tuyên Thạnh, thị xã Kiến Tường, cho biết: “Áp dụng các quy trình kỹ thuật 3G3T, 1P5G, chi phí đầu tư giảm 2-3 triệu đồng/ha. Nhờ có DA VnSAT, chúng tôi học được nhiều quy trình kỹ thuật mới, từ đó dần thay đổi tập quán canh tác cũ”.

Song song với quá trình chuyển giao khoa học - kỹ thuật, DA còn hỗ trợ hạ tầng và trang thiết bị thiết yếu phục vụ sản xuất nông nghiệp. Cụ thể, trong đợt 1, hỗ trợ 5 hợp tác xã với kinh phí dự toán 32,41 tỉ đồng, gồm 2 máy cuốn rơm, 2 lò sấy, 2 kho trữ lúa và nhà bao che lò sấy, 3 trạm bơm điện, 1 trạm biến áp, 3 đường giao thông nội đồng (8,6km) và 1 cây cầu dân sinh. Thời gian tới sẽ hỗ trợ đợt 2 với tổng dự toán kinh phí 44 tỉ đồng cho 4 hợp tác xã, dự kiến hỗ trợ 5 máy cuốn rơm, 3 tuyến đường giao thông nội đồng, 1 cầu giao thông nông thôn, 4 trạm bơm và 1 thiết bị sấy.

Nhiều giải pháp được thực hiện

Theo kế hoạch hoạt động năm 2019, Ban Quản lý DA VnSAT Long An phối hợp Tổ thực hiện DA các huyện, thị xã tổ chức 233 lớp đào tạo, tập huấn kỹ thuật 3G3T, 1P5G cho khoảng 8.155 nông dân. Ngoài ra, dự kiến tổ chức 15 lớp đào tạo, tập huấn cho hơn 520 nông dân; thực hiện 20 điểm trình diễn 1P5G với diện tích 10ha và 15 điểm trình diễn về sử dụng sản phẩm phụ từ lúa làm nấm rơm và nhân giống lúa xác nhận.

Bên cạnh đó, DA tập trung củng cố và thành lập mới các hợp tác xã có năng lực quản lý và trình độ khoa học - kỹ thuật tiên tiến, góp phần xây dựng kênh thông tin, tuyên truyền; hỗ trợ hình thành và phát triển chuỗi liên kết lúa gạo bền vững. DA sẽ tập trung hỗ trợ hạ tầng cho các hợp tác xã. Đồng thời, tăng cường công tác thông tin, truyền thông, phổ biến các kết quả đã đạt và kinh nghiệm thực tiễn tại các địa phương; đẩy mạnh công tác tập huấn kỹ thuật 3G3T và 1P5G; nâng cao năng lực quản trị cho các hợp tác xã, tổ chức sản xuất theo quy trình, liên kết bao tiêu tạo đầu ra ổn định.

DA VnSAT kỳ vọng sẽ góp phần thực hiện đề án tái cơ cấu nông nghiệp thông qua tăng cường năng lực, đổi mới phương thức canh tác bền vững và nâng cao chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo chung tại 8 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long./.

Đại Việt

Nuôi giống gà ‘quý tộc’, trọng lượng nhỏ, giá bán cao

Nguồn tin: Nông Nghiệp VN

Người nuôi thành công giống gà Hoàng Gia là anh Nguyễn Bửu Thanh, 32 tuổi ở khu vực Thới Hòa B, phường Long Hưng, quận Ô Môn, TP. Cần Thơ.

Anh Thanh cho biết năm 2017, trong lúc giao dịch mua bán chim trĩ, tình cờ anh phát hiện tại Tiền Giang có một giống gà màu sắc đặc biệt, toàn trắng đen, dáng hình độc đáo. Anh bèn đổi 10 con chim trĩ lấy 1 con gà về nuôi thử nghiệm.

Anh Nguyễn Bửu Thanh và con gà Hoàng Gia.

Theo anh, ông chủ trại gà ở Tiền Giang gọi giống gà này là gà “Quý phi” bởi chúng có màu sắc lạ, nhiều cựa, trên đầu có chùm lông thật to giống như vương miện của hoa hậu. Khi hỏi ra mới biết đây là giống gà có nguồn gốc từ Anh quốc nên nhiều người còn gọi là gà Hoàng Gia. Sở dĩ nhiều người thích nuôi giống gà này vì chúng có hình dáng đẹp, quý phái, cường tráng, quan niệm sẽ gặp nhiều may mắn, phát tài.

Sau một thời gian nuôi thử nghiệm, anh Thanh nhận thấy đây là một giống gà có sức đề kháng cao, ít bị dịch bệnh, tăng trưởng nhanh, thịt ngon, đẻ sai... vì thế tiếp tục tăng đàn. Hiện anh đang sở hữu 20 con gà bố mẹ, mỗi con mái đẻ khoảng 120 trứng/năm. Trứng anh cho ấp bằng máy, tỷ lệ nở khoảng 95%.

Gà Hoàng Gia nuôi nhốt trong chuồng.

Giống gà này không lớn, sau 4 tháng tuổi có trọng lượng từ 1,3 – 1,5 kg/con, bán với giá 170.000 – 200.000đ/kg. Hiện anh nuôi chủ yếu là bán con giống vì chưa đủ số lượng để cung cấp thịt. Gà con hiện có giá từ 40.000 - 50.000 đ/con/1 tuần tuổi. Gà trên 1 tuần tuổi có giá cao hơn.

Một khách hàng ở phường An Thới (Cần Thơ) cho biết, giống gà Hoàng Gia của anh Thanh rất tốt, từ năm 2018 đến nay tôi thường đến đây mua con giống mỗi lần 50 con về nuôi, được anh Thanh tận tình hướng dẫn cách chăm sóc nên gà phát triển rất tốt.

Theo kinh nghiệm của anh Thanh, muốn gà khỏe mạnh, tăng trọng nhanh, người nuôi cần tuân thủ việc phòng ngừa các bệnh thường gặp như cầu trùng, dịch tả… Nền chuồng phải cao ráo, sạch sẽ, khử độc, sát trùng thường xuyên.

Gà Hoàng Gia trống (gà Quý phi).

Anh Thanh chia sẻ, để tiết kiệm tiền đầu tư cho thức ăn, anh cho gà ăn thức ăn công nghiệp, kết hợp với rau xanh và củ, quả, trong đó thức ăn công nghiệp chiếm 50%. Với phương thức này sẽ giúp gà tăng trọng nhanh, đẻ nhiều, thịt săn chắc, thơm ngon.

Vốn đam mê chăn nuôi từ nhỏ nên ngoài gà Hoàng Gia, anh còn sưu tầm, nhân giống các giống gà lạ như Đông Tảo, Kỳ lân… và các loại chim quý hiếm như trĩ, trích cồ…

Từ kết quả đó, mỗi tháng sau khi trừ hết các chi phí anh còn lời trên 30 triệu đồng từ tiền bán gà, chim trĩ và các vật nuôi khác, gấp bốn lần một công chức có mức lương trung bình.

THÀNH HIỆP

Mô hình mới nuôi vịt trên sàn lưới

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Chủ tịch Hội Nông dân xã Đồng Khởi (huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh) cho biết đây là mô hình chăn nuôi mang lại hiệu quả, hiện đang được một số nông dân khác trên địa bàn xã nhân rộng.

Bên cạnh cách nuôi vịt truyền thống như chăn thả trên đồng hay kênh rạch, hiện nay nông dân còn áp dụng những hình thức chăn nuôi mới giúp bảo đảm vệ sinh môi trường, tăng năng suất, hạn chế dịch bệnh.

Chẳng hạn như mô hình nuôi vịt trên sàn kết hợp hệ thống phun sương do anh Đặng Tuấn Thành (sinh năm 1983, ngụ ấp Cầy Xiêng, xã Đồng Khởi, huyện Châu Thành) thực hiện từ 2 năm qua.

Bên trong trại chăn nuôi vịt theo mô hình mới của anh Thành.

Để thực hiện mô hình này, anh Thành đã đi học tập kinh nghiệm của một số nơi trên địa bàn tỉnh và tỉnh bạn.

Ban đầu, anh nuôi thử nghiệm 1.000 con, nhờ chịu khó mày mò và học hỏi kinh nghiệm của những người chăn nuôi khác, anh cũng dần tích lũy được kiến thức, kinh nghiệm cho mình, nuôi đến lứa thứ hai thì mọi thứ cũng từ từ ổn định.

Nhận thấy nuôi theo mô hình này có hiệu quả, từ 1.000 con ban đầu,anh Thành đã mở rộng quy mô lên 6.000 con.

Giống vịt anh Thành nuôi là vịt siêu nạc, có thời gian nuôi từ 45- 50 ngày, trọng lượng bình quân mỗi con khi xuất chuồng đạt từ 3-3,3 kg. Sàn nuôi được làm bằng sắt, kết hợp với lưới mắt cáo bện lên. Để làm mát cho con vịt, anh lắp đặt thiết bị phun sương tự động trên mái nhà và trong chuồng. Thời gian máy phun sương từ 11 giờ – 15 giờ, khoảng 15 phút thì máy tự tắt, sau 30 phút lại tiếp tục phun.

Vệ sinh chuồng trại chuẩn bị cho đợt nuôi mới.

Anh Thành chia sẻ, nuôi theo hình thức này chi phí đầu tư cao hơn, nhất là về chuồng trại, bình quân cứ 6 con/m2 chi phí khoảng 700.000 đồng, như vậy chuồng có diện tích khoảng 300m2 quy mô 2.000 con vịt có chi phí khoảng 210 triệu đồng. Tuy vốn về chuồng trại nặng nhưng bù lại mang nhiều hiệu quả, vịt phát triển tốt hơn, công tác tiêm phòng cũng được thực hiện đầy đủ nên hạn chế rủi ro về dịch bệnh hơn chăn nuôi truyền thống.

Một năm anh nuôi 6 đợt, mỗi đợt 6.000 con vịt. Với giá bán hiện tại 47.000 đồng/kg (khoảng 150.000 đồng/con), sau khi trừ đi chi phí, anh thu về lợi nhuận từ 150- 200 triệu đồng/đợt. Sắp tới, anh Thành dự định mở rộng quy mô lên khoảng 15.000 con.

Anh Thành cho biết, anh cùng một số người chăn nuôi trên địa bàn tỉnh thành lập nhóm chăn nuôi vịt, ngan với khoảng 13 thành viên. Tại đây, các anh em cùng nhau trao đổi kinh nghiệm, kỹ thuật chăn nuôi. Anh Thành còn cung cấp con giống, thức ăn chăn nuôi cho các thành viên, trong đó con giống được anh ký hợp đồng với một công ty giống gia cầm ở Đồng Nai. Ngoài bán cho thương lái, anh Thành đã ký hợp đồng với một đơn vị thu mua số lượng lớn, nguồn cung cấp do anh thu gom của các anh em trong nhóm với số lượng 8.000 con/tháng.

Chị Trần Thị Thảo- Chủ tịch Hội Nông dân xã Đồng Khởi cho biết đây là mô hình chăn nuôi mang lại hiệu quả, nhất là đối với kinh tế hộ gia đình. Hiện nay, mô hình này đang được một số nông dân khác trên địa bàn xã nhân rộng.

Giang Hà

Tiêu hủy heo bệnh đúng cách

Nguồn tin: Báo An Giang

Gần đây, một số người dân phản ánh đến Báo An Giang, việc tiêu hủy heo bị mắc bệnh dịch tả heo Châu Phi gần nơi họ sinh sống có đúng quy định hay không, liệu có ảnh hưởng đến môi trường trước mắt và lâu dài không? Chưa kể, quá trình xử lý tiêu hủy phải đảm bảo những vấn đề gì để không tạo thành ổ dịch nguy hiểm trong lòng đất, đe dọa sự an toàn của đàn heo khỏe mạnh khác gần đó?

Việc tiêu hủy heo bệnh phải thực hiện theo quy định

Anh T.Q.L (sinh năm 1991, ngụ phường Mỹ Thạnh, TP. Long Xuyên) phản ánh: “Vừa qua, khi tiến hành tiêu hủy heo mắc bệnh, không rõ chính quyền địa phương thực hiện quy trình như thế nào, nhưng lại gây ảnh hưởng đến việc sinh hoạt của chúng tôi. Mùi hôi từ nơi chôn lấp kéo dài nhiều giờ, khiến sức khỏe của mọi người đều bị ảnh hưởng, nhất là người già và trẻ nhỏ. Sau khi nhận được phản ánh, chính quyền địa phương đã tăng cường kiểm tra việc chôn lấp, đến nay không phát sinh mùi hôi tại đây nữa. Tuy nhiên, thiết nghĩ khi tiêu hủy heo bệnh, cần phải đảm bảo quy trình và kỹ thuật, đặc biệt là tại các vùng dịch nằm trong khu dân cư, đông người sinh sống”. Ông N. (hộ dân ngụ phường Mỹ Phước) cũng có phản ánh tương tự, khi việc chôn lấp heo bệnh nằm ngay cạnh khu dân cư.

Ngay sau khi nhận phản ánh, chính quyền địa phương các nơi đã nhanh chóng xử lý vụ việc và nhận được sự đồng thuận của người dân. Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND phường Mỹ Phước Đoàn Thị Hương Hà cho biết: “Theo nguyên tắc, phải tìm vị trí gần ổ dịch để tiêu hủy, không được phép mang xác heo đi nơi khác xa hơn. Nơi tiêu hủy được thành phố thẩm định, cho phép mới tiến hành chôn lấp. Quá trình xử lý ổ dịch, chúng tôi thực hiện theo hướng dẫn của ngành chuyên môn; thường xuyên cử người đến kiểm tra, giám sát nơi tiêu hủy để nhanh chóng xử lý vấn đề phát sinh. Sau khi được giải thích, các hộ dân đã thống nhất cách làm với địa phương. Chúng tôi cam kết với người dân: không để xuất hiện mùi hôi, ảnh hưởng môi trường từ việc tiêu hủy heo bệnh”.

Theo Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh, có 8 bước xử lý ổ bệnh dịch tả heo Châu Phi, trong đó bước 5 là xử lý tiêu hủy heo mắc bệnh. Trường hợp địa điểm tiêu hủy ở ngoài khu vực hộ nuôi có ổ dịch, tất cả thành viên Tổ tiêu hủy mặc bảo hộ cá nhân. Tổ tiêu hủy cử 1 người rải vôi bột từ chỗ xe vận chuyển đến chuồng nuôi, rải vôi trong khu vực chuồng và xung quanh chuồng; vào chuồng nuôi gây ngất heo cho vào bao, buộc chặt miệng bao, thực hiện cân và thống nhất về số lượng, trọng lượng với chủ hộ (chủ hộ phải mặc bảo hộ khi vào chuồng nuôi), tập trung bao chứa vào một chỗ để phun khử trùng trước khi vận chuyển ra xe. Di chuyển toàn bộ heo lên xe (phương tiện sử dụng để vận chuyển heo đến địa điểm tiêu hủy phải có sàn kín; phải được vệ sinh, khử trùng tiêu độc trước và sau khi vận chuyển đến địa điểm tiêu hủy). Tất cả các thành viên Tổ tiêu hủy cởi bảo hộ cho vào bao và cử 1 người ở lại thực hiện phun xịt toàn bộ chuồng nuôi, phun xịt xung quanh chuồng, phun xịt từ chuồng ra xe vận chuyển, đưa bảo hộ của tổ lên xe và cởi bảo hộ cho vào bao đưa lên xe. Tất cả Tổ tiêu hủy cởi đồ đang mặc cho vào nước xử lý có pha hóa chất, vệ sinh cơ thể bằng xà phòng, mặc đồ mới trước khi ra khỏi hộ nuôi. Phía bên ngoài bố trí lực lượng khác thực hiện phun xịt xe, xung quanh xe trước khi vận chuyển, phun xịt khi Tổ tiêu hủy di chuyển ra ngoài để đến hố tiêu hủy. Trường hợp địa điểm tiêu hủy tại hộ nuôi có ổ dịch, rải vôi khu vực chuồng, xung quanh chuồng và từ chuồng đến hố tiêu hủy.

Hố chôn heo mắc bệnh được chọn theo hướng dẫn của Phòng Tài nguyên và Môi trường; phải cách nhà dân, giếng nước, khu chuồng nuôi động vật tối thiểu 30m và có đủ diện tích. Nên chọn nơi chôn trong vườn (tốt nhất là vườn cây ăn trái hoặc lấy gỗ). Hố được chọn ưu tiên tại khu đất của hộ nuôi có heo mắc bệnh. Kích cỡ phải đủ rộng phù hợp với khối lượng động vật, sản phẩm động vật và chất thải cần chôn. Ví dụ, nếu cần chôn 1 tấn động vật thì hố chôn cần có kích thước: sâu 1,5-2m, rộng 1,5-2m, dài 1,5-2m. Hố chôn phải được đào xong và lực lượng tham gia đào hố phải di chuyển trước khi vận chuyển heo đến tiêu hủy. Nếu hố chôn chọn tại hộ nuôi có ổ dịch thì lực lượng tham gia đào hố phải bố trí hướng đi vào và ra sao cho không đi ngang hoặc gần khu vực chuồng nuôi có heo bị bệnh. Khi đào xong hố, trước khi di chuyển ra ngoài, lực lượng đào hố phải được vệ sinh, tiêu độc kỹ nhằm đảm bảo không mang mầm bệnh ra ngoài. Trong trường hợp lực lượng tham gia đào hố bắt buộc phải đi qua chuồng nuôi hoặc nhận thấy cần thiết, lực lượng tham gia đào hố phải bắt buộc mặc bảo hộ và xử lý bảo hộ trước khi ra ngoài. Hố được lót bạt ny-lon và rải một lớp vôi bột xuống đáy hố theo tỷ lệ khoảng 1kg vôi/m2. Khi đưa toàn bộ số heo bệnh vào hố xong, tiến hành rải một lớp vôi bột lên bề mặt theo tỷ lệ khoảng 1kg vôi /m2, phun thuốc sát trùng, phủ bạt ny-lon lại, lấp đất và nện chặt; yêu cầu khoảng cách từ bề mặt bao chứa đến mặt đất tối thiểu là 0,5m, lớp đất phủ bên trên bao chứa phải dày ít nhất là 1m và phải cao hơn mặt đất để tránh nước chảy vào bên trong gây sụt, lún hố chôn.

Hố chôn phải có biển cảnh báo người ra vào khu vực. UBND xã, phường, thị trấn có trách nhiệm quản lý, tổ chức kiểm tra định kỳ và xử lý kịp thời các sự cố sụt, lún, xói mòn, rò rỉ, bốc mùi của hố chôn. Địa điểm chôn lấp phải được đánh dấu trên bản đồ của xã, ghi chép và lưu giữ thông tin tại UBND xã, phường, thị trấn.

Bài, ảnh: GIA KHÁNH

Chăn nuôi an toàn sinh học để phòng, chống dịch tả heo Châu Phi

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Vừa qua, Chi cục Chăn nuôi - Thú y (Sở Nông nghiệp - PTNT) tỉnh Vĩnh Long tổ chức tập huấn cho trên 65 cơ sở, trang trại chăn nuôi trong toàn tỉnh một số biện pháp kỹ thuật chăn nuôi an toàn sinh học (ATSH) để phòng chống bệnh dịch tả heo Châu Phi.

Theo TS. Nguyễn Như Pho - Giám đốc Kỹ thuật Tập đoàn Anova, đối với cơ sở chăn nuôi ATSH phải thực hiện đồng bộ 3 biện pháp: ngăn chặn dịch bệnh từ bên ngoài, ngăn chặn dịch bệnh lây lan bên trong và không để dịch bệnh phát tán ra cộng đồng.

Theo đó, điều kiện cơ sở để chăn nuôi ATSH là khu chăn nuôi phải biệt lập với khu vực xung quanh bằng rào; phải có nhà khử trùng xe và người tại cổng; phải bố trí cơ sở chăn nuôi làm 2 khu: khu dơ và khu sạch tách biệt nhau; có khu vực cách ly hoặc nuôi riêng cho thú mới nhập trại; có trang bị tối thiểu: thuốc khử trùng, ủng, bảo hộ,…

Tuy nhiên, việc đầu tư bài bản đòi hỏi chi phí lớn, TS. Nguyễn Như Pho khuyến cáo người chăn nuôi tùy theo khả năng mà đầu tư phù hợp nhưng phải đảm bảo các điều kiện cơ sở thì chăn nuôi ATSH mới phát huy hiệu quả phòng, chống dịch bệnh.

LÊ SƠN

Thoát nghèo nhờ nuôi ngan bán trứng

Nguồn tin: Báo Ninh Bình

Từ nghèo khó, nhờ chăn nuôi kết hợp với trồng cây thanh long, gia đình anh Phạm Bá Tuần ở thôn 3, xã Đông Sơn, thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình đã trở nên khá giả.

Anh Phạm Bá Tuần chăm sóc đàn ngan đẻ. Ảnh: Minh Đường

Sinh ra trong một gia đình làm nông nghiệp lại đông anh em nên khi lập gia đình, Phạm Bá Tuần chẳng có mấy vốn liếng trong tay. Đặc biệt, cuộc sống gia đình anh Tuần càng khó khăn hơn khi vợ con thường xuyên đau ốm.

Năm 2014, được Hội Phụ nữ xã hướng dẫn vay 20 triệu đồng từ nguồn vốn Ngân hàng CSXH anh đã chọn mua một cặp bò để phát triển kinh tế gia đình.

Ngoài ra, để có thêm đồng ra, đồng vào trang trải cuộc sống thường ngày, anh trồng thêm rau, dưa, khoai, sắn… mùa nào thức ấy, hôm nào cũng có vài món để vợ mang ra chợ bán.

Với sự chăm chỉ, chịu thương chịu khó nên chỉ khoảng 2 năm sau gia đình anh đã thoát nghèo và trả xong nợ. Như được tiếp thêm động lực, năm 2016 gia đình anh Tuần vay thêm 30 triệu đồng từ chương trình cho vay hộ cận nghèo để chăn nuôi thêm con lợn, con gà và kiên cố lại chuồng trại.

Nhận thấy trong vùng chưa có ai nuôi ngan lấy trứng, anh đã nghiên cứu, tìm hiểu thị trường và quyết định mua 500 con ngan giống về nuôi. Ngoài ra anh còn trồng 400 trụ thanh long ruột đỏ. Nhờ tích cực áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào sản xuất; đồng thời, đưa các loại cây con mới vào chăn nuôi, trồng trọt đã mang lại hiệu quả thiết thực.

Đàn gia súc, gia cầm của gia đình anh Tuần luôn khỏe mạnh, phát triển tốt. Riêng với 500 con ngan đẻ trứng, mỗi ngày anh lãi 500 nghìn đồng. Còn vườn thanh long, vợ anh cho biết: Từ đầu năm đến nay, chị đã mang ra chợ bán được 4 lứa, mỗi lứa thu ngót chục triệu đồng. Gia đình anh Tuần còn có thu nhập từ các cây màu trồng xen trong vườn, từ lợn, gà… mỗi năm cũng để ra được 120-140 triệu đồng.

Chia sẻ về kinh nghiệm nuôi ngan, anh Tuần cho biết: Nuôi ngan đẻ không khác với nuôi ngan thương phẩm. Chỉ lưu ý trong quá trình nuôi chuồng trại phải sạch sẽ và có bể tắm, chỗ phơi nắng cho ngan. Ngoài ra, cần chọn vị trí thoáng mát và yên tĩnh để làm chuồng trại, làm như vậy con ngan mới đẻ tốt được.

Trung bình, ngan sau khi nuôi khoảng 6 tháng là bắt đầu đẻ, phải sang tháng thứ 8 ngan mới đẻ đều, trứng to và tỷ lệ đẻ cao, khoảng 70% và cho khai thác trứng liên tục trong khoảng 8 tháng liền. Trứng ngan được thương lái thu mua tận nhà với giá dao động từ 6.000-7.000 đồng/quả.

Cũng theo anh Tuần, nuôi ngan lấy trứng rất hay là sau khi khai thác trứng xong, ngan bố mẹ sẽ được bán thịt với giá cao hơn từ 20-30 ngàn đồng so giá ngan thịt bình thường. Ngoài ra, phân ngan còn là loại phân bón đặc biệt để trái thanh long vừa to vừa ngọt.

Về dự định trong tương lai, anh Tuần không chút giấu diếm: “Tôi đã làm thủ tục vay thêm 100 triệu đồng từ chương trình cho vay mới thoát nghèo để chuẩn bị trồng thêm 500 trụ thanh long nữa. Bên cạnh đó, nhân rộng đàn ngan đẻ lên 2.000 con. Với quy mô sản xuất như vậy gia đình mới có thể thoát nghèo bền vững và sớm trở nên khá giả được”.

Hà Phương

Nguyên Chủ tịch nước - Trương Tấn Sang trao 200 con bò giống cho hộ nghèo

Nguồn tin: Báo Long An

Ngày 04/8, nguyên Chủ tịch nước - Trương Tấn Sang cùng đại diện các đơn vị tài trợ đến trao 200 con bò giống cho gia đình chính sách có hoàn cảnh khó khăn, hộ nghèo, cận nghèo tại các xã, phường trên địa bàn thị xã Kiến Tường, tỉnh Long An.

Sau 3 đợt trao tặng đã có 414 con bò giống được trao cho người nghèo thị xã Kiến Tường

Đợt này, thông qua sự vận động của nguyên Chủ tịch nước - Trương Tấn Sang, đoàn Luật sư tỉnh Bình Dương và một số doanh nghiệp đã tài trợ 200 con bò giống với tổng trị giá 2,6 tỉ đồng cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

Trước đó, chương trình trao bò giống do nguyên Chủ tịch nước - Trương Tấn Sang vận động các đơn vị tài trợ đã được triển khai 2 đợt trên địa bàn thị xã Kiến Tường với tổng số 214 con bò giống được trao tặng đến các gia đình nghèo ở địa phương.

Nguyên Chủ tịch nước - Trương Tấn Sang mong muốn chương trình giúp cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo, gia đình có hoàn cảnh khó khăn có điều kiện phát triển chăn nuôi, cải thiện đời sống. Qua đó, góp phần tích cực hỗ trợ chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững tại địa phương./.

Tuấn Hùng

Hiếu Giang tổng hợp

 

 
 
 
 

 

 
 
 
 
 
 
 
 

 

 
 
 
 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop