Tin nông nghiệp ngày 10 tháng 04 năm 2021

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 10 tháng 04 năm 2021

Trải nghiệm tại vườn nho giống mới

Nguồn tin: Báo Bình Thuận

Nằm gần quốc lộ 1A, những năm gần đây, nông dân xã Phước Thể (tỉnh Bình Thuận) đã kết hợp sản xuất cây nho với du lịch sinh thái vườn. Đặc biệt, hơn 1 năm nay bà con chuyển đổi, nhân rộng giống nho mới NH01-152 (Hồng Nhật) mang lại hiệu quả kinh tế cao, được khách tham quan ưa chuộng…

Nho Phước Thể, nhiều năm nay vốn được xem là một trong những loại đặc sản của huyện Tuy Phong nói riêng và Bình Thuận nói chung. Ngoài 2 giống nho đỏ và nho xanh truyền thống đang dần bị thoái hóa, từ năm 2020 đến nay, nông dân địa phương đã lựa chọn giống nho mới Hồng Nhật để canh tác, vừa cho năng suất, vừa có giá bán cao, lại được khách du lịch ưa chuộng. Một trong những hộ nông dân đi đầu trong việc trồng giống nho Hồng Nhật, phục vụ du lịch nông nghiệp tại Phước Thể là ông Nguyễn Văn Thành - Chủ vườn nho Tư Thành.

Dẫn chúng tôi vào khu vườn nho giống Hồng Nhật đang cho trái năm đầu tiên, ông Thành giới thiệu: Điểm tham quan này chỉ cách quốc lộ đoạn qua xã Phước Thể chừng 100 mét. Du khách có thể tham quan không tính vé, chụp hình tại vườn nho đang trĩu quả, chín mọng. Họ có thể thưởng thức thoải mái tại vườn, có thể tự cầm kéo cắt chùm nho nào ưng ý và cân ký ngay tại vườn để tính tiền. Không những vậy, du khách có thể được thưởng thức những ly rượu vang nho, nước ép từ trái nho thanh ngọt do cơ sở này chế biến, giúp khách tham quan xua đi cái nắng nóng trưa hè.

Ngước nhìn hơn 2.000 m2 nho Hồng Nhật và khoảng 3.000 m2 nho truyền thống đều đang cho trái, ông Thành không giấu niềm vui: Giống nho mới này đang cho thu hoạch với năng suất bình quân trên 1 tấn /sào/lứa (4 tháng/lứa). Ngoài bán tại vườn, sản phẩm còn được xuất bán tại các điểm siêu thị, chợ, cửa hàng trên địa bàn trong và ngoài tỉnh.

Ông Trần Lê Minh Trí, cán bộ nông nghiệp xã Phước Thể cho biết: Theo thống kê tại xã Phước Thể hiện có khoảng 17 ha nho, bao gồm nho đỏ, nho xanh và nho Hồng Nhật. Qua hơn 1 năm trồng, cho thấy đây là giống nho mới nhưng phù hợp thổ nhưỡng, năng suất cao. Do giống nho mới có vị giòn, ngon và lạ miệng nên thu hút du khách đến tham quan, mua tại vườn. Về phía nông dân, do đạt giá cao nên bà con đang từng bước nhân rộng diện tích trồng nho giống mới này.

Theo Trung tâm Khuyến nông tỉnh, giống nho Hồng Nhật thích nghi với điều kiện sản xuất tại huyện Tuy Phong. Tuy nhiên, để sản xuất nho giống mới trên diện rộng đạt hiệu quả, các hộ cần liên kết chặt chẽ hơn, để tạo ra sản phẩm có chất lượng và đồng đều, an toàn giúp xây dựng thương hiệu cho nho Tuy Phong. Đồng thời rèn luyện thói quen viết nhật ký thường xuyên, đầy đủ nhằm tạo cơ sở để truy xuất nguồn gốc sản phẩm, tạo lòng tin đối với người tiêu dùng, có hướng mở rộng cho vùng nho của địa phương.

Kiều Hằng- Đình Hòa

Thu nhập ổn định từ trồng nhãn Idor

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Ông Trần Văn Coi ở khu vực Long Hòa, phường Long Hưng, quận Ô Môn (TP. Cần Thơ) được nhiều người biết tiếng bởi khá thành công với mô hình trồng nhãn Idor. Không chỉ làm giàu cho bản thân, ông còn giúp đỡ nhiều hội viên, nông dân phát triển mô hình trồng nhãn để có thu nhập ổn định.

Cán bộ HND phường Long Hưng cùng ông Coi (bìa phải) trao đổi kỹ thuật xử lý nhãn Idor ra hoa.

Với 1,5ha trồng nhãn Idor, ông Coi thu nhập khoảng 600 triệu đồng/năm. Có được những thành quả trên là nhờ ông Coi chuyển dịch cơ cấu cây trồng đúng hướng, biết ứng dụng khoa học vào sản xuất.

Năm 2014, ông Coi tham quan các mô hình kinh tế hiệu quả ở huyện Phong Điền cũng như các quận lân cận và nhận thấy giống nhãn Idor có triển vọng kinh tế cao, vì kháng được bệnh chổi rồng, năng suất cao, giá cả ổn định. Nắm bắt thời cơ, ông Coi đặt mua 100 nhánh nhãn Idor về trồng thử. Sau đó, ông tiếp tục đốn bỏ 3 công nhãn da bò trên 15 năm tuổi để trồng nhãn Idor.

Ông chịu khó tìm hiểu, tham quan, học tập kinh nghiệm của các nhà vườn và tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật trồng, chăm sóc nhãn để ứng dụng vào vườn nhãn của gia đình. Ông Coi chia sẻ: “Đối với nhãn Idor, khi cây ra đọt non, phải phun thuốc bảo vệ thực vật nhằm hạn chế sâu, rầy tấn công. Song song đó, phải bón phân theo định kỳ để cây tốt, kháng được bệnh”. Với cách làm này, vườn nhãn ông Coi đã phát triển xanh tốt, năng suất cao.

Thấy mô hình trồng nhãn Idor hiệu quả, năm 2016, ông Coi quyết định đốn bỏ 1,2ha vườn nhãn da bò còn lại để tiếp tục trồng nhãn Idor. Đến nay, 1,5ha nhãn của ông Coi thu hoạch ổn định từ 25-30 tấn/năm. Ông Coi cho biết: “Nhãn Idor có ưu điểm hạt nhỏ, vỏ mỏng, cơm dày và giòn, ít nước, độ ngọt vừa phải nên được thị trường ưa chuộng. Trung bình, 1kg nhãn bán cho thương lái với giá 20.000 đồng”. Để cho cây nhãn xanh tốt, sau khi thu hoạch thì tiến hành tỉa cành, bỏ những cành già, tạo tán cho cây. Không chỉ bán trái, hằng năm ông Coi còn xuất bán 6.000 cây giống nhãn Idor, với giá 25.000-30.000 đồng/cây.

Ông Nguyễn Văn Thắng, Chủ tịch Hội Nông dân (HND) phường Long Hưng, cho biết: “Mô hình trồng nhãn Idor của anh Coi là mô hình kinh tế hiệu quả, được HND phường chọn nhân rộng ra cho nhiều hội viên áp dụng. Những năm qua, anh Coi còn tặng cây giống, hỗ trợ về kỹ thuật cho hội viên phát triển mô hình trồng nhãn. Anh Coi tích cực tham gia các phong trào do HND phường phát động, như: cất nhà tiền chế cho hội viên có hoàn cảnh khó khăn về nhà ở, bắc cầu, sửa chữa, giặm vá các tuyến đường giao thông bị xuống cấp. Nhiều năm liền, anh Coi được Quận ủy tặng Giấy khen có thành tích tiêu biểu trong học tập và làm theo Bác”.

Bài, ảnh: K.V

Lục Ngạn: Hướng dẫn người dân phòng trừ sâu đục cuống quả vải thiều

Nguồn tin: Báo Bắc Giang

Tuần qua, thời tiết trên địa bàn huyện Lục Ngạn (Bắc Giang) nắng ít, kèm theo mưa phùn ẩm ướt đã tạo điều kiện cho bọ xít, sâu đo, sâu róm, rệp muội, sâu đục cuống quả... phát triển và gây hại trên vải thiều ở giai đoạn tắt hoa - quả non.

Người dân tổ dân phố Nghĩa, thị trấn Chũ phun thuốc phòng trừ sâu đục cuống quả vải thiều.

Thời điểm đầu tháng 4 này, các đối tượng sâu bệnh vẫn tiếp tục gây hại, trong đó đặc biệt sâu non đục cuống quả vải lứa 2 đã xuất hiện và trưởng thành rộ. Mật độ trung bình từ 2-3 con/cành; cục bộ có vườn tỷ lệ trưởng thành xuất hiện cao từ 5-7 con/cành. Đây là lứa sâu đầu của thời vụ nên sẽ gây hại từ nay cho đến cuối tháng 4.

Để phòng trừ các đối tượng sâu bệnh gây hại, Trung tâm Dịch vụ và Kỹ thuật nông nghiệp huyện đã có văn bản đề nghị UBND các xã, thị trấn chỉ đạo cán bộ chuyên môn, các thôn, tổ dân phố tập trung hướng dẫn người dân thường xuyên kiểm tra, phát hiện sâu bệnh hại kịp thời để phòng trừ đạt hiệu quả cao.

Theo đó, các hộ cần tiến hành vệ sinh vườn, cắt tỉa những cành không mang quả, cành tăm, cành sâu bệnh tạo thông thoáng, giảm nơi cư trú của sâu đục cuống quả. Đồng thời tạo điều kiện cho cây tập trung dinh dưỡng nuôi quả; thu gom tiêu hủy các cành lá để giảm bớt độ rậm rạp và độ ẩm, tránh cho sâu đục cuống quả cư trú.

Dự báo sâu trưởng thành đục cuống đang xuất hiện, từ nay đến 15/4 sẽ đẻ trứng trên quả dầy đặc đến cuối tháng, do đó ngoài biện pháp thủ công tỉa cành, người dân cần phun thuốc bảo vệ thực vật phòng trừ sâu trưởng thành, trứng và sâu non mới nở.

Bà con phun trừ sâu đục quả bằng một trong những loại thuốc sau: Trebon10EC Moclodan 300EC, Rholam Super 12EC, 50SG, phun kép 2 lần, lần 2 cách lần 1 từ 7-10 ngày.

Với các đối tượng sâu bệnh gây hại khác như sâu đo, sâu róm, bọ xít ở những vườn có mật độ 2 con/cành trở lên, tiến hành phun thuốc bằng các hoạt chất Emamextin 5WG, Abamectin 1.8 - 3.6EC hoặc thuốc Kinalux 25EC, Peran 50EC.Goodcheck 780wp, Trebon 10EC; Phun phòng và trừ bệnh sương mai bằng một trong những loại thuốc: Ridomin gol 68WP hoặc thuốc Polyram 80DF, Ricide 72wp, Phytocide50wp...

Bà con cần chú ý: Nồng độ, liều lượng, thời gian cách ly theo khuyến cáo trên nhãn mác của từng loại thuốc. Đối với vùng quy hoạch vải thiều xuất khẩu sang Nhật Bản cần tuân thủ đúng quy trình khuyến cáo của các cơ quan chuyên môn.

Tin, ảnh: Đức Thọ - Quang Huấn

Diện tích canh tác ngô công nghệ sinh học ở Việt Nam khoảng 92.000ha

Nguồn tin: Hà Nội Mới

Chiều 7-4, Hiệp hội Thương mại Giống cây trồng (VSTA), Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Tổ chức quốc tế về tiếp thu ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp (ISAAA) đồng tổ chức hội thảo “Đóng góp của cây trồng công nghệ sinh học trong nông nghiệp tại Việt Nam”.

Hội thảo được tổ chức với mục đích cập nhật và trao đổi thông tin về ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp trên toàn cầu cũng như đánh giá, xem xét tác động lĩnh vực này tại Việt Nam.

Tại hội thảo, ông Trần Xuân Định, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hiệp hội Thương mại Giống cây trồng Việt Nam, cho biết: Trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI, lĩnh vực nông nghiệp đã có sự bứt phá của khoa học, đặc biệt là công nghệ sinh học với những phát minh của công nghệ di truyền, công nghệ gen, công nghệ vi sinh… Nhiều giống cây trồng được tạo ra bằng công nghệ sinh học giúp nông dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao thu nhập. Ước tính, khoảng 1,95 tỷ người trên thế giới được hưởng lợi từ công nghệ sinh học.

Tại Việt Nam, cây trồng công nghệ sinh học đã được chính thức cấp phép canh tác thương mại từ giai đoạn 2014-2015 trên cây ngô, giúp tiếp tục nâng cao năng suất và chất lượng sản xuất, gia tăng giá trị. Đến nay, tổng diện tích canh tác ngô công nghệ sinh học ở Việt Nam khoảng 92.000ha, chiếm khoảng 10% tổng diện tích trồng ngô cả nước.

Ông Nguyễn Xuân Định, Phó Chủ tịch Trung ương Hội Nông dân Việt Nam nhấn mạnh: Sau hội thảo này, Hội Nông dân Việt Nam, Hiệp hội Thương mại Giống cây trồng và Tổ chức quốc tế về tiếp thu ứng dụng công nghệ sinh học trong nông nghiệp tiếp tục thảo luận và phối hợp xây dựng các hoạt động tiếp theo nhằm tuyên truyền nâng cao nhận thức cho nông dân về tiềm năng, lợi ích cây trồng công nghệ sinh học cũng như giải quyết khó khăn trong nghiên cứu ứng dụng cây trồng công nghệ sinh học vào thực tiễn tại địa phương.

MINH PHÚ

Bình Định: Giá ớt giảm mạnh

Nguồn tin: Báo Bình Định

Ông Trần Minh Tuấn, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Phù Mỹ (tỉnh Bình Định) cho biết, vụ Đông Xuân 2020 - 2021, toàn huyện sản xuất 1.262 ha ớt, tăng 92 ha so với vụ này năm trước. Phần lớn lượng ớt thu hoạch đều được nông dân bán cho các đại lý trên địa bàn huyện để xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, nhưng sau ngày 1.4.2021, Trung Quốc không nhập khẩu ớt nữa, nên giá sản phẩm giảm mạnh.

Sản phẩm ớt tươi khó tiêu thụ, nhiều hộ dân ở xã Mỹ Chánh, huyện Phù Mỹ chọn cách phơi khô và bảo quản để bán.

Hiện đang vào chính vụ thu hoạch ớt, nhưng nông dân không vui vì giá ớt chỉ thiên chỉ còn 16.000 đồng/kg, giảm 14.000 đồng/kg so với đầu vụ; đặc biệt giá ớt chỉ địa đầu vụ ở mức 33.000 đồng/kg, nay rớt xuống còn 3.500 đồng/kg.

Tin và ảnh: TIẾN SỸ

Đắk Nông: Hiệu quả từ chương trình tái canh cà phê ở Đắk Mil

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

Giai đoạn 2012-2020, huyện Đắk Mil (tỉnh Đắk Nông) đã vượt kế hoạch về tái canh cà phê. Hầu hết diện tích cà phê tái canh đều phát triển tốt, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân.

Triển khai nhiều giải pháp

Đắk Mil có 21.200 ha cà phê, chiếm khoảng 15,4% diện tích cà phê toàn tỉnh Đắk Nông. Trong số này, có không ít diện tích cà phê già cỗi, kém năng suất. Do đó, thời gian qua, huyện Đắk Mil đã tích cực thực hiện chương trình tái canh cà phê.

Năng suất cà phê trung bình ở Đắk Mil hiện đạt 2,6 tấn/ha

Huyện ủy có Nghị quyết về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Trong đó, huyện coi trọng việc tái canh cà phê cho bà con nông dân. UBND huyện Đắk Mil cũng triển khai Đề án về nâng cao năng suất, chất lượng vườn cà phê, với kế hoạch tái canh khoảng 7.640 ha cà phê già cỗi, sâu bệnh, chất lượng kém.

Theo Phòng Nông nghiệp- PTNT huyện Đắk Mil, địa phương tập trung thực hiện đồng thời nhiều giải pháp để tái canh cà phê. Từ khâu tuyên truyền, vận động người dân, cho đến hướng dẫn quy trình, xây dựng các mô hình tái canh cà phê hiệu quả đều được huyện triển khai bài bản.

Huyện quan tâm vận động, hướng dẫn người dân sử dụng các giống cà phê mới, chất lượng cao, kháng sâu bệnh tốt như: TR4, TR9, TR11, TRS1, cà phê dây... để tái canh. Cơ quan chuyên môn của huyện cũng làm tốt việc phối hợp với các doanh nghiệp trong việc cung cấp, hỗ trợ giống cà phê tái canh cho hộ nghèo, dân tộc thiểu số.

Hàng năm, huyện đều triển khai khảo sát, lập kế hoạch tái canh cà phê. Các tổ chức hội, đoàn thể, thôn, bon... cũng đẩy mạnh vận động Nhân dân tích cực triển khai thực hiện tái canh cà phê.

Theo bà Hồ Thị Công, thôn Đức Hòa, xã Thuận An (Đắk Mil), từ nhiều năm nay, gia đình đã thực hiện tái canh toàn bộ diện tích 3 ha cà phê bằng hình thức trồng mới và ghép cải tạo.

Gia đình thực hiện tái canh cà phê theo hình thức cuốn chiếu, mỗi năm một ít để không ảnh hưởng đến thu nhập. Trong vài năm đầu, bà trồng xen các loại cây ngắn ngày như đậu, khoai môn, bắp... để bảo đảm thu nhập. Đến nay, hơn 1 ha cà phê tái canh đã cho thu chính, năng suất cao gần gấp đôi so với trước đây.

Gia đình bà Hồ Thị Công, xã Thuận An (Đắk Mil) đã tái canh 3 ha cà phê

Tiếp tục đẩy mạnh tái canh

Đến hết năm 2020, toàn huyện đã tái canh được trên 7.800 ha cà phê, đạt 102,35% kế hoạch. Trong đó, tái canh theo hình thức trồng mới 6.394 ha, còn lại là ghép cải tạo.

Về kết quả tái canh, theo ông Lê Văn Hoàng, Phó Chủ tịch UBND huyện Đắk Mil, không chỉ vượt kế hoạch về diện tích mà kết quả tái canh cà phê đem lại của chương trình này cũng cao hơn mong đợi. Hầu hết diện tích cà phê tái canh đều có năng suất, chất lượng cao.

Nếu như năng suất cà phê trung bình của huyện năm 2012 chỉ đạt 2 tấn/ha thì hiện nay đạt trên 2,6 tấn/ha. Nhiều vườn cà phê tái canh cho năng suất cao hơn khoảng 4-5 tấn/ha so với trước đây.

Qua thực hiện tái canh cà phê, trình độ kỹ thuật sản xuất cà phê của người dân đã được nâng lên. "Điều này khẳng định trong thực tiễn, tái canh cà phê là chương trình rất hiệu quả. Do đó, huyện sẽ tiếp tục đẩy mạnh chương trình này để ổn định, nâng cao đời sống người dân", ông Hoàng cho biết.

Ngày 21/1/2021, UBND Đắk Mil đã ban hành Kế hoạch số 21 về việc triển khai chương trình tái canh cây cà phê trên địa bàn giai đoạn 2021 – 2025. Hiện nay, Phòng Nông nghiệp-PTNT huyện cũng đã tham mưu, ban hành kế hoạch thực hiện tái canh 975 ha cà phê mỗi năm.

Các phòng, ban, các đơn vị liên quan; Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT cũng tăng cường sự phối hợp tuyên truyền, thực hiện những chính sách tín dụng, cơ chế hỗ trợ người dân tái canh cà phê.

Huyện Đắk Mil cũng tích cực lồng ghép các chương trình, dự án, đề án đang triển khai trên địa bàn để phục vụ kế hoạch tái canh cà phê. Huyện siết chặt quản lý vật tư nông nghiệp, nâng cao chất lượng cây giống để chương trình tái canh cà phê ngày một hiệu quả hơn.

Bài, ảnh: Hồng Thoan

Hạn, mặn vẫn còn gay gắt

Nguồn tin:  Báo Hậu Giang

Mùa khô năm 2020-2021, ở ĐBSCL, xâm nhập mặn đã diễn ra ở mức cao hơn trung bình nhiều năm (TBNN). Tình trạng thiếu nước phục vụ sản xuất, sinh hoạt dự báo sẽ còn diễn ra gay gắt.

Nồng độ mặn vẫn còn ở mức cao ở một số địa phương của huyện Long Mỹ và thành phố Vị Thanh.

Nguồn nước sụt giảm

Theo đánh giá của Tổng cục Thủy lợi - Bộ NN&PTNT, nguồn nước mùa khô năm 2020-2021 về ĐBSCL xấp xỉ so với trung bình 10 năm gần đây. Tổng lượng dòng chảy trên dòng chính sông Mekong về ĐBSCL (tính tại trạm Kratie) từ đầu mùa khô đến nay bình quân là 61,28 tỉ m3, cao hơn 4,0 tỉ m3 so với TBNN cùng kỳ; cao hơn 18,68 tỉ m3 so với mùa khô năm 2015-2016 và cao hơn 26,82 tỉ m3 so với mùa khô 2019-2020.

Dung tích Biển Hồ Campuchia từ đầu mùa khô đến nay hầu hết ở mức thấp hơn TBNN, nhưng cao hơn mùa khô năm 2019-2020 và năm 2015-2016. Theo Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia, tổng lượng mưa thời kỳ từ tháng 3 đến tháng 5-2021 phổ biến ở mức cao hơn TBNN cùng kỳ khoảng 5-15%. Mùa kiệt năm 2021, lượng xả nước từ khu vực Trung Quốc xuống hạ lưu dự báo trên dưới 1.000 m³/s. Mưa hạ lưu vực không đáng kể, dự báo dòng chảy về đồng bằng giảm, mặn có xu hướng tăng dần trong các tháng đầu mùa khô. Trong tuần này mặn có xu thế giảm và tăng trở lại vào tuần trăng từ ngày 9 đến 13-4. Nồng độ mặn 4%o có thể xâm nhập vào sâu nhất trên dòng chính, các cửa sông Cửu Long 40-50km, 85-90km trên sông Vàm Cỏ và 50-55km trên sông Cái Lớn. Vùng thượng nguồn ĐBSCL, bao gồm phần đất tỉnh An Giang, Đồng Tháp, thượng nguồn Long An, Kiên Giang và thành phố Cần Thơ, nguồn nước hiện thuận lợi cho sản xuất, tận dụng thời điểm lấy nước ở các vị trí xa kênh trục.

Vùng giữa ĐBSCL, bao gồm phần đất thuộc thành phố Cần Thơ, tỉnh Tiền Giang, Long An, Kiên Giang, Hậu Giang, Đồng Tháp, tỉnh Vĩnh Long và vùng được kiểm soát mặn ở Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, mặn xuất hiện sớm đã ảnh hưởng đến các cửa lấy nước vào các kỳ triều cường, cần chủ động tích nước và kiểm tra chất lượng nước khi lấy nước. Các vùng cách biển 40km trở lên có thể tranh thủ lấy nước khi độ mặn cho phép trước khi mặn lên cao. Chủ động các biện pháp tích trữ nước ngay khi có thể, khi mặn rút ở các kỳ triều kém. Chủ động các biện pháp tích trữ nước bảo vệ các vườn cây trái và nước sinh hoạt.

Theo Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, tiềm năng nguồn nước mùa khô năm 2020-2021, nước về thấp ngay từ đầu mùa khô và kéo dài tới tháng 5, có thể còn xảy ra những biến động bất thường ở bất cứ thời điểm nào theo vận hành thủy điện và các thời tiết cực đoan, triều cường, gió chướng. Vì vậy, các địa phương cần chủ động các giải pháp ứng phó, phòng chống hạn, mặn.

Ông Phạm Đức Đoàn, Giám đốc Đài khí tượng thủy văn tỉnh Hậu Giang, cho rằng do lưu lượng dòng chảy từ sông Hậu vào tỉnh giảm, từ đó lưu lượng dòng chảy trên sông, rạch không đủ cung cấp cho sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp, nuôi thủy sản và xuất hiện tình trạng thiếu ở một số địa phương như huyện Long Mỹ, thị xã Long Mỹ, một số xã ở thành phố Vị Thanh, huyện Phụng Hiệp và huyện Vị Thủy. Trong khi đó, Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn tỉnh cho biết là hiện tại nồng độ mặn đo được trên địa bàn Hậu Giang đang dao động từ 0,1-7,1%o. Trong đó, nồng độ mặn cao xuất hiện ở một số sông chính ở xã Lương Nghĩa, Vĩnh Viễn A, huyện Long Mỹ; xã Tân Tiến, Hỏa Tiến, thành phố Vị Thanh.

Dự báo của Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, từ đầu đến giữa tháng 4, ở vùng cửa sông Cửu Long, xâm nhập mặn bắt đầu giảm dần, phạm vi xâm nhập cách biển từ 30-45km, có nước ngọt khi triều thấp, chân triều; vùng sông Vàm Cỏ và sông Cái Lớn, xâm nhập mặn tiếp tục duy trì ở mức như trong tháng 3. Từ nửa cuối tháng 4 đến đầu tháng 5, xâm nhập mặn trên sông Vàm Cỏ và sông Cái Lớn bắt đầu giảm; ở vùng các cửa sông Cửu Long, xâm nhập mặn khả năng sẽ giảm nhanh, nguồn nước ngọt xuất hiện khá dồi dào, các vùng 25-30km trở vào có thể có nước ngọt.

Nông dân vệ sinh đồng ruộng chuẩn bị xuống giống lúa Hè thu ở những nơi nguồn nước đảm bảo.

Nhiều giải pháp cần thực hiện

Theo các cơ quan chuyên môn, để bảo đảm phục vụ sản xuất nông nghiệp, các giải pháp cần được thực hiện là cần theo dõi chặt chẽ thông tin dự báo khí tượng thủy văn do các cơ quan chuyên ngành cung cấp, thông tin dự báo nguồn nước, xâm nhập mặn, chất lượng nước, ngập lũ nội đồng do các cơ quan chuyên môn thuộc Bộ NN&PTNT cung cấp để chủ động thực hiện các giải pháp ứng phó, phù hợp với tình hình của địa phương. Tăng cường nạo vét kênh mương, đắp đập thời vụ ngăn mặn và trữ nước ngọt chống hạn, đảm bảo nguồn nước sinh hoạt của Nhân dân; lợi dụng thủy triều để tranh thủ bơm nước; bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu cây trồng phù hợp; xác định vùng nuôi thủy sản nước mặn ổn định, có ranh giới mặn, ngọt rõ ràng, để chủ động phương án điều tiết nước phù hợp. Bố trí cơ cấu, thời vụ lúa Hè thu hợp lý để phát huy hiệu quả của nguồn nước theo chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan chuyên ngành.

Cụ thể, khuyến cáo thời vụ ở đồng bằng sông Cửu Long, việc xuống giống vụ Hè thu có thể thực hiện đồng loạt từ cuối tháng 4, đầu tháng 5 khi nguồn nước về thuận lợi, cần đề phòng tình trạng thiếu nước vào đầu vụ nếu mưa xuất hiện muộn, những khu vực bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn phải rửa mặn, phèn thật kỹ trước khi xuống giống. Những khu vực nào thuận lợi về nguồn nước có thế xuống giống sớm hơn, còn những nơi không đảm bảo phải chờ mưa xuất hiện trên diện rộng mới thực hiện xuống giống. Những khu vực thuận lợi về nguồn nước vẫn phải đề phòng một số trường hợp bất thường do mưa muộn, dòng chảy thượng lưu về đồng bằng thấp, khi xuống giống cần kiểm tra kỹ độ mặn.

Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt - Bộ NN&PTNT Lê Thanh Tùng cho rằng, quan điểm chỉ đạo của đơn vị là tập trung giữ vững diện tích, năng suất, sản lượng đáp ứng yêu cầu tăng trưởng của từng tỉnh và toàn vùng về lương thực, đảm bảo an ninh lương thực trong mọi tình huống thiên tai, bất lợi diễn ra trong và ngoài nước. Tăng cường ứng dụng tiến bộ kỹ thuật về giảm giống gieo sạ, sử dụng nước hiệu quả, tiết kiệm với mục tiêu giảm giá thành và vệ sinh an toàn thực phẩm, phòng trừ dịch hại; giảm chi phí sản xuất vừa chủ động đối phó với diễn biến giá cả thị trường trong nước và xuất khẩu vừa đáp ứng yêu cầu mở rộng thị trường khó tính, gia tăng lợi nhuận cho ngành lúa gạo.

Sử dụng các giống lúa theo khuyến cáo của Cục Trồng trọt và đề xuất của doanh nghiệp, của thương lái thu mua trong vùng nguyên liệu, cánh đồng lớn, liên kết sản xuất để đáp ứng nhu cầu thị trường và liên kết đồng bộ với doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ lúa, gạo hàng hóa trong và ngoài nước. Thường xuyên theo dõi diễn biến khí tượng thủy văn, nguồn nước phục vụ sản xuất, sự phát sinh, phát triển của dịch hại để bố trí thời vụ xuống giống thích hợp dựa trên nguyên tắc tập trung cho từng vùng, từng cánh đồng, khai thác có hiệu quả các nguồn lực phục vụ sản xuất lúa.

Trước ảnh hưởng của thời tiết và dòng chảy từ thượng nguồn, cùng với tác động của thủy triều nên những tháng đầu năm 2021 tại vùng ĐBSCL, nhất là các tỉnh ven biển đang xảy ra tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn, thiếu nước ngọt cục bộ đã kéo theo giá nước ngọt tăng cao làm ảnh hưởng tới sản xuất, sinh hoạt và đời sống người dân, vừa qua Thủ tướng Chính phủ cũng đã yêu cầu các bộ, ngành Trung ương và địa phương vùng ĐBSCL tích cực triển khai các giải pháp ứng phó tình hình hạn hán, xâm nhập mặn; kiên quyết không để người dân thiếu nước sinh hoạt. Theo đó, khẩn trương xác định từng vùng, khu vực có khả năng bị ảnh hưởng hạn, mặn để chỉ đạo, triển khai những giải pháp cụ thể và hiệu quả. Trong đó, ưu tiên nguồn nước để cấp cho sinh hoạt và không để hộ dân nào thiếu nước; trường hợp cần thiết thì huy động lực lượng quân đội, công an nhằm đảm bảo nước sinh hoạt cho người dân. Bên cạnh đó, Bộ NN&PTNT tổ chức theo dõi diễn biến và dự báo chuyên ngành về nguồn nước, tình hình xâm nhập mặn, từ đó kịp thời thông tin, cảnh báo cho các địa phương và người dân có giải pháp ứng phó phù hợp.

Theo Cục Trồng trọt, vụ Hè thu 2021, kế hoạch toàn vùng Nam bộ gieo sạ hơn 1,6 triệu héc-ta, năng suất dự kiến đạt 5,61 tấn/ha và sản lượng 9,1 triệu tấn. Trong đó ĐBSCL có kế hoạch gieo sạ 1,52 triệu héc-ta; năng suất gần 5,63 tấn/ha; sản lượng 8,554 triệu tấn. Tỉnh Hậu Giang, dự kiến xuống giống 76.000ha, sản lượng khoảng 489.000 tấn. Hiện tại, nông dân trong tỉnh đang xuống giống tại các vùng lúa Đông xuân sau khi thu hoạch. Còn lại một số vùng bị ảnh hưởng hạn, mặn sẽ xuống giống khi mùa mưa bắt đầu.

Bài, ảnh: HOÀI THU

Bến Tre: Chủ tịch UBND tỉnh khảo sát mô hình xử lý sâu đầu đen hại dừa và nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao

Nguồn tin:  Báo Đồng Khởi

Ngày 7-4-2021, đoàn công tác của tỉnh do Chủ tịch UBND tỉnh Bến Tre Trần Ngọc Tam làm trưởng đoàn có chuyến khảo sát thực tế mô hình xử lý sâu đầu đen hại dừa và mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao gắn với điện năng lượng mặt trời.

Cùng đi có Phó chủ tịch HĐND tỉnh Huỳnh Quang Triệu, đại diện lãnh đạo các sở: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương, Khoa học và Công nghệ, lãnh đạo UBND huyện Châu Thành và Thạnh Phú.

Chủ tịch UBND tỉnh Trần Ngọc Tam (bìa phải) khảo sát vườn dừa sau khi phun thuốc sinh học diệt sâu đầu đen.

Đoàn đến thăm vườn dừa của nông dân Trần Văn Cẩn, ấp Hữu Nhơn, xã Hữu Định, huyện Châu Thành. Ông Cẩn cho biết: Vườn dừa của ông đã phun đến lần thứ ba thuốc sinh học diệt sâu đầu đen, mỗi lần phun thuốc hiệu quả diệt được khoảng 20 đến 30% số sâu. Nếu không phun thuốc diệt sâu thì nay 1.700m2 đất (khoảng 60 cây dừa) trồng dừa của ông có khả năng bị sâu ăn cháy rụi. Nông dân Trần Văn Cẩn mong chính quyền tăng cường trang bị máy phun thuốc diệt sâu đầu đen và có biện pháp thuyết phục nhân công phun thuốc, vì hiện nay nhiều người ngán ngại do lo sợ ảnh hưởng đến sức khỏe.

Chủ tịch UBND tỉnh Trần Ngọc Tam cho rằng: Chỉ trong thời gian ngắn, sâu đầu đen đã gây tác hại khá lớn đối với vườn dừa của Bến Tre. Tỉnh có nhiều giải pháp để tiêu diệt sâu đầu đen trong vườn dừa, trong đó, xác định dùng giải pháp sinh học để trừ sâu đầu đen. Các thuốc dùng để phòng ngừa và diệt sâu đều có nguồn gốc sinh học, vừa có tác dụng tiêu diệt sâu, vừa không ảnh hưởng đến môi trường. Theo cập nhật của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, đến nay, toàn tỉnh có gần 200ha vườn dừa bị sâu đầu đen phá hại.

Chủ tịch UBND tỉnh Trần Ngọc Tam (thứ hai từ phải sang) khảo sát mô hình nuôi tôm công nghệ cao tại huyện Thạnh Phú.

Cùng ngày, Chủ tịch UBND tỉnh Trần Ngọc Tam cùng đoàn đã đến xã An Điền, huyện Thạnh Phú tham quan mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao gắn với điện năng lượng mặt trời của nông dân Bảy An (Đặng Văn Bảy). Nông dân Bảy An là người đang giữ kỷ lục cao nhất (trong tỉnh) về nuôi tôm size lớn với kích cỡ thu hoạch 14,6 con/kg. Hiện, ông Bảy An có 6 trang trại nuôi công nghệ cao, với diện tích khoảng 21ha, lợi nhuận năm 2020 dao động từ 30 đến 40 tỷ đồng.

Trang trại Bảy An có trang bị hệ thống điện năng lượng mặt trời, cung cấp điện cho trang trại nuôi tôm, dự kiến thời gian tới tiếp tục phát triển thêm 3.000m2 điện năng lượng mặt trời. Theo ông Đặng Văn Bảy, số lượng nông dân chuyển đổi sang nuôi tôm công nghệ cao tại huyện Thạnh Phú ngày càng tăng.

“Với tiềm năng phát triển và sức lan tỏa của mô hình nuôi tôm công nghệ cao tại huyện Thạnh phú, tỉnh kỳ vọng huyện sẽ đạt diện tích từ 1,5 đến 2 ngàn ha chỉ tiêu nuôi tôm công nghệ cao trong giai đoạn 2021 - 2025” - Chủ tịch UBND tỉnh Trần Ngọc Tam nói.

Tin, ảnh: Thạch Thảo

Cần tận dụng tốt nguồn rơm rạ sau thu hoạch

Nguồn tin:  Báo Cần Thơ

Hiện nay, nguồn rơm rạ sau thu hoạch lúa tại vùng ĐBSCL đã được nông dân thu gom để bán kiếm thêm thu nhập, phục vụ chăn nuôi, sản xuất nấm rơm và nhiều hoạt động trồng trọt khác. Nhờ có máy cuốn rơm nên nông dân cũng dễ dàng thu gom rơm, thuận lợi bảo quản và vận chuyển đến nơi sử dụng. Thế nhưng, nguồn rơm rạ tại vùng ĐBSCL vẫn chưa được tận dụng và thu gom một cách triệt để, nhiều nơi nông dân vẫn đốt rơm rạ trên đồng, vừa lãng phí, vừa ảnh hưởng đến môi trường.

Rơm không bán được, nông dân phải đốt

Thu gom rơm bằng máy cuốn rơm đa năng (máy tự hút, cuốn rơm lại thành cuộn và đưa lên thùng xe) tại quận Ô Môn, TP Cần Thơ.

Nhiều nông dân vẫn còn giữ tập quán đốt rơm rạ trên đồng. Nguyên nhân của tình trạng này không chỉ do nông dân muốn rút ngắn thời gian làm vệ sinh đồng ruộng mà còn do suy nghĩ đốt rơm rạ giúp tiêu diệt mầm sâu bệnh trên đồng, dễ làm đất và để lại một lượng tro làm phân bón cho lúa. Cũng có nhiều trường hợp người dân đã nhận thức được việc đốt rơm gây ô nhiễm môi trường và không đem lại hiệu quả cho sản xuất. Nhưng rồi, nông dân vẫn đốt bỏ rơm. Bởi kêu bán không có người mua hoặc mua giá rẻ mà phải chờ đợi lâu, trễ thời vụ, trong khi họ lại không có điều kiện thu gom rơm để chăn nuôi và các hoạt động sản xuất khác.

Bà Nguyễn Thị Ba ngụ ấp Định Phước, xã Định Môn, huyện Thới Lai, TP Cần Thơ, nói: “Chúng tôi mong ngành chức năng hỗ trợ kết nối nông dân với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu mua rơm, như vậy nông dân không cần phải đốt rơm trên đồng nữa. Ở nhiều địa phương khác tại ĐBSCL, nghe nói rơm bán được giá rất cao, lên đến 400.000-500.000 đồng/ha, còn rơm cuộn có giá 20.000-30.000 đồng/cuộn. Tuy nhiên, tại xã của tôi rất ít người đi mua rơm, nhà tôi không chăn nuôi bò hay trồng nấm rơm, nên phải đốt rơm bỏ. Trong khi đó tôi làm lúa 2,5ha, nếu bán được rơm chắc chắn sẽ có thêm một khoản thu nhập đáng kể”.

Theo ông Huỳnh Văn Diệu ngụ ấp Thới Hòa, thị trấn Thới Lai, huyện Thới Lai, do gieo sạ lúa tập trung đồng loạt nên mùa vụ thu hoạch lúa cũng đồng loạt trong thời gian ngắn. Số lượng các máy cuốn rơm ít và các hoạt động kinh doanh và làm dịch vụ thu gom rơm tại nhiều địa phương còn hạn chế. Trong khi, nguồn rơm rạ khi vào các vụ thu hoạch lúa rất dồi dào, mối lái không thể thu mua kịp, họ trả giá thu mua thấp, thời điểm thu hoạch rộ giá mua rơm chỉ 200.000-300.000 đồng/ha. Giá này không hấp dẫn để người nông dân chờ người thu mua rơm đến mua. Nhiều người phải đốt rơm cho nhanh, vừa xử lý được phần gốc rạ trên đồng và tiêu diệt các mầm sâu bệnh, kịp chuẩn bị cho mùa vụ tới...

Thời điểm thu hoạch lúa đông xuân hằng năm rơi vào các tháng mùa khô, trời nắng tốt và đồng ruộng khô ráo, rất thuận lợi cho việc đưa máy cuốn rơm vào đồng ruộng thu gom rơm. Nhưng theo ngành chức năng tại nhiều địa phương, đây cũng là vụ lúa mà tình trạng đốt rơm trên đồng diễn ra nhiều hơn so với các vụ lúa hè thu và thu đông.

Cần có giải pháp thu gom

Rơm rạ là phụ phẩm có giá trị, góp phần quan trọng trong việc nâng cao thu nhập cho người dân qua việc sử dụng chúng để phát triển thêm các hoạt động sản xuất khác hoặc đơn giản là bán rơm cho những người có nhu cầu. Thực tế cho thấy, rơm rạ không chỉ dùng để trồng nấm rơm mà còn là nguồn phân hữu cơ dồi dào dinh dưỡng, rơm còn dùng để che đậy, giữ ẩm cho đất, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất cho nhiều loại cây trồng: rau màu, cây ăn trái, hoa kiểng. Đây cũng là nguồn thức ăn có thể trữ lâu dành cho trâu bò. Ngoài ra, rơm rạ còn sử dụng để che chắn, bảo vệ trái cây khi vận chuyển đi xa hay sử dụng trong một số lĩnh vực sản xuất giống cây trồng, dùng làm vật liệu xây dựng... Cơ hội để tạo ra những giá trị mới và giúp nâng cao thu nhập cho nông dân từ phụ phẩm rơm rạ là rất lớn.

Vùng ĐBSCL là nơi sản xuất lúa gạo trọng điểm của cả nước, mỗi năm sản xuất hàng chục triệu tấn lúa, theo đó cũng có hàng chục triệu tấn rơm rạ được thải ra. Do vậy, nếu thực hiện thu gom rơm một cách triệt để và tận dụng tốt nguồn rơm này sẽ giúp mang lại một giá trị gia tăng rất lớn, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho người dân. Đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận rơm là một trong những sản phẩm chính của quá trình sản xuất lúa, chứ không phải là phụ phẩm. Các cơ quan chức năng từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tính đến vấn đề thu hoạch rơm để có các quy định, định hướng và kế hoạch chủ động cho từng vụ sản xuất. Kịp thời đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền để nâng cao nhận thức và hành động của người dân, hướng đến chấm dứt việc đốt rơm rạ trên đồng. Song song đó, triển khai đồng bộ các giải pháp về tập huấn kỹ thuật, hỗ trợ về vốn, phương tiện máy móc để nông dân thực hiện thu gom rơm để phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh từ rơm.

Theo các chuyên gia, khi rơm rạ bị đốt hoàn toàn thường có hàm lượng tro cao và lượng protein thấp nên lượng dinh dưỡng mất đi hầu hết khi sử dụng lại cho cây trồng. Trong khi việc đốt rơm lại sản sinh ra nhiều độc tố, tạo ra khói, bụi ảnh hưởng đến môi trường, tổn hại sức khỏe người dân sống trong khu vực đó và cũng là nguy cơ gây cháy, mất an toàn gian thông. Đốt rơm rạ trên đồng ruộng cũng gây phát thải khí: CO2, CO, CH4, NOX, và SO2 vào trong khí quyển, làm gia tăng phát thải khí nhà kính, tác động đến biến đổi khí hậu và nóng lên của toàn cầu.

Theo bà Phạm Thị Minh Hiếu, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP Cần Thơ, việc đốt rơm trên đồng không giúp mang lại nhiều dinh dưỡng cho cây trồng mà gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Nông dân cần thu gom rơm sau các vụ thu hoạch lúa để phát triển thêm các hoạt động sản xuất tăng thêm thu nhập hoặc bán rơm. Ngoài ra, cũng cần chú ý thực hiện giải pháp kỹ thuật chôn vùi rơm rạ, kết hợp sử dụng nấm Trichoderma để thúc đẩy nhanh quá trình phân hủy rơm rạ, tạo thành nguồn phân hữu cơ dồi dào dinh dưỡng so với đốt rơm rạ. Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cũng đã và đang quan tâm hỗ trợ người dân đẩy mạnh cơ giới hóa khâu thu gom rơm. Thông qua các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển nông nghiệp (như Dự án VnSAT) hiện Cần Thơ cũng đã hỗ trợ nông dân tại một số hợp tác xã đầu tư mua máy cuốn rơm.

Bài, ảnh: KHÁNH TRUNG

Huyện Bắc Tân Uyên (Bình Dương): Trang trại chăn nuôi công nghệ cao phát triển mạnh

Nguồn tin: Báo Bình Dương

Theo Phòng Kinh tế huyện Bắc Tân Uyên (Bình Dương), trên địa bàn huyện hiện có 62 trang trại chăn nuôi, trong đó có 30 trang trại hoạt động theo mô hình trại lạnh, khép kín. Các mô hình chăn nuôi này đã đem lại hiệu quả kinh tế cao và thu hút người dân đầu tư.

Đến nay, tổng đàn gia cầm trên địa bàn huyện là 1,67 triệu con, đàn gia súc gồm 1.653 con trâu, bò và 41.861 con heo. Huyện cũng đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện tiêm phòng, các đơn vị chuyên ngành tích cực, chủ động trong công tác phòng, chống dịch cúm gia cầm trên địa bàn năm 2021.

TIỂU MY

Thành công nhờ liên kết với doanh nghiệp nuôi gà gia trại khép kín

Nguồn tin: Báo Quảng Trị

Đến Khu dân cư 8, xã Trung Nam, huyện Vĩnh Linh (tỉnh Quảng Trị) không ai không biết tới anh Trần Hữu Thụ, một nông dân dám nghĩ dám làm, dám thay đổi tư duy, mạnh dạn đầu tư và đã thành công, vươn lên phát triển kinh tế ngay trên mảnh đất vườn của mình.

Trang trại nuôi gà theo hướng liên kết của anh Trần Hữu Thụ mang lại hiệu quả kinh tế cao -Ảnh: PHƯƠNG NGA

Bắt tay vào làm kinh tế từ khi còn rất trẻ, đã có nhiều kinh nghiệm trong trồng trọt và chăn nuôi, nhưng để bắt kịp với sự thay đổi và phát triển không ngừng của ngành nông nghiệp, các chủ trương chính sách về tái cơ cấu, dồn điền đổi thửa hay ứng dụng khoa học kỹ thuật hiện đại trong quá trình sản xuất, anh Thụ phải trải qua nhiều lần chuyển đổi và đầu tư vào các loại cây, con khác nhau.

Từ những năm 1990, anh Thụ đã được biết đến là một tấm gương làm ăn giỏi, biết cách cải tạo vườn tạp để phát triển kinh tế. Tiêu là cây trồng đầu tiên được anh đưa vào canh tác sau khi cải tạo toàn bộ diện tích đất vườn. Với quy mô 600 gốc, thời gian đầu do chưa có kinh nghiệm, quá trình chăm bón và thu hoạch gặp không ít khó khăn, khi thì dịch bệnh, khi thì mất mùa… Dần dần ổn định, học hỏi và tích lũy kinh nghiệm từ các vùng chuyên trồng tiêu trên địa bàn huyện, vườn tiêu của anh bắt đầu cho tín hiệu khả quan. Trung bình mỗi vụ thu hoạch từ 1,5-2 tấn tiêu khô thành phẩm, gia đình bắt đầu có đồng ra đồng vào.

Cũng thời kỳ này, phong trào trồng cây cao su tiểu điền phát triển mạnh tại huyện Vĩnh Linh, trở thành loại cây kinh tế mới của nhiều người dân, anh Thụ đã bàn bạc với gia đình, quyết định đầu tư mua 1,5 ha đất gần nhà để trồng, sau khoảng 5 năm đã cho thu hoạch. Đồng thời, tận dụng phần đất vườn còn lại anh xây chuồng trại chăn nuôi lợn để tăng thu nhập. Với quy mô vừa phải, mỗi lứa anh Thụ nuôi khoảng 40 con lợn thịt, cứ 3 tháng xuất chuồng một lần. Sau khi trừ các khoản chi phí, lãi ròng từ chăn nuôi, trồng trọt được khoảng 200 triệu đồng/năm. Tuy nhiên, được vài năm thì do thiên tai và dịch bệnh nên vườn cao su cùng đàn lợn của anh cũng bắt đầu chững lại so với trước.

Quyết tâm “khởi nghiệp” một lần nữa ở độ tuổi 57, anh Thụ thử nghiệm mô hình nuôi gà gia trại theo hướng khép kín, hiện đại và có sự liên kết với doanh nghiệp. Năm 2019, anh Thụ bắt đầu tiếp cận và tìm hiểu về các trang trại, gia trại nuôi gà có liên kết với Công ty TNHH Thức ăn chăn nuôi Golden Star. Sau khi nhận thấy các ưu điểm và hiệu quả từ mô hình này, đầu năm 2020 anh Thụ liên hệ đặt vấn đề trực tiếp với công ty. Đồng thời, mạnh dạn vay thêm 400 triệu đồng cùng với vốn tích lũy bấy lâu để thực hiện mô hình. Hệ thống chuồng trại nhanh chóng được hoàn thành với diện tích 650 m2 cùng trang thiết bị hiện đại như kho thức ăn riêng, hệ thống làm mát, hệ thống cho ăn, cho uống và mái che chắn tự động, camera quan sát, hệ thống điện chiếu sáng… Anh Thụ cho biết: “Quá trình nuôi hoàn toàn khép kín, con giống, thức ăn, thuốc phòng bệnh đều được công ty cung cấp và gà sau khi đạt đến độ xuất bán thì được công ty bao tiêu theo giá thị trường. Ban đầu chỉ cần vốn xây dựng hệ thống chuồng nuôi còn lại phía công ty sẽ hỗ trợ theo hình thức thanh toán sau, khi thu mua mới trừ các khoản chi phí”.

Trong lứa đầu tiên, anh Thụ thả nuôi hơn 6.000 gà giống, sau 3 tháng chăm sóc gà đạt chuẩn có trọng lượng từ 2,2 - 2,5 kg/con. Giá bán dao động từ 50-58 ngàn đồng/kg, tùy theo biến động của thị trường, với 10 tấn gà thương phẩm, sau khi trừ chi phí anh Thụ thu lãi ròng trên 100 triệu đồng/lứa. Trung bình mỗi năm có thể xuất bán 3 lứa. Thành công ngay trong lứa nuôi đầu tiên đã mở ra hướng phát triển kinh tế mới cho gia đình anh Thụ. Theo anh, ưu điểm của mô hình này là vừa tận dụng được không gian vườn nhà vừa được cung cấp nguồn giống đảm bảo và không lo quá nhiều về vốn, thức ăn, thuốc phòng bệnh. Mặt khác nhờ ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại và môi trường nuôi theo quy chuẩn nên quá trình chăm sóc không quá khó khăn hay tốn nhiều thời gian như việc nuôi thủ công, gà lại ít bị bệnh và phát triển đồng đều.

Anh Thụ cho biết thời gian tới anh dự định sẽ mở rộng mô hình chăn nuôi gà của mình, xây dựng thêm một hệ thống chuồng trại chăn nuôi có diện tích 650 m2 để tận dụng toàn bộ quỹ đất vườn còn lại của gia đình. Đồng thời chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ các hộ gia đình khác tại khu dân cư nhân rộng mô hình để nâng cao thu nhập.

Phương Nga

Bình Định: 74 trang trại, cơ sở chăn nuôi quy mô lớn, áp dụng công nghệ cao

Nguồn tin: Báo Bình Định

Ông Đào Văn Hùng, Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh Bình Định cho hay, hiện trên địa bàn tỉnh có 74 trang trại, cơ sở chăn nuôi gia súc gia cầm quy mô lớn, áp dụng công nghệ cao. Trong đó, 1 DN được công nhận DN KH&CN (Công ty TNHH Giống gia cầm Minh Dư, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước); 59 trang trại, cơ sở chăn nuôi đạt tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu (Global GAP), an toàn dịch bệnh, an toàn thực phẩm; 14 DN, cơ sở chăn nuôi theo hướng công nghệ cao.

Năm 2021, Sở NN&PTNT tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng tăng tỷ trọng gia súc gia cầm; triển khai quy hoạch khu chăn nuôi công nghệ cao Nhơn Tân (xã Nhơn Tân, TX An Nhơn) và tiếp tục xây dựng vùng chăn nuôi heo an toàn tại huyện Hoài Ân. Bên cạnh đó, thực hiện tốt các chính sách khuyến khích hỗ trợ chăn nuôi, thu hút DN đầu tư phát triển chăn nuôi gia súc gia cầm quy mô lớn, khép kín, áp dụng công nghệ cao...

TIẾN SỸ

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop