Tin nông nghiệp ngày 09 tháng 03 năm 2020

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 09 tháng 03 năm 2020

ĐBSCL sống chung với hạn mặn: Chuyển đổi để thích nghi

Nguồn tin:  Sài Gòn Giải Phóng

ĐBSCL là vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm của cả nước. Những năm gần đây, diễn biến phức tạp của vấn đề hạn, mặn đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp trong vùng. Vấn đề là các giải pháp ứng phó trước mắt và lâu dài trước tình trạng hạn, mặn ở vùng ĐBSCL đòi hỏi tính chủ động thích ứng tốt hơn.

Ông Lâm Văn On (xã Châu Khánh, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng) mạnh dạn chuyển đổi thành công mô hình sản xuất lúa sang hoa màu. Ảnh: TUẤN QUANG

Lúng túng

Câu chuyện chuyển đổi sản xuất của nông dân trước đây vốn dĩ đã gặp không ít khó khăn, thì đến nay càng gian nan hơn khi phải đối diện với thách thức biến đổi khí hậu, mà nhãn tiền là tác động của hạn, mặn. Dọc các cánh đồng hàng ngàn hécta chuyên canh lúa tại huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, trong cao điểm hạn, mặn là hình ảnh của những cách đồng chết. Đâu đâu cũng thấy đất đai khô cằn, nứt nẻ, mương máng không còn một giọt nước, đồng khô cỏ cháy đến nỗi tìm một mảng xanh cũng khó thấy. Rõ ràng, đứng trước hạn, mặn, nhiều nông dân tại ĐBSCL đang cảm thấy chới với, quẩn quanh với bài toán sẽ làm gì với mảnh đất của mình. Trước đây không có mặn thì làm được 3 vụ lúa, rồi làm thuê làm mướn thêm, tằn tiện cũng kiếm sống được qua ngày. Nhưng với tình trạng hạn, mặn kéo dài này, họ phải đi thành phố làm thuê, vì ở quê cũng chẳng có gì để làm.

Giữa cánh đồng khô cạn, ông Lâm Văn On (ngụ xã Châu Khánh, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng), một trong số ít nông dân mạnh dạn chuyển đổi thành công mô hình sản xuất lúa sang hoa màu ngay giữa cao điểm hạn, mặn. Ông On dự trữ nước trong máng (được gia cố bằng tấm cao su, rộng khoảng 1m, dài hơn 50m) đặt tại ruộng. Nước được lấy từ giếng khoan, dự trữ vào máng rồi qua xử lý phèn là tưới được. Bằng cách làm này, ông On đã có đủ nước tưới cho gần 3.000m² ruộng dưa leo cho đến thu hoạch. Với giá dưa thương lái mua khoảng 5.000 đồng/kg, ước tính ông thu về hơn 40 triệu đồng.

Trên thực tế, hầu như đa phần người dân bỏ đất trống hoặc đánh liều xuống giống vụ 3.

GS-TS Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Trường Đại học Nam Cần Thơ, đã chỉ ra nhược điểm của một số nông dân: Họ chỉ khư khư giữ lấy miếng đất nhỏ bé của mình, từ cái bờ ruộng nhỏ hẹp cũng không muốn phá đi, không chịu cùng nhau dồn điền đổi thửa để có một trang trại lớn với những kênh tưới, tiêu theo đúng kỹ thuật hiện đại. Dĩ nhiên ngày nay chúng ta cũng có một số nông dân giàu, nhưng đây là những nông dân dám nuôi, trồng những gì khác hơn cây lúa, trên diện tích lớn. Làm sao cho người nông dân nhỏ lẻ chịu thấy xa hiểu rộng, để tự họ cũng sẽ làm giàu được? Đây là một thách thức lớn nhất đối với xã hội nông thôn nước ta hiện nay. Trước đây chúng ta đổ thừa cho Nhà nước ép dân trồng lúa, nhưng bây giờ Nhà nước đã đổi mới tư duy, cho chính quyền địa phương đầu tư đa dạng hơn cây lúa, thì đến lượt nông dân nhỏ lẻ cũng phải tham gia với Nhà nước trong chiến lược mới.

“Chúng ta phải biết kinh doanh nông nghiệp đa dạng, thông minh hơn, chứ không chỉ trồng lúa. Cần quy hoạch lại các địa bàn nông nghiệp để bố trí những vùng lúa nào cần được thay thế, rồi tìm và khuyến khích các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nước ngoài, về đầu tư sản xuất cây trồng, vật nuôi mà họ có đầu ra chắc chắn. Chính quyền địa phương cùng doanh nghiệp tổ chức sản xuất lại tại vùng có quy hoạch mới đó. Bây giờ chúng ta mới thấy vai trò rất quan trọng của các doanh nghiệp có công nghiệp chế biến và có khả năng tiêu thụ nông sản, không thể thiếu trong chuỗi giá trị phát triển nông nghiệp”, GS-TS Võ Tòng Xuân đề xuất.

Yêu cầu chia sẻ nguồn tài nguyên chung

Năm nay, tình hình thiệt hại vì hạn, mặn trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu giảm đáng kể do tỉnh chủ động xây dựng kịch bản phòng chống hạn hán, xâm nhập mặn. Đồng thời cùng với việc công trình Cống âu thuyền Ninh Quới đưa vào vận hành, không chỉ kiểm soát được mặn xâm nhập vào vùng sản xuất lúa mà còn có thể đưa nước mặn vào khu vực nuôi tôm của tỉnh Bạc Liêu. Dù vậy, vẫn có khu vực sản xuất lúa phía Bắc quốc lộ 1A có nguy cơ thiếu nước ngọt, gây chết lúa (khoảng 5.400ha) như khu vực phía Tây trục kênh Vĩnh Phong (thị xã Giá Rai) và diện tích ven theo các cống thuộc tiểu vùng giữ ngọt. Những khu vực lúa có nguy cơ thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn, thì ngành chức năng khuyến cáo người dân không xuống giống vụ lúa đông xuân.

Theo ông Lê Văn Sử, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, vấn đề cung cấp nước ngọt phục vụ sản xuất cho vùng bán đảo Cà Mau đã được nghiên cứu và thực hiện bằng Dự án Ngọt hóa bán đảo Cà Mau từ nhiều năm trước. Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, đến nay dự án chưa hoàn thành, mục tiêu của dự án cũng chưa đạt được. Trong khi hệ thống hạ tầng thủy lợi chậm được đầu tư theo quy hoạch, xâm nhập mặn tiếp tụp lấn dần, người dân tự phát sản xuất trong điều kiện chịu sự tác động của biến đổi khí hậu, do đó nước mặn ngày càng lấn sâu. Phân ranh mặn ngọt theo trục kênh xáng Quản Lộ - Phụng Hiệp không còn khả thi, đang được nghiên cứu thay bằng trục sông Trắc Bằng. Tuy nhiên, đến nay chưa có kết luận việc dẫn dòng nước ngọt có đảm bảo cho sản xuất, sinh hoạt vùng bán đảo Cà Mau nói chung, vùng ngọt hóa của tỉnh Cà Mau nói riêng.

Từ thực tế trên, ông Sử cho biết, Cà Mau kiến nghị nghiên cứu xây dựng hệ thống kênh trục, cấp nước ngọt theo hình thức cưỡng bức (bơm) từ sông Hậu về phục vụ sản xuất và sinh hoạt cho các tỉnh ven biển vùng bán đảo Cà Mau, hoặc nghiên cứu xây dựng hệ thống hồ chứa quy mô lớn ở vùng ngọt (U Minh); xây dựng khôi phục lại hệ thống ao, hồ theo cụm, tuyến dân cư “giếng làng” để trữ nước mưa phục vụ sản xuất, sinh hoạt.

Nhắc lại Nghị quyết 120 của Chính phủ về phát triển bền vững vùng ĐBSCL, đề cao việc thích nghi với biến đổi khí hậu, TS Đặng Kiều Nhân, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL, cho rằng, mô hình trồng lúa xen canh với nuôi tôm đã được nghiên cứu từ lâu, mà Cà Mau là địa phương đi đầu. Mô hình lúa - tôm phù hợp cho phát triển lâu dài ở vùng bán đảo Cà Mau. Theo PGS-TS Lê Anh Tuấn, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu biến đổi khí hậu (Trường Đại học Cần Thơ), về ngắn hạn, cần giảm các diện tích canh tác lúa ở những vùng gò cao, các vùng ven biển, chuyển một phần diện tích trồng lúa sang những cây trồng cạn ít tiêu thụ nước hoặc chuyển sang nuôi trồng thủy sản; khuyến khích và hỗ trợ nông dân tìm mọi cách trữ nước ở các vùng trũng như lung đìa, ao hồ, các kênh mương… Người dân cần sử dụng nước tiết kiệm và hiệu quả.

“Về dài hạn, cần vận dụng các biện pháp ngoại giao, luật pháp và kinh tế để yêu cầu các quốc gia thượng nguồn phải xem Mê Công là dòng sông chung cho khu vực. Các nước phải có trách nhiệm chia sẻ nguồn tài nguyên chung này. Ngược lại, các nước hạ nguồn có thể tạo những điều kiện phát triển kinh tế giao thương cho các nước nói trên”, PGS-TS Lê Anh Tuấn đề xuất.

Sống thuận thiên để an nhiên

Lâu nay, chúng ta xây dựng hệ thống thủy lợi chủ yếu là để “thoát lũ”, nên chuyển sang “trữ ngọt” và dùng nước tiết kiệm. Tư duy đó cần được nâng tầm lên bằng việc rà soát, cập nhật, điều chỉnh quy hoạch tổng thể vùng, từng tiểu vùng, ngành, nhất là quy hoạch sản xuất, hạ tầng thủy lợi, giao thông. Sản xuất nông nghiệp cần áp dụng “3 chuyển dịch”: Dịch chuyển lịch thời vụ để “né hạn, mặn”, sử dụng giống phù hợp điều kiện hạn, mặn và mạnh dạn chuyển đổi cây trồng, vật nuôi hiệu quả kinh tế hơn cây lúa kèm theo là các giải pháp kỹ thuật, tín dụng, gắn với thị trường tiêu thụ nông sản để đảm bảo sự chuyển đổi thành công, tránh duy ý chí và hành chính hóa sản xuất.

Lịch sử hàng trăm năm qua cho thấy, người dân ĐBSCL đã biết chủ động thích ứng thuận thiên, hợp địa, tôn trọng quy luật tự nhiên theo điều kiện thực tế. Trong một số tiểu vùng bị hạn, mặn nghiêm trọng vẫn có nhiều nông dân “né hạn” nhờ chủ động lịch thời vụ, sử dụng giống ngắn ngày; có những rẫy màu chủ động nước tưới, tránh được thiệt hại. Đó cũng là cách mà người đồng bằng đã hiện thực hóa thành công triết lý “sống chung với lũ, vượt lên đỉnh lũ” tạo ra nhiều kỳ tích lúa gạo, thủy sản, trái cây vừa qua.

TS TRẦN HỮU HIỆP, chuyên gia kinh tế

NHÓM PHÓNG VIÊN

Nhiều tỉnh miền Tây công bố tình huống hạn mặn khẩn cấp

Nguồn tin:  Báo Chính Phủ

Hạn mặn vượt mốc lịch sử 2016, nhiều địa phưởng ĐBSCL đã công bố tình huống khẩn cấp, tập trung ứng phó.

Gia cố bờ ngăn mặn tại Trùm Thuật Nam, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Ảnh: TTXVN

Cà Mau, Long An công bố tình huống khẩn cấp

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Long An Phạm Văn Cảnh vừa ký quyết định công bố tình huống khẩn cấp do xâm nhập mặn trên địa bàn tỉnh, với cấp độ rủi ro thiên tai do xâm nhập mặn thuộc cấp độ 2. Các hoạt động, biện pháp công trình và phi công trình để thực hiện ứng phó, khắc phục trong thời gian diễn ra thiên tai xâm nhập mặn được thực hiện theo tình huống khẩn cấp.

UBND tỉnh Long An giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Thường trực Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh, chủ trì, phối hợp với các sở, ngành liên quan, UBND các huyện, thị xã, thành phố tổ chức triển khai thực hiện các giải pháp cấp bách nhằm bảo vệ an toàn sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và bảo đảm cấp nước sinh hoạt cho người dân.

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Long An cho biết, theo dự báo của Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, xâm nhập mặn có khả năng diễn biến gay gắt, nghiêm trọng trong thời gian tới. Cụ thể, nhận định khu vực sông Vàm Cỏ, ảnh hưởng bắt đầu từ tháng 1/2020, cao nhất vào các tháng 2, 3, 4/2020; tăng dần và kết thúc vào cuối tháng 5/2020. Cửa sông Sông Vàm Cỏ Đông có phạm vi xâm nhập 100 km, cao hơn trung bình nhiều năm 40 km, có khả năng cao hơn năm 2016 hơn 3 km. Sông Vàm Cỏ Tây có phạm vi xâm nhập 110 km, cao hơn trung bình nhiều năm 52 km, có khả năng cao hơn năm 2016 khoảng 5 km.

Tỉnh Long An đang tập trung cả hệ thống chính trị chủ động, quyết liệt, triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp cấp bách để phòng chống, ứng phó với diễn biến xâm nhập mặn, đồng thời bảo vệ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và cấp nước sinh hoạt cho người dân, hạn chế đến mức thấp nhất do thiệt hại xâm nhập mặn gây ra.

Trước đó, ngày 3/3, Văn phòng UBND tỉnh Cà Mau cho biết, Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau đã chính thức ban hành Quyết định công bố tình huống khẩn cấp hạn hán cấp độ 2 tại vùng ngọt hóa thuộc huyện U Minh và huyện Trần Văn Thời.

Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh là Cơ quan thường trực Ban Chỉ huy phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành, đơn vị, UBND 2 huyện U Minh và Trần Văn Thời tiếp tục thực hiện các giải pháp ứng phó hạn hán theo Kế hoạch số 142 của Chủ tịch UBND tỉnh ban hành về phòng, chống, khắc phục thiệt hại do hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn.

Các cơ quan, đơn vị có liên quan xác định, khoanh vùng những khu vực bị ảnh hưởng do hạn hán; huy động mọi nguồn lực triển khai ngay phương án ứng phó hạn hán theo phương án, kịch bản ứng phó với rủi ro thiên tai trên địa bàn do hạn hán cấp độ 2 đã được phê duyệt.

Đến đầu tháng 3/2020, do ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn kéo dài đã khiến nước trên hệ thống kênh, rạch vùng ngọt hóa tỉnh Cà Mau khô cạn gần như hoàn toàn. Thực tế trên đã tác động xấu đến sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết cấu các công trình về giao thông, thủy lợi của tỉnh Cà Mau.

Khô hạn làm thiệt hại hơn 18.000 ha lúa, hoa màu. Toàn tỉnh Cà Mau hiện có hơn 20.000 hộ dân vùng ngọt hóa đang thiếu nước ngọt phục vụ nhu cầu sinh hoạt, sản xuất, nuôi trồng thủy sản.

Đối phó “khó khăn kép”

Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Bến Tre Trần Ngọc Tam cho biết, năm nay hạn mặn trên địa bàn tỉnh Bến Tre diễn ra gay gắt và nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của người dân. Tỉnh đang gặp khó khăn kép là vừa phải tập trung cho công tác phòng, chống dịch COVID-19 vừa phải phòng, chống hạn hán, xâm nhập mặn.

Theo Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Bến Tre, khả năng tỉnh còn phải đối mặt khoảng 3 tháng nữa với hạn hán, xâm nhập mặn cho đến khi mùa mưa bắt đầu. Vì vậy, địa phương rất cần sự hỗ trợ của Trung ương trong việc ứng phó với hạn mặn, đồng thời có giải pháp hỗ trợ tỉnh đưa nước từ thượng nguồn về để phục vụ cho các nhà máy và cung cấp nước thô cho nhân dân sử dụng trong sinh hoạt, sản xuất.

Tại Tiền Giang, theo Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Hoàng Nhật Nam, vùng cây ăn quả ở phía Nam Quốc lộ 1 chịu ảnh hưởng trực tiếp của hạn, mặn với trên 36.000 ha. Trong đó, trên 24.000 ha mẫn cảm với mặn cần bảo vệ, đặc biệt là vùng trồng sầu riêng chuyên canh trên 12.000 ha, tập trung tại huyện Cai Lậy và địa bàn lân cận.

Trước tình hình trên, huyện Cái Bè thi công nâng cấp, sửa chữa 16 cống đập, 16 công trình kênh mương thủy lợi nội đồng, trang bị 15 máy đo độ mặn, tiến hành đo độ mặn hàng ngày và thông báo rộng rãi trên phương tiện thông tin đại chúng để nông dân chủ động phòng chống.

Huyện Châu Thành cho đóng toàn bộ 173 cống ngăn mặn, triều cường. Địa phương trang bị cho mỗi xã từ 2 - 3 bút đo mặn, kịp thời thông báo tới người dân biết để chủ động lấy nước tưới và dự trữ.

Huyện Cai Lậy huy động nguồn vốn khoảng 35,5 tỉ đồng thi công các công trình phòng chống hạn, mặn cho vùng chuyên canh. Trong đó, huyện nạo vét 42 công trình kênh mương, sửa chữa 12 công trình cống, thi công thêm 28 cống mới, đắp 24 công trình đập ngăn mặn bảo vệ các vùng chuyên canh cây ăn quả phía Nam, vùng trồng lúa năng suất cao phía Bắc Quốc lộ 1.

Tỉnh đã đầu tư khoảng 39,2 tỉ đồng thi công các công trình ứng phó hạn, mặn cho vùng trồng cây ăn quả. Tỉnh giao Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp cùng các địa phương thường xuyên theo dõi xâm nhập mặn để có biện pháp ứng phó...

Ngoài ra, trước tình hình thiên tai phức tạp, khó lường, nhân dân các địa phương tăng cường nạo vét kênh mương trữ ngọt, kết hợp tưới tiết kiệm, trang bị dụng cụ trữ ngọt thậm chí dùng sà lan lên vùng đầu nguồn chở nước ngọt về tưới cho cây trồng…

Ổn định nước sinh hoạt cho người dân

Tính đến nay, trên địa bàn các huyện An Biên, An Minh, Giang Thành, Phú Quốc, U Minh Thượng, Châu Thành, Hòn Đất, Kiên Lương, Kiên Hải và Gò Quao của tỉnh Kiên Giang, 20.476 hộ có khả năng bị ảnh hưởng không có nước sinh hoạt, thiếu nước sinh hoạt trong mùa khô năm 2019 - 2020. Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn Kiên Giang đã chủ động xây dựng các giải pháp trước mắt và trong những năm tiếp theo, để ổn định nguồn nước sinh hoạt cho người dân trong mùa khô.

Theo Giám đốc Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn Kiên Giang Nguyễn Thanh Bình, nếu tình hình nắng hạn kéo dài khoảng một tháng nữa, các xã đảo thuộc huyện Kiên Hải chắc chắn sẽ thiếu nước. Trong trường hợp khẩn cấp, đối với một số khu vực không có công trình cấp nước tập trung (trạm cấp nước), Trung tâm sẽ phối hợp với các địa phương lập một số điểm cấp nước tập trung ở các vị trí thuận tiện giao thông thủy và bộ, để người dân có thể chở nước về sử dụng.

Bên cạnh đó, Trung tâm phối hợp chặt chẽ với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Cấp nước Kiên Giang và các doanh nghiệp khai thác nước hỗ trợ nguồn bổ sung khi cần thiết; huy động lực lượng bộ đội, biên phòng, các “mạnh thường quân” sử dụng phương tiện vận chuyển nước ở đất liền ra các xã đảo, kéo đường ống từ các trạm cấp nước tập trung tại các xã lân cận không bị thiếu nước đến các điểm tập trung (trụ sở xã, trạm y tế, bến đò) cho người dân đến lấy nước…

Hiện Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn Kiên Giang đầu tư xây dựng, đẩy nhanh tiến độ các công trình cấp thoát nước đang triển khai.

Cần Thơ chủ động ứng phó với xâm nhập mặn

UBND thành phố Cần Thơ vừa tổ chức cuộc họp đánh giá tình hình xâm nhập mặn trên địa bàn trong những tháng đầu năm 2020 và dự báo về xâm nhập mặn trong thời gian tới với sự tham dự của các sở, ban ngành, UBND quận Cái Răng - nơi bị ảnh hưởng xâm nhập mặn của thành phố.

Theo báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Cần Thơ, hầu hết người dân trên địa bàn đều sử dụng nước sông để phục vụ sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản. Chính vì vậy, mặn có xâm nhập vào các sông, rạch sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và sản xuất của người dân.

Phó Chủ tịch UBND thành phố Cần Thơ Nguyễn Thanh Dũng yêu cầu các sở, ngành, địa phương trước mắt chủ động triển khai các biện pháp phòng chống xâm nhập mặn, nhất là vào thời điểm cuối tháng 3, đầu tháng 4/2020; tuyên truyền cho người dân tại những khu vực được dự báo sẽ bị ảnh hưởng từ xâm nhập mặn để chủ động lấy nước sản xuất, sinh hoạt.

Theo Phó Chủ tịch UBND thành phố Cần Thơ, trước tiên cần tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền cho người dân biết về tình hình xâm nhập mặn. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, quận Cái Răng cần thông báo cho người dân biết thời gian, địa điểm sẽ bị mặn xâm nhập, đặc biệt là trong đợt điều cường tháng 2 âm lịch. Khi mặn xâm nhập, những khu vực, đối tượng cây trồng, vật nuôi nào sẽ bị ảnh hưởng để tính toán cho từng khu vực, chủ động ứng phó đến hết các đợt triều cường trong năm 2020.

Về giải pháp lâu dài, Phó Chủ tịch UBND thành phố đề nghị các sở, ngành, địa phương nghiên cứu, đề xuất mở rộng hệ thống cấp nước nông thôn hiện có để đảm bảo 100% người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh; ứng dụng kỹ thuật xử lý và lọc nước nhiễm mặn; nghiên cứu canh tác các giống lúa, cây ăn trái, rau màu chủ lực của thành phố có thể chịu được sự thay đổi của biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn.

Nhận định về xu thế xâm nhập mặn từ 6-10/3, Trưởng phòng thủy văn Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ, Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia Phùng Tiến Dũng cho biết, tình trạng xâm nhập mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục diễn ra gay gắt trong tháng 3/2020, đặc biệt là thời kỳ từ 11-15/3, xâm nhập mặn ở mức tương đương và cao hơn đợt mặn cao điểm giữa tháng 2/2020 và cùng kỳ tháng 3 năm 2016, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và sinh hoạt, sau đó có xu thế giảm dần đến cuối tháng 3; xâm nhập mặn các sông Vàm Cỏ, sông Cái Lớn duy trì ở mức cao tới cuối tháng 4/2020, sau đó xâm nhập mặn có khả năng giảm dần.

Trong trường hợp cực đoan, thời gian thiếu mưa kéo dài kết hợp với tăng sử dụng nước trên các dòng nhánh và trữ nước tại các đập sẽ làm cho tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn kéo dài hơn và trầm trọng hơn.

Dòng chảy trên sông Mê Công về Đồng bằng sông Cửu Long trong tháng 3/2020 ở mức thiếu hụt so với trung bình nhiều năm và năm 2016 từ 5-20%, mực nước tại Biển Hồ (Campuchia) ở mức thấp, khả năng bổ sung nước cho Đồng bằng sông Cửu Long không nhiều./.

Thu Hà

Kết nối tiêu thụ nông sản

Nguồn tin:  Báo An Giang

Dù dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng lớn đến những mặt hàng nông sản xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc nhưng cũng có những kênh tiêu thụ khác thay thế. Vấn đề nằm ở chỗ, cần xây dựng những hợp tác xã (HTX) đủ mạnh để làm cầu nối liên kết với doanh nghiệp (DN).

Cần đánh giá lại thị trường

Là một DN đã đưa được những sản phẩm trái cây Việt Nam sang những thị trường khó tính, bà Nguyễn Thị Hồng Thu, Giám đốc Công ty TNHH Xuất nhập khẩu trái cây Chánh Thu (Công ty Chánh Thu, huyện Chợ Lách, Bến Tre) cho rằng, ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 là bài học kinh nghiệm quý báu về định hướng thị trường.

“Đối với nông sản xuất khẩu, không nên dồn vào 1 thị trường duy nhất bởi khi bị ùn tắc, thiệt hại sẽ rất lớn. Điển hình là những DN chuyên xuất khẩu vào Trung Quốc hiện nay. DN nên củng cố lại hệ thống sản xuất và tiêu thụ để phân tán thị trường, chú ý không quên thị trường trong nước. Thời gian qua, khi xuất khẩu gặp khó khăn, chính thị trường trong nước đã giúp tiêu thụ hàng hóa nhanh” - bà Thu phân tích.

Tại An Giang, dù đã hợp tác xây dựng được vùng nguyên liệu xoài ở Chợ Mới, An Phú, Tri Tôn và Tịnh Biên nhưng Giám đốc Công ty Chánh Thu vẫn chưa hài lòng vì mối liên kết đôi lúc chưa chặt chẽ.

“Do điều kiện công ty ở xa địa bàn An Giang nên gặp khó khăn về điều kiện thu mua. Lúc công ty cần thì nông dân chưa có, lúc hàng nhiều thì công ty chưa giải quyết kịp. Đối với nông sản xuất khẩu, nhất là những thị trường khó tính như: Mỹ, Úc, thời gian từ lúc thu hoạch đến bảo quản, chiếu xạ, xuất khẩu là rất quan trọng” - bà Thu đánh giá.

Cần hỗ trợ công nghệ ủ chín để sản phẩm chuối kết nối tiêu thụ được vào hệ thống phân phối trong nước

Thể hiện quyết tâm gắn kết với An Giang, bà Thu cho biết, Công ty Chánh Thu hướng đến mục tiêu xây dựng vùng nguyên liệu xoài đảm bảo tiêu chuẩn sạch, an toàn và bền vững phục vụ xuất khẩu, đồng thời xây dựng được thương hiệu để tiêu thụ trong nước. Bà Thu đề nghị tỉnh hỗ trợ những dự án khởi nghiệp ở địa phương, phát triển những DN trong tỉnh chuyên thu mua xoài để cung cấp cho DN ngoài tỉnh.

“DN trong tỉnh sẽ thu mua tốt hơn, đúng thời điểm và kịp thời hơn, đảm bảo rút ngắn được thời gian từ khâu thu hoạch đến thực hiện các quy trình xuất khẩu. Về phía Công ty Chánh Thu, sẽ làm việc với HTX, nông dân ở vùng trồng để thống nhất quy định trách nhiệm trong các khâu sản xuất, từ đó hợp tác chặt chẽ hơn” - bà Thu nhấn mạnh.

Giám đốc Công ty Chánh Thu Nguyễn Thị Hồng Thu cũng lưu ý, tỉnh An Giang với hơn 11.000ha xoài đang cho trái, sản lượng sắp tới sẽ rất lớn. Tỉnh cần chuẩn bị trước các kênh tiêu thụ, không chỉ sản phẩm tươi mà cần khuyến khích DN đầu tư đa dạng hóa sản phẩm bảo quản được như: xoài sấy, nước ép xoài, sản phẩm xoài cấp đông…

Chủ động kết nối

Phó Giám đốc Sở Công thương Phan Lợi cho biết, dù chịu ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 nhưng xuất khẩu của An Giang vẫn đạt khá. 2 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu của tỉnh ước đạt 145,5 triệu USD, tăng 3,71% so cùng kỳ 2019. Tuy nhiên, với những sản phẩm có thời gian bảo quản ngắn ngày như: xoài, chuối có thể gặp khó khăn khi bước vào thu hoạch chính vụ.

Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, các đơn vị gồm: Sở Công thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư, Hội Nông dân tỉnh đã họp đánh giá tình hình và thống nhất giải pháp hỗ trợ khi có diễn biến bất lợi về thị trường. Đồng thời, tổ chức các chuyến khảo sát, làm việc với địa phương có vùng nguyên liệu nông sản để nắm bắt thực tế.

Theo ông Lợi, Sở Công thương đã làm việc và có nhiều văn bản đề nghị các siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện ích đang hoạt động trên địa bàn An Giang và các nhà phân phối lớn tại TP. Hồ Chí Minh như: Big C, Mega, Co.opmart, Aeon, Lotte, Vinmart, Bách Hóa Xanh… đồng thời đề nghị Sở Công thương các tỉnh, thành phố hỗ trợ kết nối tiêu thụ nông sản của An Giang.

Qua đó, kết nối được siêu thị Tứ Sơn, Co.opmart Long Xuyên và Co.opmart Thoại Sơn tiêu thụ được sản phẩm bưởi da xanh, xoài tượng. Tuy nhiên, việc kết nối với các sản phẩm khác gặp vướng mắc.

Cụ thể, siêu thị Big C tại TP. Hồ Chí Minh đồng ý mở mã code để nhập mặt hàng xoài An Giang nhưng khi liên hệ đặt hàng theo giá ban đầu thì HTX, nông dân trồng xoài đòi tăng giá bán nên không thống nhất. Đối với sản phẩm chuối của Công ty SD (Tri Tôn), siêu thị Big C và bộ phận thu mua của Bách Hóa Xanh đồng ý kết nối tiêu thụ nhưng do Công ty SD chỉ cung cấp chuối xanh (chưa ủ chín) nên không liên kết được.

Trước thực tế này, Giám đốc Sở NN&PTNT Nguyễn Sĩ Lâm đã chỉ đạo các đơn vị chuyên môn thuộc sở, hệ thống cán bộ nông nghiệp ở cơ sở phối hợp các địa phương rà soát kỹ diện tích, thời điểm thu hoạch nông sản, các đầu mối thu mua, từ đó thống kê sản lượng cụ thể cần hỗ trợ tiêu thụ để Sở NN&PTNT nắm, phối hợp Sở Công thương kết nối DN, siêu thị, cửa hàng tiêu thụ đạt hiệu quả.

NGÔ CHUẨN

Giá chôm chôm tăng mạnh trở lại

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Sau một thời gian ở mức thấp, giá nhiều loại chôm chôm tại các địa phương vùng ĐBSCL: Bến Tre, Vĩnh Long... tăng mạnh trở lại từ 8.000-17.000 đồng/kg so với cách nay khoảng 3 tuần.

Thu hoạch chôm chôm nhãn tại một hộ dân ở xã Phú Phụng, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre.

Cụ thể, chôm chôm Java từ 8.000 đồng/kg, nay tăng lên 16.000 đồng/kg. Chôm chôm nhãn (chôm chôm đường) từ 15.000 đồng/kg, nay tăng lên 30.000 đồng/kg. Riêng giá chôm chôm Thái đang ở mức khá cao với từ 45.000-47.000 đồng/kg do được đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường châu Âu, trong khi trước đó giá chỉ 28.000-30.000 đồng/kg.

Giá chôm chôm tăng do gần đây tiểu thương và doanh nghiệp đẩy mạnh thu mua xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Theo tiểu thương và doanh nghiệp kinh doanh trái cây, nhiều khả năng giá chôm chôm còn tăng do năm nay nguồn cung hạn chế, nhiều vườn chôm chôm cho trái ít vì ảnh hưởng hạn mặn, trong khi đầu ra xuất khẩu gần đây có nhiều khởi sắc trở lại. Hiện trái chôm chôm không chỉ xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc mà còn tiêu thụ tại nhiều quốc gia ở châu Âu. Ngoài ra, nhu cầu tiêu thụ trái chôm chôm tại thị trường trong nước cũng đang rất lớn, nhất là khi đang bước vào nghịch mùa của nhiều loại trái cây.

Tin, ảnh: KHÁNH TRUNG

Mường Khương (Lào Cai): Dứa vào vụ thu hoạch, giá dao động mức 5.000 đồng/kg

Nguồn tin: Báo Lào Cai

Bước sang tháng 3, một số diện tích dứa trên địa bàn huyện Mường Khương (tỉnh Lào Cai) đã bắt đầu cho thu hoạch. Hiện nay, giá bán dứa tương đối ổn định, đạt khoảng 5.000 đồng/kg.

Huyện Mường Khương là địa phương có diện tích trồng dứa lớn nhất tỉnh, năm 2019 đạt gần 800 ha. Cây dứa được trồng tập trung tại các xã hạ huyện như Bản Lầu, Bản Xen và Lùng Vai. Tùy vào điều kiện chăm sóc, cây dứa có thể cho thu hoạch từ 25 - 50 tấn/ha. Giá trị kinh tế từ cây dứa mỗi năm đạt gần 70 tỷ đồng.

Sản lượng dứa của Mường Khương chủ yếu được xuất bán sang Trung Quốc qua đường tiểu ngạch. Năm 2020, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, việc giao thương hàng hóa, trong đó có quả dứa đang chững lại. Hiện, dứa chủ yếu được tiêu thụ tại thị trường trong nước qua các nhà máy chế biến dứa với mức giá 4.000 – 5.000 đồng/kg. Theo nhận định của người trồng dứa, tuy giá dứa đầu vụ không cao như thương lái phía Trung Quốc thu mua những năm trước nhưng đây là mức giá tương đối cao, đảm bảo sản xuất có lãi.

THÚY PHƯỢNG

Trái cây xuất khẩu phải luôn đảm bảo chất lượng

Nguồn tin: Báo Sóc Trăng

So với các loại cây trồng khác thì cây ăn trái được xem là một trong những loại cây trồng đem về thu nhập khá cho bà con nhà vườn. Chính vì vậy trong những năm qua, việc cơ cấu giống cây trồng rất được các cấp ban ngành tỉnh Sóc Trăng quan tâm triển khai thực hiện, đặc biệt với Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp, hàng loạt mô hình sản xuất thuộc lĩnh vực nông nghiệp thay đổi, trong đó đã chuyển đổi quy hoạch các loại cây trồng kém hiệu quả sang các loại cây ăn trái đặc sản có giá trị kinh tế cao, phục vụ thị trường xuất khẩu, mở ra hướng đi phù hợp xu thế thị trường về xuất khẩu trái cây an toàn vệ sinh thực phẩm.

Là một trong những hợp tác xã (HTX) được doanh nghiệp ký kết hợp đồng thu mua bưởi xuất khẩu, Giám đốc HTX Bưởi Thành Công Lê Văn Phải, xã Kế Thành (Kế Sách) cho biết: “HTX có diện tích hơn 49ha, chuyên canh cây bưởi da xanh và bưởi năm roi, sản lượng ước đạt 20 tấn/ha/năm. HTX đã được cấp chứng nhận đạt VietGAP với diện tích 37,3ha, có 28 thành viên tham gia, được cấp mã số vùng trồng diện tích 41ha. Nhờ sự hỗ trợ của ngành chuyên môn về kỹ thuật sản xuất trái bưởi theo quy trình VietGAP, trái bưởi của HTX đạt yêu cầu về chất lượng phục vụ thị trường xuất khẩu, qua đó được doanh nghiệp liên kết thu mua với sản lượng năm 2019 là 40 tấn bưởi. So với việc bán trái cho các thương lái bên ngoài thì việc ký kết cùng doanh nghiệp tiêu thụ bưởi có giá thành tốt hơn, góp phần tăng lợi nhuận của thành viên. Đồng thời, để đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường xuất khẩu, HTX đã tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất do doanh nghiệp đưa ra cũng như ngành chuyên môn khuyến cáo nhằm đảm bảo chất lượng trái luôn an toàn vệ sinh thực phẩm…”.

Bí thư Tỉnh ủy Phan Văn Sáu trao đổi cùng đại diện doanh nghiệp thu mua trái vú sữa tím xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Ảnh: Thúy Liễu

Bà Nguyễn Thị Hồng Thu - Giám đốc Công ty Chánh Thu, doanh nghiệp thu mua trái cây xuất khẩu chia sẻ: “Doanh nghiệp đã đến Sóc Trăng thu mua trái vú sữa tím trong gần 2 năm qua tại HTX Quyết Thắng, xã Xuân Hòa (Kế Sách) để xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ. Để hỗ trợ HTX, bước đầu công ty cũng đã đưa kỹ thuật xuống tận các nhà vườn là thành viên HTX khảo sát cũng như hướng dẫn kỹ thuật cần thiết trong quá trình sản xuất trái vú sữa tím. Bước đầu doanh nghiệp gặp khó khăn vì một số nhà vườn không đồng tình với việc bao trái và lo lắng trước việc liên kết cùng doanh nghiệp, kể cả các thắc mắc về giá thu mua, lợi ích khi bán sản phẩm thông qua liên kết, tác dụng của vấn đề bao trái… Giải quyết khó khăn, doanh nghiệp đã đưa ra các điều kiện hỗ trợ HTX trong khâu sản xuất và mức giá sàn thu mua là 30.000 đồng/kg trái, nếu giá thị trường thấp hơn vẫn thu mua giá đã ký kết cùng HTX, còn giá lên cao sẽ tăng giá thu mua”.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp giải thích cho nhà vườn hiểu là nếu vú sữa được bao trái sẽ an toàn, ít dịch bệnh, không chỉ phục vụ thị trường xuất khẩu mà còn tiêu thụ tốt tại các thị trường khác trong nước. Bà con đã nhiệt tình lựa chọn phương pháp sản xuất tránh thiệt hại là bao trái. Với góc độ doanh nghiệp, Giám đốc Công ty Chánh Thu mong muốn được các ngành chuyên môn địa phương tiếp tục đồng hành cùng doanh nghiệp hỗ trợ nhà vườn sản xuất cây ăn trái có hiệu quả, tức là sản xuất sản phẩm an toàn vệ sinh thực phẩm nhằm hòa vào thị trường quốc tế. Có như vậy doanh nghiệp mới mạnh dạn đầu tư phát triển thị trường, bởi sản phẩm “sạch” doanh nghiệp không bị rủi ro, cơ hội phát triển thêm thị trường và thu mua sản phẩm nhiều hơn.

Phía doanh nghiệp có sự lo lắng nhất định bởi khi xuất khẩu sản phẩm kiểm nghiệm không đạt chất lượng, đơn hàng sẽ bị hủy, sau 3 lần sẽ bị đóng code, gây thiệt hại cho doanh nghiệp, kể cả nhà vườn. Vì vậy, doanh nghiệp mong rằng bà con nông dân hết sức hỗ trợ doanh nghiệp và cùng liên kết chuỗi tạo nên chuỗi liên kết bền vững và để trái vú sữa được bán liên tục, nhà vườn cần nghĩ đến vấn đề xử lý cho trái có quanh năm…

Trong nhiều chuyến đi thực tế tại các HTX nông nghiệp về cây lúa, đặc biệt là cây ăn trái, đồng chí Phan Văn Sáu - Bí thư Tỉnh ủy luôn lưu ý các HTX, bà con nông dân phải sản xuất nông nghiệp theo hướng “sạch”, an toàn vệ sinh thực phẩm, bởi không chỉ phục vụ thị trường xuất khẩu mà thị trường trong nước cũng rất cần sử dụng sản phẩm “sạch”, đảm bảo chất lượng. Đồng chí Phan Văn Sáu nhấn mạnh rằng, thị trường tiêu thụ rất quan trọng và bà con sản xuất phải quan tâm đến thị trường tiêu thụ. Việc tiêu thụ chưa tốt một phần là do chúng ta sản xuất không theo yêu cầu thị trường về chất lượng, quy trình… cũng như phân khúc thị trường. Để đầu ra sản phẩm luôn ổn định cần tổ chức sản xuất theo thị trường, trước hết là từng hộ, đến hợp tác xã phải sản xuất sản phẩm sạch, an toàn vệ sinh thực phẩm, người sản xuất cần làm theo yêu cầu thị trường và làm theo hướng dẫn của ngành chuyên môn cũng như quy trình doanh nghiệp đưa ra cho sản phẩm phục vụ thị trường xuất khẩu… trong liên kết chuỗi giữa nông dân và doanh nghiệp. Theo đó, trước tiên cần có lòng tin, tạo sự gắn kết, trung thực để đôi bên làm ăn lâu dài, bền vững…

Thúy Liễu

Cây ăn trái ‘chống chọi’ với hạn, mặn

Nguồn tin: Báo Ấp Bắc

Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng sản xuất cây ăn trái lớn nhất cả nước, chiếm khoảng 58% diện tích cây ăn trái toàn miền Nam. Những năm gần đây, một số hiện tượng và tác động của biến đổi khí hậu đã xuất hiện tại khu vực ĐBSCL như: Hạn hán, xâm nhập mặn, bão lụt với tần suất ngày càng nhiều và không theo quy luật đã tác động đến con người, đất đai và cây trồng.

Vườn xoài của một nông dân sai trái do gia đình chủ động dự trữ nước ngọt.

Những ngày này, vùng chuyên canh cây sầu riêng trên địa bàn huyện Cai Lậy và huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang đang phải “chống chọi” với đợt hạn, mặn khốc liệt nhất từ trước đến nay. Mặc dù nông dân tích cực cứu chữa bằng nhiều cách nhưng hầu hết các vườn sầu riêng đã bị ảnh hưởng bởi hạn, mặn; nhiều vườn có dấu hiệu chết dần.

CÂY TRỒNG BỊ TÁC ĐỘNG MẠNH

Ông Ngô Văn Mười (ấp Bình Ninh, xã Tam Bình, huyện Cai Lậy) trồng 0,7 ha sầu riêng được 14 năm tuổi. Nhìn vườn sầu riêng xơ xác, ông Mười bày tỏ: “Từ trước đến giờ, chúng tôi chưa từng chứng kiến đợt hạn, mặn như thế này. Năm 2016, nước mặn có xâm nhập nhưng xuống rất nhanh. Riêng đợt này, độ mặn quá cao và kéo dài. Hơn 1 tháng qua, gia đình không có nước ngọt để tưới cho cây. Nhìn vườn sầu riêng chết dần, chết mòn mà thấy xót...”.

Một số loại cây ăn trái chịu mặn tốt

Theo TS. Võ Hữu Thoại, tùy theo giống cây ăn trái mà khả năng chống chịu mặn của cây sẽ khác nhau. Để tránh thiệt hại cho cây ăn trái khi tưới nguồn nước bị nhiễm mặn, nông dân cần biết khả năng chịu mặn của chủng loại cây trồng trên vườn của mình.

Nhóm cây mẫn cảm với mặn (chịu được nồng độ mặn 0,5 - 1 g/l): Bơ, chuối, khế, nhãn, đu đủ, chanh dây, sầu riêng, chôm chôm, bòn bon, măng cụt.

Nhóm cây chịu mặn trung bình (chống chịu được nồng độ mặn 1 - 2 g/l): Sơ ri, ca cao, cây có múi, ổi, khóm, vú sữa.

Nhóm cây chống chịu khá với mặn (chống chịu được nồng độ mặn 3 - 4 g/l): Mít, xoài, mãng cầu Xiêm, na.

Nhóm cây chống chịu tốt với mặn (chống chịu được nồng độ mặn 5 - 6 g/l): Dừa, sa pô, me, nho (tùy theo giống).

Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) huyện Cai Lậy Trần Lý Ngự Bình cho biết, huyện chưa thống kê thiệt hại về diện tích vườn cây ăn trái, đặc biệt là sầu riêng trong đợt hạn, mặn này. Tuy nhiên, dấu hiệu cây chết khá nhiều do không có nước ngọt tưới. Còn nếu tưới nước có độ mặn cao làm cho cây chết nhanh hơn.

Tại huyện Cái Bè, tình trạng cũng tương tự. Ông Đặng Văn Bảy (ấp Hòa Hảo, xã Hòa Khánh, huyện Cái Bè) trồng 0,4 ha sầu riêng được 7 năm tuổi cho biết, gia đình vừa tưới “giải khát” cho vườn sầu riêng được vài ngày. Tuy nhiên, 70% cây trong vườn đều bị nhiễm mặn, rụng lá, chết nhánh.

Ông Bảy tâm sự: “Tạo được vườn sầu riêng, gia đình phải tốn nhiều tiền của và công sức. Thu hoạch mới khoảng 1 - 2 năm, tiền vốn lấy lại chưa được bao nhiêu thì gặp cảnh cây chết. Nếu thiệt hại nhà vườn phải bỏ ít nhất

5 - 6 năm nữa mới có thu hoạch. Khi mặn đã nhiễm vào đất, thời gian cải tạo vườn rất lâu, cây sầu riêng chưa chắc trồng lại được”.

Huyện Cái Bè có khoảng 20.000 ha cây ăn trái. Trong đó, nhiều loại cây trồng mẫn cảm với độ mặn. Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Cái Bè Nguyễn Văn Hải thông tin: “Huyện Cái Bè có 40% diện tích cây ăn trái bị ảnh hưởng bởi đợt hạn, mặn lịch sử này. Trong đó, các xã Đông Hòa Hiệp, Hòa Khánh, An Cư và thị trấn Cái Bè bị ảnh hưởng nặng nhất. Mặc dù huyện chưa có thống kê thiệt hại, nhưng qua khảo sát, cây có dấu hiệu xấu dần...”.

TS. Võ Hữu Thoại, Phó Viện trưởng Viện Cây ăn quả miền Nam cho biết, Viện vừa có buổi khảo sát tình hình sầu riêng trên địa bàn xã Tam Bình và xã Ngũ Hiệp (huyện Cai Lậy). Nhìn các cây sầu riêng xơ xác mà thấy đau lòng, giống như một đợt cháy rừng vừa quét qua. Trong thời gian tới, các nhà khoa học dự báo: Hạn, mặn sẽ không còn theo chu kỳ nữa mà diễn ra hằng năm. Vì vậy, ngành chức năng, nông dân cần phải tính toán để có bước đi phù hợp.

Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, tổng diện tích cây ăn trái trong vùng ĐBSCL có khả năng bị ảnh hưởng hạn, mặn năm 2019 - 2020 khoảng 130.000 ha, bằng 39,1% tổng diện tích cây ăn trái toàn vùng. Trong đó, Tiền Giang 28.360 ha, Bến Tre 12.350 ha. Long An 12.900 ha, Trà Vinh 12.350 ha, Vĩnh Long 8.580 ha, Sóc Trăng 13.650 ha... Chủng loại cây ăn trái bị ảnh hưởng là: Sầu riêng, vú sữa, xoài, chuối, thanh long, khóm, nhãn, chôm chôm, mít.

HỆ LỤY KÉO DÀI

Mặc dù Nhà nước và nông dân đã có nhiều giải pháp để ứng phó với đợt hạn, mặn lịch sử này từ rất sớm như xây dựng nhiều hệ thống cống, đập nhằm khép kín vườn cây ăn trái, nhưng nhiều lý do khách quan và chủ quan, mặn rò rỉ vào phía bên trong nội đồng. Vì vậy, hệ lụy sau này sẽ còn kéo dài.

TS. Võ Hữu Thoại cho biết, khi nước mặn xâm nhập vào các mương trong vườn sẽ tích tụ muối hòa tan trong đất. Cường độ của quá trình bốc thoát và tích tụ của muối trong đất và trong nước gia tăng với độ tiếp xúc của nguồn nước mặn. Quá trình tích tụ muối càng tăng ở những nơi khô hạn. Do lượng nước không đủ để rửa trôi các dạng muối dễ hòa tan dẫn đến đất bị mặn.

Khi tưới nước nhiễn mặn cho cây trồng, hàm lượng của muối hòa tan cao làm cho áp suất thẩm thấu của dung dịch đất lớn hơn áp suất thẩm thấu của tế bào. Chính sự chênh lệch áp suất này, mặn làm cho hệ thống rễ cây không hút nước và dinh dưỡng được; đồng thời, làm cho màng tế bào bị phá vỡ dẫn đến cây bị mất nước, héo; trường hợp cây bị ngộ độc Na, Cl nặng sẽ gây chết cây.

Đất bị nhiễm mặn gây trở ngại cho sinh trưởng và phát triển cây trồng, gây xáo trộn và mất cân đối sự hấp thu nước và chất dinh dưỡng của cây trồng. Mặn gây phá hủy cấu trúc đất, đất bị nén chặt, sự phát triển rễ bị giảm, giảm tính thấm nước và thoát nước, thiếu sự thoáng khí cho vùng rễ.

Ảnh hưởng của mặn đối với cây trồng biểu hiện qua các triệu chứng cháy lá, làm giảm sinh trưởng phát triển, ảnh hưởng đến năng suất. Mặn làm giảm tăng trưởng của cây, khối lượng tươi, khô của cành và lá. Tổng số lá rụng, hàm lượng diệp lục tố, ngược lại gia tăng hàm lượng natri và clo trong lá. Bên cạnh đó, sự tổng hợp xytokinin bị ngừng, ảnh hưởng đến sinh trưởng các bộ phận của cây trên mặt đất.

Theo TS. Thoại, tùy thuộc hàm lượng muối hòa tan trong nước tưới và khả năng chống chịu của từng loại cây trồng mà xảy ra các trường hợp như: Cây bị sốc mặn và rụng lá hàng loạt, trường hợp này do nồng độ muối trong nước tưới cao vượt quá ngưỡng chống chịu của cây trồng nên làm cây bị sốc và rụng lá hàng loạt, có thể dẫn đến chết cây. Cây không bị rụng lá hàng loạt nhưng lá bị cháy từ chóp lá vào và sau đó lá cũng bị rụng, tùy theo nồng độ muối hòa tan trong nước và lượng nước tưới cho cây mà số lá trên cây bị cháy và rụng ít hay nhiều, nếu tiếp tục tưới trong thời gian dài sẽ làm cây bị rụng lá, hoa, trái và suy kiệt dẫn đến chết cây.

BIỆN PHÁP HẠN CHẾ THIỆT HẠI

Trước thực trạng trên, TS. Võ Hữu Thoại khuyến cáo nhà vườn cần củng cố chắc chắn hệ thống đê bao của mình để tránh nước mặn xâm nhập vào vườn, dự trữ nước ngọt trong mương để tưới cho cây ăn trái trong những tháng nước mặn; hạn chế tối đa việc tưới nước nhiễm mặn cho cây trồng khi độ mặn gần hoặc trên 1 g/l, riêng các cây mẫn cảm thì không được tưới nước có độ mặn từ 0,5 g/l trở lên.

Ngoài ra, nhà vườn không nên xử lý cây ra hoa trong giai đoạn này nếu nguồn nước tưới không đảm bảo cung cấp đầy đủ cho cây khi đậu trái và phát triển trái. Nhà vườn cần tủ gốc giữ ẩm cho cây trồng bằng rơm rạ, lục bình, cỏ khô…; giảm hoặc không bón đạm vào thời điểm xảy ra hạn, mặn; đồng thời, tăng cường bón phân hữu cơ và kali nhằm làm tăng hàm lượng K+ trong cây; bón phân lân để cung cấp lân cho cây, hạn chế sự thu hút các ion Cl- quá nhiều trong cây.

Bên cạnh đó, nông dân không nên bón phân có chứa natri và Cl vì sẽ tăng độ độc cho cây. Người trồng có thể phun phân bón lá có chứa kali, canxi, magiê, silic nhằm giúp cây tăng đề kháng, tăng khả năng chịu hạn, chống chọi với nhiễm mặn, cứng cây, không ngã đổ; phun các chế phẩm có Brassinosteroide hoặc Proline để tăng tính chống chịu của cây trồng đối với mặn. Đồng thời, nhà vườn cần phải cập nhật thường xuyên thông tin về dự báo xâm nhập mặn, nồng độ mặn trên các sông, rạch để có hướng ngăn mặn kịp thời hoặc lấy nước vào vườn.

Việt Nam là một trong những quốc gia bị tác động mạnh của hiện tượng biến đổi khí hậu. Trong đó, ĐBSCL là nơi bị ảnh hưởng nghiêm trọng nhất. Biến đổi khí hậu đã gây ra nhiều tác động tiêu cực đến các lĩnh vực du lịch, tài nguyên nước, môi trường sinh thái, sức khỏe con người; đặc biệt, lĩnh vực nông nghiệp, diêm nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy hải sản bị ảnh hưởng nặng nề, rất khó đối phó và khắc phục trong thời gian ngắn. Vì vậy, ngành chức năng cần xác định các giống cây trồng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, đánh giá mức độ ảnh hưởng và đề xuất hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng thích ứng với biến đổi khí hậu đã và đang xảy ra ở ĐBSCL.

SĨ NGUYÊN

Ninh Thuận: Nông dân Lâm Sơn được mùa ớt

Nguồn tin: Báo Ninh Thuận

Thời điểm hiện nay, nông dân xã Lâm Sơn (Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận) đang tất bật thu hoạch ớt cùng miềm vui được mùa nhờ thời tiết thuận lợi, sản lượng tăng hơn so với vụ trước.

Cây ớt giống Hàn Quốc được nông thôn xã Lâm Sơn trồng cách đây 5 năm thông qua Dự án Xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển chuỗi giá trị ngành nông nghiệp do Cơ quan hợp tác quốc tế Hàn Quốc (Koica) phối hợp với Tập đoàn Cheil Jedang (CJ) tài trợ. Ban đầu chương trình triển khai ở thôn Tầm Ngân 2, với vài chục hộ tham gia, đến nay tăng lên 50 hộ trên toàn xã, với diện tích gần 20 ha. Là loại cây thích nghi với điều kiện thời tiết nắng nóng, dễ trồng, dễ chăm sóc, thời gian từ lúc trồng đến khi cho thu hoạch chỉ 3 tháng. Mỗi năm sản xuất được 1 vụ và cho thu hoạch 2 đợt, mỗi đợt cách nhau từ 2-3 tuần.

Nông dân xã Lâm Sơn thu hoạch ớt

Gia đình ông Trần Văn Tấn, thôn Tân Bình, cho biết: Năm nay ngoài mở rộng diện tích lên 1 ha, gia đình còn đầu tư 40 triệu đồng lắp đặt hệ thống tưới nước nhỏ giọt để tăng độ ẩm và tạo mát cho cây trồng. Đặc biệt, nhờ thời tiết thuận lợi, cây không bị sâu bệnh, nên sản lượng tăng hơn so với vụ trước. Đợt thu hoạch lần này, gia đình dự kiến hái trên 15 tấn, HTX Dịch vụ Nông nghiệp Tầm Ngân thu mua với giá 11.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí đầu tư khoảng 8 triệu đồng/sào, gia đình lãi khoảng 15 triệu đồng/sào. Cùng chung niềm vui với ông Tân, gia đình anh Chamaléa Hải, thôn Tầm Ngân 2 cũng phấn khởi với vụ thu hoạch khả quan. Trên mảnh đất gần 3 sào trồng ớt, gia đình anh thu hoạch được 6 tấn và đang tiếp tục chăm sóc để thu hoạch lần 2. Anh Hải, chia sẻ: So với lần đầu, lần thu hoạch thứ 2 sản lượng ớt sẽ giảm khoảng 50 %, do quả mọc trên ngọn nhỏ và ít. Mặc dù chi phí đầu tư khá cao, song đầu ra được đảm bảo, giá cả ổn định nên hộ trồng đều có lãi. Nhờ vậy, suốt 5 năm qua gia đình đã có nguồn thu nhập ổn định, từ đó từng bước vươn lên trong cuộc sống.

Ông Thái Thanh Mẫn, Phó Chủ tịch UBND xã Lâm Sơn, cho biết: Những năm qua, nhờ trồng ớt mà nhiều hộ ở thôn Tầm Ngân 2 nói riêng và xã Lâm Sơn nói chung đã vươn lên thoát nghèo. Ngoài mở rộng diện tích, nhiều hộ dân còn áp dụng khoa học vào sản xuất giúp giảm công sức lao động, tăng năng suất. Để tiếp tục phát triển loại cây trồng này, địa phương khuyến khích bà con chuyển đất trồng bắp, dưa hấu, mỳ kém hiệu quả sang trồng ớt; đồng thời, đề xuất Tập đoàn CJ tiếp tục hỗ trợ nông dân đầu tư mở rộng diện tích cây ớt.

Lê Tuấn

Lào Cai có 4 loại cây dược liệu được công nhận đạt chuẩn ‘Thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc’

Nguồn tin: Báo Lào Cai

Đến nay, toàn tỉnh Lào Cai có 1.815 ha cây dược liệu, mỗi năm sản lượng đạt 52.500 tấn, thu nhập bình quân đạt 120 - 240 triệu đồng/ha, cá biệt một số loại dược liệu đạt trên 600 triệu đồng/ha.

Cây atiso được trồng tập trung tại Sa Pa.

Hiện có 10 công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, cá nhân tham gia liên kết sản xuất, thu mua sản phẩm dược liệu (trên 3.000 tấn sản phẩm các loại mỗi năm). Trong đó, có 4 loại cây dược liệu sản xuất tập trung (atiso Sa Pa; chè dây Sa Pa, Bát Xát; đương quy Bắc Hà; xuyên khung Bát Xát) đã được Bộ Y tế công nhận đạt các nguyên tắc, tiêu chuẩn “Thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc” theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (GACP - WHO).

Kiểm tra sự sinh trưởng của cây đương quy trồng tại Bắc Hà.

Năm 2020, tỉnh Lào Cai chủ trương tiếp tục chuyển đổi linh hoạt đất nông nghiệp (đất trồng ngô, trồng cây hằng năm, một phần đất rừng trồng sản xuất) sang phát triển cây dược liệu, phát triển mạnh dược liệu dưới tán rừng gắn với bảo vệ tài nguyên rừng và tạo sinh kế cho cộng đồng; đẩy mạnh hợp tác với doanh nghiệp, viện nghiên cứu... để sản xuất giống dược liệu, chủ động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Các sản phẩm (đương quy, xuyên khung, cát cánh, đẳng sâm, tam thất, ý dĩ, atiso, sa nhân tím) đã được đưa vào danh mục khuyến khích và ưu tiên hỗ trợ thực hiện liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm theo Quyết định 1214/QĐ-UBND của UBND tỉnh Lào Cai.

Lào Cai phấn đấu đến năm 2030 có 3.500 ha cây dược liệu và tập trung phát triển 22 chủng loại dược liệu chính, sản lượng khoảng trên 11.000 tấn/năm; từng bước xây dựng vùng dược liệu đạt tiêu chuẩn GACP – WHO.

THANH NAM

Bình Định: Giá mì nguyên liệu giảm mạnh

Nguồn tin: Báo Bình Định

Ông Trần Minh Thường, Phó Giám đốc phụ trách điều hành nhà máy chế biến tinh bột mì của Công ty TNHH Tinh bột sắn Nhiệt Đồng Tâm Vĩnh Thạnh (nhà máy đặt tại xã Vĩnh Quang, Vĩnh Thạnh, tỉnh Bình Định), cho biết: Mỗi ngày nhà máy thu mua từ 300 - 400 tấn mì nguyên liệu từ các vùng trồng mì trong tỉnh và các tỉnh Tây Nguyên để phục vụ chế biến. Hiện, giá mì nguyên liệu đang được đơn vị thu mua tại nhà máy ở mức 1,9 - 2 triệu đồng/tấn (hàm lượng tinh bột đạt 30%), giảm mạnh hơn 1 triệu đồng/tấn so với thời điểm cuối năm 2019; nguyên nhân là ảnh hưởng của dịch Covid-19 khiến xuất khẩu tinh bột gặp nhiều khó khăn.

Thu mua mì nguyên liệu tại nhà máy.

Theo ông Ngô Văn Tổng, Giám đốc Sở Công Thương, trên địa bàn tỉnh hiện có 5 nhà máy chế biến tinh bột mì có tổng công suất 270 nghìn tấn/năm. Tuy nhiên, từ đầu năm 2020 đến nay, hầu hết lượng mì tinh bột sản xuất bị tồn kho do xuất khẩu khó khăn.

N. HÂN

Phú Yên: Sử dụng máy bay không người lái vào sản xuất nông nghiệp

Nguồn tin: Báo Phú Yên

Nông dân các xã Hòa Phong, Hòa Phú và Hòa Mỹ Tây (huyện Tây Hòa) xem máy bay không người lái phun thuốc bảo vệ thực vật. Ảnh: LÊ TRÂM

Vụ lúa đông xuân 2019-2020, lần đầu tiên trên cánh đồng rộng 150ha ở các xã Hòa Phong, Hòa Phú và Hòa Mỹ Tây (huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên), máy bay không người lái được sử dụng để phun thuốc bảo vệ thực vật. Việc áp dụng công nghệ này góp phần nâng cao nhận thức của người dân về việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất lúa.

Giải quyết khó khăn nhân công phun thuốc

Theo ông Phạm Quốc Hoàng, thành viên Ban cố vấn HTX Nông nghiệp Tân An Hòa (xã An Hòa Hải, huyện Tuy An), đơn vị cung cấp dịch vụ, máy bay không người lái (Unmanned Aerial Vehicle - viết tắt UAV) hoàn toàn không có người lái, điều khiển từ xa bằng điện thoại có cài đặt ứng dụng điều khiển qua sóng radio. UAV có công năng là phun thuốc bảo vệ thực vật, gieo hạt giống, bón phân.

Trên cánh đồng xã Hòa Phong, hàng trăm nông dân các xã lân cận đến xem máy bay không người lái được điều khiển để phun thuốc bảo vệ thực vật. Hiện lúa trên cánh đồng đang giai đoạn trổ gié, máy bay không người lái được điều khiển phun Tilt Super (do Công ty Syngenta sản xuất) nhằm phòng trừ bệnh lem lép hạt và bệnh vàng lá. Nông dân Huỳnh Tấn Nghĩa ở xã Hòa Phong cho hay: Lần đầu tiên tôi thấy máy bay không người lái phun thuốc. Đội máy bay gồm 2 chiếc, bay nhanh hay chậm, thấp hay cao tùy thuộc vào sự điều khiển của con người.

Còn bà Bùi Thị Hậu ở xã Hòa Phú chia sẻ: Hiện nay ở nông thôn, đàn ông thường đi làm thợ hồ xa, phụ nữ ở nhà làm ruộng, chăm sóc con cái. Khi lúa bị sâu bệnh, rất khó kiếm công đàn ông phun thuốc. Có máy bay không người lái phun thuốc giải quyết khó khăn trong việc tìm kiếm nhân công phun thuốc bảo vệ thực vật tại các địa phương.

Theo ông Nguyễn Văn Bảy, Phó Chủ tịch UBND xã Hòa Mỹ Tây, việc sử dụng máy bay không người lái để phun thuốc bảo vệ thực vật giúp nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm thời gian. Đồng thời đảm bảo sức khỏe cho người dân vì không trực tiếp phun thuốc bảo vệ thực vật trên đồng ruộng.

Phó Phòng NN-PTNT huyện Tây Hòa Đào Văn Roa cho rằng: Việc ứng dụng các tiến bộ KH-CN vào đồng ruộng, trong đó có máy bay không người lái phun thuốc, nâng cao hiệu quả sản xuất lúa, góp phần thực hiện thành công đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp trên địa bàn huyện; từng bước thay đổi nhận thức của người nông dân trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất lúa nói riêng trên địa bàn huyện Tây Hòa.

Nâng cao hiệu quả sản xuất lúa

Không chỉ trên cánh đồng xã Hòa Phong, đội máy bay không người lái thực hiện phun thuốc bảo vệ thực vật trên cánh đồng xã Hòa Phú và Hòa Mỹ Tây (mỗi cánh đồng 50ha). Trong thời gian diễn ra chương trình, các đại biểu và bà con nông dân huyện Tây Hòa được xem trình diễn công năng của máy bay không người lái làm việc trên đồng lúa, với những tính năng khác hẳn so với phương pháp sử dụng bình phun thông thường.

Thực tế cho thấy phun thuốc bảo vệ thực vật bằng máy bay không người lái đảm bảo tính chính xác đối với từng thửa ruộng theo yêu cầu, đồng thời tiết kiệm thời gian; giảm chi phí thuê dịch vụ phun khoảng 10%, năng suất dự kiến tăng từ 7-15%, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất lúa trên đơn vị diện tích sản xuất.

Ông Nguyễn Ngọc Tuấn, Giám đốc HTX Nông nghiệp kinh doanh dịch vụ Hòa Phong cho biết: Lâu nay, khi lúa giai đoạn làm đòng, trổ bông, nông dân thường lội ruộng phun thuốc Tilt Super phòng trừ bệnh lem lép hạt và bệnh vàng lá để đạt năng suất cao. Thế nhưng khi lội ruộng mang bình phun thuốc thì mỗi bước chân đạp ngã gãy lúa; mỗi vụ lúa phun nhiều lần thuốc bảo vệ thực vật, từ thuốc ngừa cỏ đến thuốc phòng ngừa sâu bệnh, mỗi sào thiệt hại gần bao lúa 50kg. Trong khi đó, sử dụng máy bay không người lái phun thuốc thì không mất cây lúa nào.

Phát biểu tại sự kiện, ông Nguyễn Văn Minh, Chi cục phó Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh khẳng định, đây là ý tưởng tốt, chuyển nền sản xuất nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất. Ứng dụng công nghệ máy bay không người lái vào sản xuất giúp người nông dân giảm chi phí, nâng cao năng suất lao động.

MẠNH LÊ TRÂM

Giá gà tăng mạnh, giá trứng giảm sâu

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Trong khi giá gà công nghiệp tăng mạnh trở lại những ngày qua khiến bà con chăn nuôi phấn khởi thì ngược lại giá trứng lại giảm thấp nhất trong nhiều tháng qua.

Giá gà công nghiệp, gà thả vườn đều tăng mạnh trong những ngày qua (Ảnh minh hoạ)

Chiều 5/3, Chi cục Chăn nuôi Thú y và Thuỷ sản, Sở NN-PTNT Lâm Đồng cho biết giá gà công nghiệp đã tăng mạnh trở lại trên địa bàn tỉnh. Hiện, giá gà công nghiệp bán ra ở mức 28.000 - 31.000 đồng/kg tuỳ loại, tăng gần 3 lần so với giá 1 tháng trước đó.

Tương tự, sau nhiều tuần giảm mạnh, giá gà thả vườn cũng có dấu hiệu tăng trở lại. Hiện, thương lái mua gà tại trang trại với giá 55.000 - 60.000 đồng/kg, tăng khoảng 6.000-8.000 đồng so với 3 tuần trước.

Trong khi đó, giá trứng gà công nghiệp chỉ còn 750 đồng/trứng, thấp nhất trong nhiều tháng qua. Người nuôi lỗ 600 - 700 đồng/trứng do nguồn cung dồi dào nhưng sức tiêu thụ kém.

Theo các thương lái thu mua gà tại Đức Trọng, giá gà tăng cao do thời gian gần đây nguồn cung đã giảm nhiều trong khi nhu cầu tăng. Hiện, đàn gà toàn tỉnh Lâm Đồng có gần 5 triệu con, tập trung chủ yếu tại TP Bảo Lộc và các huyện: Đức Trọng, Lâm Hà, Di Linh…

C.THÀNH

Nâng cao chất lượng sữa bò bằng phần mềm tính toán khẩu phần ăn

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Việc ứng dụng phần mềm vào tính khẩu phần ăn, đặc biệt là mô hình sản xuất thức ăn TMR (TMR-Total Mixed Ration) trong chăn nuôi bò sữa không chỉ giúp người chăn nuôi bò sữa trong tỉnh Lâm Đồng cho năng suất sữa tăng từ 12-15%, chất lượng sữa cũng không ngừng được cải thiện.

Việc áp dụng mô hình sản xuất thức ăn TMR giúp các nông hộ kiểm soát tốt dinh dưỡng cho từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển, năng suất cũng như chất lượng sữa bò tăng từ 12-15%

Thay đổi thói quen chăn nuôi

Theo thống kê, toàn tỉnh Lâm Đồng hiện có hơn 22.000 con bò sữa với khoảng 1.300 hộ, trang trại chăn nuôi tập trung. Chăn nuôi bò sữa trong thời gian qua đã giúp hàng trăm nông hộ trong tỉnh vươn lên làm giàu, phát triển kinh tế.

Tuy nhiên, có một thực tế là người chăn nuôi bò sữa đang gặp phải rất nhiều khó khăn, đặc biệt là khâu tính toán khẩu phần, dinh dưỡng cho đàn bò. Từ đó, việc phân tích, đánh giá chất lượng sữa tươi trong quá trình chăn nuôi bò sữa của nông hộ gặp khó. Đây là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến chất lượng sữa và làm giảm giá sữa tại các điểm thu mua.

Gắn bó với nghề nuôi bò sữa hơn 10 năm nay, anh Bùi Xuân Song, xã Đạ Ròn vẫn duy trì thói quen cho bò sữa ăn với định lượng theo cảm tính và cho ăn theo riêng từng loại thức ăn. Thức ăn tinh sẽ được anh trộn vào nước cho bò trước hoặc sau khi vắt sữa. Rồi sau đó mới được ăn thức ăn thô.

Theo anh Song, sau nhiều năm đúc kết kinh nghiệm thì cách cho ăn này vốn không hiệu quả trong chăn nuôi bò sữa. Nó khiến hệ vi sinh vật có lợi trong dạ cỏ bị thay đổi làm cho bò mắc các bệnh liên quan về biến dưỡng. Khi cho bò sữa ăn quá nhiều thức ăn tinh sẽ làm giảm độ pH trong dạ cỏ. Vi khuẩn phân giải chất xơ sẽ hoạt động kém khi độ pH dưới 6. Do đó tỉ lệ tiêu hóa chất xơ trong khẩu phần ăn giảm. Mặc dù, đàn bò sữa của gia đình anh luôn được đáp ứng đầy đủ định lượng thức ăn nhưng sản lượng và chất lượng sữa bò không đạt mức cao như kỳ vọng.

Đây cũng là thói quen của các hộ chăn nuôi bò sữa lâu nay trên địa bàn tỉnh. Ông Phạm Phi Long - Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi Thú y và Thủy sản Lâm Đồng cho biết: Trên thực tế, nếu như cho bò ăn riêng lẻ từng loại thức ăn, chất dinh dưỡng có thể thiếu cân đối, chẳng hạn như thức ăn tinh hỗn hợp thì thiếu chất xơ, premix lại thiếu tinh và thô trong khẩu phần ăn.

Cách làm này khiến việc cung cấp chất dinh dưỡng không phù hợp với đặc điểm sinh lý của bò sữa, và nếu mỗi lần cung cấp thức ăn gây ra xáo trộn môi trường dạ cỏ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả tiêu hóa ở bò. Vì vậy, tạo môi trường dạ cỏ thích hợp cho hệ vi sinh vật dạ cỏ tồn tại, hoạt động và phát triển là điểm mấu chốt để nâng cao hiệu quả tiêu hóa và chất lượng sữa bò.

“Để có thể tăng chất lượng và sản lượng sữa bò lên 20 - 30% hoặc nhiều hơn nữa thì bà con nông dân cần quan tâm và sớm thay đổi thói quen chăm sóc chế độ dinh dưỡng cho bò sữa cũng như bổ sung các dưỡng chất cần thiết cho từng thời kì của vật nuôi” - ông Long cho hay.

Ứng dụng phần mềm tính khẩu phần

Để phát triển đàn bò sữa một cách có hiệu quả và bền vững, đặc biệt là nâng cao chất lượng sữa bò trong nông hộ, Chi cục Chăn nuôi Thú y và Thủy sản Lâm Đồng đã triển khai Mô hình sản xuất thức ăn TMR chăn nuôi bò sữa. Thông qua phần mềm tính toán, máy tính sẽ phân tích và đưa ra khẩu phần ăn đạt chuẩn cho từng chu kỳ phát triển của đàn bò sữa.

Anh Nguyễn Quốc Khánh, xã Tu Tra, một hộ chăn nuôi bò sữa triển khai thí điểm Mô hình sản xuất thức ăn TMR cho biết: Cũng là thức ăn cho bò, chủ yếu là cỏ và bắp được trồng tại trang trại và vùng lân cận nhưng khẩu phần ăn hiện tại được quản lý theo hệ thống để đảm bảo chất lượng và các tiêu chuẩn nghiêm ngặt.

Việc quản lý đàn bò sữa hơn 30 con được anh Khánh ứng dụng rất nhiều phần mềm quản lý, từ quản lý khẩu phần, quản lý dinh dưỡng, quản lý sức khỏe bò bê, quản lý đàn, quản lý máy móc thiết bị… các phần mềm này được tích hợp, liên kết với máy tính giúp cho việc lưu trữ, phân tích và truy cập luôn dễ dàng, thuận tiện. Điều này đảm bảo đàn bò được chăm sóc 24/7 để có sức khỏe tốt, năng suất sữa cao, đảm bảo chất lượng sữa tươi nguyên liệu tốt nhất.

Trong đó, khẩu phần thức ăn cho bò sữa là kết hợp giữa thức ăn thô xanh, thức ăn tinh, các phụ phẩm nông nghiệp và công nghiệp, các chất bổ sung khoáng, vitamin và các chất phụ gia với một tỉ lệ nhất định, đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển của bò. Việc thực hiện mô hình giúp anh tạo ra một khẩu phần ăn TMR đồng nhất và cân bằng về dưỡng chất, giúp cho người nuôi nâng cao khả năng hấp thụ dinh dưỡng và chất lượng sữa ở bò.

Đặc biệt, nguồn thức ăn hỗn hợp TMR được anh tự phối trộn sẵn theo khẩu phần được hệ thống máy tính phân tích. Thực tế cho thấy, nuôi bò bằng TMR cho năng suất sữa tăng từ 12%-15% so với cho ăn các thức ăn thông thường và mỡ sữa cũng tăng vì quá trình lên men ở dạ cỏ tốt hơn. Bên cạnh đó, chất lượng sữa được đảm bảo đồng thời nâng cao sức đề kháng cho bò sữa và giảm thiểu tối đa các bệnh về sinh sản.

Theo anh Khánh, việc tự sản xuất thức ăn TMR rất đơn giản, thức ăn cũng có mùi vị không dễ chịu, bò không thể lựa chọn loại nguyên liệu mà chúng thích và loại bỏ loại chúng không thích ăn. Toàn đàn được ăn cùng thời gian, giảm thiểu sự cạnh tranh, giúp người chăn nuôi kiểm soát hiệu quả sử dụng thức ăn thông qua biến động lượng sữa hàng ngày, từ đó điều chỉnh phù hợp nhu cầu, giúp bò kéo dài độ bền cho sữa, khai thác được nhiều kỳ sữa. Chi phí cho nhân công cũng giảm đáng kể, tăng năng suất lao động do tăng cơ giới hóa trong các khâu chăn nuôi.

Theo ông Phạm Phi Long, để có thể tăng hiệu quả chăn nuôi và tăng sản lượng sữa bò lên mức cao nhất, việc áp dụng phương thức cho bò ăn theo khẩu phần phối trộn hỗn hợp tổng số TMR hoặc bổ sung thành phần Crom vào khẩu phần ăn cho bò là hết sức cần thiết. Các phương pháp này hiện đang được áp dụng khá rộng rãi trên thế giới.

Với sự thành công của mô hình, trong thời gian đến, Chi cục sẽ phối hợp với Trạm Khuyến nông, Trạm Bảo vệ thực vật, Trạm Thú y, Trung tâm Tư vấn hỗ trợ nông nghiệp các huyện, TP đẩy mạnh việc tập huấn, tham quan các mô hình sản xuất thức ăn TMR hiệu quả, nhằm nâng cao khả năng sinh sản, cải thiện thể trạng, tăng năng suất, chất lượng sữa cho tổng đàn bò sữa trong tỉnh.

Công nhận Vinamilk Đà Lạt là doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao

Mới đây, UBND tỉnh Lâm Đồng đã cấp Giấy Chứng nhận Chi nhánh Công ty TNHH MTV Bò sữa Việt Nam - Trang trại Bò sữa Vinamilk Đà Lạt (trụ sở chính ở thôn Lạc Trường, xã Tu Tra, huyện Đơn Dương) là doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, hiệu lực trong 5 năm.

Đến nay hệ thống Trang trại Bò sữa Vinamilk Đà Lạt gồm 2 trại tại xã Tu Tra, huyện Đơn Dương và 1 trại tại thị trấn Di Linh, huyện Di Linh, tổng diện tích gần 150 ha, tổng công suất khoảng 3.100 con bò sữa chăn nuôi theo tiêu chuẩn organic châu Âu.

Đồng thời, Vinamilk Đà Lạt hiện đang phát triển hoạt động 8 trạm thu mua sữa tươi nguyên liệu của 750 hộ chăn nuôi thuộc địa bàn 4 huyện: Đơn Dương, Đức Trọng, Lâm Hà, Di Linh và thành phố Bảo Lộc, đạt sản lượng 85 tấn mỗi ngày…

THANH SA - VĂN VIỆT

Giá lợn cao đe dọa sự bền vững của doanh nghiệp chăn nuôi

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Theo đánh giá của Bộ NN&PTNT, từ tháng 1/2020, thị trường thịt lợn đã có sản phẩm của lợn nuôi tái đàn, dự báo nguồn cung thịt lợn cho năm 2020 sẽ đạt khoảng 4 triệu tấn, đáp ứng được nhu cầu trong nước và vẫn hướng tới xuất khẩu.

Giá lợn quá cao việc nhập khẩu sẽ được đẩy mạnh để cân đối thị trường - Ảnh: VGP/Đỗ Hương

Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 2/2020 diễn ra ngày 3/3, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đánh giá Bộ NN&PTNT đã quyết liệt trong việc khống chế dịch tả lợn châu Phi và tái đàn lợn, nhưng giá lợn hơi vẫn còn cao. Thủ tướng lưu ý, giá lợn hơi cao sẽ ảnh hưởng tới chỉ số giá tiêu dùng.

Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường cho biết, đến thời điểm hiện tại chúng ta đã khống chế dịch ở mức độ thấp nhất và đang tập trung tái đàn rất nhanh. "Tổng số 8.280 xã bị dịch tả lợn Châu Phi đến giờ phút này chúng ta đã có 98% số xã qua 30 ngày không có dịch. Có 34 tỉnh đã công bố hết dịch, số tỉnh còn lại đang làm thủ tục để công bố hết dịch" – Bộ trưởng nói.

Về tái đàn lợn, theo Bộ trưởng, đến nay có tới 12 tỉnh, thành phố có tổng đàn lợn cao hơn cùng kỳ trước khi phát sinh dịch; Có 20 tỉnh có đàn tăng trên 80% sau khi hết dịch và chỉ còn có 10 tỉnh có đàn dưới 50% so với trước dịch.

"Tất cả các địa phương, doanh nghiệp đang tập trung tái đàn", Bộ trưởng khẳng định và cho biết từ tháng 3, tháng 4 trở đi tốc độ sản phẩm lợn tái đàn rất nhanh. Lý do tháng 9/2019 chúng ta quyết định tái đàn vì dịch xuống thấp thì 5 tháng sau có lợn, tức là vào tháng 2, tháng 3 có lợn.

Về giá lợn, Bộ trưởng cho biết, tháng 12/2019 giá cao nhất là trên 95.000 đồng/kg; đến tháng 1/2020 đưa xuống còn 85.000 đồng/kg; đến tháng 2 chính thức đưa về 75.000 đồng/kg và những tháng tới tiếp tục xuống.

"Thông báo giá hiện nay ở Trung Quốc là 120.000 đồng/kg, Myanmar hiện nay đang 65.000 đồng/kg, Campuchia là 62.000 đồng/kg. Do đó, giá ở mức 75.000 đồng/kg và tới đây sẽ giảm nữa sẽ phù hợp với tình hình chung và cục diện tái đàn của chúng ta", Bộ trưởng khẳng định.

Ngày 13/2, Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường đã trao đổi với các doanh nghiệp để đưa giá lợn hơi về mức 75.000 đồng/kg. Nhiều doanh nghiệp lớn đã hưởng ứng việc này như Dabaco, CP… Bộ trưởng Cường nhấn mạnh: "Nếu giá lợn cứ tăng cao thì người tiêu dùng sẽ quay lưng lại. Hiện nay không thiếu gì các loại gà ngon, thủy sản ngon, trứng ngon..., người dân ăn mãi rồi sẽ quen, đến lúc không cần ăn thịt lợn nữa". Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường ví von, muốn ăn nhiều, ăn ngon phải biết ăn dè, ăn vừa phải, xã hội và doanh nghiệp cùng "gặp nhau" chia sẻ giá thành ở mức hợp lý. Sản xuất vừa phải sẽ bền vững lâu dài chứ tăng cao quá sẽ gây bất ổn.

Nhập khẩu thịt lợn tăng 150%

Chỉ 2 tháng đầu năm, Việt Nam đã nhập khẩu tổng cộng 65.865 tấn thịt các loại, trong đó gia tăng nhập khẩu nhiều nhất là thịt lợn với số lượng nhập khẩu đạt 13.816 tấn, tăng tới 150% so với cùng kỳ năm 2019.

Theo báo cáo của các Cơ quan kiểm dịch động vật cửa khẩu thuộc Cục Thú y (Bộ NN&PTNT), tổng sản lượng thịt các loại nhập khẩu từ các nước trong năm 2019 là 280.474 tấn (tăng khoảng 17% so với năm 2018 là 239.000 tấn). Năm 2020, tính đến ngày 29/2, tổng số lượng thịt nhập khẩu là 65.865 tấn.

Cụ thể, 2 tháng đầu năm, nhập khẩu thịt lợn là hơn 13.816 tấn, tăng 150% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, nhập khẩu từ Canada 33,06%, Đức 25,4%, Brazil 16,10%, Ba Lan 15,81% và Hoa Kỳ 7,78%

Với thịt trâu, bò và sản phẩm thịt trâu bò: Nhập khẩu hơn 12.459 tấn thịt bò và 12.934 tấn thịt trâu. Trong đó, thịt trâu nhập khẩu 100% từ Ấn Độ, thịt bò nhập khẩu chủ yếu từ Hoa Kỳ, Australia, Canada.

Với thịt gia cầm và sản phẩm thịt gia cầm: Nhập khẩu hơn 26.656 tấn; trong đó chủ yếu nhập khẩu từ Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Brazil.

Đỗ Hương

Hồi phục đàn sau dịch tả lợn châu Phi

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai

Hiện Đồng Nai đã cơ bản khống chế được dịch tả lợn châu Phi (ASF). Nhiều tháng qua, giá heo hơi luôn ở mức cao càng khuyến khích người chăn nuôi đầu tư tái đàn, khôi phục sản xuất.

Các trang trại lớn đủ điều kiện an toàn sinh học đi đầu trong việc tái đàn chăn nuôi ở Đồng Nai

Trong đó, doanh nghiệp và các trang trại lớn vẫn đóng vai trò chủ lực. Điều được các doanh nghiệp trong ngành chăn nuôi quan tâm nhất hiện nay là khôi phục đàn heo giống, đảm bảo nguồn giống cung cấp ra thị trường. Khống chế được dịch

Đánh giá về tình hình dịch ASF, Giám đốc Sở Nông nghiệp - phát triển nông thôn Huỳnh Thành Vinh ghi nhận, hiện hầu hết các địa phương của Đồng Nai đã qua 30 ngày không tái phát dịch. Trong đó, nhiều doanh nghiệp, trang trại lớn đều thực hiện rất tốt công tác an toàn sinh học nên đã bảo toàn khá tốt đàn heo. Trong công tác tái đàn, khôi phục chăn nuôi đây cũng là lực lượng chính.

Các địa phương hiện cũng tập trung cho hoạt động khôi phục ngành chăn nuôi huyện Vĩnh Cửu là một trong những địa phương bị thiệt hại nặng nề do dịch ASF với tổng kinh phí hỗ trợ cho các hộ chăn nuôi bị thiệt hại khoảng 116 tỷ đồng. Ông Nguyễn Quang Phương, Phó chủ tịch UBND huyện Vĩnh Cửu cho biết, tình hình dịch ASF trên địa bàn huyện đã căn bản được khống chế. Hiện 11/12 đơn vị xã của huyện đã công bố hết dịch, đơn vị còn lại thời gian gần đây cũng chưa xuất hiện ổ dịch mới. Cùng chung niềm vui trên, ông Lê Khắc Sơn, Phó chủ tịch UBND huyện Xuân Lộc, thông báo: “Đến nay huyện đã kiểm soát được tình hình dịch ASF với 11 xã công bố hết dịch. Huyện cũng đã hỗ trợ 100% cho các hộ chăn nuôi bị thiệt hại do dịch ASF”.

Góp ý cho giải pháp giữ và phát triển đàn heo trong và giai đoạn hậu dịch ASF, nhiều doanh nghiệp trong ngành chăn nuôi cho rằng ngành chăn nuôi phải phát triển theo hướng chuyên nghiệp hơn. Ông Lê Thanh Phương, Giám đốc Công ty TNHH Emivest Feedmill Việt Nam (chi nhánh tại Khu công nghiệp Long Khánh, TP.Long Khánh) chia sẻ, chưa bao giờ hiệu quả đầu tư các trại heo theo hướng hiện đại, tổ chức phòng thủ như một “khu căn cứ quân sự” cấm ra, cấm vào lại phát huy tác dụng như khi xảy ra dịch ASF.

Đưa ra một góc nhìn khác, ông Phạm Ngọc Thắng, Phó tổng giám đốc Công ty TNHH Japfa Comfeed Việt Nam (chi nhánh Đồng Nai) đề xuất, hiện mật độ chăn nuôi của Đồng Nai rất dày nên các trại giống đều được đầu tư ở các vùng sâu, vùng xa. Đồng Nai nên tập trung phát triển các trại heo thịt vì gần thị trường tiêu thụ lớn là TP.Hồ Chí Minh. “Tỉnh nên khuyến khích phát triển các trại chăn nuôi quy mô lớn. Với chăn nuôi nhỏ lẻ chỉ cho tái đàn ở những khu vực người chăn nuôi đã đầu tư hệ thống chuồng kín, đảm bảo an toàn sinh học” – ông Thắng nói.

Khôi phục đàn giống

Hiện giá heo con giống ngoài thị trường tăng rất cao vì nguồn con giống khan hiếm. Các doanh nghiệp, trang trại lớn đang tập trung phát triển đàn giống. Ông Trần Tiến, Phó Tổng giám đốc Công ty cổ phần chăn nuôi C.P Việt Nam (Khu công nghiệp Biên Hòa 2, TP.Biên Hòa) cho biết, do ảnh hưởng của dịch ASF nên có giai đoạn, doanh nghiệp không nhập heo hậu bị để thay thế đàn nái. Hiện doanh nghiệp đang nỗ lực khôi phục lại đàn nái nhưng cần thời gian cần cả năm để thực hiện. Khi đó, doanh nghiệp mới tăng được nguồn heo con giống cung cấp ra thị trường. “C.P cũng đang cơ cấu lại hoạt động chăn nuôi, ưu tiên phát triển mô hình trang trại cách xa khu dân cư, kiểm soát dịch bệnh tốt. Chúng tôi cũng chú trọng xây dựng đội ngũ kỹ thuật, bác sĩ thú y đến tận trang trại hỗ trợ cho người chăn nuôi là khách hàng mua giống, thức ăn, thuốc… về quy trình phòng, chống dịch ASF, nhất là trong việc tái đàn” - ông Tiến nói.

Trang trại nuôi heo tại huyện Cẩm Mỹ

Góp ý cho việc tái đàn hậu dịch ASF, ông Nguyễn Tấn Hậu, Giám đốc Công ty một thành viên Tấn Do (xã Bàu Cạn, huyện Long Thành) cho rằng trong tình hình hiện nay, việc tái đàn ở hộ chăn nuôi nhỏ lẻ thì chỉ nên tập trung phát triển đàn heo thịt vì sớm có nguồn thu. Người chăn nuôi nhỏ lẻ không nên đầu tư cho đàn heo nái vì đây là bài toán đầu tư lâu dài với sự chuyên nghiệp cao. Tỉnh nên tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận về quỹ đất cũng như nguồn vốn đầu tư ưu đãi để phát triển đàn heo nái, sản xuất giống heo con cung cấp cho người chăn nuôi.

Nam Vũ

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop