Tin nông nghiệp ngày 10 tháng 08 năm 2020

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 10 tháng 08 năm 2020

7,5 tấn nhãn Việt Nam cập cảng Úc phục vụ chương trình ‘Nhãn Việt Nam mình!’

Nguồn tin: Công Thương

Năm 2019, “Ngày nhãn Việt Nam tại Úc” do Thương vụ Việt Nam tại Úc tổ chức đã đánh dấu lô nhãn tươi đầu tiên do doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu thành công khi được Úc mở cửa thị trường. Tiếp nối thành công này, năm nay, Thương vụ Việt Nam tại Úc tiếp tục tổ chức chương trình “Nhãn Việt Nam mình!” như một lời giới thiệu, tâm tình về hương vị Việt Nam với bạn bè Úc và với đồng bào ở xa Tổ quốc.

Theo đó, ngày 6/8 vừa qua, 7,5 tấn nhãn từ phía Nam, Việt Nam đã được thông quan tại bang Nam Úc. Dự kiến 9 tấn nhãn từ của vùng đất Hải Dương sẽ lên tàu sang Úc vào ngày gần nhất nếu thời tiết tại vùng trồng thuận lợi.

Tại khu vực Tây Úc và Nam Úc, Thương vụ Việt Nam sẽ phối hợp thực hiện chương trình xúc tiến “Nhãn Việt Nam mình!” cùng với Công ty xuất khẩu Rồng Đỏ và nhà nhập khẩu là Công ty kinh doanh nông sản 4wayfresh - một công ty luôn quan tâm đến chất lượng nông sản hàng đầu.

7,5 tấn nhãn Việt Nam cập cảng nước Úc chuẩn bị cho chương trình “Nhãn Việt Nam mình!”

Chương trình xúc tiến nhãn năm 2020 sẽ kéo dài, với đa dạng các nội dung như, tổ chức quảng bá trên mạng xã hội tại các khu vực nhập khẩu nhãn Việt Nam với thông điệp quảng cáo “Nhãn Việt Nam mình!”; đồng hành cùng các công ty nhập khẩu; cam kết bất cứ lô hàng nhãn nào được nhập cũng sẽ được Thương vụ quảng cáo tiếp thị, dù ở bất kỳ nơi nào tại Úc bằng hình thức phù hợp.

Bên cạnh đó, để chuẩn bị cho kế hoạch thúc đẩy thương mại kết nối giao thương thực hiện trên ứng dụng của Thương vụ và do cán bộ của Thương vụ trực tiếp gọi điện đến từng nhà nhập khẩu; quảng cáo quả nhãn gắn với thiên nhiên Việt Nam bằng cách tặng miếng quảng cáo nam châm tủ lạnh để hiệu quả quảng cáo lâu hơn…

Đặc biệt, Thương vụ vận động doanh nghiệp nhập khẩu nhãn sấy/long nhãn Việt Nam để đưa vào loạt các cửa hàng tại Úc; phối hợp xây dựng thương hiệu; tìm kiếm các hình thức tiêu dùng nhãn mới. Theo đó, Thương vụ cũng đã đề xuất một số doanh nghiệp tại Úc nghiên cứu sử dụng, bổ sung nhãn sấy trong sản phẩm ngũ cốc ăn liền phục vụ điểm tâm hoặc làm bánh trong các tiệm cà phê…

Theo kế hoạch, sự kiện thưởng thức nhãn và âm nhạc truyền thống Việt Nam cũng đã được lên chương trình để mời các nhà nhập khẩu tiềm năng, các chủ siêu thị, cửa hàng, bạn bè Úc, căn cứ vào tình hình diễn biến dịch Covid-19 ở Sydney.

Đáng chú ý, sau chiến dịch xúc tiến sầu riêng đông lạnh vừa qua, một số chủ cửa hàng đã gọi điện phản ánh có hiện tượng cạnh tranh để mua được sầu riêng Việt Nam từ nhà nhập khẩu. Như vậy, hoa quả Việt Nam đang từng bước chinh phục người tiêu dùng Úc, các kiều bào và chủ các cửa hàng. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có động lực, xây dựng, quảng bá và gìn giữ uy tín về chất lượng cho các lô hàng trái cây tiếp theo.

Thu Trang

Bình Thuận: Mưa xuống, gần 4.400 ha thanh long bị bệnh đốm nâu

Nguồn tin: Báo Bình Thuận

Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Bình Thuận, thời gian gần đây thời tiết nắng nóng, cộng thêm mưa to, rải rác ở các địa phương trong tỉnh. Do đó, nhiều diện tích thanh long bị nhiễm các loại sâu bệnh, đặc biệt là đốm nâu gia tăng.

Cụ thể, đến tuần đầu tháng 8/2020, diện tích thanh long toàn tỉnh nhiễm đốm nâu 4.390 ha, tăng 625 ha so với 1 tuần trước đó và tăng 841 ha so cùng kỳ năm ngoái. Trong đó nhiễm nhẹ 3.730 ha, nhiễm trung bình 612 ha và nhiễm nặng 48 ha, chủ yếu phân bố tại huyện Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình, Hàm Thuận Nam và thị xã La Gi.

Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật dự báo trong những ngày tới, bệnh đốm nâu, thán thư, ốc sên, kiến sẽ có xu hướng phát sinh tăng về mức độ gây hại và diện tích thanh long. Do đó, các địa phương cần tiếp tục theo dõi sát diễn biến bệnh trên vườn, tuyên truyền, phổ biến “Quy trình kỹ thuật quản lý bệnh đốm nâu hại thanh long” của Cục Bảo vệ thực vật cho người dân biết và áp dụng.

Thanh long bị bệnh đốm nâu.

Được biết, đến thời điểm này toàn tỉnh có 30.652 ha thanh long, đang bước vào thời kỳ ra hoa và trái vụ mùa. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch Covid- 19, cộng thêm bệnh đốm nâu hại trái, nên giá thanh long hiện rất thấp, bình quân khoảng 2.000 đồng/kg.

K.Hằng

Hải Dương thu hoạch 250 tấn nhãn để xuất khẩu

Nguồn tin: Nhân Dân

Cắt băng chào mừng lô nhãn đầu tiên xuất khẩu đi Mỹ, Anh, Australia và Singapore.

Ngày 6-8, tại xã Hoàng Hoa Thám, TP Chí Linh (Hải Dương) đã diễn ra Chương trình “Thu hái nhãn xuất khẩu đi Singapore, Australia, Mỹ, Anh và các thị trường cao cấp”. Dự kiến trong tháng 8, lượng nhãn xuất khẩu đạt 200 đến 250 tấn.

Theo ông Trần Văn Quân, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Hải Dương: Hiện nay, toàn tỉnh có 2.100 ha nhãn, trong đó, diện tích nhãn ở TP Chí Linh chiếm 673 ha. Tổng sản lượng nhãn toàn tỉnh vụ này ước đạt hơn 10.000 tấn, riêng sản lượng nhãn tại Chí Linh ước gần 5.000 tấn.

Kiểm tra chất lượng nhãn trồng trong vùng VietGAP.

Trong diện tích 673 ha nhãn ở TP Chí Linh có hơn 50 ha nhãn sản xuất nhãn theo quy trình VietGAP, đạt tiêu chuẩn quốc tế phục vụ xuất khẩu và đã được Cục Bảo vệ thực vật cấp hơn mười mã số vùng trồng nhãn xuất khẩu đi Australia, Mỹ, EU, Trung Quốc và các thị trường khác…

Để quả nhãn bảo đảm tiêu chuẩn xuất khẩu đi các thị trường khó tính, cán bộ kỹ thuật luôn bám sát từng vùng trồng, trực tiếp đến từng vườn hướng dẫn nông dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đúng cách; giám sát cách ly thuốc bảo vệ thực vật trước thu hoạch đúng quy định.

Bên cạnh đó, công tác kết nối tiêu thụ sản phẩm được các ngành nông nghiệp, công thương và chính quyền TP Chí Linh phối hợp chặt chẽ. Đã tổ chức nhiều buổi gặp gỡ, hội thảo, kết nối tiêu thụ với các công ty xuất khẩu nông sản trong và ngoài tỉnh và các nhà nhập khẩu nông sản như: Công ty CP Ameii Việt Nam, Công ty sản xuất thương mại dịch vụ Rồng Đỏ, Công ty nông sản Hưng Việt, Công ty CP quốc tế Bamboo… và một số chuỗi tiêu thụ nông sản sạch như Vinmart, Biggreen, Công ty rau củ quả an toàn Thanh Hà...

Công nhân sơ chế nhãn phục vụ xuất khẩu.

Đây là năm đầu tiên trái nhãn Hải Dương được xuất khẩu đi các thị trường khó tính gồm Mỹ, Australia, Singapore, EU bằng đường biển với số lượng lớn. Do đã làm chủ được quy trình kỹ thuật (đặc biệt là công tác bảo vệ thực vật và kiểm dịch thực vật) sản xuất nhãn đủ tiêu chuẩn xuất khẩu đi các thị trường khó tính, đã giúp trái nhãn Chí Linh vượt qua được rào cản kỹ thuật của các thị trường khó tính và là cơ sở quan trọng để mở rộng vùng sản xuất nhãn phục vụ xuất khẩu những năm tới.

Hiện nay, mỗi ngày Công ty Rồng Đỏ đang thu mua từ năm đến tám tấn nhãn, với giá 15.000 đồng/kg để phục vụ xuất khẩu sang Singapore, châu Âu, Mỹ và Australia theo đường biển.

QUỐC VINH

Bình Định: Ngọt ngào mùa đu đủ

Nguồn tin: Báo Bình Định

Vài năm trở lại, nhiều nhà vườn ở Bình Ðịnh đã chọn trồng cây đu đủ xen canh với các loại cây trồng ngắn ngày khác như cây ớt, sả, đậu phụng, đậu đen... cách làm này cho thu nhập tốt, phát huy hiệu quả khai thác đất đai.

Ông Nguyễn Văn Chín đang thu hoạch đu đủ.

Đu đủ không phải là loại cây trồng mới, nhưng gần đây, giống đu đủ mà nhiều nông dân tỉnh ta chọn trồng là: Đu đủ ruột đỏ Hồng Phi của Công ty TNHH Giống cây trồng Nông Hữu và đu đủ ruột vàng Sinta của Công ty TNHH East - West Seed (Hai Mũi Tên Đỏ). Cả hai đều là những giống đu đủ có nhiều ưu điểm, phù hợp với nhiều chân đất, cho thu hoạch sau 6 tháng trồng, sản lượng cao, ruột ngọt và thơm, được thị trường ưa chuộng.

Ông Nguyễn Công Tâm, chủ vườn ươm cây trồng An Phú ở thôn Phú An, xã Tây Xuân, huyện Tây Sơn, cho biết: “Cây đu đủ sinh trưởng tốt trên những chân đất cao, không bị ngập úng rễ vào mùa mưa, trái lại dễ bán, chưa từng bị dội chợ, chưa từng phải giải cứu nên ngày càng có thêm nhiều nhà vườn ở Tây Sơn, An Nhơn, kể cả TX An Khê (tỉnh Gia Lai) đã đặt tôi sản xuất đu đủ giống với số lượng lớn, hầu hết đều mua từ vài trăm cây trở lên để về xen canh với các loại cây ngắn ngày. Từ chỗ là cây trồng phụ, nhiều nhà vườn đảo vị trí, cây đu đủ thành cây trồng chính, rau, đậu thành cây trồng phụ”.

Năm 2019, ông Đặng Ngọc Hải, thôn Thủ Thiện Thượng, xã Bình Nghi, huyện Tây Sơn trồng thử 100 gốc đu đủ xen với cây đậu phụng, sả trên 5 sào đất, ông kể: “Nhiều người bảo tôi bị khùng hay sao mà trồng đu đủ vì vào mùa mưa vùng này hay bị lụt, cây sống sao nổi. Nhưng thực tế đu đủ của tôi rất sai trái và thương lái đã đến đặt mua trước”.

Tương tự ông Hải, hai anh em Thái Ngọc Tuấn và Thái Văn Nghiệp, ở thôn Phú Hưng, xã Bình Tân, huyện Tây Sơn tìm hiểu cách trồng cây đu đủ cao sản ở vườn ươm An Phú. Sau đó họ trồng hơn 1.000 cây trên 5.000 m2 đất đồi lẫn sỏi vốn trồng keo lai. Anh Nghiệp chia sẻ: Trồng cây đu đủ trên chân đất đồi, cao ráo dễ thoát nước, không bị úng rễ khi trời mưa lớn hoặc vào mùa mưa. Song, cần phải tưới tiêu đầy đủ để cây phát triển ổn định, nếu gặp hạn kéo dài thì cây sẽ lụi ngọn, hoa héo, quả giảm sút chất lượng. Chỉ sau 6 tháng trồng là tôi đã thu hoạch trái. Tầm 2 - 3 ngày thu hoạch 1 lần, mỗi lần cỡ 400 - 500 kg, giá thương lái mua tận vườn là 3.000 đồng/kg. Với giá này thì có bao nhiêu họ mua hết bấy nhiêu, nếu mình đem bán tận chợ thì giá còn cao hơn nhiều.

Không chỉ ở Tây Sơn, ở huyện Tuy Phước, đặc biệt ở xã Phước Hiệp nhiều người cũng khá lên với đu đủ. Theo ông Trình Ngọc Bích, cán bộ khuyến nông xã Phước Hiệp, chỉ tính những người chuyên canh thôi, hiện toàn xã có 45 hộ với diện tích gần 7 ha, nhiều nhất là ở thôn Lục Lễ. Họ trồng đu đủ và xen canh một số cây trồng ngắn ngày nên hệ số khai thác đất rất tốt, hiệu quả lại cao. Ông Phan Văn Phước, thôn Lục Lễ, xã Phước Hiệp, hồ hởi: “Tôi được cán bộ kỹ thuật Vườn ươm giống cây trồng Hải Trầm (xã Phước An, huyện Tuy Phước), hướng dẫn kỹ càng, thấy đu đủ cũng dễ nên tôi mua, trồng ngay 300 gốc đu đủ ruột đỏ Hồng Phi trên diện tích gần 2.000 m2, để tiện chăm bón, tiết kiệm vật tư phân bón, công chăm sóc tôi cho trồng xen canh thêm ớt. Sau 6 tháng, thương lái tìm đến tận vườn mua với giá 4.000 đồng/kg, cứ 3 ngày thì thu hoạch một lần, đạt gần 300 kg. Cộng với khoản thu từ cây ớt cũng được một khoản rất khá.

Cùng ở Lục Lễ nhưng ông Nguyễn Văn Chín, lại trồng giống đu đủ ruột vàng Sinta xen với sả, ớt. Ông Chín kể: “Tôi trồng 300 cây, giống này rất sai trái và cho trái quanh năm. Muốn mau có tiền thì bán trái xanh để họ mua về bào làm gỏi, dưa món. Đu đủ Sinta ruột vàng rất đẹp, lại ngọt nên thương lái gọi điện hỏi liên tục, nhất là những ngày rằm, mùng một”.

Ở các huyện, thị xã ở phía Bắc tỉnh ta đu đủ được trồng với quy mô lớn, cách đầu tư cũng bài bản hơn. Trường hợp ông Võ Long Thành, khu phố Định Bình, phường Hoài Đức, TX Hoài Nhơn là một điển hình. Ông Thành có gần 2 ha chuyên canh đu đủ. Ông Thành cho biết: “Ban đầu tôi trồng vài sào, thấy cây đu đủ dễ trồng, chi phí thấp, ít tốn công chăm sóc, dễ tiêu thụ, với lại giá trị kinh tế khá hơn bắp, mì nên tôi đã tăng dần. Đến nay tôi có hơn 1.300 gốc đu đủ, cứ 2 - 3 ngày thu hoạch 1 lần, mỗi lần có ít cũng đến 500 kg. Khách hàng của tôi là thương lái trong tỉnh, gần đây còn có cả từ Đà Nẵng nữa”.

Trồng 600 gốc đu đủ xen với bắp và đậu đen trên thổ đất 5 sào, ông Nguyễn Văn Ẩn, thôn Mỹ Đức, xã Ân Mỹ, huyện Hoài Ân, chia sẻ: “Đu đủ là một loại cây trồng rất hấp dẫn, cho trái quanh năm, nếu mình chăm sóc đúng kỹ thuật thì rất sai và đều. Năm ngoái tôi còn bán được giá 6.000 đồng/kg, năm nay giảm xuống chỉ còn một nửa nhưng thu nhập từ vườn đu đủ của tôi vẫn rất khá vì cây rất sai trái. Nhờ cán bộ khuyến nông tích cực phổ biến kiến thức, giới thiệu giống mới bà con nông dân nhẹ việc hẳn”.

NGUYỄN ĐÌNH PHƯƠNG

Thanh long ứng dụng công nghệ cao: Hướng đi tất yếu

Nguồn tin: Báo Long An

Sau thời gian “ăn nên làm ra” với cây thanh long, người dân Châu Thành (tỉnh Long An) bắt đầu gặp khó khăn trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm. Khi việc xuất khẩu sang Trung Quốc bằng đường tiểu ngạch gặp khó khăn, việc sản xuất thanh long theo hướng công nghệ cao trở thành hướng đi tươi sáng nhất.

Từ khi mới bắt đầu trồng thanh long, anh Nguyễn Hoàng Vũ đã tham gia mô hình sản xuất thanh long ứng dụng công nghệ cao (Thanh long trồng theo giàn, lắp hệ thống tưới tự động, nền vườn trải nylon, sạch cỏ kết hợp trồng hoa quanh vườn)

Kỳ vọng của nông dân

Vườn thanh long của anh Nguyễn Hoàng Vũ (ấp Bình Thạnh, xã Thuận Mỹ, huyện Châu Thành) được trồng theo giàn, lắp hệ thống tưới tự động. Nền đất trong vườn được trải nylon, hạn chế được cỏ dại. Hệ thống hào nước bao quanh vườn được lắp hệ thống thoát nước tự động. Anh Vũ cho biết: “Đợt này, giá bấp bênh, thanh long bị bệnh nhiều nhưng vườn nhà tôi không bị sâu bệnh”. Từ khi mới bắt đầu trồng thanh long, anh Vũ đã tham gia mô hình sản xuất thanh long ứng dụng công nghệ cao (ƯDCNC). Trước khi bắt tay vào trồng thanh long, anh dành nhiều thời gian nghiên cứu về kỹ thuật chăm sóc. Anh chia sẻ: “Tôi luôn tâm đắc cách trồng thanh long ƯDCNC vì vừa tạo được nguồn sản phẩm có giá trị cao, vừa giảm công chăm sóc và tăng năng suất. Như thanh long vườn nhà tôi giá khoảng 15.000 đồng/kg là có lời rồi”.

Đó cũng là điều rất nhiều nông dân mong mỏi, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Ông Nguyễn Thành Lộc (ấp Bình Trị 1, xã Thuận Mỹ) cho biết, vừa đăng ký tham gia mô hình sản xuất thanh long ƯDCNC vào đầu năm 2020, bởi theo ông, đó là hướng khả quan cho cây thanh long trong thời gian tới. Ông khẳng định: “Bây giờ, nếu Nhà nước không hỗ trợ kinh phí thì tôi cũng tham gia sản xuất thanh long ƯDCNC vì chỉ có như vậy mới có được đầu ra thuận lợi”.

Trong hành trình thực hiện thanh long ứng dụng công nghệ cao, nông dân không hề đơn độc mà luôn có sự đồng hành của cán bộ kỹ thuật và chính quyền địa phương từ huyện đến xã

Từ đầu năm 2020 đến nay, dịch Covid-19 gây nhiều thiệt hại cho nền kinh tế, trong đó có việc sản xuất thanh long. Trước đây, khoảng 80% thanh long Châu Thành xuất khẩu sang Trung Quốc theo đường tiểu ngạch nhưng suốt thời gian qua, biên giới bị siết chặt do dịch bệnh nên ảnh hưởng đến việc xuất khẩu thanh long dẫn đến tình trạng “tồn hàng, tuột giá”. Giá thanh long liên tục giảm, đầu ra ngày càng khó khăn, khi trái thanh long Châu Thành chưa thể đáp ứng yêu cầu khắt khe của các thị trường khó tính khác. Đây cũng là lúc mô hình sản xuất thanh long ƯDCNC được đặt nhiều kỳ vọng sẽ là giải pháp hiệu quả nhất cho bài toán thanh long Châu Thành.

Nghị quyết hợp lòng dân

Thông qua công tác tuyên truyền tại cơ sở, người dân dần nắm được hiệu quả thiết thực và sự cần thiết sản xuất thanh long ƯDCNC. Chỉ có cách sản xuất sạch, bền vững mới có thể giúp nông dân trụ vững với cây thanh long. Phó Chủ tịch UBND huyện Châu Thành - Võ Minh Hồng cho biết, trong thực hiện mô hình thanh long ƯDCNC, nông dân luôn được sự hỗ trợ của cán bộ kỹ thuật và chính quyền địa phương từ huyện đến xã. Nhiều lớp tập huấn được mở, nhiều chương trình hỗ trợ được thực hiện, các tổ hợp tác, hợp tác xã được thành lập và đi vào hoạt động nhằm thúc đẩy việc sản xuất thanh long ƯDCNC.

Hiện nay, toàn huyện Châu Thành có 203 mô hình tưới nước tiên tiến, trong đó có 34 mô hình trong đề án và 169 mô hình ngoài đề án (Trong ảnh: Một mô hình tưới nước nhỏ giọt tại xã Dương Xuân Hội được thực hiện từ năm 2017)

Mỗi tuần, ông Lê Minh Mẫn (cán bộ Kỹ thuật Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Châu Thành) đều xuống thăm vườn thanh long của nông dân tại xã mình phụ trách. Ông đến tận vườn quan sát, kiểm tra quy trình chăm sóc thanh long, ghi chép sổ sách của chủ vườn để hỗ trợ, hướng dẫn thêm khi cần thiết. Không chỉ riêng ông Mẫn, hầu như tất cả cán bộ kỹ thuật, kỹ sư của huyện đều biết rõ từng nhà, từng vườn của các hộ dân tham gia sản xuất thanh long ƯDCNC ở địa phương mình phụ trách. Bởi, ngoài các lớp tập huấn kỹ thuật tập trung định kỳ và theo yêu cầu, hàng tuần, hàng tháng, các anh đều phải xuống gặp nông dân, theo sát quá trình canh tác của nông dân để bảo đảm việc sản xuất thanh long ƯDCNC đạt hiệu quả. Ông Mẫn nói: “Để thực hiện tốt mô hình, mỗi xã đều có cán bộ huyện phụ trách theo dõi, đôn đốc. Chúng tôi đến kiểm tra ngẫu nhiên hàng tuần để có thể hỗ trợ kịp thời khi cần thiết. Ngoài ra, cán bộ, đoàn thể tại địa phương sẽ “theo sát” từng nông dân trong quá trình thực hiện mô hình”.

Khi tham gia sản xuất thanh long ƯDCNC, nông dân được hỗ trợ hoặc hướng dẫn thực hiện nhiều mô hình thiết thực, hiệu quả giúp việc sản xuất trở nên an toàn và bền vững hơn. Cụ thể như mô hình tưới nước tiên tiến, ủ phân hữu cơ, thu gom vỏ bao bì, chai thuốc bảo vệ thực vật đã qua sử dụng, sản xuất thanh long đạt chứng nhận VietGAP,… Hiện tại, Châu Thành đã hoàn tất chỉ dẫn địa lý cho thanh long Châu Thành, giúp người tiêu dùng có thể truy xuất nguồn gốc sản phẩm, tạo niềm tin và là bước đệm quan trọng để thanh long có thể tiếp cận những thị trường khó tính.

Bên cạnh đó, Châu Thành đang ráo riết củng cố hoạt động các hợp tác xã trên địa bàn huyện, tạo nền tảng cho việc tìm kiếm đầu ra sản phẩm. Theo ông Hồng, để ký được hợp đồng với doanh nghiệp, nông dân cần ổn định nguồn cung số lượng lớn, đó chính là lúc hợp tác xã phát huy vai trò của mình.

Ông Hồng cho biết: “Sau 3 năm triển khai thực hiện Đề án 2.000ha thanh long ƯDCNC, Châu Thành đã thực hiện vượt chỉ tiêu đề ra, tạo tiền đề tiếp tục phát triển cho các năm tiếp theo. Huyện tiếp tục phấn đấu đến năm 2025 có 5.000ha thanh long ƯDCNC, trong đó có 3.000ha được cấp giấy chứng nhận VietGAP, 300ha được chứng nhận GlobalGAP”. Đó là một định hướng tươi sáng cho hướng đi của cây thanh long. Và định hướng ấy cần sự nỗ lực từ phía chính quyền và cả người dân. Hy vọng rằng, Châu Thành sẽ “thừa thắng xông lên” và đạt những kết quả tốt hơn nữa trong thời gian tới./.

Nghị quyết thực hiện 2.000ha thanh long ƯDCNC của Châu Thành được đề ra năm 2016. Bằng sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, nghị quyết đã hoàn thành vượt chỉ tiêu. Đến thời điểm hiện tại, toàn huyện có trên 2.000ha thanh long ƯDCNC. Dự kiến đến năm 2025, sẽ tăng lên 5.000ha”.

Phương Phương

Đầu ra gặp khó, giá nhãn giảm

Nguồn tin: Báo cần Thơ

Giá nhãn tiêu da bò, nhãn Ido, nhãn xuồng và thanh nhãn tại nhiều địa phương vùng ĐBSCL giảm ít nhất từ 2.000-5.000 đồng/kg so với cách nay hơn 1 tháng.

Những năm trước, giá nhãn Ido thường xuyên duy trì ở mức từ 20.000 đồng/kg trở lên, nhưng hiện nay giá đã giảm. Trong ảnh: Thu hoạch nhãn Ido ở quận Ô Môn, TP Cần Thơ.

Tại TP Cần Thơ và nhiều tỉnh vùng ĐBSCL như: Hậu Giang, Vĩnh Long... nhãn tiêu da bò được nông dân bán xô cho thương lái và các vựa thu mua trái cây chỉ với giá 6.000-7.000 đồng/kg. Giá nhãn Ido đang ở mức 14.000-15.000 đồng/kg; còn nhãn xuồng ở mức 29.000-30.000 đồng/kg. Riêng thanh nhãn do nguồn cung hạn chế nên dù giá có giảm nhưng vẫn ở mức khá cao, với khoảng 60.000-62.000 đồng/kg. Giá nhãn giảm do đầu ra nhiều loại nhãn đang gặp khó khi sức tiêu thụ bị giảm ở cả thị trường trong nước và xuất khẩu do ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, nhất là xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Ngoài ra, giá giảm còn do nguồn cung tăng vì thời gian qua người dân tại vùng ĐBSCL tăng diện tích trồng nhãn và gần đây nhãn bước vào vụ thu hoạch rộ.

Theo nhiều doanh nghiệp và tiểu thương kinh doanh trái cây, trong những năm qua giá nhãn tiêu da bò thường xuyên rớt xuống mức giá chỉ còn 7.000-10.000 đồng/kg trở lại. Với giá bán thấp và năng suất nhiều vườn nhãn cũng đạt thấp do ảnh hưởng của bệnh chổi rồng, nông dân trồng nhãn tiêu da bò rất khó kiếm lời. Do vậy, nông dân đã chuyển sang trồng các loại nhãn khác ít bị ảnh hưởng bởi bệnh chổi rồng, cho trái có chất lượng ngon và giá bán cao hơn như: nhãn Ido, nhãn xuồng và thanh nhãn. Tuy nhiên, hầu hết các loại nhãn chủ yếu tiêu thụ dạng tươi thô nên rất dễ gặp cảnh thừa hàng, dội chợ, giá giảm.

Tin, ảnh: KHÁNH TRUNG

Ảnh hưởng dịch Covid - 19, giá keo xuống thấp

Nguồn tin: Báo Bình Thuận

Nhiều tháng trở lại đây, giá gỗ keo lá tràm vào mùa thu hoạch trên địa bàn Hàm Tân (tỉnh Bình Thuận) giảm mạnh chỉ còn 50 - 60 triệu đồng/ha, so với trước đây 80 - 90 triệu đồng/ha. Nguyên nhân giá xuống thấp, do ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid- 19, doanh nghiệp xuất khẩu gỗ keo sang thị trường Trung Quốc ngưng trệ; các nhà máy, xưởng chế biến keo trong và ngoài tỉnh thu mua hạn chế, nhu cầu rất thấp trong khi nguồn cung nhiều.

Người trồng cho biết, chi phí mỗi ha trồng keo từ mua giống, thuê công làm cỏ, bón phân, tỉa cành, thu hoạch… khoảng 35 triệu đồng/ha; bán với giá thấp như trên người trồng chẳng còn lãi được bao nhiêu sau thời gian 4 năm đầu tư trồng 1 ha keo. Tính ra nguồn thu quá thấp so trồng các loại hoa màu khác trong mùa mưa hàng năm. Khá nhiều gia đình ở Hàm Tân do kinh tế đang khó khăn (thất thu mùa điều, nông sản giá thấp) đành bán những vườn keo với giá xuống thấp để trang trải cuộc sống. Một số bà con nông dân vay ngân hàng đầu tư trồng nhiều diện tích keo đang kiến nghị các ngân hàng trên địa bàn gia hạn thời gian cho vay để vượt qua khó khăn trong mùa Covid- 19.

Thụy Khanh

Đồng Tháp: Hàng trăm hecta lúa hè thu bị ảnh hưởng do mưa bão

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

Do ảnh hưởng bão số 2, mưa liên tục kéo dài và gió giật mạnh trong những ngày qua đã làm hàng trăm ha lúa hè thu đang trong giai đoạn trỗ chín, sắp bước vào thu hoạch ở TX.Hồng Ngự bị đổ ngã, ước thiệt hại từ 30 - 70%.

Địa phương bị ảnh hưởng nhiều nhất là xã An Bình B, ghi nhận thực tế cho thấy, khoảng 400/610ha lúa hè thu tại khu I, xã An Bình B đang trong giai đoạn trỗ chín, sắp bước vào thu hoạch, bị đổ ngã, nằm sát đất và chìm trong nước. Ngoài ảnh hưởng đến năng suất thì việc tăng chi phí trong khâu thu hoạch là điều khó tránh khỏi. Hầu hết nông dân đang rất lo lắng. Điển hình như ông Lê Văn Thả ở Ấp 1 với 10 công đất, qua gần 3 tháng canh tác, chăm sóc, nhờ điều kiện thời tiết thuận lợi nên lúa phát triển rất tốt. Tuy nhiên, do ảnh hưởng bão nên hầu như diện tích lúa của ông, còn khoảng 10 ngày nữa thu hoạch, đã sập hoàn toàn.

Hay trường hợp của ông Nguyễn Văn Điền, với 20 công nếp, chỉ còn hơn 1 tuần nữa là đến kỳ thu hoạch, cách đây 5 ngày, nếp vẫn đứng cây, phát triển tốt, sau cơn bão, 100% diện tích nếp đã bị chìm.

Ông Hồ Văn Á – Chủ tịch Hội Nông dân xã An Bình B cho biết: “Trước tình hình trên, địa phương đã đến nắm tình hình, thống kê thiệt hại, động viên bà con tranh thủ thu hoạch sớm đối với những diện tích lúa đã trỗ chín, đồng thời làm việc với hợp tác xã khẩn trương bơm rút nước để hạn chế thiệt hại cho nông dân”.

Bên cạnh sự vào cuộc của ngành chức năng, chính quyền địa phương, bà con nông dân cũng cần thường xuyên thăm đồng, nhất là chủ động thu hoạch để tránh những thiệt hại do mưa bão gây ra.

HOÀNG PHƯƠNG

Bạc Liêu: Khuyến cáo nông dân tập trung rửa mặn để xuống giống lúa trên đất tôm

Nguồn tin: Báo Bạc Liêu

Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh Bạc Liêu về thực hiện kế hoạch phát triển giống lúa ST 24 và ST 25 trên vùng đất tôm - lúa, đồng thời thực hiện Đề án nâng cao năng suất tôm nuôi trong mô hình tôm - lúa vùng phía Bắc Quốc lộ 1A, đến nay ngành Nông nghiệp và các địa phương đã tiến hành hỗ trợ lúa giống cho nông dân và tổ chức chuyển giao khoa học - kỹ thuật, với tổng diện tích sản xuất khoảng 3.560ha.

Tuy nhiên, theo phản ánh của bà con nông dân, vụ sản xuất lúa trên đất tôm năm nay sẽ gặp nhiều khó khăn, vì độ mặn từ đầu năm đến nay rất cao. Do vậy, ngành Nông nghiệp khuyến cáo bà con nông dân cần tranh thủ lượng mưa lớn trong những ngày gần đây để tập trung rửa mặn, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuống giống tập trung vào tháng 9/2020.

PV

Ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt cho mía: Năng suất cao, nông dân lại nhàn nhã

Nguồn tin: Báo Phú Yên

Mô hình tưới nhỏ giọt ruộng mía của ông Ralan Thu ở thôn Tân Hiên (xã Sơn Phước, huyện Sơn Hòa). Ảnh: LÊ TRÂM

Thực hiện đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, Trung tâm Khuyến nông phối hợp với Chi cục Phát triển nông thôn (Sở NN-PTNT) tỉnh Phú Yên triển khai mô hình ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt cho 2ha mía tại các xã Sơn Phước, Sơn Nguyên (huyện Sơn Hòa). Mô hình đã góp phần nâng cao năng suất cây mía, tiết kiệm chi phí sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân.

Năng suất cao

Niên vụ mía 2018-2019 và 2019-2020, ruộng mía 1ha của ông Đoàn Đắc Miên ở thôn Nguyên An (xã Sơn Nguyên) được chọn triển khai mô hình ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt cho mía theo công nghệ Israel, trồng giống mía KK3. Dây tưới nhỏ giọt được đặt trên mặt đất, giữa hai hàng mía với chiều dài 5,4km/ha, dùng để tưới nước bổ sung cho mía vào các giai đoạn khô hạn kéo dài từ tháng 3-8 hàng năm. Trong thời gian này, giai đoạn cần tưới là giai đoạn mía mọc mầm, đẻ nhánh, bắt đầu vươn lóng, đến hết thời kỳ vươn lóng. Kết quả, cùng điều kiện canh tác, giống, phân bón như nhau, năng suất của mô hình đạt 103 tấn/ha, trong khi đó năng suất mía trồng đại trà theo phương pháp truyền thống chỉ đạt 50 tấn/ha. Ông Miên cho hay: “Ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt cho mía, người trồng mía sáng vô gò mía khởi động máy bơm rồi đi làm chuyện khác, trưa tắt máy, còn tưới bằng péc phun hay máy hút nước xả ra ống thì phải có mặt để di dời. Cái hay của tưới nhỏ giọt là tưới được khu vực gò đồi, chỗ đất cao, cây mía xanh tươi. Còn tưới bằng máy hút nước xả ra ống tràn từ đám này qua đám khác, gặp chỗ gò cao nước không tràn qua được, mía sẽ khô héo”.

Cũng theo ông Miên, ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt cho mía thì người trồng mía không phải bưng thúng phân vãi ruộng mía mà chỉ cần hòa phân vào bồn chứa nước rồi nối vào hệ thống tưới nhỏ giọt là mía “ăn” phân. Còn trước đây khi chưa ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt, muốn vãi phân cho mía thì mọi người phải canh trời mưa. Gặp năm nắng hạn, mía “đói” phân, đỏ lá, héo úa.

Còn ông Ralan Thu ở thôn Tân Hiên (xã Sơn Phước) cho hay: “Tôi trồng 1ha giống mía KK3, cũng ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt cho mía, cuối vụ năng suất đạt 98 tấn/ha, trong khi đó mía trồng đại trà lâu nay năng suất chỉ đạt 35,6 tấn/ha. Hệ thống này chỉ cần tưới nước bổ sung cho mía vào các giai đoạn khô hạn”.

Giải hạn trên vùng đất khô hạn

Theo ông Nguyễn Đức Thắng, Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn, Phú Yên nằm trong vùng nguyên liệu mía Trung Trung Bộ với diện tích sản xuất mía cả tỉnh đạt hơn 25.000ha. Đồng thời, mía cũng là một trong ba cây trồng chủ lực của tỉnh. Tuy nhiên, diện tích trồng mía phần lớn phụ thuộc vào nước trời nên ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế, năng suất mía bình quân của tỉnh đạt thấp, khoảng 47,5 tấn/ha. Trước tình hình đó, ngành Nông nghiệp triển khai mô hình ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt trong sản xuất thâm canh cây mía tại xã Sơn Nguyên, Sơn Phước, với quy mô 1 ha/mô hình/điểm. Kết quả năng suất mía bình quân đạt 100 tấn/ha, lợi nhuận bình quân đạt 20,6 triệu đồng/ha, tăng 23,1 triệu đồng/ha so với phương thức sản xuất hiện nay tại địa phương canh tác mía theo phương thức truyền thống.

Bà Bùi Thị Hiền ở xã Sơn Phước tham quan mô hình ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt cho mía. Thực hiện mô hình này, người trồng mía cần lắp đặt hệ thống tưới bằng cách đào giếng rồi bơm nước lên bể chứa, sau đó dùng máy nổ hút nước vào dây tưới nhỏ giọt. “Cách làm này vừa tiết kiệm nước vừa mang lại năng suất cao. Khi có nước, người trồng mía sẽ chủ động bón phân đúng thời kỳ nên cây mía vươn lóng lên cao. Còn trồng “khoán trắng” cho trời có năm gặp nắng hạn, cây héo úa, khi có mưa thì cây đã mất sức”, bà Hiền nói.

Ông Trần Văn Phục, nông dân ở xã Sơn Nguyên, sau khi tham quan mô hình mía cho hay: “Áp dụng mô hình này, người trồng mía rất nhàn, không phải bỏ công sức tưới, bón phân như trước. Với mô hình tưới nhỏ giọt, ruộng mía lúc nào cũng được tưới mát đất. Vùng trồng mía Sơn Hòa trải dài qua các xã Sơn Nguyên, Sơn Hòa, Suối Bạc, Sơn Hội… là vùng đất khô hạn, mô hình này được nhân rộng thì nông dân trồng mía nâng cao hiệu quả sản xuất”.

Theo Trưởng Phòng NN-PTNT huyện Sơn Hòa Alê Y Bớ, Sơn Hòa là huyện có diện tích mía nguyên liệu lớn nhất tỉnh với trên 13.550ha, thế nhưng nông dân không chủ động nước tưới, “khoán trắng” cho trời nên có năm gặp nắng hạn năng suất mía thấp. Thời gian gần đây, nông dân đầu tư, tham gia trồng mía tưới nước nhỏ giọt, nâng năng suất lên 90-100 tấn/ha. Mô hình này góp phần nâng cao trình độ sản xuất, từng bước thay đổi tập quán canh tác truyền thống, ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất thâm canh mía, nâng cao hiệu quả, tăng thu nhập cho nông dân.

Ông Nguyễn Đức Thắng, Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn: Với mô hình ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt, Trung tâm Khuyến nông và Chi cục Phát triển nông thôn (Sở NN-PTNT) đã tổ chức 3 lớp tập huấn kỹ thuật cho 88 lượt người và 6 hội nghị tham quan đầu bờ cho 180 lượt người, để nông dân nắm bắt được kỹ thuật, ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt trong sản xuất thâm canh cây mía.

MẠNH LÊ TRÂM

Phát triển chăn nuôi bò ở vùng biển

Nguồn tin: Báo Quảng Trị

Nhằm hỗ trợ ngư dân ven biển ổn định đời sống, năm 2018, Sở Khoa học và công nghệ Quảng Trị đã triển khai dự án “Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong chăn nuôi bò nhằm chuyển đổi sinh kế cho người dân ở vùng cát ven biển chịu ảnh hưởng sự cố môi trường biển tỉnh Quảng Trị”. Sau gần 3 năm thực hiện, dự án đã tạo ra được phong trào chăn nuôi bò ở vùng cát, tạo thu nhập đáng kể cho người dân bên cạnh nghề biển.

Sau khi tham gia dự án, nhiều hộ dân vùng biển đã phát triển được đàn bò khá quy mô. Ảnh: HVA

Dự án được triển khai trên địa bàn của 8 xã ven biển của 4 huyện chịu ảnh hưởng bởi sự cố môi trường biển gồm các xã Vĩnh Thái, Vĩnh Thạch (cũ) (Vĩnh Linh); Trung Giang, Gio Hải (Gio Linh); Triệu Vân, Triệu Lăng (Triệu Phong); Hải An, Hải Khê (Hải Lăng). Với sự đầu tư nguồn vốn từ Chương trình phát triển nông thôn, miền núi, dự án được triển khai bài bản từ các khâu khảo sát điều kiện lao động, đất đai, tình hình chăn nuôi, khả năng chăn nuôi bò, số hộ bị ảnh hưởng sự cố môi trường biển, nhu cầu của người dân đến chuyển giao kỹ thuật và hỗ trợ vốn cho người dân… Dự án nhận được sự ủng hộ và tham gia chỉ đạo tích cực của chính quyền địa phương và các hội, đoàn thể chính trị- xã hội ở các xã nên đã được tổ chức chặt chẽ, công khai, minh bạch, hiệu quả. Thông qua các cuộc họp dân, chọn hộ, phổ biến các nội dung, mục tiêu và định mức hỗ trợ, yêu cầu vật tư đối ứng của người dân tham gia mô hình. UBND các xã có triển khai dự án thành lập ban quản lý dự án, các hội, đoàn thể xã tham gia mỗi đơn vị hướng dẫn, theo dõi việc thực hiện chăn nuôi của 1 hộ được hưởng lợi.

Trong quá trình thực hiện dự án, Sở Khoa học và công nghệ giám sát, đánh đánh sát đúng kết quả theo từng giai đoạn để rút kinh nghiệm những hộ chưa đạt hoặc nhân rộng những hộ làm tốt, từ đó có sự so sánh giữa các mô hình, các địa phương thực hiện. Trung tâm Nghiên cứu, ứng dụng và thông tin KH&CN tỉnh đã phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tỉnh trong chỉ đạo thực hiện dự án. Trung tâm cũng lựa chọn, ký kết hợp đồng với khuyến nông viên, thú y xã trực tiếp chỉ đạo kỹ thuật cho dự án. Các cán bộ kỹ thuật có trình độ chuyên môn, kỹ năng tốt và nhiệt tình, được đào tạo đầy đủ các quy trình công nghệ về chăn nuôi bò. Các lớp tập huấn được tổ chức bài bản; nội dung, phương pháp tập huấn gắn lý thuyết với thực hành nên đã thu hút học viên tham gia tích cực. Do vậy, sau tập huấn tất cả học viên đều nắm chắc các quy trình, công nghệ và thực hành một cách thành thạo. Dự án đã tổ chức các lớp tập huấn cho 10 cán bộ cơ sở và 200 lượt nông dân về quy trình và kỹ thuật chăn nuôi bò như: Kỹ thuật trồng, quản lý và sử dụng cỏ cao sản làm thức ăn cho bò; kỹ thuật nuôi bò sinh sản bán thâm canh, vỗ béo bò thịt; kỹ thuật chế biến, bảo quản phế phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn cho bò; phòng chống dịch bệnh...

Sau gần 3 năm thực hiện, dự án đã tiếp nhận và chuyển giao thành công 7 quy trình chăn nuôi bò và 5 quy trình sản xuất chế phẩm vi sinh vật dùng trong chăn nuôi cho người dân vùng ven biển. 8 hộ được lựa chọn để xây dựng 8 mô hình chăn nuôi bò thâm canh gia trại gồm chọn lựa đàn bò cái lai, bò thịt, bò vỗ béo; cải tạo chuồng trại; thực hiện phối giống bằng thụ tinh nhân tạo; thực hiện các kỹ thuật chăm sóc nuôi dưỡng bò cái sinh sản, bò thịt thâm canh và bò vỗ béo. Ở quy mô nông hộ, xây dựng mô hình nuôi bò sinh sản bán thâm canh tại 48 hộ với mức 2 con/hộ. Đồng thời, xây dựng vùng giống bò bước đầu có gần 130 bò cái sinh sản, hằng năm sản xuất trên 100 bò giống chất lượng cao phục vụ nuôi bò cho ngư dân. Các hộ được lựa chọn là các hộ đang chăn nuôi bò với quy mô khá hoặc có khả năng đầu tư nguồn vốn đối ứng để đảm bảo quy trình nuôi bò và có nguyện vọng tham gia dự án. Dự án cũng hỗ trợ một phần thức ăn tinh và thuốc thú y để phòng trị bệnh cho bò.

Dự án đã mang lại hiệu quả nhiều mặt về kinh tế, môi trường và xã hội. Đối với nuôi nông hộ, lợi nhuận nuôi 2 con bò cái sinh sản thu được hơn 35 triệu đồng/năm. Các hộ tận dụng thức ăn tinh tự sản xuất, giá rẻ thì lợi nhuận cao hơn. Ngoài ra, các hộ chăn nuôi thu nhập từ phân bón 800.000 đồng/m3 . Đối với chăn nuôi gia trại, nuôi 4 con bò cái sinh sản đạt lợi nhuận bình quân gần 73 triệu đồng/hộ/năm. Đối với vỗ béo bò, lợi nhuận sau thời gian thực hiện dự án đạt gần 48 triệu đồng/mô hình. Hiệu quả kinh tế đối với từng phương thức và quy mô nuôi, ngoài số bò do dự án hỗ trợ, nhờ áp dụng các quy trình, công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ chế biến thức ăn thì tăng hiệu quả kinh tế so với phương thức nuôi hiện tại lên khoảng 30%. Việc áp dụng các công nghệ chăn nuôi như chế biến và dự trữ thức ăn, phòng trừ dịch bệnh, góp phần giải quyết thức ăn cho bò trong những mùa rét, làm giảm tối đa dịch bệnh cho bò. Dự án cũng đã sản xuất và cung ứng một số lượng bò giống chất lượng tốt phục vụ chăn nuôi bò trên địa bàn.

Việc dự án sử dụng chế phẩm vi sinh ủ phân chuồng, vừa có phân hoai mục chất lượng để trồng trọt, vừa giảm ô nhiễm môi trường. Công nghệ ủ xanh, ủ chua, chế biến phế phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn cho bò vừa đảm bảo được nguồn thức ăn thường xuyên, chất lượng cho bò vừa hạn chế hiện tượng đốt, vứt bỏ phế phụ phẩm nông nghiệp, giúp hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường; bảo vệ và cải tạo nguồn tài nguyên đất canh tác. Chăn nuôi bò sẽ cung cấp phân hữu cơ có tác dụng cải tạo đất, nâng cao độ phì và cải thiện tính chất cơ lý của đất, nhờ vậy đất không bị thoái hoá, bạc màu ở vùng cát ven biển.

Từ kết quả thực hiện, dự án không chỉ mang lại thu nhập ổn định cho các hộ tham gia mà còn tạo ra khả năng tự nhân rộng phát triển thành phong trào chăn nuôi bò trong ngư dân. Dự án mở ra một hướng sản xuất mới, sử dụng được tiềm năng sẵn có, lao động nhàn rỗi, nâng cao thu nhập, giải quyết việc làm cho người dân. Từ đó, khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh vùng cát và tạo sinh kế bền vững cho ngư dân.

Trần Cát Linh

Thức ăn chăn nuôi tăng giá, nông dân gặp khó

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Thời điểm này, người chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk tập trung tái đàn gia súc, gia cầm. Tuy nhiên, giá thức ăn chăn nuôi đang tăng cao khiến các nông hộ gặp nhiều khó khăn.

Nhiều đại lý thức ăn chăn nuôi trên địa bàn tỉnh cho biết, từ sau Tết Nguyên đán Canh Tý 2020 đến nay, giá các loại thức ăn chăn nuôi liên tục tăng, cộng với dịch bệnh tả heo châu Phi càng khiến sức mua trên thị trường èo uột. Chỉ hơn một tháng trở lại đây, sức mua mới có dấu hiệu phục hồi do nhiều hộ tập trung tái đàn, khôi phục sản xuất. Tuy nhiên, giá thức ăn vẫn chưa có dấu hiệu giảm.

Theo khảo sát tại một số đại lý trên địa bàn tỉnh, hiện giá nhiều loại thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản đồng loạt tăng từ 350 - 550 đồng/kg, tương ứng với mỗi bao cám (loại 25 kg) tăng trung bình 8.750 đồng - 13.750 đồng/bao. Hiện các loại cám chăn nuôi có giá dao động ở mức 220.000 - 370.000 đồng/bao tùy loại. Chỉ tính từ đầu năm 2020 đến nay, giá các loại thức ăn chăn nuôi đã có 2 đợt điều chỉnh tăng giá bán. Việc này đã ảnh hưởng trực tiếp đến các hộ chăn nuôi, làm tăng thêm chi phí đầu vào.

Gia đình ông Trịnh Văn Sơn (xã Hòa An, huyện Krông Pắc) làm nghề nuôi bò vỗ béo từ nhiều năm nay. Trong chuồng của gia đình ông hiện nuôi 5 con bò. Ngoài các loại thức ăn thô xanh, ông còn sử dụng các loại hạt, ngũ cốc, cám, khô dầu, thức ăn hỗn hợp… để cho bò ăn. Song, hiện giá cả hầu hết các loại thức ăn chăn nuôi đều tăng, trong khi giá bán bò thương phẩm rất bấp bênh, gây khó khăn cho các hộ chăn nuôi như gia đình ông.

Theo nhiều chủ đại lý thức ăn chăn nuôi, nguyên nhân khiến các mặt hàng thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy sản tăng giá là do giá các nguyên liệu sản xuất tăng cao bởi khó khăn trong khâu nhập nhẩu vì ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19. Cụ thể, hiện giá khô dầu đậu tương đã tăng từ 9.000 đồng/kg lên 10.200 đồng/kg; mặt hàng bắp hạt tăng từ 5.600 đồng/kg lên 7.000 đồng/kg; một số mặt hàng như: Lysine, axit amin cũng tăng giá đến 30% và luôn trong tình trạng khan hàng, đã đẩy giá thức ăn chăn nuôi tăng theo.

Chị Nguyễn Thị Phương Trang, chủ Đại lý thức ăn Phương Trang (thị trấn Quảng Phú, huyện Cư M'gar) cho biết, sức mua các loại thức ăn chăn nuôi ở cửa hàng chị hiện đã giảm khoảng 30% so với trước. Cùng với đó, lượng hàng nhập về dù không bị hạn chế về số lượng, nhưng phía nhà phân phối yêu cầu phải đăng ký trước khoảng một tuần thì mới có hàng chứ không phải "gọi đâu có đó" như trước đây.

Nông dân ở thị trấn Quảng Phú, huyện Cư Mgar chọn mua thức ăn chăn nuôi.

Giá thức ăn chăn nuôi tăng, nhưng giá bán thương phẩm các loại gia súc, gia cầm lại bấp bênh khiến người chăn nuôi gặp khó khăn, phải thận trọng trong đầu tư. Riêng đối với mặt hàng heo thương phẩm, mặc dù giá bán đang ở mức cao nhất từ trước đến nay, nhưng giá thức ăn cộng với giá con giống cũng tăng mạnh (khoảng 2,4 - 2,7 triệu đồng/con) khiến các hộ nuôi heo muốn tái đàn hoặc mở rộng quy mô cũng gặp khó khăn do thiếu vốn, dẫn đến sức mua trên thị trường thức ăn chăn nuôi giảm mạnh.

Trong khi đó, giá bán các loại thực phẩm như: gà, cá, trứng đang giảm, khiến các hộ chăn nuôi phải cắt giảm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Thay vào đó, nhiều nông hộ chọn cách mua các nguyên liệu tại chỗ như: cám gạo, bắp, sắn về xay nhỏ, rồi phối trộn để thay thế thức ăn công nghiệp, nhằm giảm giá thành sản xuất.

Hộ chị Bùi Thị Thanh Hương (thôn Ea Kiêng, xã Ea Tar, huyện Cư M’gar) nuôi 10 con heo nái, 40 con heo thịt, đàn gà, ngan lên đến cả trăm con. Chị cho hay, giá heo hơi tăng cao đang khuyến khích người nuôi gây đàn, khôi phục lại sản xuất, nhưng hiện nay, giá thức ăn chăn nuôi vẫn ở mức cao gây nhiều trở ngại cho người nuôi như chị. Trước thực tế này, hằng ngày ngoài việc cho heo ăn cám công nghiệp, chị còn tận dụng thêm các loại thức ăn khác để thay thế như bã hèm, bắp xay… nhằm tiết giảm chi phí.

Theo nhận định của các chuyên gia trong ngành chăn nuôi, với tình hình giá nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi tăng cao như hiện nay, nhiều khả năng giá các loại thức ăn chăn nuôi sẽ còn tiếp tục tăng trong thời gian tới. Do vậy, để giảm chi phí đầu vào, người dân nên chọn giải pháp tự mua cám gạo, bắp, sắn tại địa phương về xay nhỏ, rồi phối trộn để thay thế cám công nghiệp. Tuy nhiên, khi tự trộn thức ăn chăn nuôi, người nuôi cần phải nắm vững kỹ thuật phối trộn, lựa chọn nguyên liệu bảo đảm chất lượng, xác định được tỷ lệ dinh dưỡng đối với từng loại vật nuôi ở các giai đoạn khác nhau, có như vậy chất lượng đàn vật nuôi mới được bảo đảm.

Đỗ Lan

Thu nhập cao từ nuôi vịt kết hợp thả cá

Nguồn tin: Báo Bắc Giang

Gia đình anh Lưu Ngọc Luận (SN 1972) ở thôn Thuận, xã Tân Thanh, huyện Lạng Giang (Bắc Giang) là một trong những hộ đi đầu chuyển đổi diện tích ngập trũng thành mô hình phát triển thủy sản kết hợp nuôi vịt. Từ mô hình này, mỗi năm, gia đình anh thu hàng trăm triệu đồng.

Được biết, anh Luận đã ấp ủy xây dựng mô hình trang trại trên đồng đất quê hương từ lâu nhưng do không có vốn đầu tư. Năm 2007, sau cả chục năm làm cai thầu xây dựng, anh Luận nghĩ đến việc dồn đổi diện tích chiêm trũng cấy lúa một vụ không ăn chắc ở gần nhà để cải tạo thành trang trại chăn nuôi. Sau khi đào đất, đắp đập, khoanh vùng thành ao rộng hơn 1 ha, anh Luận mua hơn 1 tấn cá các loại về thả.

Anh Lưu Ngọc Luận chăm sóc đàn vịt thương phẩm.

Ngoài cá, gia đình anh còn nuôi lợn, vịt, gà kết hợp với trồng cây ăn quả. Những năm đầu, do chưa có kinh nghiệm nên hiệu quả không cao. Đến năm 2014, qua tìm hiểu thông tin trên sách, báo và đi tham quan các mô hình sản xuất, anh quyết định chỉ tập trung đầu tư vào nuôi các loại cá truyền thống kết hợp với thả vịt thương phẩm.

Đến nay, với gần 14 nghìn m2 mặt nước, khu trang trại nuôi cá của gia đình anh Luận cho thu hoạch từ 13 -15 tấn cá, doanh thu đạt từ 400- 450 triệu đồng/năm, trừ chi phí lãi gần 200 triệu đồng. Loại cá anh chọn nuôi chủ yếu là cá trôi, chim, chép, mè bởi chúng dễ nuôi, ít bị bệnh và dễ tiêu thụ. Anh Luận chia sẻ: "Tôi nuôi cá chủ yếu bằng ngô. Ngô sau khi xay nấu cho bung nở rồi cho cá ăn, nhờ vậy chất lương thịt cá thơm ngon hơn so với nuôi bằng cám công nghiệp".

Ngoài thả cá, gia đình anh Luận còn kết hợp chăn từ 7-10 vạn con vịt mỗi năm, thu lãi từ 300 đến 500 triệu đồng. Khu chuồng nuôi được chia thành từng ngăn khác nhau để tiện gối lứa. Mỗi lứa vịt, gia đình anh chỉ nuôi khoảng 45 ngày là có thể xuất bán. Theo anh Luận, so với các loại vật nuôi khác, nuôi vịt cho hiệu quả kinh tế cao hơn, chi phí đầu tư ít hơn nhưng lại nhanh thu hồi vốn.

Hiện mô hình trang trại nuôi cá truyền thống kết hợp với thả vịt của gia đình anh Lưu Ngọc Luận được nhiều người dân ở trong và ngoài tỉnh đến học hỏi. Anh Nguyễn Ngọc Tú, Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Thanh cho biết: "Hiện xã Tân Thanh có diện tích mặt nước nuôi thủy sản khoảng 30 ha với nhiều mô hình nuôi thủy sản cho thu nhập cao. Điển hình là mô hình phát triển thủy sản kết hợp nuôi vịt thương phẩm của gia đình anh Luận. Từ dám nghĩ, dám làm, anh Luận đã thực hiện được ước mơ làm giàu trên đồng đất quê hương".

Từ Hoài

Kêu gọi tiêu thụ vịt cho nông dân

Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế

Hội Nông dân tỉnh Thừa Thiên Huế (HND tỉnh) kêu gọi trước mắt mua ủng hộ để “giải cứu” 6.000 con vịt bơ siêu nạc tại trang trại của hội viên Hoàng Thị Liên ở thôn Bắc Triều Vịnh (xã Phong Hiền, huyện Phong Điền) nhằm chia sẻ với nông dân trong giai đoạn ảnh hưởng dịch bệnh COVID-19.

HND tỉnh giúp nông dân Phong Điền tiêu thụ vịt tồn đọng

Ngày 7/8, HND tỉnh cho biết, đã có văn bản gửi đến các sở, ban, ngành, đoàn thể và các cơ quan đơn vị doanh nghiệp trên địa bàn TP. Huế về việc giúp nông dân tiêu thụ nông sản trong giai đoạn do ảnh hưởng dịch bệnh COVID-19.

Cụ thể, trang trại của chị Hoàng Thị Liên tại thôn Bắc Triều Vinh hiện có khoảng 6.000 con vịt bơ siêu nạc đã quá thời gian xuất chuồng nhưng các đầu mối thu mua không nhập hàng.

Chị Hoàng Thị Liên, chủ trang trại cho biết, số vịt trên chủ yếu phục vụ cho các nhà hàng tại TP. Đà Nẵng và các tỉnh lận cận nhưng không tiêu thụ được, mỗi con bình quân nặng 2,7- 3kg, giá bán một con vịt còn sống là 100.000 đồng. Hiện vịt đã làm xong ship hàng tận nơi tại khu vực TP. Huế giá 120.000 đồng (chưa tính phí ship hàng).

Cũng theo HND tỉnh, quá trình chăn nuôi, hộ dân đã đăng ký xuất xứ nguồn gốc, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Hộ sản xuất cam kết trong khâu chế biến sản phẩm đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm, sản phẩm được kiểm dịch trước khi đưa đến người tiêu dùng.

Ông Trần Văn Lập, Phó Chủ tịch HND tỉnh thông tin, được sự đồng ý Thường trực Tỉnh ủy, HND tỉnh triển khai kết nối tiêu thụ nông sản cho nông dân. HND tỉnh kêu gọi, lãnh đạo các sở, ban ngành, đoàn thể, các đơn vị doanh nghiệp đóng trên địa bàn TP. Huế quan tâm động viên, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động cùng tham gia giải cứu một số mặt hàng nông sản của nông dân trong thời điểm dịch bệnh COVID-19.

Trước mắt mua ủng hộ để “giải cứu” 6.000 con vịt bơ siêu nạc tại trang trại của hội viên Hoàng Thị Liên. Thông tin kết nối tiêu thụ nông sản có trên Website của HND tỉnh và trên trang facebook.com/nongdanthuathienhue- trang Fanpage chính thức của HND tỉnh.

Được biết, hiện nay tổng đàn đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh có gần 4 triệu con, tăng 31,4% (trong đó đàn gà 3.249 nghìn con, tăng 47,2%). Đàn gia cầm tăng do người chăn nuôi chuyển đổi từ nuôi lợn sang nuôi gia cầm.

Tin, ảnh, clip: Hà Nguyên

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop