Tin nông nghiệp ngày 12 tháng 01 năm 2021

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 12 tháng 01 năm 2021

Nâng cao giá trị cây bưởi

Nguồn tin: Nhân Dân

Mô hình trồng bưởi theo tiêu chuẩn VietGAP ở xã Phúc Ninh, huyện Yên Sơn (Tuyên Quang). Ảnh: NGUYỄN CHUNG

Với lợi thế về khí hậu, thổ nhưỡng, cây bưởi đang ngày càng phát triển mạnh ở các tỉnh miền bắc. Hiện nay, bưởi đang là một trong những cây trồng chủ lực trong sản xuất nông nghiệp ở nhiều địa phương.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, hiện nay, diện tích cây ăn quả có múi ở các tỉnh miền bắc là 121 nghìn ha, trong đó diện tích bưởi chiếm hơn 40%. Qua thống kê, các địa phương trồng bưởi lớn nhất là Bắc Giang, Tuyên Quang, Hòa Bình, Phú Thọ, Sơn La, Thái Nguyên, Yên Bái, Lạng Sơn… với cơ cấu giống chủ yếu là bưởi da xanh, năm roi và bưởi Diễn. Điều đáng nói, hiện nay cây bưởi đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân ở các địa phương khi giá trị thu nhập lên đến hàng trăm triệu đồng/ha/năm.

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tuyên Quang, do phù hợp với điều kiện thời tiết, khí hậu cho nên cây bưởi đang được nhân dân trên địa bàn mở rộng diện tích để nâng cao thu nhập. Đến nay, toàn tỉnh trồng khoảng 4.867 ha bưởi, tập trung ở các huyện Yên Sơn với 4.012 ha, Hàm Yên 344 ha. Trong đó, diện tích cho thu hoạch là 1.858 ha, sản lượng đạt 18.992 tấn/năm với doanh thu năm 2019 đạt hơn 491 tỷ đồng. Để phát triển bền vững cây bưởi và bảo đảm đầu ra cho sản phẩm, Tuyên Quang đã có nhiều giải pháp nhằm thúc đẩy sản xuất theo mô hình chuỗi liên kết và tiêu thụ sản phẩm, qua đó đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân và giúp các hộ thay đổi tư duy, tập quán sản xuất. Đồng thời giúp người dân chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất hàng hóa gắn với liên kết để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị. Hiện nay một số mô hình chuỗi liên kết sản xuất theo hướng VietGAP đã được người dân triển khai rộng rãi. Điển hình như mô hình thâm canh chăm sóc bưởi theo hướng VietGAP của gia đình chị Trịnh Thị Hải, thôn Đô Thượng 4, xã Xuân Vân, huyện Yên Sơn với quy mô 1.000 gốc bưởi, bình quân mỗi cây cho thu hoạch từ 30 đến 40 quả, mỗi năm cho lãi gần 600 triệu đồng/năm. Sản phẩm được các hợp tác xã, doanh nghiệp đến tận vườn thu mua.

Trong những năm gần đây, tỉnh Phú Thọ đã chú trọng, quan tâm triển khai nhiều chương trình, dự án nhằm phát triển cây có múi như bưởi, cam... ở các địa phương có tiềm năng về quỹ đất hoặc chuyển đổi cây trồng kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả. Hiện nay, diện tích trồng cây có múi trong tỉnh khoảng 4.900 ha, tập trung chính ở 151 vùng sản xuất, trong đó 23 vùng trồng bưởi đặc sản Đoan Hùng và 128 vùng trồng bưởi Diễn. Riêng bưởi đặc sản Đoan Hùng có diện tích 1.420 ha, trong đó diện tích cho thu hoạch hơn 800 ha, sản lượng khoảng 13.500 tấn. Nhiều hộ dân đã ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và dán tem truy xuất nguồn gốc để tạo niềm tin cho khách hàng cũng như bảo đảm đầu ra ổn định. Qua thống kê, thu nhập của người trồng bưởi tại Phú Thọ thời gian qua không ngừng tăng lên, trung bình đạt 150 đến 200 triệu đồng/năm, có hộ đạt hơn 500 triệu đồng/năm.

Tuy nhiên, việc trồng và tiêu thụ bưởi cũng gặp nhiều khó khăn do trình độ thâm canh của các hộ nông dân còn hạn chế, chủ yếu canh tác theo tập quán, kinh nghiệm; chưa thật chú trọng đầu tư thâm canh cho nên năng suất không ổn định; chất lượng sản phẩm quả chưa đồng đều, diện tích bưởi theo tiêu chuẩn VietGAP còn ít. Thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa ổn định; mối liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm bưởi còn lỏng lẻo, dẫn tới hiện tượng được mùa mất giá. Hơn nữa, việc chế biến quả có múi nói chung và bưởi nói riêng còn hạn chế; dòng sản phẩm chính trong chuỗi giá trị quả có múi chủ yếu là sản phẩm quả tươi, một phần nhỏ được chế biến thành nước cam, bưởi tươi, nước cam cô đặc, mứt, cùi cam bưởi sấy, rượu vang... Đối với sản phẩm xuất khẩu, hiện nay mới ở các công đoạn như: Phân loại, làm sạch bên ngoài, đóng gói, bao lưới, bảo quản trong kho lạnh và xuất hàng theo yêu cầu của các đối tác.

Để phát triển bền vững và nâng cao giá trị cây bưởi, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các địa phương cần rà soát, xác định quy mô và vùng sản xuất bưởi để tổ chức lại sản xuất; chú trọng đến quy trình sản xuất an toàn, bảo đảm chất lượng, tăng năng suất; tổ chức liên kết sản xuất, tiêu thụ, khuyến khích doanh nghiệp liên kết với nông dân trong chuỗi giá trị bưởi trồng tập trung; đẩy mạnh sản xuất rải vụ thu hoạch, tập trung nhóm bưởi ngọt với cơ cấu chín sớm từ 30 đến 40%, chính vụ và muộn từ 60 đến 70%. Bên cạnh đó, tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại và khuyến khích tiêu thụ tại thị trường trong nước; đẩy mạnh trao đổi hàng hóa giữa các vùng miền khi vào mùa thu hoạch rộ... Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại nhằm củng cố, giữ vững và phát triển các thị trường xuất khẩu đã có sẵn; nghiên cứu và dự báo thị trường để định hướng, khuyến cáo người sản xuất và doanh nghiệp chế biến; xây dựng thương hiệu, đăng ký chỉ dẫn địa lý đối với quả bưởi đặc sản; tăng tỷ lệ sản phẩm chế biến từ quả bưởi.

Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), các tỉnh trung du miền núi phía bắc trồng khoảng 27,7 nghìn ha bưởi với sản lượng gần 165 nghìn tấn/năm. Trong đó, các địa phương có sản lượng lớn là Hòa Bình 42,7 nghìn tấn, Phú Thọ 34,2 nghìn tấn, Bắc Giang 29,4 nghìn tấn, Tuyên Quang 19 nghìn tấn, Thái Nguyên 15,9 nghìn tấn…

NGUYÊN PHÚC

Hậu Giang: Quýt đường được giá

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Những ngày này, thương lái vào tận vườn thu mua quýt đường của người dân trên địa bàn tỉnh với giá 27.000 đồng/kg, cân xô tại vườn.

Người dân ở thị trấn Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, thu hoạch quýt đường bán cho thương lái.

Theo các chủ vườn thì năm nay sản lượng quýt tết sẽ không nhiều, do lúc này người dân đang bắt đầu thu hoạch bán nên số còn lại phục vụ nhu cầu tết không lớn. Ngoài ra, do ảnh hưởng của đợt triều cường những tháng cuối năm 2020 làm cho nhiều vườn quýt bị ngập, số lượng trái bị giảm nên sản lượng quýt tết cũng giảm theo. Với nhận định của các thương lái thì mùa quýt tết năm nay giá cả sẽ hấp dẫn ở mức từ 35.000-40.000 đồng/kg trở lên, nhà vườn có quýt tết sẽ có lãi lớn.

Tin, ảnh: T.TRÚC

Tiền Giang: Nhà vườn thấp thỏm chờ tết

Nguồn tin: Báo Ấp Bắc

Nhiều loại trái cây giảm giá trong thời gian dài gần đây tạo nên mối lo lớn cho nông dân khi tết đang đến gần.

Bưởi, cam, thanh long… là một trong những nhóm trái cây có mức giá thấp dẫn đến thu nhập của nông dân cũng khó khăn.

CHẠM ĐÁY

Dịch bệnh được cho là một trong những nguyên nhân tác động mạnh đến tình hình tiêu thụ của nhiều loại trái cây, trong đó nhóm trái bưởi là một trong những điển hình. Anh Khương, xã An Thạnh Thủy, huyện Chợ Gạo có gần 0,5 ha bưởi da xanh đang vào giai đoạn thu hoạch nhưng giá bán lại rất thấp so với cùng kỳ nhiều năm.

Anh Khương cho biết, ngày 25-11 (âm lịch) vừa qua vườn của anh đến đợt thu hoạch khoảng 500 kg bưởi da xanh chín nhưng tìm mãi mới có một thương lái đến mua. Cân đi tính lại, giá bán bình quân chỉ khoảng 15.000 đồng/kg, chỉ bằng khoảng 50% so với cùng thời điểm của năm trước. “Sản lượng lớn, tiêu thụ khó khăn nên phải chấp nhận bán với giá thấp do bưởi đã đến lứa phải thu hoạch, không thể neo thêm trên cây”- anh Khương cho biết.

Ông Đỗ Văn Xinh đang trông đợi bưởi da xanh sẽ tăng giá trong dịp tết.

Tình cảnh tiêu thụ bưởi khó khăn cũng tương tự ở vùng trọng điểm trồng bưởi da xanh ấp Bình Thành, xã Tân Mỹ Chánh, TP. Mỹ Tho. Những thành viên trong Tổ hợp tác Bưởi da xanh Bình Thành cũng rất “đau đầu” do hiện nay lượng trái chín trên cây còn rất lớn nhưng tiêu thụ khó khăn, giá lại thấp.

Trầm ngâm về câu chuyện giá bưởi, Tổ trưởng Tổ hợp tác Bưởi da xanh Bình Thành Đỗ Văn Xinh cho biết, mức giá thấp này kéo dài khoảng 1 tháng qua và ngày càng có hướng xuống thấp hơn. Bên cạnh giá thấp, thay vì trước đây được lựa chọn là bưởi loại 1 để xuất khẩu thì nay bị dạt xuống bưởi loại 3, loại 4 và loại này hiện chỉ trên dưới 8.000 đồng/kg. Còn nếu tính bình quân, bưởi hiện nay bình quân chỉ khoảng 10.000 - 12.000 đồng/kg.

Bưởi da xanh là một trong những loại trái cây có xu hướng tăng nhanh về diện tích trồng, nhất là tập trung ở các xã vùng ven của TP. Mỹ Tho như: Đạo Thạnh, Mỹ Phong, Tân Mỹ Chánh và một số xã của huyện Chợ Gạo như Song Bình, Đăng Hưng Phước…; chưa kể các tỉnh, thành khác diện tích trồng bưởi này cũng tăng nhanh thời gian qua. Diện tích tăng nhanh nên sản lượng thu hoạch cũng tăng theo. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình hình tiêu thụ khó khăn khi thị trường có biến động và vào đợt cao điểm thu hoạch.

Theo thông tin của ông Xinh, ngay như ấp Bình Thành, xã Tân Mỹ Chánh trước đây trồng lúa “rặc ri” nay 100% là trồng bưởi da xanh. Mô hình trồng bưởi da xanh theo VietGAP cũng được tập trung xây dựng, Tổ hợp tác Bưởi da xanh Bình Thành ra đời trong những năm gần đây và hiện có 18 hộ trong tổ được công nhận đạt chuẩn VietGAP. Ngoài các hộ dân tham gia tổ hợp tác, hiện có rất nhiều hộ dân trên địa bàn xã Tân Mỹ Chánh tham gia mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ bưởi da xanh.

Nhiều năm qua, Tổ hợp tác cũng đã liên kết với đơn vị thu mua ở Bến Tre để tiêu thụ bưởi da xanh trong khu vực. Trên thực tế, người dân các xã Mỹ Phong, Song Bình, Đăng Hưng Phước cũng mang bưởi đến bán cho thương lái của Bến Tre. Chỉ tính riêng sản lượng bưởi cung ứng cho cơ sở ở Bến Tre sang thu mua tại điểm này cũng vào khoảng 450 tấn mỗi năm và có hướng tăng dần qua các năm.

Nhà vườn thu hoạch thanh long ở huyện Chợ Gạo. Ảnh: CAO LẬP ĐỨC

Trao đổi với chúng tôi về tình hình tiêu thụ bưởi gần đây, chị Nguyễn Thanh Thúy, một thương lái chuyên thu bưởi của Tiền Giang để cung ứng, bán lẻ cho khu vực Châu Đốc (tỉnh An Giang) và vùng biên giới cho rằng, sở dĩ giá bưởi giảm nhanh là do tác động của dịch bệnh Covid-19, người dân thắt chặt chi tiêu hơn và do cùng thời điểm sản lượng bưởi đến đợt thu hoạch quá lớn.

“Có lẽ năm nay do hạn, mặn kéo dài, người dân không dám lấy trái, đến khi mưa xuống bưởi ra hoa đồng loạt và đến nay là bước vào cao điểm thu hoạch cùng lúc trong khi nhu cầu tiêu thụ thấp. Lượng bưởi đợt này rất lớn nên thương lái chỉ ưu tiên thu mua của những nhà vườn “mối” lâu năm chứ không thể mua của các vườn khác” - chị Thúy cho biết thêm.

CHỜ MÙA TẾT

Câu chuyện giá thấp không chỉ diễn ra đối với trái bưởi, mà còn cam, thanh long và một số loại nông sản khác. Điển hình như cam, giá hiện nay cũng chỉ ở mức xấp xỉ 50% của năm trước. Trao đổi liên quan đến tình hình tiêu thụ một số loại trái cây gần đây, Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Mỹ Lương (huyện Cái Bè) Huỳnh Nguyên Anh cho biết, nếu như giá cam năm trước dao động ở mức 40.000 đồng/kg tại nhà vườn thì hiện nay cũng chỉ ở mức 20.000 đồng/kg đối với cam đẹp. Dịch bệnh có thể được xem là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng hiện nay. Ngoài bưởi, cam, mận cũng thuộc nhóm có giá xuống thấp. Theo tính toán, mận vào mùa chỉ dao động ở mức 10.000 - 15.000 đồng/kg, cao điểm lên mức 30.000 - 40.000 đồng/kg.

“Nhiều năm qua, hợp tác xã hợp tác làm ăn với một đối tác ở Hà Nội để cung ứng trái cây sang thị trường này nhưng gần đây đối tác cũng gặp khó khăn nên lượng trái cây giao dịch của hợp tác xã cũng ảnh hưởng rất lớn, dẫn đến nhiều khó khăn hơn” - ông Huỳnh Nguyên Anh cho biết.

Trên thực tế, thanh long cũng thuộc nhóm rớt giá trong thời gian dài vừa qua. Vào những ngày cuối năm 2020, giá thanh long xuống rất thấp, chỉ ở mức từ 6.000 - 8.000 đồng/kg đối với loại ruột đỏ và từ 5.000 - 6.000 đồng/kg đối với loại ruột trắng. Với giá này, người trồng chỉ thu về được một nửa chi phí sản xuất. Thanh long ruột đỏ từng là loại đặc sản mang lại thu nhập cao cho người trồng vì mặt hàng này được thị trường xuất khẩu ưa chuộng. Lúc cao điểm, khi trái thanh long xuất khẩu tốt, thương lái sẵn sàng trả giá 40.000 - 50.000 đồng/kg, thậm chí lên đến 60.000 đồng/kg hàng loại 1 để xuất đi các nước. Theo nhiều thương lái tại địa phương, giá thanh long trong gần 1 tháng qua giảm mạnh.

Cụ thể, nếu như đầu tháng 12-2020, giá của loại trái cây này vẫn còn ở mức 18.000 - 22.000 đồng/kg thì từ ngày 15-12 chỉ còn dưới 10.000 đồng/kg. Anh Nguyễn Hoàng Thắng, thương lái tại huyện Chợ Gạo, cho biết giá thanh long giảm mạnh là do nguồn cung trên thị trường đang dồi dào. Theo đó, từ đầu vụ xông đèn đến nay, thanh long luôn có các lứa chín liên tiếp nhau, không bị đứt đoạn nguồn cung. Hầu hết các vườn xông đèn trái vụ đều cho năng suất ổn định nên thanh long chín đều ở nhiều nơi. “Bên cạnh nguồn cung thanh long nhiều, thị trường tiêu thụ cũng đang gặp nhiều khó khăn. Do đó, thương lái cũng hạn chế thu mua thanh long ở thời điểm này” - anh Thắng cho biết.

Trong nền kinh tế thị trường, giá nông sản nói riêng và các mặt hàng khác nói chung chịu tác động của nhiều yếu tố, nên việc tăng hay giảm là do thị trường điều tiết. Đó cũng là câu chuyện rất bình thường, nhất là đối với các loại nông sản. Tuy nhiên, rơi vào cùng một thời điểm, giá nhiều loại nông sản xuống thấp dẫn đến đời sống nông dân chắc chắn sẽ gặp khó khăn. Tuy nhiên, những nông dân đang giữ lượng lớn trái cây có khả năng phục vụ cho mùa tết sắp đến như bưởi, thanh long… cũng đang hy vọng giá sẽ tăng trong những ngày giáp tết. Nói như ông Đỗ Văn Xinh khi chia tay chúng tôi: “Số bưởi da xanh nào có thể neo được chúng tôi vẫn cố neo đến tháng Chạp, chờ cho một mùa bưởi tết sắp tới”.

T.T

Thu hoạch an toàn vụ lúa trong mô hình lúa - tôm trước khi mặn xâm nhập

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang

Huyện Tân Phú Đông (tỉnh Tiền Giang) vừa thu hoạch dứt điểm trên 220 ha lúa vụ Thu đông an toàn với sản lượng gần 700 tấn lúa hàng hóa trước khi mùa khô hạn và xâm nhập mặn 2021 vào cao điểm. Trong đó, riêng lúa sản xuất trong mô hình lúa - tôm đạt gần 170 ha còn lại thuộc Dự án Phú Thạnh - Phú Đông.

Qua thống kê của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tân Phú Đông, trong dự án Phú Thạnh - Phú Đông, nông dân đạt năng suất bình quân 43 tạ/ha; còn trong mô hình lúa - tôm, bà con đạt năng suất thấp hơn, bình quân 34 tạ/ha. Theo ngành chức năng, sở dĩ lúa trong mô hình lúa - tôm vụ Thu đông năm nay thấp bởi trong thời gian cây lúa sinh trưởng vừa qua có một đợt bị nước mặn xâm nhập gây ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng cây trồng.

Huyện Tân Phú Đông nằm hạ lưu sông Tiền, tiếp giáp với biển Đông, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Mỗi năm, huyện bị ảnh hưởng mặn từ 06 - 09 tháng, tùy theo địa bàn. Cuộc sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Để thích ứng biến đổi khí hậu và giảm nhẹ thiên tai, thời gian qua, huyện Tân Phú Đông thực hiện tái cơ cấu sản xuất, bố trí lại hợp lý cây trồng và mùa vụ, giảm nhẹ thiên tai. Đối với cây lúa, địa phương chủ trương sản xuất một vụ lúa/năm vào thời điểm thời tiết thích hợp, có mưa, có nước ngọt. Thời gian còn lại trồng các cây trồng phù hợp khác hoặc nuôi trồng thủy sản.

Dựa trên định hướng đó, huyện Tân Phú Đông đầu tư hoàn thiện mạng lưới cơ sở hạ tầng giao thông - thủy lợi, mạng lưới đê bao ngăn mặn cho dự án Phú Thạnh - Phú Đông, đồng thời khuyến khích nông dân các xã ven biển: Phú Tân, Phú Đông tổ chức lại sản xuất theo mô hình 01 vụ lúa và 01 vụ tôm quảng canh cải tiến. Huyện cũng đã hình thành được Tổ hợp tác nuôi trồng thủy sản xã Phú Tân chuyên canh tác theo mô hình tôm - lúa thu hút hàng trăm nông dân.

Trong vụ Thu đông vừa qua, ông Hà Văn Hải cư ngụ tại ấp Cồn Cống, xã Phú Tân canh tác 3,5 ha theo mô hình lúa - tôm; thu hoạch đạt sản lượng gần 07 tấn lúa hàng hóa, giống chịu mặn VD 20. Ông Hải cho biết, vụ Thu đông năm nay trà lúa thất thu do bị ảnh hưởng nước mặn tràn qua đê bao khiến cây lúa ảnh hưởng rất nặng. Đúc kết kinh nghiệm, thời gian tới, ông củng cố đê bao, bờ vùng, bờ thửa chắc chắn ngăn triều cường không để nước mặn xâm lấn nội đồng gây hại. Tương tự, ông Ngô Văn Nhàn, cư ngụ tại ấp Phú Hữu, xã Phú Tân canh tác 03 ha theo mô hình lúa - tôm. Vụ vừa qua, ông đạt sản lượng khoảng 13,5 tấn lúa hàng hóa, cao hơn gấp đôi so với ông Hải nhờ khu vực đồng lúa Phú Hữu có bờ bao khá chắc chắn và nông dân gia cố đê bao kịp thời nên ảnh hưởng triều cường và xâm nhập mặn không lớn. Ông Ngô Văn Nhàn khẳng định, tuy vậy, mô hình lúa - tôm phù hợp với đặc thù miền đất cồn bãi ven biển Tân Phú Đông, mang lại hiệu quả cao. Tính chung, mỗi năm với thời vụ canh tác 01 vụ lúa và 01 vụ tôm, nông dân thu lợi nhuận từ 70 triệu đồng đến 100 triệu đồng/ha. Những năm trúng mùa, trúng giá, nông dân có thu nhập còn cao hơn. Cuộc sống bà con ổn định hẳn.

Hiện nay, đối với vùng sản xuất theo mô hình lúa - tôm huyện Tân Phú Đông, sau khi thu hoạch vụ lúa xong, bà con chuẩn bị tu sửa ao đầm, bờ bao, bờ vùng để thả tiếp vụ tôm theo mô hình quảng canh cải tiến.

Mộng Tuyết

Nam Định: Hải Hậu phát triển các mô hình trồng cây đinh lăng dược liệu

Nguồn tin: Báo Nam Định

Thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, những năm qua nhiều người dân huyện Hải Hậu (tỉnh Nam Định) đã mạnh dạn chuyển đổi những diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây đinh lăng dược liệu, mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Mô hình trồng đinh lăng dược liệu của anh Đinh Văn Thuận, xã Hải Đông (Hải Hậu).

Ông Bùi Văn Sớm, xóm 12, xã Hải Quang (Hải Hậu) là một trong những người đi đầu trong phong trào phát triển cây đinh lăng dược liệu. Sau khi xây dựng gia đình, trải qua nhiều nghề vất vả mà kinh tế vẫn bấp bênh, tình cờ biết đến mô hình trồng cây đinh lăng cho thu nhập cao, ông chuyển sang trồng thử nghiệm 6 sào; đồng thời đi học 6 tháng về kỹ thuật sấy dược liệu. Trải qua những khó khăn ban đầu, có thời điểm cây đinh lăng “sốt” giá, ông bán được 50 nghìn đồng/kg cành tươi, 25-30 nghìn đồng/kg củ tươi. Nhờ đó, chỉ trong 3 năm vườn đinh lăng của gia đình ông đã thu lãi mấy trăm triệu đồng. Từ nguồn vốn tích lũy, ông mở rộng diện tích, đầu tư hệ thống tưới nước tự động giúp cho việc chăm sóc thuận tiện. Đặc biệt, từ khi ký hợp đồng với Công ty cổ phần Traphaco, ông được hướng dẫn quy trình sản xuất đinh lăng sạch, từ đó việc phát triển mô hình trồng cây dược liệu ngày càng thuận lợi. Sản phẩm được Công ty thu mua không phải lo đầu ra, giá cả ổn định, không lo biến động thị trường.

Đến nay, ông Sớm sở hữu diện tích trồng cây đinh lăng lớn nhất xã với quy mô 4ha, sản xuất theo quy trình GACP - WHO (Thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới). Sau gần 20 năm bền bỉ gây dựng, trang trại của gia đình ông giờ đây được quy hoạch bài bản, khang trang với vườn đinh lăng trồng xen canh cây ăn quả, khu ao nuôi cá, được chọn là vườn kiểu mẫu, đón nhiều đoàn khách đến tham quan. Trung bình mỗi năm, gia đình ông xuất bán 120 tấn củ, rễ đinh lăng cho Công ty cổ phần Traphaco. Với mô hình trồng, thu mua, sấy cây đinh lăng dược liệu kết hợp nuôi cá, sau khi trừ chi phí, mỗi năm, ông thu về khoảng 500 triệu đồng, tạo việc làm thường xuyên cho trên 20 lao động. Ông còn trực tiếp đứng ra bao tiêu sản phẩm đinh lăng cho nhiều hộ dân trong xã, đảm bảo đầu ra ổn định, tạo mối liên kết trong sản xuất theo chuỗi. Ở xóm Nam Châu, xã Hải Đông (Hải Hậu), anh Đinh Văn Thuận được nhiều người biết tiếng là một tỷ phú nông dân trẻ năng động, dám nghĩ, dám làm. Sau khi tốt nghiệp đại học, trải qua nhiều nghề, năm 2013, anh Thuận quyết định về quê lập nghiệp. Anh mạnh dạn thuê hơn 2ha đất ruộng, san lấp, cải tạo đất, đầu tư xây dựng hệ thống tưới tiêu, quy hoạch thành các vùng chuyên canh cây đinh lăng dư?c li?u ợc liệu kết hợp nuôi trồng thủy sản. Đến nay, trang trại của anh đã mở rộng với diện tích gần 4ha trồng đinh lăng, thu nhập mỗi năm hàng tỷ đồng. Còn tại xóm Mỹ Hòa, xã Hải Giang (Hải Hậu) những năm qua, Hợp tác xã kinh doanh dịch vụ Liên Minh cũng mang lại thu nhập ổn định cho thành viên và nhiều lao động nữ nông nhàn tại địa phương. Nhận thấy điều kiện thuận lợi để phát triển cây dược liệu cũng như nhu cầu tiêu thụ lớn của thị trường, các thành viên hợp tác xã đã phát triển trồng cây dược liệu, sản xuất rượu đinh lăng theo mô hình liên kết sản xuất chuỗi giá trị. Sản phẩm rượu thuốc đinh lăng hiện đã có mặt ở thị trường trong tỉnh và một số tỉnh lân cận.

Với thế mạnh về phát triển cây dược liệu, Hải Hậu là một trong 2 huyện của tỉnh được chọn thực hiện Dự án “Phát triển các hoạt động thương mại sinh học trong lĩnh vực hợp chất tự nhiên tại Việt Nam” (BioTrade) ở nội dung: Phát triển dược liệu đinh lăng theo tiêu chuẩn hướng dẫn thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc của Tổ chức Y tế thế giới (GACP-WHO). Đến nay, hầu hết các xã trong huyện đều trồng cây đinh lăng với diện tích ngày càng được mở rộng, tập trung chủ yếu tại các xã Hải Ninh, Hải Quang, Hải Châu, Hải Giang, Hải Lộc, Hải Đông, Hải Hà... Đồng thời, công tác quy hoạch vùng phát triển dược liệu đinh lăng theo hướng bền vững nhằm cung cấp nguồn nguyên liệu ổn định cho các Công ty dược liệu và nâng cao thu nhập cho người dân ngày càng được quan tâm. Nhiều hộ tận dụng đất chuyển đổi, đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng đinh lăng kết hợp với chăn nuôi thủy hải sản mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tiêu biểu như cơ sở nuôi thủy sản và trồng cây dược liệu của gia đình chị Phạm Thị Chiên ở xóm 10, Phú Lễ, xã Hải Châu (Hải Hậu) đã chuyển đổi 1,5 mẫu đất trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi cá diêu hồng và trồng cây đinh lăng dược liệu, cho thu nhập từ 250-300 triệu đồng/năm. Sản phẩm của cơ sở cung cấp cho các công ty, doanh nghiệp tại Hà Nội, Hải Phòng… Hiện cơ sở đang tạo việc làm cho 35 lao động nữ tại địa phương với mức thu nhập mỗi lao động từ 8-12 triệu đồng/tháng. Hay cơ sở sản xuất cây đinh lăng dược liệu của chị Trần Thị Oanh, xóm 12, xã Hải An cung cấp nguồn dược liệu cho Công ty cổ phần Traphaco; tạo việc làm cho 30-40 lao động có việc làm thường xuyên với mức thu nhập từ 5-6 triệu đồng/người/tháng. Doanh thu của cơ sở đạt 500-550 triệu đồng/năm.

Chủ trương phát triển cây dược liệu là một trong 3 cây trồng chính trong Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp của huyện Hải Hậu đã mở ra hướng đi mới trong sản xuất nông nghiệp, nâng cao giá trị trên một diện tích canh tác, giúp nhiều nông dân vươn lên làm giàu, góp phần xây dựng nông thôn mới bền vững, phát triển./.

Bài và ảnh: Lam Hồng

Cà phê Tây Nguyên: Mất mùa, mất cả… giá

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Người dân Tây Nguyên đang bước vào vụ thu hoạch cà phê với tâm trạng bộn bề lo lắng khi giá giữ ở mức thấp, còn chi phí sản xuất ngày càng tăng cao. Việc lựa chọn mô hình sản xuất mới để tăng năng suất cho cà phê được nhiều địa phương tính đến.

Nhiều nhà vườn tại TP Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) có năng suất cà phê giảm khoảng 30%. Ảnh: ĐÔNG NGUYÊN

Người trồng không có lời

Hiện nay, cà phê ở Tây Nguyên bắt đầu chín rộ, người dân tất bật thu hoạch. Do thời tiết không thuận lợi nên sản lượng cà phê tại một số vùng giảm mạnh. Trong khi đó, giá cà phê năm nay lại quá thấp. Tập trung thu hái những cây cà phê cuối cùng trong vườn, ông Phạm Tiên (xã Quảng Tiến, huyện Cư M’gar, tỉnh Đăk Lăk), cho biết: “Gia đình tôi có gần 1ha đất, trồng cà phê từ năm 1998 đến nay. Dù đã đầu tư, chăm bón rất kỹ nhưng những năm gần đây vườn cà phê đạt năng suất không như mong muốn. Nếu như mọi năm thu được trên 3 tấn nhân, thì năm nay chỉ thu được gần 2 tấn. Sản lượng thu được không bù nổi chi phí đầu tư, công chăm sóc cả năm”.

Chung cảnh ngộ, ông Nguyễn Hoàng Vũ (xã Hòa Thắng, TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) cho biết, gia đình ông có 1,5ha cà phê, năm nay sản lượng giảm gần 30% nên chỉ thu được chưa đến 3 tấn nhân. Chi phí cho tưới, phân bón, nhân công trung bình mỗi năm 50-60 triệu đồng/ha. Trong đó, tiền trả nhân công, phân bón mỗi năm đều tăng, nhưng giá cà phê lại nằm ở mức quá thấp khiến nông dân không có lãi, thậm chí không đủ để tái đầu tư lâu dài cho cây trồng này.

Tại Lâm Đồng, dù trong những năm gần đây, một diện tích lớn cà phê đã được áp dụng tái canh, ghép cải tạo giúp tăng năng suất, nhưng giá cà phê nhiều năm đứng ở mức thấp khiến nhiều người dân không còn coi đây là cây trồng được ưu tiên. Gia đình anh Nguyễn Văn Hoàng (xã Phúc Thọ, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng) vừa thu hoạch xong 1,7ha cà phê, sản lượng khoảng 6 tấn cà phê tươi. So với những năm trước, sản lượng trên đã cải thiện đáng kể nhờ một phần diện tích đã được trồng cải tạo. Tuy nhiên, niềm vui xen lẫn lo toan, khi cà phê vừa hái xong đã được chủ cửa hàng phân bón tới thu mua với giá bán ở mức 33.000 đồng, sau khi trừ đi tiền phân bón thì không còn bao nhiêu. Anh Hoàng cho biết: “Đầu tư nặng nhất là 4 đợt bón phân hết khoảng 90 triệu đồng, tiền thuê người hái cuối vụ cũng hết 25 triệu đồng. Nếu công chăm sóc, làm cỏ… mà thuê ngoài thì có bán hết số cà phê thu hoạch cũng không bù được chi phí sản xuất”. Để vượt qua giai đoạn khó khăn này, anh Hoàng chuyển đổi 4.000m2 sang trồng lagim (rau củ) nhưng hiệu quả không cao, chỉ đủ trang trải cuộc sống.

Đẩy mạnh hỗ trợ tái canh

Theo bà Vũ Thị Thanh Bình, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Đắk Lắk, diện tích cà phê trên toàn tỉnh khoảng 203.000ha, dự kiến sản lượng niên vụ 2019-2020 đạt 465.000 tấn. Tuy nhiên, do diện tích cà phê già cỗi trên toàn tỉnh còn nhiều, diễn biến của thời tiết không thuận lợi, nắng hạn kéo dài nên sản lượng giảm hơn so với dự kiến. “Hiện nay, sản phẩm từ cà phê được sản xuất theo hướng hữu cơ đang được thị trường ưa chuộng. Trên địa bàn đã có nhiều doanh nghiệp chế biến sâu, hợp tác thu mua cà phê sản xuất theo hướng này với giá cao hơn giá thị trường. Hướng đi này cũng giúp bà con giảm được chi phí nhân công…”, bà Bình cho biết thêm.

Lâm Đồng những năm qua là điểm sáng trong việc thực hiện tái canh cây cà phê, phần nào bù đắp được sức ép về giá xuống thấp. Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Lâm Đồng Nguyễn Văn Châu cho biết: “Nhờ tiến hành ghép cải tạo, tái canh tốt với diện tích hơn 73.180ha, đưa năng suất bình quân toàn tỉnh từ 26,1 tạ/ha (năm 2012) hiện tại lên 32,5 tạ/ha, phần nào bù vào khoảng hụt về giá. Toàn tỉnh hiện đang trồng 174.142ha, sản lượng 516.602 tấn (năm 2018 đạt 507.782 tấn). “Những năm gần đây, địa phương khuyến khích người dân tại các vùng có nguồn nước ít, đất dốc, chuyển đổi sang cây trồng khác nhưng vẫn đảm bảo được diện tích cà phê theo kế hoạch trồng hàng năm. Về lâu dài, tỉnh tiếp tục hỗ trợ người dân thực hiện trồng xen cây ăn quả như bơ, sầu riêng, mắc ca, măng cụt vừa tăng thu nhập trên đơn vị diện tích, đồng thời cũng phát triển cây tạo tán bổ trợ cho cà phê phát triển”, ông Châu phân tích.

Ngành nông nghiệp tỉnh Đắk Lắk khuyến cáo bà con nên tái canh, thay đổi diện tích cà phê cũ bằng các giống cà phê mới có năng suất cao hơn, khả năng chống chịu hạn, sâu bệnh hại tốt hơn. Bên cạnh đó, bà con nên thay đổi tư duy trồng cà phê theo kiểu truyền thống bằng cách sản xuất theo hướng hữu cơ để đạt tiêu chuẩn chất lượng.

ĐOÀN KIÊN - ĐÔNG NGUYÊN

Thoát nghèo từ những mô hình sản xuất, chăn nuôi hiệu quả ở Quảng Ngãi

Nguồn tin:  VOV

Tỉnh Quảng Ngãi đã triển khai hiệu quả và nhân rộng nhiều mô hình hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng sinh kế thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cho hàng trăm hộ dân.

Tại tỉnh Quảng Ngãi, việc nhân rộng các dự án hỗ trợ sinh kế và mô hình giảm nghèo đã phát huy hiệu quả. Từ đó, thay đổi rõ nét nếp nghĩ cách làm của người dân, tránh tư tưởng trông chờ ỷ lại vào sự hỗ trợ hoàn toàn của Nhà nước. Đó là nhờ có sự tham gia của nhiều phía từ người dân, chính quyền đến doanh nghiệp.

Mấy năm trước, gia đình bà Phạm Thị An, ở thôn Nước Y, xã Ba Vinh, huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi thuộc diện hộ nghèo. Từ nguồn hỗ trợ 10 triệu đồng của nhà nước và 5 triệu đồng vốn đối ứng của gia đình, bà Phạm Thị An đã chọn mua 1 con trâu giống. Được cán bộ thú y hướng dẫn tận tình, sau thời gian nuôi, đến nay con trâu giống chóng lớn, mạnh khỏe. Từ những kinh nghiệm chăn nuôi học được, bà Phạm Thị An biết cách chăm sóc, mở rộng đàn trâu nhà gần chục con, từ đó vươn lên thoát nghèo. “Trâu nuôi được vệ sinh sạch sẽ, tiêm phòng đầy đủ. Bây giờ gia đình tôi đã thoát nghèo, không còn hộ cận nghèo nữa”, bà An cho biết.

Nhiều hộ dân ở huyện miền núi Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi thoát nghèo nhờ chăn nuôi.

Tại huyện Ba Tơ, các hộ gia đình tham gia mô hình giảm nghèo được chính quyền họp dân chọn lựa. Bà con tham gia mô hình phải có kế hoạch sản xuất kinh doanh và cam kết thoát nghèo với địa phương. Tùy vào hoàn cảnh từng gia đình, mỗi hộ tham gia mô hình được nhận hỗ trợ từ 5 đến 10 triệu đồng mua gia súc, gia cầm phát triển chăn nuôi.

Ông Phạm Văn In, Phó Chủ tịch UBND xã Ba Vinh, huyện Ba Tơ cho biết, trong quá trình triển khai thực hiện mô hình giảm nghèo đều có cán bộ xã, thôn hướng dẫn, giám sát. “Khi cam kết, người dân có trách nhiệm phải phấn đấu thoát nghèo. Thời gian qua, khi triển khai chương trình, bà con có ý thức vươn lên xóa đói, giảm nghèo”, ông In nói.

Nhiều năm nay, mô hình liên kết theo nhóm hộ chăn nuôi, sản xuất tiêu thụ nông sản ở miền núi Sơn Hà đã góp phần nâng cao thu nhập, xóa đói, giảm nghèo cho người dân địa phương. Từ năm 2016 đến nay, từ nguồn lực hỗ trợ của các chương trình 30a; 135; chương trình giảm nghèo khu vực Tây Nguyên… địa phương đã đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ người dân xây dựng các mô hình nông nghiệp theo chuỗi giá trị hàng hóa, kết nối tiêu thụ nông sản, mở ra hướng tiêu thụ bền vững và tạo nguồn thu nhập ổn định cho người dân. Trong 5 năm, hơn 2.200 hộ dân đã thoát nghèo.

Ông Phùng Tô Long, Phó Chủ tịch UBND huyện Sơn Hà cho biết, huyện Sơn Hà được đưa ra khỏi danh sách những huyện nghèo của cả nước. “Chúng tôi hỗ trợ theo hướng cầm tay chỉ việc. Hỗ trợ vật tư, đầu vào, kiến thức chăn nuôi trồng trọt và kiến thức về thị trường. Sau đó, chúng tôi xây dựng đội ngũ truyền thông, liên kết thị trường… để giúp các hộ nông dân tiêu chuẩn hóa các sản phẩm. Đặc biệt là việc kiểm định xây dựng thương hiệu để giới thiệu cho khách hàng, đối tác”, ông Long cho hay.

Tỉnh Quảng Ngãi đã triển khai hiệu quả và nhân rộng nhiều mô hình hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng sinh kế thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững cho hàng trăm hộ dân. 5 năm qua, nhiều chính sách giảm nghèo được tỉnh Quảng Ngãi triển khai kịp thời với những cách làm mới, hiệu quả.

Mô hình nuôi trâu thịt mang lại hiệu quả, giúp nhiều hộ dân ở huyện Ba Tơ thoát nghèo.

Cụ thể, không hỗ trợ 100% vốn, cây con giống như trước mà bắt buộc các hộ dân phải đóng góp theo hình thức đối ứng. Từ đó, người dân không còn trông chờ ỷ lại vào sự hỗ trợ hoàn toàn từ các chính sách của Nhà nước. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo ở tỉnh Quảng Ngãi đến nay giảm xuống còn khoảng 6%.

Ông Võ Phiên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi cho rằng, để các mô hình giảm nghèo phát huy hiệu quả và bền vững, phải có sự tham gia của chính quyền, doanh nghiệp, nhất là ý thức vươn lên của từng hộ dân.

“Tỉnh hỗ trợ về cơ chế, chính sách, hồ sơ, thủ tục... làm “bà đỡ” ban đầu; hỗ trợ các mô hình để làm bước đệm cho người nông dân trong việc hình thành chuỗi liên kết sản xuất. Chúng tôi hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp, công nghệ cao, an toàn… Doanh nghiệp cũng sẽ là cầu nối để tiêu thụ sản phẩm cho người nông dân", ông Phiên thông tin thêm./.

Vinh Thông/VOV-Miền Trung

Bến Tre: Thạnh phú ra mắt Câu lạc bộ nông dân tỷ phú huyện

Nguồn tin:  Báo Đồng Khởi

Ngày 9-1-2021, tại xã Thạnh Phong, Hội Nông dân huyện Thạnh Phú (tỉnh Bến Tre) tổ chức lễ công bố quyết định thành lập Câu lạc bộ (CLB) Nông dân tỷ phú huyện Thạnh Phú. Bí thư Tỉnh ủy Phan Văn Mãi, Bí thư Huyện ủy Thạnh Phú Lê Văn Khê, đại diện lãnh đạo Công ty cổ phần Chăn nuôi CP Việt Nam, lãnh đạo các sở, ban ngành tỉnh, thành viên CLB Nông dân tỷ phú các huyện.

Ra mắt CLB nông dân tỷ phú Thạnh Phú.

CLB Nông dân tỷ phú huyện Thạnh Phú có 26 thành viên, hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp thế mạnh của địa phương như: trồng trọt, nuôi và chế biến thủy sản: tôm biển, nghêu, sò, vọp, cua… CLB là một hình thức tập hợp nông dân liên kết sản xuất, kinh doanh giỏi đạt doanh thu từ 1 tỷ đồng/năm trở lên, là mô hình hoạt động của Hội Nông dân huyện Thạnh Phú, sinh hoạt định kỳ 2 tháng/lần xoay vòng tại nhà các thành viên.

CLB ra đời nhằm tạo diễn đàn cho nông dân tỷ phú giao lưu, trao đổi kinh nghiệm, liên kết giúp đỡ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh tham gia, góp phần phát triển kinh tế - xã hội huyện Thạnh Phú. Tạo điều kiện để các thành viên tham quan mô hình điển hình tiên tiến, mở rộng quan hệ hợp tác với các CLB trong và ngoài huyện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của các thành viên CLB.

Phát biểu tại buổi ra mắt CLB, Bí thư Tỉnh ủy Phan Văn Mãi chúc mừng CLB Nông dân tỷ phú Thạnh Phú vừa ra mắt với số lượng thành viên đông nhất trong các CLB Nông dân tỷ phú trong tỉnh. Bí thư Tỉnh ủy bày tỏ mong muốn, sau khi ra mắt, CLB sẽ mở rộng và phát triển trong thời gian tới. Từng thành viên CLB phát triển lên thành quy mô, giá trị sản xuất và lợi nhuận của mình. Phát triển thu hút thêm nhiều hội viên mới và đạt doanh số ngày càng cao hơn. Thực tế đã có rất nhiều nông dân thu lợi nhuận trên 1 tỷ đồng/năm. Do vậy cần mạnh dạn phát triển CLB, mở rộng thành viên ở tất cả các lĩnh vực; cùng nhau làm theo cách mới, hỗ trợ nhau tiếp cận khoa học kỹ thuật, tạo ra giá trị gia tăng, không chỉ tính quy mô trên diện tích như trước đây mà phải tính đến hiệu quả trên đơn vị diện tích làm ra, cả hướng tới chế biến, xuất khẩu. Thành viên CLB nên hợp tác, cởi mở, chia sẻ kinh nghiệm với nhau. Các CLB các huyện, thành phố nên tập trung xây dựng một số chuỗi sản phẩm chủ lực của mình, xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu đặc sản thế mạnh của từng vùng, địa phương.

Tin, ảnh: Thiên Kim

Hậu Giang: Giá trứng vịt ở mức thấp

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Thị trường trứng gia cầm trong năm 2020 không có nhiều khởi sắc, bởi giá trứng giữ ở mức thấp. Nếu như mọi năm khoảng cuối tháng 11 âm lịch giá trứng gia cầm sẽ bắt đầu tăng theo thị trường Tết Nguyên đán thì hiện nay giá trứng vịt vẫn chưa có chuyển biến. Người chăn nuôi cho biết, trứng vịt hiện được bán với giá khoảng 1.700 đồng/trứng. Với mức giá này, người chăn nuôi không có lời hoặc thua lỗ bởi chi phí thức ăn đang tăng rất cao.

Người chăn nuôi đối mặt nỗi lo thua lỗ, bởi giá trứng quá thấp, chi phí thức ăn chăn nuôi cao.

Bà Ngô Thị Bế, ở ấp 5, xã Vị Đông, huyện Vị Thủy (tỉnh Hậu Giang), cho hay: “Giá trứng trong năm thấp nhất là 1.200-1.300 đồng, cao nhất cũng chỉ 1.800 đồng/trứng. Năm nay, giá thức ăn tăng đến lần thứ 3 rồi, còn giá trứng vịt thì vẫn giậm chân tại chỗ nên người nuôi khó cầm cự. Đồng thời không phải lúc nào cũng có để đưa đàn đi ăn, nhưng cứ để đàn ở nhà thì mỗi ngày mỗi thua lỗ.

Tin, ảnh: KỲ ANH

Lào Cai: Tăng cường các biện pháp bảo vệ đàn gia súc

Nguồn tin: Báo Lào Cai

Những ngày này, trên địa bàn tỉnh xảy ra đợt rét đậm, rét hại, kèm theo sương muối. Các ngành chức năng và chính quyền địa phương cùng nhân dân đang tích cực thực hiện nhiều giải pháp phòng, chống rét nhằm bảo vệ đàn gia súc.

Có mặt tại xã Y Tý, huyện Bát Xát (tỉnh Lào Cai), thời tiết ở đây rét buốt, mây mù phủ trắng các ngọn núi, gió lùa từng cơn buốt giá. Mặc cho mưa rét thấu xương, các hộ dân vẫn đi cắt cỏ, che chắn chuồng nuôi bảo vệ “đầu cơ nghiệp” của gia đình. Để bảo vệ tài sản của gia đình trong những ngày mưa rét, hộ ông Hầu A Cừ, thôn Ngải Chồ chủ động nuôi nhốt trâu trong chuồng, các thành viên trong gia đình thay nhau đi cắt cỏ cho trâu. Cùng với đó, gia đình còn nấu cám ngô với quả thảo quả cho ăn nhằm tăng sức đề kháng, giúp đàn trâu có sức khỏe để vượt qua những ngày đông rét buốt.

Người dân xã Y Tý dự trữ thức ăn cho gia súc.

Xã Y Tý hiện có trên 200 con gia súc, rút kinh nghiệm các năm trước, xã đã chủ động chuẩn bị phòng, chống rét, dự trữ thức ăn cho đàn gia súc ngay từ đầu mùa đông. Theo đó, xã đã chỉ đạo các thôn, tuyên truyền vận động nhân dân dự trữ rơm, bi ngô, cỏ khô, tu sửa chuồng nuôi. Cán bộ xã đi đến từng thôn, hộ chăn nuôi để hướng dẫn người dân kỹ thuật ủ cỏ làm thức ăn cho gia súc, phương pháp chăm sóc, phòng bệnh cho gia súc trong những ngày rét đậm, rét hại.

Ông Hà Ngọc Linh, Phó Chủ tịch UBND xã Y Tý cho biết: Để bảo vệ đàn gia súc trước trận “đại hàn” của mùa đông năm nay, người dân đã chủ động nuôi nhốt trâu, bò trong chuồng, tích trữ rơm, cỏ khô, trồng cỏ voi làm thức ăn, mua bạt ni lông che, chắn chuồng để chống rét. Nhiều hộ chủ động nấu nước thảo quả, nấu cám ngô với thảo quả cho trâu ăn để tăng sức đề kháng, dùng vải dày, chăn bông cũ buộc vào chân trâu, bò để chống cước chân.

Người dân thị xã Sa Pa di chuyển đàn trâu đi tránh rét.

Tại thị xã Sa Pa, ngay từ đầu mùa đông, UBND thị xã đã chỉ đạo các phòng, ban chuyên môn phối hợp với các địa phương tuyên truyền, vận động nhân dân chuẩn bị phòng, chống rét và dự trữ thức ăn cho gia súc. Các thành viên Ban Chỉ đạo Phòng, chống rét cho gia súc của thị xã đã trực tiếp xuống các xã, phường để kiểm tra, tuyên truyền, hướng dẫn người dân che chắn chuồng nuôi, sưởi ấm và chủ động nguồn thức ăn cho gia súc. Đồng thời yêu cầu các xã, phường kiên quyết không để người dân chăn thả trâu, bò khi nhiệt độ ngoài trời dưới 10 độ C. Thực hiện chỉ đạo của thị xã, các xã, phường: Hàm Rồng, Trung Chải, Tả Phìn, Ngũ Chỉ Sơn… đã di chuyển đàn trâu đến những nơi có nhiệt độ ấm hơn tránh rét. Để tránh thiệt hại, người dân thị xã Sa Pa vẫn đang nỗ lực thực hiện các biện pháp kỹ thuật theo hướng dẫn của cán bộ nông nghiệp để bảo vệ “đầu cơ nghiệp” của gia đình.

Còn tại huyện Mường Khương, nơi có đàn trâu, bò trên 18.000 con đang được người dân cẩn trọng bảo vệ qua mùa đông. Mọi biện pháp phòng, chống rét cho đàn gia súc được huyện chủ động triển khai tuyên truyền, vận động đến nông dân ngay từ khi chớm đầu mùa đông. Các khuyến nông viên, thú y cơ sở được tăng cường công tác bám nắm địa bàn, vận động, hướng dẫn các hộ chăn nuôi các biện pháp phòng, chống rét cho gia súc như gia cố, che chắn chuồng trại, dự trữ thức ăn và sưởi ấm cho gia súc khi rét đậm, rét hại.

Ngoài ra, huyện Mường Khương còn vận động hộ dân tích cực trồng cỏ, ngô trên diện tích đất trống để làm thức ăn cho gia súc. Đến nay, 100% gia súc trên địa bàn huyện đã được tiêm phòng đợt 2; trên 3.100 hộ (chiếm 75%) có chuồng trại đảm bảo phòng, chống rét; không có hộ thả rông gia súc. Có trên 4.300 hộ chăn nuôi (chiếm 93% tổng số hộ chăn nuôi toàn huyện) đã dự trữ thức ăn đáp ứng 50% – 90% nhu cầu thức ăn cho gia súc trong mùa đông. Diện tích trồng cỏ đạt 250 ha, diện tích trồng ngô dày gần 5 ha.

Người dân Mường Khương chủ động che chắn chuồng nuôi gia súc

Những ngày này, các thành viên trong gia đình bà Sùng Doa, xã La Pan Tẩn (Mường Khương) gác lại mọi công việc khác để tập trung chăm sóc 3 con trâu, tài sản lớn nhất của gia đình. Mỗi người một việc, con trai lớn đi cắt cỏ, chồng thì che chắn chuồng nuôi, đốt lửa sưởi ấm cho trâu, còn bà thì nấu cám ngô cho trâu. Bà Doa chia sẻ: Những ngày đầu của mùa đông, khi cỏ tự nhiên vẫn còn thì tranh thủ đi cắt làm thức ăn cho trâu. Giữa mùa đông thì cho ăn rơm khô, bi ngô dự trữ. Ngoài ra cần bổ sung thức ăn tinh bột như cám ngô, cám gạo nấu, cho uống nước muối loãng để tăng cường sức khỏe cho đàn trâu.

Ông Nguyễn Kiên Cường, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Mường Khương cho biết: Ngành nông nghiệp và chính quyền địa phương đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn người dân phòng, chống rét và dịch bệnh cho vật nuôi rất tích cực. Để bảo vệ đàn gia súc khi nhiệt độ xuống thấp, cán bộ nông nghiệp và các địa phương vận động các gia đình mua bạt để che mái, quây xung quanh chuồng chống gió lùa. Hiện, các hộ dân đang tích cực lo đủ thức ăn, đảm bảo nền chuồng khô ráo để gia súc vượt qua được đợt rét đậm này.

Theo dự báo, đợt rét đậm, rét hại này còn kéo dài, người dân vùng cao các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh đang nỗ lực chăm sóc, bảo vệ đàn gia súc.

Kim Thoa

Ninh Thuận: Phát triển chăn nuôi theo chuỗi liên kết ứng dụng công nghệ sinh học

Nguồn tin: Báo Ninh Thuận

Năm 2020, vượt qua khó khăn của dịch bệnh trên đàn gia súc, nắng hạn, ngành Chăn nuôi thành công toàn diện. Trước tình hình đồng cỏ tự nhiên ngày càng bị thu hẹp, một số hộ chuyển sang áp dụng mô hình chăn nuôi bò bán thâm canh, bò vỗ béo, đầu tư trồng cỏ áp dụng công nghệ tưới nước tiết kiệm trên diện tích hơn 350 ha, bổ sung thức ăn tinh, thức ăn công nghiệp và khoáng chất, lai tạo giống bò ngoại bằng thụ tinh nhân tạo để có thế hệ bò lai nuôi thương phẩm chất lượng, giá trị kinh tế cao.

Anh Lê Tấn Quý, khu phố 8, phường Phước Mỹ (Tp. Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận) gầy dựng được cơ sở nuôi bò vỗ béo với tổng đàn 200 con. Theo anh Quý, để mở rộng sản xuất trong điều kiện quỹ đất hạn hẹp, anh hợp đồng với nông dân trồng bắp làm thức ăn cho bò, mỗi tháng cung cấp cho thị trường 1 tấn thịt sạch, giải quyết việc làm thường xuyên cho 5 lao động có thu nhập ổn định. Không riêng gì anh Quý, các hộ áp dụng mô hình nuôi bò hướng thịt tăng mạnh. Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện trên địa bàn toàn tỉnh có 1.078 hộ nuôi bò bán thâm canh, bò vỗ béo với tổng đàn khoảng 23.247 con. Anh Trần Danh Trí ở xã Quảng Sơn (Ninh Sơn) là gương điển hình chăn nuôi giỏi, đầu tư 2,2 tỷ đồng xây khu chuồng trại khép kín có diện tích hơn 700 m2, trồng 3 ha cỏ voi áp dụng hệ thống tưới tự động nuôi bò vỗ béo với tổng đàn 90 con thuộc các giống bò lai Sind, bò vàng được đánh giá là đảm bảo vệ sinh môi trường.

Nông dân tận dụng đồng cỏ tự nhiên để chăn nuôi đàn cừu. Ảnh: Anh Tùng

Nhìn lại hoạt động chăn nuôi gia súc năm 2020, điểm sáng là đã hình thành các mối liên kết theo chuỗi giá trị. Ngoài chuỗi giá trị dê, cừu mà Cơ sở dê cừu Triệu Tín đang liên kết với 20 hộ ở xã Phước Thuận (Ninh Phước), xã Nhơn Sơn (Ninh Sơn) thực hiện, thì mô hình liên kết nuôi heo trang trại đã trở nên phổ biến. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 2 doanh nghiệp (Công ty Cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam, Công ty CJ VINA FOOD CO) liên kết chăn nuôi 50 trại heo; trong đó, 3 trại nuôi heo nái sinh sản với 5.400 nái, 47 trại nuôi heo thịt tổng đàn gần 4.000 con.

Các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ vi sinh trong chế biến thức ăn và xử lý môi trường chăn nuôi, đảm bảo vệ sinh môi trường và an toàn dịch bệnh. Một số trang trại áp dụng công nghệ nuôi heo khép kín, trong nhà lạnh, hạn chế tối đa dịch bệnh, sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Hiện nay các trang trại heo ở Ninh Sơn, Bác Ái, Ninh Phước đã áp dụng mô hình công nghệ xử lý chất thải bằng hầm biogas, sử dụng thu gom chất thải và tách ép thành phần hữu cơ.

Ông Trần Công Quang, Chi cục phó Chi cục Chăn nuôi và Thú y, cho biết: Việc triển khai ứng dựng công nghệ sinh học trong lĩnh vực chăn nuôi đã từng bước nâng cao giá trị của khâu giống, năng suất, chất lượng sản phẩm vật nuôi được nâng lên, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; đồng thời, làm thay đổi về phương thức, tập quán chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán, phụ thuộc vào đồng cỏ tự nhiên. Thời gian tới, ngành Chăn nuôi tiếp tục triển khai chương trình ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả công nghệ sinh học vào lĩnh vực cải tạo giống, nâng cao tỷ lệ bò lai, dê cừu lai. Nghiên cứu và phổ biến công nghệ chăn nuôi tiết kiệm nước nhằm tăng cường khả năng thu gom vật rắn của các trang trại để phục vụ sản xuất phân bón hữu cơ.

Anh Tùng

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop