Tin nông nghiệp ngày 09 tháng 05 năm 2016

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 09 tháng 05 năm 2016

Về vùng tre măng Bát độ Trấn Yên (Yên Bái)

Nguồn tin: Báo Yên Bái

Nhờ dễ trồng, dễ chăm sóc và sản phẩm làm ra luôn được các doanh nghiệp săn đón, cây tre măng Bát độ ở huyện Trấn Yên (Yên Bái) đã và đang trở thành một trong những loại cây trồng chủ lực, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân. Những năm gần đây, giá sản phẩm măng tre Bát độ luôn ổn định đã giúp nhiều nông dân thoát nghèo.

Nông dân xã Kiên Thành sơ chế tre măng Bát độ.

Nông dân vươn mình

Kiên Thành được mọi người biết đến là vùng trồng tre măng Bát độ lớn của tỉnh Yên Bái, diện tích tre măng Bát độ của xã chiếm 2/3 diện tích trồng măng tre của huyện Trấn Yên. Hiện nay, cây tre măng Bát độ đang trở thành vấn đề thời sự đáng bàn của nông dân Kiên Thành. Đi vào các thôn bản của xã từ Kiên Lao, Cát Tường đến Khe Tối, Đồng Ruộng, đâu đâu cũng thấy bà con nói chuyện về trồng tre lấy măng.

Từ khi cây tre măng “bén duyên” đất này thì chuyện nhà nông thu cả trăm triệu mỗi năm không còn là hiếm. Năm ngoái, ở Cát Tường, Đá Khánh có hộ “bỏ túi” hàng trăm triệu đồng từ tiền bán măng.

Ông Mai Công Trình - Chủ tịch Hội Nông dân xã Kiên Thành dẫn tôi đến các điểm thu gom củ măng ở thôn Cát Tường. Chẳng là, năm nay huyện Trấn Yên có chủ trương mở rộng diện tích tre măng thêm 400 ha nữa, nên Ban dự án trồng tre măng Bát độ của huyện đi thu gom cây giống để trồng.

Vừa đi, ông Trình vừa nói say sưa nói về cây tre măng Bát độ: “Trồng măng có nhiều cái lợi: thứ nhất vốn ít, thứ 2 đầu tư công ít, thứ 3 lại cho thu nhập cao, nhưng xem ra cái quan trọng nhất đó là đầu ra cho sản phẩm, măng thu hoạch đến đâu là bán hết đến đó”.

Tôi hoàn toàn đồng tình với ông, bởi lâu nay, vấn đề nan giải nhất trong sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa đó là thị trường tiêu thụ. Hàng nông sản làm ra, nếu không có thị trường tiêu thụ, nông dân sẽ bỏ thối trên nương, ngoài ruộng. Nhìn lại nhiều mặt hàng nông sản được xem là thế mạnh của Yên Bái cũng đều long đong, lận đận đầu ra.

Bà Hà Thị Lán - một hộ trồng tre măng ở Kiên Thành đang bế cháu cũng hồ hởi góp chuyện: “Nhà tôi có 8 ha tre măng, năm ngoái thu hoạch “chơi” cũng được trăm triệu đồng”.

Vốn là một trong những hộ đầu tiên trồng tre măng ở xã Kiên Thành, bà Lán cho biết thêm: “Trồng tre măng Bát độ được chuyển giao giống, kỹ thuật trồng, lại bao tiêu sản phẩm nên chẳng phải lo nghĩ gì, chỉ chăm sóc và chờ cho thu hoạch, nếu có đất nhà tôi còn trồng nhiều hơn. Ở thôn này, 90 hộ đều trồng tre Bát độ cả, các hộ thu từ 80 - 100 triệu đồng kể mãi không hết”. Đúng như lời bà Lán, ông Mai Công Trình đưa ra một bản danh sách dài những hộ trồng nhiều tre măng.

Bà Nguyễn Thị Ngoan - thôn Đồng Cát góp chuyện: “Mỗi khóm măng thu được 30 kg bán với giá 3.700 đồng/kg, bằng cả yến thóc. Nhà tôi trồng 2 ha tre măng, năm ngoái thu về 80 triệu đồng. Nhờ trồng tre lấy măng mà cuộc sống gia đình tôi được nâng cao, mua sắm được tiện nghi sinh hoạt trong nhà nữa”. Không chỉ riêng gia đình bà Ngoan mà hiện nay thu nhập chính của nhiều hộ gia đình ở Kiên Thành là cây măng tre.

Ông Dương Kim Hưng - Chủ tịch UBND xã Kiên Thành cho biết: “Hiện toàn xã có 1.044 ha tre măng Bát độ. Trong xã có trên 93% hộ dân trồng tre lấy măng. Giá măng tre Bát độ ổn định ở mức 3.500 đồng - 4.000 đồng/kg. Trung bình mỗi năm nông dân Kiên Thành thu về 12 tỷ đồng. Nhờ trồng măng tre Bát độ tỷ lệ hộ nghèo của xã còn 41%. Thời gian tới, xã vẫn chú trọng định hướng phát triển tre măng Bát độ là cây trồng chủ lực”

Thành công từ liên kết “4 nhà”

Trước khi vào “thủ phủ” tre Bát độ tôi có ghé thăm nhà anh Trần Văn Khiêm - một nông dân trồng rừng có tiếng ở Kiên Thành. Vốn không trồng tre Bát độ nhưng anh bảo: “Giờ nông dân Kiên Thành khá lắm rồi, tôi chưa thấy cây nào lại thành công như cây tre măng Bát độ”. Nhưng không phải ngẫu nhiên mà nông dân Kiên Thành lại thích trồng tre măng Bát độ đến vậy và cũng phải ngẫu nhiên mà huyện Trấn Yên có được một vùng trồng tre măng lên đến 1.600 ha như bây giờ.

Ngược thời gian hơn mười năm trước, huyện Trấn Yên đã xây dựng Đề án phát triển cây tre măng Bát độ làm hàng hoá với quy mô lớn. Khi huyện có chủ trương đưa cây tre măng Bát độ vào trồng thử nghiệm ở Kiên Thành đã gặp không ít khó khăn. Các hộ dân không mặn mà vì người dân ở đây chưa quen trồng tre măng, trồng rồi thì bán cho ai? Có người còn bảo trồng Bát độ không khéo thành “Bát nợ”.

Song, với quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền địa phương, năm 2005, lần đầu tiên người ta thấy sự xuất hiện của “4 nhà” chung tay liên kết trồng tre măng Bát độ. Để trồng tre Bát độ hiệu quả, huyện đã mời các chuyên gia từ Trung Quốc hướng dẫn kỹ thuật trồng tre cho các hộ dân.

Đặc biệt, để đảm bảo vùng tre măng Bát độ trên địa bàn ổn định đưa sản phẩm tre măng Bát độ trở thành hàng hóa, có thị trường tiêu thụ lâu dài, các đồng chí lãnh đạo huyện Trấn Yên, xã Kiên Thành đã lặn lội nhiều nơi tìm đầu ra cho sản phẩm.

Năm 2006, xã đã phối hợp với Công ty TNHH Vạn Đạt tổ chức ký hợp đồng bao tiêu toàn bộ sản phẩm tre măng Bát độ cho nông dân. Doanh nghiệp không chỉ thu mua măng mà còn cung ứng giống, vật tư phân bón, hướng dẫn kỹ thuật cho các hộ trồng măng tre. Nỗi lo sau thu hoạch đã được giải quyết, nông dân Kiên Thành đã tích cực trồng tre măng Bát độ. Thế rồi, từ diện tích vài chục ha đến nay diện tích trồng tre măng của toàn xã lên tới 1.040ha.

Củ giống tre măng Bát độ phục vụ kế hoạch mở rộng diện tích.

Theo số liệu của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Trấn Yên hiện Trấn Yên đã hình thành được 3 vùng sản xuất măng Bát Độ tập trung với tổng diện tích gần 1.600 ha gồm: vùng phía Bắc gồm các xã Tân Đồng, Đào Thịnh, Việt Thành, Hòa Cuông; vùng phía Tây Bắc gồm các xã Y Can, Kiên Thành; vùng phía Tây là các xã Lương Thịnh, Hưng Thịnh, Hưng Khánh, Hồng Ca. Nông dân các xã trong huyện mỗi năm thu hoạch măng Bát độ cũng “bỏ túi” trên dưới 30 tỷ đồng. Sản phẩm măng tre Bát độ được xuất khẩu sang thị trường Đài Loan, Nhật Bản.

Trong giai đoạn 2015 - 2020, huyện Trấn Yên có kế hoạch phát triển vùng tre Bát Độ với tổng diện tích 2.000 ha; trồng mới và cải tạo 1.000ha; tập trung đầu tư thâm canh để đến năm 2020 sản lượng đạt trên 30.000 tấn măng vỏ tươi/năm; nâng giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích canh tác tre đạt trên 40 triệu đồng/ha/năm.

Không hô hào cho việc phát triển ồ ạt tre măng Bát độ, nhưng có thể khẳng định hiệu quả kinh tế của cây tre măng Bát độ đã rõ. Quan trọng hơn cây măng tre Bát độ góp phần xóa đói, giảm nghèo tăng thu nhập và làm giàu cho nông dân, tạo sự tin tưởng của người dân đối với sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ và các cấp chính quyền trong huyện. Và với sự liên kết chặt chẽ của “4 nhà”, thì cây tre măng Bát độ còn phát triển, sản phẩm măng tre Bát độ còn sẽ góp phần làm giàu cho bà con nông dân.

Văn Thông

Học né rầy để tránh hạn, mặn

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Câu chuyện khô hạn, thiếu nước ngọt đã kéo dài hơn 3 tháng qua. Nhưng đến nay vẫn là câu chuyện nóng, mang tính thời sự. Mới nhất là UBND tỉnh Hậu Giang đã quyết định công bố thiên tai xâm nhập mặn trên địa bàn huyện Long Mỹ và thành phố Vị Thanh, với cấp độ rủi ro thiên tai do xâm nhập mặn cấp độ 1. Thực tế, sản xuất lúa ở ĐBSCL từng đối diện với nhiều nguy cơ rủi ro cao nhưng nếu tuân thủ đúng lịch thời vụ thì có thể hạn chế được rủi ro.

Tuân thủ đúng lịch thời vụ trong sản xuất lúa sẽ hạn chế được rủi ro. Ảnh LÝ ANH LAM

Bài học từ né rầy!

Cách đây đúng 10 năm (năm 2006), vựa lúa ĐBSCL đã đối diện với sự bộc phát dịch rầy nâu, kèm theo dịch bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá do rầy nâu truyền bệnh. Bấy giờ, Tổ chức Lương nông Thế giới (FAO), Viện Lúa Quốc tế rất lo ngại cho Việt Nam. Các phiên họp thường xuyên hàng tuần đều có đề cập đến tình hình Việt Nam để thảo luận, tìm các giải pháp tháo gỡ. Có lúc lãnh đạo Bộ NN&PTNT, cảnh báo: Việt Nam có thể phải nhập gạo trong năm 2007 nếu tiếp tục để diện tích nhiễm bệnh do vi-rút tăng lên không kiểm soát được. Thực sự, Việt Nam đã không nhập khẩu gạo mà còn xuất nhiều hơn, bởi Việt Nam giải quyết bài toán gieo sạ đồng loạt trên hàng triệu héc-ta, dùng bẫy đèn dự báo quần thể rầy nâu. Đây là bài học vô cùng lý thú cho các nước láng giềng. Điều quan trọng bậc nhất là Việt Nam đã đẩy mạnh cuộc cách mạng về giống lúa khá thành công và triển khai biện pháp “ba giảm” rất hiệu quả (giảm mật độ sạ, giảm dùng thuốc trừ sâu, giảm bón phân đạm).

Theo đó, năng suất lúa bình quân năm 2005 là 4,82 tấn/ha, tăng lên 5,32 tấn/ha trong năm 2010, tăng 10,4%; có nghĩa là mỗi năm tăng trung bình 0,1 tấn/ha (tăng 2%/năm). Trong khi thế giới đang trong giai đoạn năng suất treo (yield stagnancy) hoặc tăng chậm <1%/năm. Công tác chọn giống truyền thống vẫn giữ vai trò chủ lực, bên cạnh đó rất nhiều phương pháp mới ứng dụng từ công nghệ tế bào, công nghệ di truyền, công nghệ tái tổ hợp DNA, đã góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu và phát triển. Theo GS, TS Bùi Chí Bửu, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam: Mục tiêu sản xuất lúa gạo của Việt Nam phải nhắm đến an ninh lương thực là ưu tiên số một, trong đó thu nhập của nông dân trồng lúa là động cơ để phát triển sản lượng thóc cả nước. Một nghịch lý cần được tháo gỡ là: nhà khoa học khuyến khích “phát triển bền vững” trong khi nông dân cần “thu nhập tăng”. Nông dân không thể chấp nhận một giải pháp kỹ thuật mới, mà sau đó thu nhập của họ không được cải tiến khá hơn. Thực hiện GAP (thực hành nông nghiệp tốt), tìm đầu ra cho nông sản có giá trị xuất khẩu cao có thể được xem là một trong các giải pháp được chọn.

Né hạn, mặn

Đợt khô hạn, xâm nhập mặn thế kỷ vẫn đang hoành hành ở ĐBSCL. Hơn 220.000ha lúa bị thiệt hại ở các mức độ khác nhau. Hàng triệu người dân ĐBSCL thiếu nước ngọt sinh hoạt. Nhiều hoạt động cứu trợ các thùng chứa nước ngọt đã được cộng đồng gửi đến người dân vùng “khát nước ngọt”. Mới đây nhất, các tổ chức và chính phủ một số nước cũng đã cam kết viện trợ cho người dân Việt Nam vùng chịu thiệt hại do hạn, mặn gây ra.

Nhìn lại đợt hạn, mặn đã và đang diễn ra, Sóc Trăng và Hậu Giang là hai địa phương đã giảm thiểu được mức thiệt hại do khô hạn và xâm nhập mặn gây ra. “Tỉnh đã lượng định được mức độ khốc kiệt của hạn, mặn xảy ra nên cả hệ thống chính trị đã vào cuộc. Trong đó, 1 thị xã đã không sản xuất lúa, 2 huyện bỏ 1 lúa nên thiệt hại rất thấp (chỉ khoảng 12.000ha bị ảnh hưởng). Trong đó, địa phương đã chủ động mua sắm thêm các thiết bị quan trắc để kiểm tra độ mặn... Mỗi cửa cống ngăn mặn, dẫn ngọt có người quản lý chịu trách nhiệm cụ thể”, ông Nguyễn Văn Thể, Bí thư Tỉnh ủy Sóc Trăng, cho biết.

“Né hạn, mặn” là khuyến cáo mà các nhà khoa học bắt đầu đưa ra cho vựa lúa ĐBSCL. Theo đó, các nhà khoa học cho rằng, các địa phương, đặc biệt là các tỉnh ven biển cần nghiên cứu sắp xếp lại lịch thời vụ xuống giống phải dựa trên các yếu tố về thời tiết, khí tượng thủy văn, nhất là yếu tố hạn, mặn. Theo đó, trên đất trồng lúa bị hạn, mặn, trồng lúa kém hiệu quả cần chuyển đổi sang trồng các loại cây khác hoặc chăn nuôi. Tại Hậu Giang, để thích ứng với biến đổi khí hậu, hơn 2 năm trước, tỉnh Hậu Giang đã triển khai thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi bằng Đề án 1.000. Bước đầu đề án này đã mang lại hiệu quả khả quan khi các hộ dân tham gia chuyển đổi đã tăng thêm giá trị sản xuất từ 1,5-2 lần trên cùng diện tích canh tác. “Chúng tôi đã chuyển đổi 1.000ha cải tạo vườn tạp tập trung tại các xã nông thôn mới vừa qua thực hiện rất khả quan. Đồng thời, chuyển 1.000ha mía kém hiệu quả tập trung nhiều ở huyện Phụng Hiệp sang những cây trồng khác có hiệu quả hơn như cây ăn trái, nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra, tỉnh cũng đang khẩn trương chuyển đổi 1.000ha lúa vụ 3 kém hiệu quả sang mô hình 2 lúa + 1 màu hoặc 2 lúa + 1 thủy sản… Các đề án này được triển khai thực hiện từ năm 2014-2016, sau đó chúng tôi sẽ sơ kết lại tình hình thực hiện và từ đó nhân rộng định hướng đến năm 2020”, ông Lê Văn Đời, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Hậu Giang, cho biết.

Trước đây khi “né rầy”, ĐBSCL thường căn cứ vào nước và rầy nâu di trú, giờ phải căn cứ vào tình hình chất lượng nước để bố trí thời vụ xuống giống cho các tỉnh ven biển. Các nhà khoa học và lãnh đạo các địa phương trong vùng giờ đã cùng chung nhận định: Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là phải chuyển đổi cơ cấu cây trồng để thích nghi. Có lẽ sau “né rầy”, giờ đây ĐBSCL cần phải thực hành tốt bài học “né hạn, mặn” để hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại cho nông dân trong vùng.

VĨNH TƯỜNG

Bình Định: Nông dân Phù Mỹ vui mùa đậu phụng

Nguồn tin: Báo Bình Định

Ông Ngô Đình Ba, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Phù Mỹ (Bình Định), cho biết: Hiện nay, nông dân trong huyện đã cơ bản thu hoạch xong 1.796 ha đậu phụng vụ Đông Xuân (ĐX) 2015 - 2016 với thu nhập tăng đáng kể nhờ năng suất, giá cả đều tăng hơn so với vụ này năm trước.

Nông dân Nguyễn Văn Tâm, ở thôn An Lạc 2, xã Mỹ Hòa, thu hoạch đậu phụng. Ảnh: X.LỘC

Hộ ông Phạm Thành Tâm (ở xóm 5, thôn Phú Thiện, xã Mỹ Hòa) nhổ 7 sào kiệu Tết xong, chuyển sang trỉa đậu phụng ĐX. Ông Tâm bộc bạch: “Trên đất kiệu còn tươi xốp, chất dinh dưỡng còn nhiều, tôi chỉ lo đầu tư giống, một ít thuốc bảo vệ thực vật, cộng với nguồn nước tưới dồi dào từ hồ Đá Trải, vậy là cây đậu phát triển tốt, năng suất đạt khá, bình quân 350 kg tươi/sào. Đáng mừng nữa là thu hoạch đến đâu, tiêu thụ đậu tươi đến đó, giá 14.000 - 15.500 đồng/kg, tăng từ 4.000 - 5.500 đồng/kg; trừ chi phí còn lãi hơn 20 triệu đồng, tăng gần gấp đôi so với cùng vụ năm ngoái”.

Ông Nguyễn Văn Tâm (ở thôn An Lạc 2, xã Mỹ Hòa) cho biết, cùng vụ này năm ngoái, ông trồng 5 sào đậu phụng, tổng thu hơn 17 triệu đồng. Cũng với diện tích đó nhưng nhờ giá cao hơn nên vụ này năm nay ông thu hơn 22 triệu đồng. “Giá đậu phụng thế này thì trồng đậu lãi gấp 3-4 lần so với trồng lúa trên cùng chân đất”- ông Tâm phấn khởi nói.

Theo ông Nguyễn Lộc, Chủ tịch Hội Nông dân xã Mỹ Hòa: Năng suất đậu phụng vụ ĐX này bình quân từ 200 kg/sào trở lên, tăng hàng chục kg/sào so với vụ ĐX năm ngoái, nhất là trên hầu hết diện tích kiệu nhổ xong giữa cuối tháng Chạp năm 2015, bà con trồng tiếp đậu phụng, năng suất bình quân đạt 230 kg/sào. Vừa được mùa, được giá, nông dân rất phấn khởi.

Ngay cả ở xã Mỹ Châu, có diện tích đậu phụng ĐX nhiều nhất huyện với 431 ha, song hầu hết trỉa trên chân đất gò cao nên lượng nước tưới không đủ, năng suất tuy không cao nhưng người trồng đậu phụng vẫn có lãi khá nhờ giá đậu cao. Ông Phạm Bính, Chủ tịch Hội Nông dân xã Mỹ Châu, cho biết: Nhờ giá đậu tươi bình quân 13.000 đồng/kg, đậu khô bình quân 22.000 đồng/kg, đều tăng 3.000 - 4.000 đồng/kg, nên người trồng đậu phụng vẫn lãi cả triệu đồng/sào, tăng gấp đôi so với cùng vụ năm trước.

XUÂN LỘC

Trồng hoa thiên lý thu nhập cao gấp 3 lần các loại rau màu khác

Nguồn tin: Báo Nghệ An

Thực hiện đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng của địa phương, nhiều hộ nông dân ở xã Đại Thành, huyện Yên Thành (Nghệ An) đầu tư thâm canh trồng hoa thiên lý hàng hóa, đem lại giá trị kinh tế cao gấp 3 - 4 lần so với loại cây màu khác.

Vườn hoa thiên lý của anh Lê Công Tuấn ở xóm 1, xã Đại Thành (Yên Thành).

Gia đình anh Lê Công Tuấn ở xóm 1, xã Đại Thành có hơn 3 sào đất vườn thì toàn bộ đều dành trồng cây hoa thiên lý. Hệ thống giàn leo được gia đình anh đúc cọc bê tông và tận dụng cây gỗ tạp, tre dựng theo chiều thẳng đứng rất vững chắc. Anh Lê Công Tuấn cho biết: Cây hoa thiên lý rất dễ trồng, mau cho thu hoạch, chỉ sau 4 - 5 tháng đã ra hoa.

Cứ 2 - 3 ngày thu hoạch một lần được khoảng từ 40 - 50 kg, với giá thị trường hiện nay 25.000 đồng/kg, gia đình anh thu về từ 1 - 1,2 triệu đồng, tính bình quân vào mùa thu hoạch (hoa nở trong vòng 5 tháng/năm), mỗi tháng gia đình anh thu nhập từ 8 - 10 triệu đồng. Hơn 2 năm cho thu hoạch mà cây thiên lý vẫn xanh tốt, chưa có biểu hiện lụi tàn.

Anh Tuấn đầu tư thêm hệ thống tưới phun gốc để vừa tiết kiệm nguồn nước, vừa đảm bảo cho cây sinh trưởng trong mùa nắng nóng. Hiện tại, lượng hoa thiên lý thu hái không đủ cung cấp cho các thương lái về tận nhà thu mua nên dự kiến gia đình sẽ mở rộng diện tích trồng cây hoa thiên lý lên khoảng 5 - 6 sào vào năm tới.

Theo ông Đặng Hữu Thìn, người có kinh nghiệm trồng và chăm sóc cây hoa thiên lý hơn 5 năm nay ở xóm 5, xã Đại Thành thì kỹ thuật chăm sóc cây hoa thiên lý không phức tạp. Quan trọng nhất là giống cây này rất cần nước và ánh nắng, đất phải giàu hữu cơ. Để cho cây ra nhiều hoa, sau mỗi đợt thu hoạch, cần phải bổ sung phân chuồng hoặc NPK cho mỗi gốc từ 100 - 120 gam.

Có thể tận dụng mé hiên hay sân nhà để bắt giàn cho loại cây này. Cách nhân giống hoa thiên lý cũng khá đơn giản, chỉ cần chọn phần dây không quá già hay quá non, cắt thành đoạn dài chừng 7 - 10 cm, sau đó phun thuốc kích thích ra rễ rồi khoanh tròn phần gốc trước khi đặt hom xuống đất, phần trên giữ lại 2 - 3 mắt lá.

Nhiều gia đình làm cột bê tông vững chắc cho hoa lý leo.

Xóm 5, xã Đại Thành có 138 hộ thì nay đã có 70% số hộ trồng cây hoa thiên lý. Ông Lê Công Dương - Bí thư chi bộ, cho biết: "Các hộ dân trong xóm đã trao đổi kỹ thuật cho nhau để trồng. Hộ ít dăm, bảy gốc, hộ nhiều lên đến vài chục gốc. Giá thị trường dao động từ 20.000 - 25.000 đồng/kg, nhiều hộ bình quân mỗi vụ thu về từ 25 - 30 triệu đồng. Giá trị cây hoa thiên lý đem lại so với loại cây trồng khác là gấp 3 - 4 lần, vì thế cơ cấu cây trồng của xóm trong những năm qua thì chủ lực là cây cà xanh và hoa thiên lý...".

Xã Đại Thành hiện có gần 15 ha trồng hoa thiên lý. Ông Vương Kim Sự - Chủ tịch UBND xã cho biết: Trong lộ trình thực hiện xây dựng NTM việc chuyển đổi cơ cấu, phát triển kinh tế là mục tiêu quan trọng, nên sau chuyển đổi ruộng đất, Đảng ủy, UBND xã xây dựng đề án đưa vào các loại cây rau màu hàng hóa. Trong đó, cây hoa thiên lý đã khẳng định được vị thế là một loại cây rau sạch, có giá trị dinh dưỡng cao, cho thu nhập vượt trội.

Anh Tuấn

Thừa Thiên - Huế: Cò lạ phá lúa

Nguồn tin: Báo Thừa Thiên - Huế

Hơn nửa tháng nay, người trồng lúa ở một số địa phương của huyện Quảng Điền (Thừa Thiên - Huế) như đứng ngồi không yên khi hàng chục ha lúa bị cò “lạ” tấn công, gây gãy nhánh, đúng vào thời điểm lúa đang làm đòng…

Theo ghi nhận ngành nông nghiệp Quảng Điền, loài cò mỏ vàng lần đầu tiên xuất hiện tại địa phương

Khổ vì cò

Mấy hôm nay, nông dân ở thôn La Vân Hạ (xã Quảng Thọ), ra thăm đồng không phải chăm sóc cây lúa, hoa màu mà là… đuổi cò. Cò nhiều đến nỗi, nhiều hộ dân trồng lúa với diện tích lớn, phải thuê người ra canh giữ, xua đuổi.

Dẫn chúng tôi đi, ông Hoàng Công Thông, Trưởng thôn La Vân Hạ, chỉ những đám lúa thấp trũng, nham nhở từng cụm trên đồng, cho biết: “Chưa bao giờ thấy cò về nhiều, phá lúa tan hoang như ri cả. Cò bay từng đám từ sáng sớm hay chiều tối, khoảng 5-7 trăm con/đàn. Xứ đồng La Vân Hạ ni có 4 đàn như thế, với trên 2.000 con. Mỗi lần chúng sà xuống, từng cụm lúa bị cánh của cò vỗ rạt, gãy hết. Lúa đang làm đòng nên thiệt hại khá nặng, chỉ riêng đồng La Vân Hạ có 40 ha lúa thì có 40% diện tích bị thiệt hại, nhiều nơi mất trắng hoàn toàn”.

Nhiều diện tích lúa ở thôn La Vân Hạ bị cò “tấn công” gây gãy nhánh

Để bảo vệ xứ đồng La Vân Hạ và Hạ Lang gần đó, làng đã trích kinh phí 1 triệu đồng thuê người đuổi cò trong 3 ngày, nhưng chúng di chuyển rồi trở lại phá lúa. Người dân trồng lúa cũng huy động người đến từng điểm “chốt chặn” trên đồng nhằm đuổi cò ra khỏi ruộng, nếu để chúng bay từ nơi này sang nơi khác thiệt hại trên cây lúa càng nhiều hơn.

Ông Võ Thử (thôn La Vân Hạ) lo lắng: “Gia đình tui trồng 5 sào lúa, đến thời điểm này, chi phí trừ công cán đã hơn 1 triệu đồng/sào rồi. Mấy ngày trước, cò về từng đàn cả nghìn con, giẫm 5 sào lúa của gia đình tan hoang, gây thiệt hại đến 70% diện tích. Bình quân năng suất lúa 3,5 tạ/sào, giờ nhiều nơi chỉ ước đạt 1 tạ/sào”.

Để cứu những diện tích lúa còn lại, ông Thử huy động người dân trong gia đình dùng loa, còi hú, xoong nồi, đánh gây tiếng động để xua đuổi cò. Những diện tích lúa bị đổ, gãy, người dân phải bỏ công hoặc thuê 150 nghìn đồng/công, dùng tre nâng lúa lên từng cụm, mong vớt vát được ít sản lượng.

Theo người dân, những vùng lúa bị thấp trũng, còn ngập ít nước thường thiệt hại nặng hơn do cò tập trung về nhiều để kiếm thức ăn. Các hộ dân Nguyễn Tuyên, Hoàng Mùi (thôn La Vân Hạ) trồng từ 7-10 sào lúa, đều thị thiệt hại từ 40-50% diện tích. Trước đó, ở các địa phương như Quảng An, Quảng Thành, Quảng Phước cò về kiếm thức ăn đúng thời điểm những diện tích lúa ngắn ngày đang làm đòng cũng làm nhiều diện tích bị ảnh hưởng.

Lần đầu tiên xuất hiện cò mỏ vàng

Người dân xã Quảng Thọ cho biết, trước đây cò thường xuất hiện vào mùa mưa hoặc thời điểm gieo sạ nên không làm ảnh hưởng đến cây lúa. Chỉ duy nhất năm nay, dù đã bước sang hè, cò lại về với số lượng từng đàn lớn, đúng thời điểm lúa đang làm đòng, nhánh cây bị gãy nên ảnh hưởng nặng đến năng suất, sản lượng. Nông dân Nguyễn Tuyên (thôn La Vân Hạ) lo lắng: “Trước đây loài cò mỏ trắng, trọng lượng chừng trên dưới 1 kg/con, hàng năm đều về không gây ảnh hưởng đến cây lúa. Năm nay lần đầu tiên xuất hiện loại cò mỏ vàng, trọng lượng nhỏ hơn cò thông thường, có sải cánh dài. Chúng di chuyển từng đàn lên đến vài trăm con, khi sà xuống kiếm mồi gây rạt lúa hết. Bà con rất lo lắng những diện tích lúa vụ sau”.

Ông Nguyễn Lương Trí, Giám đốc HTX NN Quảng Thọ 2 cho biết: “Tính đến thời điểm hiện tại, do cò xuất hiện đúng thời điểm lúa đang làm đòng nên khoảng 40% diện tích bị ảnh hưởng. Trong đó, các hộ dân bị thiệt hại cao nhất từ 60-70% diện tích. Cò xuất hiện nhiều giai đoạn hiện nay là hiện tượng lạ, chưa từng có”.

Theo ông Trí, loài cò mỏ vàng này xuất hiện để bắt sâu xanh, nhện. Đối với những diện tích bị bệnh đạo ôn, làm cây lúa thấp hơn các xứ đồng bên cạnh thì tỷ lệ thiệt hại càng nặng hơn. Cò bắt loại nhện- vốn là thiên địch của nhiều loài sâu, bướm, châu chấu gây hại lúa nên cơ bản, ngoài gây gãy đổ lúa, còn làm ảnh hưởng năng suất, tốn thêm chi phí phòng trừ sâu bệnh.

Ông Hoàng Công Phong, Chủ tịch UBND xã Quảng Thọ thông tin: “Xã đã báo cáo lên huyện hiện tượng cò về phá lúa. Đến thời điểm hiện nay, địa phương cũng huy động nhân lực cùng bà con trồng lúa dùng nhiều vật dụng để đuổi cò, bảo vệ những diện tích lúa còn lại. Xã cũng khuyến cáo bà con không được đánh bẫy, bắt loại cò mỏ vàng này làm thực phẩm, tránh lây lan dịch bệnh gia cầm”.

“Hiện tại biện pháp duy nhất là ngành nông nghiệp vận động bà con cắt cử người xua đuổi, làm “con bù nhìn” trên ruộng để xua đuổi cò. Nguyên nhân cò xuất hiện nhiều thời điểm này là do các diện tích gieo giống lúa ngắn ngày đang giai đoạn làm đòng thường có nhiều thức ăn thu hút cò. Loài cò mỏ vàng xuất hiện đến nay vẫn chưa ghi nhận lần nào ở địa phương: đây là hiện tượng lạ, cần tìm hiểu”, ông Hoàng Vọng, Phó phòng NN&PTNT huyện Quảng Điền cho biết.

HÀ NGUYÊN

Cao Lãnh (Đồng Tháp): Cây mè vụ hè thu giảm năng suất

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

Đến ngày 4/5/2016, nông dân huyện Cao Lãnh (Đồng Tháp) đã thu hoạch cây mè vụ hè thu năm 2016 được khoảng 2000ha/tổng số 2.500ha mè đã xuống giống, năng suất bình quân tại thời điểm này chỉ từ 90 – 100kg/công, giảm hơn 30kg/công so với đầu vụ.

Theo nhiều nông dân ở xã Mỹ Hội, Mỹ Thọ, Bình Hàng Trung, hiện thương lái đang thu mua mè với giá 34.000 – 35.000 đồng/kg tùy loại, giảm từ 5.000 – 7.000 đồng/kg. Với mức giá này, nông dân còn lời từ 1 - 1,5 triệu đồng/công, thấp hơn khoảng 1 triệu đồng/công so với năm rồi, thậm chí có hộ huề vốn. Lý do thời tiết nắng nóng kéo dài, khô hạn thiếu nước cây mè bị chết nhiều dẫn đến giảm năng suất.

Thành Sơn

Bắc Ninh: Hướng đến sản xuất rau an toàn

Nguồn tin: Báo Bắc Ninh

Phát huy vai trò của tổ chức Hội Nông dân (HND) trong các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ hội viên sản xuất kinh doanh, những năm qua các cấp Hội từ tỉnh Bắc Ninh đến cơ sở có nhiều việc làm thiết thực góp phần thay đổi tư duy, nhận thức và hành động của hội viên nông dân trong sản xuất và tiêu dùng, bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.

Cán bộ kỹ thuật kiểm tra mô hình sản xuất rau theo quy trình VietGAP tại xã Tân Chi (Tiên Du).

Mỗi năm, Bắc Ninh có hơn 15.000ha sản xuất rau màu các loại, trong đó diện tích sản xuất rau theo quy trình an toàn đạt khoảng 515ha, chủ yếu là cà chua, su hào, súp lơ, hành, cải các loại. Diện tích sản xuất rau trong nhà lưới có khoảng 5ha, tập trung tại Quế Võ, Thuận Thành, Tiên Du, thành phố Bắc Ninh, thị xã Từ Sơn...

Thăm khu sản xuất trên đất bãi thuộc thôn Chi Trung (xã Tân Chi, huyện Tiên Du), anh Dương Đình Tuấn, một hộ nông dân tham gia Đề tài khoa học “Ứng dụng chế phẩm phân bón hữu cơ vi sinh EMZ-USA xây dựng mô hình sản xuất rau an toàn theo hướng VietGAP” do HND tỉnh thực hiện phấn khởi cho biết: “Trước đây, gia đình tôi có biết đến sản xuất rau theo quy trình VietGAP trên các báo, đài nhưng cũng chưa có điều kiện để tìm hiểu sâu. Trong 2 năm qua, từ khi HND tỉnh đưa Đề tài này về thực nghiệm tại địa phương, chúng tôi có cơ hội được tập huấn, trang bị các kiến thức, kỹ thuật trồng rau theo hướng VietGAP và sử dụng chế phẩm sinh học trong sản xuất. Thực tế quá trình tham gia thực hiện Đề tài theo hướng dẫn của cán bộ kỹ thuật, tôi thấy cây rau sinh trưởng, phát triển tốt, cho năng suất cao, không bị sâu bệnh gây hại và đặc biệt là chất lượng đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Hy vọng trong thời gian tới Đề tài tiếp tục được triển khai để nhiều nông dân như chúng tôi được tiếp cận quy trình sản xuất này”.

Hội viên Dương Văn Tôn, xã Bằng An, huyện Quế Võ hiện đang sản xuất rau theo quy trình VietGAP trên diện tích gần 30ha với những cây trồng chủ lực như khoai tây, cà rốt, dưa chuột… Anh Tôn cho biết: “Hiện nay, nhu cầu tìm đến các loại sản phẩm sạch, sản phẩm bảo đảm an toàn của người tiêu dùng ngày càng cao. Việc sản xuất thực phẩm an toàn không những đáp ứng lợi ích người tiêu dùng mà còn khẳng định uy tín và nâng cao giá thành của sản phẩm, thu nhập của người sản xuất sẽ cao hơn. Sản xuất theo quy trình VietGAP cũng không phải là khó. Lúc đầu chưa biết thì chúng tôi phải tự học hỏi, nhưng những năm gần đây được các đơn vị chức năng giúp đỡ về mặt kỹ thuật nên việc sản xuất gặp nhiều thuận lợi”.

Các cửa hàng giới thiệu nông sản an toàn là cầu nối giữa nông dân với người tiêu dùng.

Được biết, đề tài “Ứng dụng chế phẩm phân bón hữu cơ vi sinh EMZ-USA xây dựng mô hình sản xuất rau an toàn theo hướng VietGAP” là một trong số hai Đề tài khoa học cấp tỉnh liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp do HND tỉnh chủ trì thực hiện từ năm 2012 đến nay. Năm 2016, HND tỉnh tiếp tục triển khai 6 mô hình thí điểm sử dụng chế phẩm sinh học Biowish trong trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Tại các mô hình, nông dân được trang bị các kiến thức, kỹ thuật sản xuất tiên tiến, cách sử dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hợp lý vừa tăng năng suất, sản lượng cây trồng, vừa bảo đảm các yêu cầu về an toàn chất lượng.

Đi đôi với nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất, các cấp Hội chủ động phối hợp với các công ty, doanh nghiệp tiến hành thử nghiệm trồng các loại cây mới phù hợp với điều kiện canh tác của địa phương như cây măng tây xanh, khoai tây Atlantic, nghệ vàng, hành lá, đỗ tương… và ký kết bao tiêu sản phẩm. Tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của hội viên, nông dân với các hình thức đa dạng như phối hợp các cơ quan báo chí, lồng ghép trong sinh hoạt chi, tổ Hội, xây dựng chuyên mục trên cuốn Bản tin HND tỉnh; tổ chức tập huấn, xây dựng mỗi cán bộ Hội là một tuyên truyền viên tích cực trong công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm tại cộng đồng… Qua đó, nông dân từng bước hiểu rõ tác hại của các sản phẩm nông nghiệp không an toàn, nâng cao trách nhiệm của mình trong sản xuất và tiêu dùng, góp phần bảo vệ sức khỏe bản thân, gia đình và xã hội.

Ông Trần Đăng Sâm, Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh cho biết: “Sản xuất nông nghiệp, rau an toàn là yêu cầu tất yếu của thị trường hiện nay và cũng là giải pháp cạnh tranh của nền nông nghiệp khi chúng ta gia nhập TPP. Trong thời gian tới, các cấp HND trong tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, từng bước thay đổi tư duy sản xuất của nông dân, nâng cao chất lượng nông sản đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và hướng tới hợp tác xuất khẩu một số mặt hàng nông nghiệp chủ lực của tỉnh”.

Có thể nói rằng diện tích sản xuất rau theo quy trình an toàn vẫn còn khiêm tốn trong tổng diện tích và quy mô sản xuất của tỉnh hiện nay. Nhưng đó cũng chính là những hạt nhân tiên phong trong sản xuất, kinh doanh các sản phẩm nông nghiệp sạch. Sẽ còn một chặng đường dài với rất nhiều nỗ lực từ các cấp, các ngành đến người dân và cộng đồng doanh nghiệp để đưa Bắc Ninh vươn đến sản xuất an toàn, góp phần khai thác hiệu quả tiềm năng, lợi thế của các vùng nông thôn, đưa kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển nhanh, bền vững cùng với công cuộc xây dựng nông thôn mới của tỉnh và đất nước.

Việt Anh-Nguyễn Thu

Cao su rớt giá, đa dạng hóa cây trồng

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Với 150ha cao su phát triển rất tốt, ai cũng nghĩ, ông sẽ là tỷ phú. Nhưng mủ cao su “rớt giá thê thảm” khiến ông trở thành “con nợ” lớn. Không chịu “bó tay”, ông tìm cách “thoát hiểm”, bằng việc đa dạng hóa cây trồng ngay chính trên trang trại cao su của mình, đó là trang trại Thiên Lý của ông Hồ Văn Minh.

Sầu riêng sai quả tại trang trại Thiên Lý

Sau nhiều năm dồn sức, dồn vốn đầu tư lập trang trại, đến năm 2010, ông Hồ Văn Minh có được một trang trại với tổng diện tích gần 180ha, trong đó có 26ha cà phê, 150ha cao su phát triển rất tốt tại thôn Tân Tiến, xã Đạ Rsal, huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng. Khí hậu thích hợp, cao su phát triển tốt, lại vào thời điểm mủ cao su có giá, ai cũng nghĩ ông sẽ là “đại gia” trồng cao su ở địa phương. Nhưng thật bất ngờ, do không có thị trường tiêu thụ, giá mủ cao su cứ thế tụt dốc, ông lâm vào cảnh nợ nần, khốn khó. Không chịu “bó tay” đầu hàng, ông tìm cách tháo gỡ bằng quyết tâm đa dạng hóa cây trồng. Đối với diện tích 150ha cao su, tuy cầm chừng đầu tư chăm sóc, nhưng vẫn có 90ha cho cạo mủ, ông áp dụng phương thức “ăn chia” với công nhân. Theo đó, công nhân tự khai thác mủ và hưởng lợi 50% của giá bán 10.000 đồng/kg, ông làm công tác kiểm tra, giám sát kỹ thuật cạo mủ, bảo vệ vườn cao su, theo dõi sản lượng, doanh thu bán mủ và được hưởng lợi 50%. Đối với diện tích 26ha cà phê, tiếp tục đầu tư thâm canh chiều sâu, nâng cao năng suất, sản lượng, nên hàng năm vẫn cho ông thu nhập trên 700 triệu đồng.

Điều quan trọng hơn là để tháo gỡ tình trạng mủ cao su mất giá, thiếu thị trường tiêu thụ, ông đã mạnh dạn đầu tư trồng xen các loại cây trồng khác cho hiệu quả kinh tế, bằng việc trồng xen 20.000 trụ hồ tiêu vào các gốc cao su và trồng 5.000 cây sầu riêng cơm vàng hạt lép. Đến nay, hồ tiêu của ông đã cho thu hoạch năm đầu, với thu nhập hàng chục triệu đồng, dự kiến niên vụ 2016 - 2017 sẽ cho năng suất 3 kg/trụ với giá tiền 160.000 đồng/kg như hiện nay, sẽ cho ông khoản thu nhập trên dưới 1 tỷ đồng. Ngoài ra, 1.000 cây sầu riêng đang cho quả cũng mang lại nguồn lợi lớn cho trang trại Thiên Lý, bởi lấy bình quân mỗi quả nặng 2kg, mỗi cây 20 quả x 1.000 cây, mỗi vụ thu hoạch cũng đạt sản lượng trên 40 tấn sầu riêng thương phẩm. Bên cạnh đó, một số loại cây ăn quả khác như mít tố nữ, chuối trồng tại các đường ranh lô cao su cũng mang lại nguồn thu khá lớn, nếu thiết lập được thị trường tiêu thụ. Đặc biệt, trong lộ trình đa dạng hóa cây trồng, tại các vùng đất đồi cao, khí hậu khô nóng ông cũng đã tiến hành trồng 10.000 cây gỗ sưa. Với gỗ sưa, chưa có thể nói cho thu nhập trong một vài năm, mà phải vài chục năm sau. Nhưng trước mắt có tác dụng chắn gió cho các loại cây trồng khác và tận dụng được đất đai, mà không cần phải đầu tư chăm sóc nhiều.

Việc đa dạng hóa cây trồng của ông Hồ Văn Minh đã đạt được kết quả và mang lại hiệu quả bước đầu, nhưng theo ông, trang trại Thiên Lý vẫn còn gặp vô vàn khó khăn, đó là: Thứ nhất, diện tích trang trại quá lớn, khó tuần tra, kiểm soát, trong bối cảnh an ninh ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều bất cập, nên việc phòng chống kẻ cắp đột nhập trộm hồ tiêu, sầu riêng, mít nghệ là điều nan giải, nhất là khi các loại cây trồng này đồng loạt cho thu hoạch lớn. Thứ hai, với diện tích 150ha cao su, do hiện nay thị trường tiêu thụ thiếu ổn định, giá cả quá thấp, nhưng vẫn rất cần nguồn vốn đầu tư lớn để chăm sóc, tránh tình trạng để vườn cây xuống cấp. Nguồn vốn đó hiện thu từ 90ha cao su đã cho khai thác mủ “không thấm vào đâu”, mà tài sản đều đã thế chấp hết tại các ngân hàng, với lại cho vay đầu tư chăm sóc cao su trong thời điểm hiện nay thì không ngân hàng thương mại nào mặn mà, gắn bó. Thứ ba, cơ chế chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ như của ông những năm qua còn nhiều bất cập, khiến các doanh nghiệp khó khăn trong tổ chức sản xuất, kinh doanh, nhất là tháo gỡ khó khăn về thị trường, giá cả. Trước những khó khăn, bất cập đó, cũng như nhiều nhà doanh nghiệp khác, ông Hồ Văn Minh đang rất mong những chỉ đạo của Chính phủ về ưu đãi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ sớm trở thành hiện thực và hy vọng trong một vài năm tới, thị trường cao su sẽ “ấm” trở lại, để trang trại Thiên Lý của ông rộng mở trên con đường phát triển.

HOÀNG VƯƠNG MỸ

Bình Phước: Gần 15 ngàn trụ tiêu của huyện Bù Đốp bị đổ gãy

Nguồn tin: Báo Bình Phước

Sau nhiều ngày nắng hạn gay gắt kéo dài, chiều tối ngày 5-5, trên địa bàn huyện Bù Đốp (Bình Phước) lại xuất hiện một trận mưa lớn trên diện rộng, đây được xem là trận mưa “cứu cánh” cho người nông dân giải tỏa tình trạng thiếu nước trầm trọng thời gian qua trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, trận mưa lại kéo theo gió lốc khiến hàng ngàn trụ tiêu, cây điều, cao su bị đổ gãy, gây thiệt hại không nhỏ cho người dân trong huyện.

Có mặt tại xã Tân Thành, huyện Bù Đốp sáng ngày 6-5, nơi ảnh hưởng nặng nề nhất sau trận mưa chiều ngày 5-5, với hơn 13.400 trụ tiêu bị đổ gãy, người dân cùng chính quyền địa phương, quân đội… đang khắc phục hậu quả.

Ông Huỳnh Văn Xuân, ấp Tân Hội, xã Tân Thành cho biết: Gia đình tôi trồng 4 sào tiêu được gần một năm, có khách trên Đắk Nông đặt mua với giá 400 ngàn đồng/nọc. Tuy nhiên, chiều qua bất ngờ trận mưa lớn kèm theo gió giật mạnh làm gãy đổ tất cả gần 700 nọc tiêu, giờ thương lái tới mua chỉ trả với giá 100 ngàn đồng/nọc đối với cây không bị gãy dập. Những cây bị đổ ngã, họ chỉ trả với giá 15 ngàn/nọc nhưng vẫn phải bán chứ không thì mất trắng. Thiệt hại mà trận mưa này gây ra với gia đình tôi chắc hơn 200 triệu đồng.

Hơn 13 ngàn trụ tiêu ở xã Tân Thành bị đổ gãy

Đoàn viên thanh niên giúp người dân khắc phục hậu quả

Trên 100 cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 717 giúp dân khắc phục hậu quả sau cơn giông

Nhiều cây cao su bị bật rễ sau cơn mưa chiều ngày 5-5

Thu gom những dây tiêu còn có thể ươm trồng lại

Cũng tại ấp Tân Hội, gia đình bà Phạm Minh Huệ trồng gần 400 trụ tiêu 3 năm tuổi cũng bị đổ gãy, hư hại. Bà Huệ buồn rầu cho biết: Khoảng 17 giờ ngày 5-5, hai vợ chồng tôi đang chăm sóc vườn tiêu thì bất ngờ có trận mưa dông kèm theo lốc xoáy, làm gãy, đổ toàn bộ vườn tiêu nhà tôi. Tôi sống ở đây nhiều năm mà chưa thấy trận mưa dông nào lớn như thế. Gần 400 trụ tiêu đi vay mượn để trồng gần tới ngày thu hoạch lại bị đổ gãy, hư hỏng nặng, chắc năm nay mất mùa không có tiền trả nợ.

Tại một số xã như: Thanh Hòa, Tân Tiến, Hưng Phước, gần 2.000 ngàn trụ tiêu cũng bị gãy đổ. Ông Nguyễn Bá Thành, ở ấp Tân Hòa, xã Tân Tiến đang cùng mọi người dựng lại hơn 400 trụ tiêu bị đổ gãy, buồn rầu tâm sự: “Chiều ngày 5-5, mưa và lốc xoáy kéo đến làm vườn tiêu gia đình tôi bị đổ gãy. Trận mưa lần trước đã bị gãy đổ gần 1.000 trụ tiêu, lần này lại đổ gãy nữa gây thiệt hại lớn cho gia đình tôi. Sáng nay có mấy cháu bên Xã đoàn và hàng xóm giúp gia đình dựng lại vườn tiêu, tôi thấy an ủi được phần nào”.

Lốc xoáy đi qua, sáng ngày 6-5, Huyện đoàn Bù Đốp đã tổ chức huy động trên 30 đoàn viên, thanh niên và Trung đoàn 717 (Binh đoàn 16) tổ chức lực lượng trên 100 cán bộ, chiến sĩ và công nhân Nông trường cao su 717 (Trung đoàn 717), lực lượng dân quân tự vệ xã Tân Thành… xuống địa bàn các xã bị ảnh hưởng sau trận mưa để giúp đỡ nhân dân dựng lại trụ tiêu, khắc phục hậu quả thiên tai, ổn định cuộc sống.

Theo thống kê sơ bộ của Hội Nông dân huyện Bù Đốp, trận mưa chiều ngày 5-5 đã gây thiệt hại gần 15 ngàn trụ tiêu, nhiều cây cao su, điều bị gãy đổ. Trong đó, thiệt hại nặng nhất là ở ấp Tân Hội, xã Tân Thành với 13 ngàn 400 trụ tiêu (trong đó có 6ha tiêu 1 năm tuổi với hơn 5 ngàn nọc bị gãy đổ). Tại xã Tân Tiến, bị gãy đổ gần 1000 nọc tiêu, xã Hưng Phước hơn 400 nọc và xã Thanh Hòa khoảng 200 nọc.

Thành Nguyện

Cùng nông dân hóa giải "cơn khát"

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Mô hình tưới tiết kiệm nước do Tập đoàn Nestlé và Cơ quan Hợp tác Phát triển Thụy Sỹ thực hiện tại huyện Krông Búk.

Nông dân Đắk Lắk đang phải trải qua một trong những đợt hạn hán tồi tệ nhất trong nhiều năm trở lại đây. Cùng với nỗ lực của các cấp chính quyền và bà con nông dân, nhiều doanh nghiệp, bằng cách riêng của mình đã có những hành động thiết thực để cùng người nông dân hóa giải “cơn khát” lịch sử này.

Trong khuôn khổ Dự án Hợp tác công tư “Sử dụng nước tưới hợp lý để nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành sản xuất cà phê tại Việt Nam” tháng 3 vừa qua, Tập đoàn Nestlé và Cơ quan Hợp tác phát triển Thụy Sỹ đã phối hợp với nhiều đơn vị nghiên cứu và quản lý xây dựng các mô hình và đưa ra những khuyến nghị nhằm giảm thiểu tác động xấu và bảo đảm năng suất cà phê. Theo kết quả nghiên cứu, nước tưới là điều kiện tiên quyết trong hoạt động sản xuất cà phê. Tuy nhiên nước tưới dư thừa trong canh tác cà phê Robusta gây ra tình trạng suy giảm mực nước ngầm theo mùa. Tình trạng này đang gia tăng một cách đáng báo động và gây hại không chỉ đến sản xuất cà phê mà còn đến nhiều hoạt động khác của người dân. Tiến sĩ Dave D’Haeze, đại diện Công ty Embden, Drishaus & Epping Consulting (EDE Consulting), đơn vị thực hiện nghiên cứu, cho rằng cần được xem xét trong bối cảnh kinh tế xã hội rộng hơn của toàn tỉnh Đắk Lắk và khu vực Tây Nguyên. Thực trạng nước bị thất thoát trong mùa khô do lượng nước tưới cà phê dư thừa không chỉ liên quan đến hoạt động sản xuất và thu nhập của nông dân trồng cà phê mà còn gây nguy hiểm đối với nguồn nước cho hộ gia đình sử dụng cũng như hoạt động tưới cho các cây trồng khác và vấn đề cung cấp năng lượng. Nông dân trồng cà phê dùng trung bình 700 đến 1.000 lít nước để bơm tưới cho cây, trong khi lượng nước cần để cho ra sản lượng cà phê tương đương chỉ là một nửa con số trên, tương đương 300 đến 400 lít. Bên cạnh đưa ra những khuyến nghị, Tập đoàn Nestlé và Cơ quan Hợp tác phát triển Thụy Sỹ đã tài trợ và xây dựng nhiều mô hình tưới nước tiết kiệm tại một số địa phương trong tỉnh và đã bước đầu thay đổi nhận thức của nông dân. Ông Hoàng Mạnh Thu (thôn Ea Krôm, xã Cư Né, huyện Krông Búk) là một trong những gia đình được thụ hưởng chương trình này cho biết, chương trình đã hỗ trợ gia đình ông thiết bị và tư vấn phương pháp sử dụng nước tưới hợp lý nên đã tiết kiệm được lượng nước tưới rất lớn mà vẫn bảo đảm sự sinh trưởng và năng suất của vườn cây. Ông Thu cho biết thêm, 100% số hộ trong thôn đều sử dụng giếng đào để tưới nên nếu áp dụng đại trà phương pháp này là việc làm hết sức cần thiết trong bối cảnh hạn hán như hiện nay.

Mô hình tưới tiết kiệm nước do Tập đoàn Nestlé và Cơ quan Hợp tác Phát triển Thụy Sỹ thực hiện tại huyện Krông Búk.

Với mong muốn cùng bà con nông dân vượt qua khó khăn trong mùa hạn này, thời gian qua, Công ty TNHH Sản xuất – Thương mại – Dịch vụ - Xuất nhập khẩu Đăng Phong (Daphovina) cũng đã có những việc làm thiết thực theo cách riêng của mình. Giám đốc Daphovina Nguyễn Đăng Phong cho biết, để đáp ứng nhu cầu sử dụng máy bơm nước của bà con nông dân, công ty đã tổ chức tăng ca liên tục trong những tháng gần đây. Việc tăng ca khiến chi phí sản xuất tăng cao, nhưng đơn vị vẫn giữ nguyên giá thành và bảo đảm chất lượng sản phẩm bán ra. Khác với những năm trước đây, bên cạnh việc tư vấn qua điện thoại, mùa hạn năm nay công ty đã tổ chức cho cán bộ kỹ thuật đến tận vườn để tư vấn khi bà con yêu cầu. Bên cạnh đó, nhằm chia sẻ hơn nữa những khó khăn hiện tại của người nông dân, công ty sẵn sàng bán hàng trả chậm cho những khách hàng khó khăn.

Có thể thấy, bằng cách này hay cách khác, nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã và đang đồng hành cùng người nông dân trong mùa hạn này. Với những sẻ chia thiết thực đó đã phần nào giúp bà con vượt qua khó khăn.

Giang Nam

Bà Rịa - Vũng Tàu: Hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ chi phí cho người trồng mãng cầu

Nguồn tin: Báo Bà Rịa Vũng Tàu

Ông Trần Văn Chích tưới nước vườn mãng cầu gần 3 năm tuổi.

Cầm tay chỉ việc ngay tại vườn và hỗ trợ vật tư chăm bón cây trồng cho bà con nông dân, đó là nội dung mô hình “Thâm canh cây mãng cầu” do Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ nông dân (TTDNHTND) tỉnh thực hiện tại xã Long Tân (huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Qua đó, cung cấp kiến thức khoa học kỹ thuật, giúp tăng năng suất, giảm chi phí và tăng hiệu quả canh tác cho người trồng mãng cầu.

Xã Long Tân có đất đai màu mỡ, thổ nhưỡng thích hợp cho canh tác hoa màu, trồng cây ăn trái và cây công nghiệp ngắn ngày. Trong đó, cây mãng cầu được xem là cây ăn trái chủ lực của địa phương từ nhiều năm qua. Tuy nhiên, hầu hết người dân ở đây lâu nay trồng, chăm sóc cây mãng cầu theo kinh nghiệm và chia sẻ từ bà con chòm xóm, nên năng suất, sản lượng bấp bênh. Khi mưa thuận gió hòa thì trúng mùa, lúc khô hạn, sâu rầy hoành hành thì bị thất bát.

Ông Trần Văn Chích (ngụ ấp Tân Hòa) cho biết, gia đình ông trồng mãng cầu gần 15 năm nay. Sau khi lứa cây đầu già cỗi, ông phá bỏ và trồng lại 700 cây mới vào năm 2014. Nhưng cũng như đa số các hộ dân ở khu vực này, ông Chích chăm sóc cây theo kinh nghiệm và truyền miệng từ những người thân quen, chưa biết cách phòng ngừa bệnh dịch cho cây, nên nhiều cây bị chết, hiện chỉ còn khoảng 500 gốc. thời tiết vài năm nay lại diễn biết bất thường, mùa mưa đến muộn nên sâu bệnh rất nhiều, năng suất đạt thấp. “Khi nghe UBND xã Long Tân thông báo TTDNHTND tỉnh về mở lớp dạy quy trình trồng mãng cầu ta, tôi đăng ký học liền. Học rồi, mới vỡ lẽ ra nhiều khâu mình làm chưa trúng. Chẳng hạn, trước đây, tôi thường bón phân đầu vụ với liều cao, như vậy chỉ thúc cho cành lá xanh tốt mà đậu trái ít vì các chất dinh dưỡng bị lá hút hết. Sau lớp học, tôi biết cách chia nhỏ và kết hợp cả phân chuồng, phân khoáng với lượng nhỏ bón 3 - 4 lần từ khi cây tạo tán đến khi thu hoạch trái. Nhờ vậy, hiện vườn cây đã hồi phục tốt, sai trái, hiệu quả thấy rõ”, ông Chích phấn khởi bày tỏ.

Anh Phan Thanh Tuyến (cùng ngụ ấp Tân Hòa), chia sẻ: Nhận thấy so với các loại cây trồng ngắn ngày khác, cây mãng cầu có thể giúp cải thiện đời sống gia đình, năm 2014, anh Tuyến bắt đầu trồng 200 gốc. Sau khi tham gia mô hình “Thâm canh cây mãng cầu”, được dự khóa học quy trình trồng mãng cầu, được cán bộ kỹ thuật cầm tay chỉ việc tại vườn, anh Tuyến đã nắm vững kỹ thuật chăm sóc vườn cây. Hôm chúng tôi đến thăm, thấy vườn mãng cầu của anh trồng ngay hàng thẳng lối, bắt đầu đơm hoa, kết trái. Anh Tuyến khoe: “Tôi vừa phun xong thuốc chống nấm và thuốc chống vi khuẩn, giờ chỉ tưới nước cầm chừng đợi mưa xuống nữa là thu hoạch trái. Giá bán mãng cầu tại vườn hiện nay dao động từ 25 đến 40 ngàn đồng/kg tùy loại và rất đắt hàng, nhất là dịp lễ, tết và các ngày rằm trong năm”.

Theo quy hoạch vùng sản xuất mãng cầu tập trung của tỉnh đến năm 2020, xã Long Tân là một trong những khu vực trọng điểm với 415ha. Do vậy, khi triển khai mô hình “Thâm canh cây mãng cầu”, TTDNHTND tỉnh chọn xã Long Tân để tổ chức thực hiện. Theo đó, 15 hộ nông dân được chọn tham gia mô hình, học cách chăm sóc vườn cây ở tất cả các khâu từ ươm giống đến chăm bón, cắt tỉa cành, nhận biết phát hiện sâu bệnh, cách phòng trừ, dưỡng trái. Đồng thời, được TTDNHTND hỗ trợ các loại phân bón như ure, lân, kali, phân hữu cơ vi sinh và thuốc dưỡng lá, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ… sử dụng cho vườn cây của họ. Nhờ vậy, vụ mãng cầu vừa qua, bà con tham gia mô hình đều trúng mùa, được giá, với mức thu nhập từ 20 triệu đồng/vụ/vườn 200 gốc.

Ông Trần Ngọc Thủy, cán bộ Hội Nông dân xã Long Tân cho hay, mô hình “Thâm canh cây mãng cầu” tuy chỉ triển khai trong 4 tháng (từ 16-11-2015 đến 16-3-2016) và giới hạn số hộ tham gia, nhưng đây là cơ hội tốt để bà con bổ sung kiến thức khoa học kỹ thuật, áp dụng bài bản cho vườn nhà và chia sẻ kiến thức học hỏi được cho những hộ xung quanh, góp phần nhân rộng mô hình và hướng đến xây dựng thương hiệu mãng cầu ta của địa phương.

ĐAN CHÂU

'Giải độc' cho cây bị nhiễm mặn

Nguồn tin: Nông Nghiệp VN

Theo ghi nhận tại khu vực huyện Chợ Lách (Bến Tre), sầu riêng và măng cụt là 2 loại cây bị ảnh hưởng nhiều nhất của đợt hạn mặn kéo dài nhiều tháng qua.

Nhà vườn kiểm tra độ mặn của nước bằng biện pháp nếm thủ công

Bến Tre là một trong những tỉnh có diện tích cây ăn trái lớn ở vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, sau nhiều tháng phải đối diện với sự tàn phá dữ dội từ đợt hạn mặn lịch sử khiến những vườn cây ăn trái và hoa kiểng, cây giống ở “vương quốc trái cây” này bị giảm năng suất nghiêm trọng. Nhà vườn ở các địa phương trong vùng đang tập trung tìm biện pháp giải độc cho những vườn cây trái…

Giảm năng suất vì nhiễm mặn

Theo ghi nhận tại khu vực huyện Chợ Lách (Bến Tre), sầu riêng và măng cụt là 2 loại cây bị ảnh hưởng nhiều nhất của đợt hạn mặn kéo dài nhiều tháng qua. Thực tế có khá nhiều vùng sầu riêng đã bị cháy lá và rụng trái non, vì đặc tính của cây sầu riêng là chịu mặn kém.

Chủ vườn sầu riêng Thắm Đẳng cho hay, mặc dù gia đình chị đã phải bao gốc toàn bộ trong vườn sầu riêng nhưng cũng không hạn chế được mấy tình trạng cây bị rụng trái non.

Nhất là với măng cụt thì không biết cách gì cứu vãn, khiến vườn cây bị ra hoa chậm và kém năng suất rất nhiều so với mùa trước. Còn tại làng kiểng Cái Mơn, những loại cây kiểng có thân nước và các loại hoa cũng bị thiệt hại lớn, do nhà vườn phải tưới bằng nước nhiễm mặn.

Thậm chí, nhiều hộ kinh doanh các sản phẩm từ dừa và vựa cây kiểng ở khu vực huyện Mỏ Cày Bắc trong đợt cao điểm hạn mặn vừa qua đã phải khoan nhiều giếng sâu tới mấy chục mét nhưng cũng không đủ nguồn nước ngọt để phục vụ sản xuất.

“Chi phí khoan giếng và phải mua máy lọc phèn đã tiêu tốn cả trên chục triệu đồng, nhưng hạn mặn kéo dài và nắng nóng ngày càng khốc liệt khiến trọng lượng trái dừa bị giảm đến phân nửa, thu hoạch năng suất cũng giảm tới 60%”, anh Nguyễn Minh Tuấn, chủ cơ sở sản xuất dầu dừa than vãn.

Tương tự, ở những khu vực giáp ranh với TP Bến Tre, tình trạng mặn còn nặng nề hơn, có nơi nước mặn đóng thành váng muối. Chủ vườn cây kiểng Ba Bằng rầu rĩ nói: “Toàn bộ vườn ươm, cây trái, khoảng hơn 10.000 cây trồng và cây non của gia đình tôi khi tưới nước sông đều bị rụng trái, cháy lá, nhiều cây đã chết trong đợt mặn này. Những cây còn sống sót trong vườn tôi cũng chưa biết sẽ phải dùng biện pháp nào phục hồi lại”.

Có lẽ bị thiệt hại nặng nhất là vườn cây của hộ ông Nguyễn Văn Tùng, ấp Trung Hiệp, xã Hưng Khánh Trung B, huyện Chợ Lách, với 1 ha trồng chuyên canh cây sầu riêng đã 18 năm tuổi.

Tuy nhiên, trong đợt hạn mặn kéo dài nhiều tháng qua, do không có dụng cụ đo độ mặn và phải tưới bằng nguồn nước trong kênh nhiễm mặn khiến cả vườn sầu riêng bị héo rũ, cháy chóp lá rồi rụng bông, lá và trái. Đến nay gia đình ông đang phải dồn sức vào tìm mọi biện pháp phục hồi vườn cây khi bắt đầu có nguồn nước ngọt về.

Ảnh hưởng của mặn trên vườn sầu riêng bị héo, rụng lá, trái

“Cả vườn sầu riêng trồng được khoảng trên 100 gốc, gia đình tôi chăm sóc kỹ lắm, nhưng do nước mặn về lúc nào mình không hay cho nên sau khi tưới vài lần thấy những cây sầu riêng bắt đầu héo rũ. Tưởng bị dịch bệnh gì, hoảng quá tôi chạy đi hỏi mới biết do mình tưới phải nước mặn thì đã quá muộn, tính ra bị thiệt hại khoảng 70% vườn”.

Theo ông Tùng, nếu không dính đợt hạn mặn vừa qua thì đến thời điểm này vườn sầu riêng nhà ông đang cho thu hoạch. Những ngày qua gia đình phải tập trung chăm sóc và xử lý thuốc tưới gốc sầu riêng nhằm kích thích lại bộ rễ theo hướng dẫn kỹ thuật của Viện Cây ăn quả miền Nam. Không riêng hộ ông Tùng mà nhiều hộ dân lân cận đều lâm vào tình trạng này, nhất là ở các vườn ươm chuyên cung cấp cây giống.

"Giải độc" cho cây

Theo Viện Cây ăn quả miền Nam (Sofri), sầu riêng rất mẫn cảm với nước nhiễm mặn, chỉ cần tưới nước có độ mặn cao hơn 0,2 g/l (0,2‰) sẽ gây hại cho cây. Mức độ thiệt hại thay đổi tùy theo giống và sức sinh trưởng của từng vườn sầu riêng. Khi bị nhiễm mặn lá sẽ bị cháy khô, rụng, chết nhánh, chết cây.

Đối với cây ăn trái, xâm nhập mặn sẽ gây trở ngại cho sinh trưởng và phát triển cây trồng, gây xáo trộn và mất cân đối sự hấp thu nước và các chất dinh dưỡng của cây. Nước mặn sẽ phá hủy cấu trúc đất, đất bị nén chặt, rễ cây bị giảm khả năng phát triển, giảm tính thẩm thấu và thoát nước, thiếu thoáng khí cho vùng rễ sẽ ảnh hưởng đến năng suất (từng giống cây trồng mà khả năng chịu mặn khác nhau).

TS Võ Hữu Thoại, Phó Viện trưởng Viện CĂQ miền Nam cho biết: “Thực tế trong đợt hạn mặn vừa qua, nhiều nhà vườn còn khá chủ quan và bị động trong việc phòng chống và chăm sóc vườn cây. Hơn nữa, bà con bị thiếu nguồn thông tin về dự báo hạn mặn khiến khi mặn về nhanh đã trở tay không kịp, chủ yếu nhà vườn sử dụng cách đo độ mặn rất thủ công bằng việc nếm, thậm chí có người còn mang cả thiết bị đo độ mặn của nước mắm ra đo thì không thể chính xác được”.

Nông dân sử dụng thiết bị đo độ mặn của nước mắm ra đo nước trong vườn cây

Để nhận biết cũng như phòng ngừa và “giải độc” khi cây bị nhiễm mặn, TS Võ Hữu Thoại khuyến cáo bà con nông dân cần thường xuyên cập nhật thông tin về dự báo tình hình xâm nhập mặn, nồng độ mặn trên các sông, rạch để có hướng xử lý kịp thời, ngăn chặn nước mặn hoặc lấy nước ngọt vào vườn. Để tránh thiệt hại cho cây trồng khi tưới nhầm nguồn nước bị nhiễm mặn, bà con nông dân cần biết khả năng chịu mặn của từng loại cây trồng trên vườn của mình.

Cụ thể, nhóm cây mẫn cảm với mặn (chịu được nồng độ mặn dưới 1‰): Bơ, chuối, khế, nhãn, đu đủ, chanh dây, sầu riêng, chôm chôm, bòn bon, măng cụt; nhóm cây chịu mặn trung bình (chống chịu được nồng độ mặn từ 2‰ - 3‰): Sơri, ca cao, cây có múi, ổi, khóm, vú sữa; nhóm cây chống chịu khá với mặn (chống chịu được nồng độ mặn 4‰ - 5‰): Mít, xoài, mãng cầu Xiêm, na; nhóm cây chống chịu tốt với mặn (chống chịu được nồng độ mặn > 5‰): dừa, sapô, me, nho.

Nếu sử dụng nguồn nước bị nhiễm mặn để tưới cho cây ăn trái và nồng độ muối hòa tan trong nước cao hơn khả năng chịu mặn khiến cây bị “sốc mặn”, rụng lá, hoa, trái hàng loạt và có thể dẫn đến chết cây. Để giúp cây sớm phục hồi, nông dân cần mạnh dạn tỉa bỏ bớt hoặc toàn bộ số trái trên cây (tùy theo mức độ ảnh hưởng của mặn ít hay nhiều).

Song song đó, bà con cần sử dụng nguồn nước ngọt để tưới nhằm rửa trôi lượng muối đã tích tụ trong đất, đồng thời bón phân hữu cơ, phân lân để phục hồi bộ rễ cây trồng. Đặc biệt lưu ý, không nên bón phân có chứa Natri và Clo vì sẽ tăng độ độc cho cây. Đồng thời, không nên xử lý cây ra hoa trong giai đoạn này nếu nguồn nước tưới không đảm bảo cung cấp đầy đủ cho cây khi đậu trái và phát triển trái.

MINH SÁNG

Trồng dưa bở thu 200 triệu đồng/ha

Nguồn tin: Báo Nghệ An

Những ngày này, bà con nông dân xã Nghi Thạch (Nghi Lộc, Nghệ An) tập trung thu hoạch dưa bở. Diện tích trồng dưa bở của Nghi Thạch hiện có trên 10 ha. Mỗi ha dưa đang cho thu nhập xấp xỉ 200 triệu đồng.

Nông dân xã Nghi Thạch, huyện Nghi Lộc thu hoạch dưa bở.

Hiện nay ở Nghi Thạch có 5 xóm trồng dưa đó là Xuân Lạc, Xuân Hoa, Xuân Tiến, Xuân Thịnh và Trung Khánh, với tổng diện tích trên 10 ha.

Chị Đào Thị Trúc, là hộ trồng dưa ở xóm Xuân Thịnh cho biết: Gia đình chị chuyển đổi 1 sào đất sang trồng cây dưa bở, tôi thấy về hiệu quả kinh tế trồng dưa bở lợi nhuận gấp hai, ba lần trồng lúa và cây rau màu khác. Cây dưa bở có lợi thế là giống không phải mua, chỉ cần chọn quả chín già, bổ lấy hạt phơi khô, bảo quản kĩ là vụ sau có thể sử dụng ươm trồng, riêng một sào dưa của gia đình tôi mỗi vụ cũng cho thu nhập từ 8 đến 10 triệu đồng.

Dưa bở ở Nghị Thạch năm nay giảm năng suất, nhưng giá bán cao hơn năm trước từ 4.000 - 5.000 đồng/kg

Theo các hộ trồng dưa cho biết: Dưa năm nay, năng suất giảm hơn vụ trước, tuy nhiên chất lượng dưa thơm ngon, giá cả lại cao hơn so với các năm trước. Giá dưa năm nay trung bình từ 10.000 - 12.000 đồng/kg, cao hơn năm ngoái từ 4.000 - 5.000 đồng/kg, nên thu nhập của người dân vẫn đạt gần 200 triệu đồng/ ha.

Dưa bở hay còn gọi là dưa nứt.

Trước đây diện tích cây dưa bở được trồng ở Nghi Thạch chỉ khoảng 1ha, chủ yếu ở xóm Trung Khánh. Từ năm 2005 diện tích luôn được mở rộng, tập trung ở xóm Trung Khánh, Xuân lạc, Xuân Tiến, Xuân Hoa, Xuân Thịnh. Đến năm 2007 xã đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên vùng đất cao cưỡng ở các xứ đồng Căng Ba, Nương Toàn, Sau Đình… không chủ động được nguồn nước.

Ông Đặng Hữu Thìn - Chủ tịch Hội Nông dân xã Nghi Thạch cho biết: “Hiệu quả kinh tế từ cây d­ưa bở là rất khả quan, mở ra cho người dân Nghi Thạch hướng đi mới, khắc phục đư­ợc khó khăn do địa hình canh tác phức tạp. Xã cũng chú trọng tới chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng cấp hệ thống thủy lợi, khuyến khích mở rộng diện tích cây dư­a bở, đồng thời đẩy mạnh công tác chuyển giao KHKT để hộ nông dân áp dụng, nâng cao chất l­ượng, sản l­ượng cây trồng".

Khách hàng ưa chuộng sản phẩm dưa bở Nghi Thạch nên đến tận bờ ruộng thu mua

Dưa bở hay còn có cách gọi dân dã nữa là dưa nứt, hiện đang được xem là cây đặc sản ở Nghi Lộc. Bởi loại dưa này vỏ mỏng, khi chín thì thịt quả chuyển sang dạng bột và nở ra khiến vỏ thường bị nứt, có vị ngọt, thơm và mát.

Thu Hiền - Ngọc Mai (Đài TT-TH Nghi Lộc - Nghệ An)

Cây dừa chịu mặn được bao nhiêu?

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Một số địa phương ở “xứ dừa” Bến Tre cho biết đến thời điểm này cây dừa chưa có biểu hiện tác động bởi xâm nhập mặn. Người dân trồng dừa còn kinh nghiệm: “Trong mấy tháng nước lợ lợ, dừa cho nhiều dầu hơn”.

Theo Trung tâm khuyến nông- Khuyến ngư Bến Tre, cây dừa chịu được mặn từ 4-5‰, nếu nhiễm mặn thường xuyên hơn 5‰, trái dừa sẽ nhỏ lại. Độ mặn cao hơn nữa, dừa sẽ không có trái.

Theo Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bến Tre, toàn tỉnh hiện có trên 68.000ha trồng dừa. Bến Tre được xem “quê hương xứ dừa”, loài cây trồng này gắn bó bao đời với người dân Bến Tre và sản lượng khoảng 526 triệu trái/năm.

Diện tích dừa nhiều nhất ở Giồng Trôm 17.000ha, Mỏ Cày Nam hơn 16.700ha… Dừa cũng được biết đến là một loài cây có sức sống mạnh mẽ, nó có thể chịu đựng và tồn tại được trong những điều kiện khắc nghiệt của môi trường.

Tại “huyện dừa” Mỏ Cày Nam có trên 16.700ha trồng dừa, theo một cán bộ phòng Nông nghiệp và PTNT huyện, diện tích trồng dừa không ngừng tăng lên vài năm gần đây, do nhiều hộ dân bỏ lác chuyển sang trồng dừa và trồng cỏ dưới vườn dừa nuôi bò.

Giá dừa thời gian qua bớt bấp bênh cũng khuyến khích người dân tăng diện tích. Hiện dừa đang có giá từ 60.000 - 70.000 đ/chục (12 trái), dừa Xiêm xanh giá 90.000 - 100.000 đ/chục, dừa Dứa 12.000 - 15.000 đ/trái.

Cũng theo cán bộ này, có một số tài liệu cho biết dừa có thể chịu được độ mặn 4 - 10‰, còn trên 10‰ sẽ bị ảnh hưởng. Nhưng đến nay: “các địa phương chưa có thông báo gì về những biểu hiện ảnh hưởng mặn của cây dừa”.

Người trồng dừa cho biết nắng hạn, thiếu nước tưới cũng làm trái dừa nhỏ hơn

Tại “xã dừa” Thành Thới A (Mỏ Cày Nam) hiện có 1.155ha dừa đang cho trái và theo ông Đỗ Văn Nho - Phó Chủ tịch UBND xã: “Cây dừa vẫn chưa ảnh hưởng gì bởi nước mặn”. Một số hộ trồng dừa phỏng chừng: “dừa có thể chịu đựng độ mặn 5 - 6‰ gì đó”, nhưng lại nói kinh nghiệm chắc nịch rằng: “Ở độ mặn 2‰, dừa cho dầu dữ lắm.

Thường thì trong mấy tháng nước lợ lợ, dừa cho nhiều dầu hơn”. Thực tế, theo kinh nghiệm của người trồng dừa, trải qua đợt hạn mặn kéo dài nhất từ trước đến nay, độ mặn có lúc vượt trên 10‰, cây dừa cũng đã chứng minh sự sống vững vàng, khả năng chống chọi, phát triển tốt của nó.

Hiện nay, Bến Tre vẫn đang tiếp tục nghiên cứu khả năng tồn tại và phát triển của cây dừa cũng như tính hiệu quả của nó trong tình hình mặn xâm nhập ở mức độ cao và kéo dài. Kỹ sư Huỳnh Quang Đức - Giám đốc Trung tâm Khuyến nông- Khuyến ngư Bến Tre - Ủy viên Ban Thường vụ Hiệp hội Dừa Bến Tre, cho rằng dừa được xếp vào nhóm cây có khả năng chịu mặn khá tốt trên 5‰.

Các nghiên cứu chuyên sâu trên dừa cho thấy khi độ mặn trong nước trên 10‰ và hàm lượng sunfat cao hơn 500 mg/lít thì sinh trưởng, phát triển dừa bị ảnh hưởng rất rõ rệt.

Và có thể đánh giá chung là độ mặn trong thời gian qua không phải là yếu tố hoàn toàn quyết định đến năng suất dừa, mà chỉ là một trong những yếu tố liên quan, như lệ thuộc vào thời gian nhiễm mặn, nhiệt độ môi trường...

“Khác với một số loại cây trồng khác, việc chăm sóc dừa ở thời điểm giao thời 2 mùa nắng- mưa, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với năng suất, sản lượng dừa trong năm, đặc biệt sau thời gian dài bị ảnh hưởng hạn, mặn.

Có thể nói rằng năng suất dừa, ngoài thời tiết còn phụ thuộc rất lớn vào mức độ đầu tư và kỹ thuật chăm sóc của người trồng dừa và đây là điều mà mọi người có thể thực hiện được cho vườn dừa của mình”- Kỹ sư Huỳnh Quang Đức bảo vậy.

LÝ AN

Cần nâng cao khả năng bảo quản, chế biến trái cây

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Vào thời điểm hiện tại, giá nhiều loại trái cây như nhãn, dâu xanh, sầu riêng, bưởi da xanh, xoài... trên địa bàn tỉnh Tây Ninh đang đứng ở mức cao hơn so với năm trước khoảng từ 10.000 đồng - 30.000 đồng/kg. Tuy nhiên điệp khúc “được mùa, rớt giá” của nông sản nói chung và trái cây nói riêng vẫn cứ lặp lại, bởi các khâu tổ chức tiêu thụ, bảo quản và chế biến sau thu hoạch vẫn còn yếu kém.

Trái dâu sau khi thu hoạch ở ấp Trường Lưu, xã Trường Đông, huyện Hoà Thành.

Những ngày qua, do thời tiết nắng nóng, nhiều loại thực phẩm giải nhiệt như dừa, bưởi, quýt, cam, dưa hấu, chanh… hút hàng, tăng giá. Sức mua các mặt hàng này cũng tăng mạnh.

Chị Nguyễn Thị Kim Loan- tiểu thương kinh doanh trái cây tại Trung tâm thương mại Long Hoa, huyện Hoà Thành cho biết: “Gần 2 tháng nay, trái cây- nhất là cam, bưởi, dưa hấu bán rất chạy. Trước đây, mỗi ngày tôi chỉ bán được khoảng 20 - 30kg bưởi, cam các loại, nhưng nay thì lượng hàng bán ra tăng gấp mấy lần, có khi thiếu hàng để bán”.

Theo chị Loan, những ngày qua, do nắng nóng nên khan hiếm trái cây, trong khi nhu cầu người tiêu dùng lại tăng, nên một số loại trái cây tăng giá từ 5.000 đồng - 10.000 đồng/kg. Hiện cam sành được bán với giá 50.000 đồng - 60.000 đồng/kg; bưởi Năm Roi 50.000 đồng/kg; bưởi da xanh 65.000 đồng - 80.000 đồng/kg. Các loại thanh long, quýt đường cũng nhích giá. Riêng dưa hấu vẫn giữ mức 8.000 đồng - 10.000 đồng/kg.

Bà Nguyễn Thị Thanh, ngụ ấp Trường Xuân, xã Trường Hoà, huyện Hoà Thành cho biết: “Vườn cây của gia đình tôi không thiếu nước tưới nên vụ này sầu riêng hạt lép Ri 6 vẫn cho trái khá tốt, hiện đang vào vụ thu hoạch rộ, giá bán ngay tại vườn cho thương lái cũng được khoảng 30.000 đồng/kg. Nếu giá cứ ổn định ở mức này thì nhà vườn sống được, không lo không duy trì được sản xuất”.

Ông Sáu Tỷ - chủ vựa thu mua trái cây tại xã Trường Đông, huyện Hoà Thành cho biết, năm trước giá dâu xanh giảm mạnh, chỉ còn khoảng 4.000 đồng - 6.000 đồng/kg, năm nay đang giữ được mức giá từ 10.000 đồng - 15.000 đồng/kg; còn nhãn tiêu da bò có giá từ 18.000 đồng - 20.000 đồng, có khi lên đến 30.000 đồng/kg. Tuy nhiên, khi vào vụ thu hoach rộ, giá trái cây giảm là điều khó tránh khỏi, bởi phần lớn các loại trái cây trong nước chủ yếu được tiêu thụ ở dạng thô và không thể bảo quản được lâu để đem tiêu thụ ở xa.

Vì vậy, để ổn định đầu ra lâu dài cho trái cây, ngoài việc tổ chức sản xuất lại cho phù hợp, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu nâng cao khả năng bảo quản và phát triển các sản phẩm chế biến từ trái cây, giúp nhà nông không bị áp lực tiêu thụ trong các mùa thu hoạch rộ.

THANH NHI

Phụng Hiệp (Hậu Giang): Cam xoàn sốt giá

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Hiện nhiều thương lái lùng sục ở các vùng chuyên canh cam xoàn của huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang) để thu mua với giá cao ngất ngưởng 45.000 đồng/kg, cao hơn cùng kỳ năm trước từ 12.000 - 15.000 đồng/kg. Nhưng do thời điểm này là mùa nghịch nên sản lượng cam xoàn không nhiều, trong tổng số diện tích cam xoàn ở Phụng Hiệp, khoảng 150ha ở giai đoạn cho trái thì chỉ có khoảng 10% nhà vườn cho trái mùa này.

Do là mùa nghịch nên sản lượng cam xoàn hiện nay không nhiều.

Cam xoàn cho năng suất ổn định từ 2,5 - 3 tấn/công, với giá bán hiện nay, người trồng cam xoàn mùa nghịch thu về 120 triệu đồng/công, trong đó trừ hết chi phí, người trồng lãi khoảng 70%, cao hơn mùa thuận khoảng 20%.

DUY KHÁNH

Hướng Hóa: Phát triển trên 2.600ha cây ăn quả

Nguồn tin: Báo Quảng Trị

Xác định trồng cây ăn quả là một thế mạnh trong việc phát triển kinh tế của địa phương nên thời gian qua người dân cùng chính quyền huyện Hướng Hóa (Quảng Trị) đã mạnh dạn đầu tư mở rộng diện tích cây ăn quả.

Thu mua chuối xuất khẩu ở Hướng Hóa

Hiện nay, tổng diện tích các loại cây ăn quả trên địa bàn huyện đạt trên 2.658ha với các loại cây trồng chủ yếu như: chuối, dứa, cam, quýt, bưởi, xoài... Trong đó, chuối vẫn là cây trồng chủ lực chiếm hơn 50% diện tích cây ăn quả của toàn vùng, với sản lượng chuối quả đạt 32.000 tấn/năm.

Qua thực tế cho thấy các loại cây ăn quả trên địa bàn đều phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu của địa phương nên phát triển rất tốt, hiệu quả kinh tế mang lại khá cao. Bình quân mỗi ha cây ăn quả cho thu nhập từ 35 - 50 triệu đồng/năm; nếu được chăm sóc tốt, có loại cây cho thu nhập từ 60 - 70 triệu đồng/năm/ha. Chính vì thế, cây ăn quả đã góp phần giúp người dân thoát nghèo và vươn lên làm giàu bền vững.

Thời gian vừa qua, các sản phẩm cây ăn quả trên địa bàn đang được thị trường đánh giá cao và tiêu thụ rộng khắp trên cả nước và xuất khẩu sang một số nước trong khu vực. Đó là nguồn động viên để bà con nông dân yên tâm sản xuất, mở rộng diện tích nhằm khai thác thế mạnh của địa phương góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế trên địa bàn.

T.N.B

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop