Tin nông nghiệp ngày 12 tháng 10 năm 2020

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 12 tháng 10 năm 2020

Bắc Kạn: Na Rì mở rộng diện tích trồng hồng không hạt

Nguồn tin: Báo Bắc Kạn

Với mục tiêu tập trung phát triển mạnh cây ăn quả, hiện nay, ngoài cây cam, quýt, hồng không hạt là cây trồng mũi nhọn đã và đang được huyện Na Rì (tỉnh Bắc Kạn) chú trọng nhân rộng.

Ở xã Sơn Thành (Na Rì), bà con nhân dân đang dần khôi phục trồng hồng không hạt TL1. Hồng không hạt TL1 quả tròn, được đánh giá là ăn giòn, ngọt, nhưng hiện nay nhiều người tiêu dùng chưa biết nhiều đến loại quả này.

Là một trong những hộ đang khôi phục trồng giống hồng không hạt TL1, ông Hoàng Văn Việt, thôn Phiêng Cuôn, xã Sơn Thành cho biết: Giống hồng không hạt TL1 có từ thời ông cha, nhiều năm do chưa trở thành hàng hóa, giá trị không cao nên bà con dần bỏ quên. Những năm trở lại đây, thấy có giá trị kinh tế, giá bán trên thị trường 2 năm gần đây ổn định từ 20.000 - 25.000 đồng/kg, sản lượng không đủ cung cấp tại địa phương. Năm 2019, sản phẩm tham gia trưng bày giới thiệu tại Big C Hà Nội bán được 50.000 - 60.000 đồng/kg. Thấy bắt đầu có giá trị, gia đình ông Việt và nhiều hộ dân khác đã tự nhân giống trồng và cải tạo dần. Hiện nay, gia đình ông Việt trồng khoảng 600 cây, trong đó có trên 30 cây đã cho thu hoạch. Năm đầu bói quả năng suất đạt trên 16kg quả/cây, từ năm thứ 2 - 3 đạt 30kg trở lên/cây.

Sở KH&CN và cán bộ chuyên môn huyện Na Rì thăm vườn hồng không hạt TL1 tại thôn Phiêng Cuôn, xã Sơn Thành đang được phục tráng giống để mở rộng diện tích.

Trong thực hiện tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, huyện Na Rì chú trọng từng lĩnh vực, trong đó tập trung phát triển sản xuất nâng cao giá trị sản phẩm trên cơ sở phát huy lợi thế địa phương. Những năm qua, huyện tập trung phát triển một số loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như: Cam Xã Đoài, cam Đường Canh, quýt, bưởi da xanh, bưởi Diễn, hồng không hạt… Toàn huyện hiện có hơn 680ha cây ăn quả các loại, trong đó cây có múi (cam, quýt, bưởi) có trên 480ha. Theo tổng hợp của phòng chuyên môn huyện Na Rì, trong năm 2019, sản lượng cam, quýt của toàn huyện ước đạt trên 1.280 tấn, giá trị kinh tế đạt trên 19 tỷ đồng; sản lượng hồng không hạt đạt trên 28 tấn, giá trị kinh tế thu về hơn 550 triệu đồng...

Bên cạnh việc nâng cao năng suất, chất lượng cây ăn quả có múi, huyện Na Rì tiếp tục xây dựng giá trị thương hiệu cho hồng không hạt, tiến tới đưa loại cây ăn quả này vào nhóm sản phẩm OCOP của địa phương. Theo đó, tạo vùng sản xuất chuyên canh cây hồng không hạt, quy hoạch trồng tập trung, phấn đấu đến năm 2025 đạt diện tích 300ha theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện. Bên cạnh việc duy trì, cải tạo những diện tích đã có, huyện đang xây dựng đề tài, dự án để đánh giá, tuyển chọn cây đầu dòng, nhân giống, cải tạo, phục tráng giống hồng không hạt TL1 để nhân rộng diện tích; chú trọng tạo điều kiện cho bà con nông dân được tập huấn về kỹ thuật thâm canh, trồng và chăm sóc cây hồng không hạt.

Ông Phạm Ngọc Thịnh- Trưởng phòng NN&PTNT huyện Na Rì cho biết: Hồng không hạt được xác định là một trong những loại cây ăn quả chủ lực của huyện, đến nay đã phát triển được hơn 40ha. Toàn huyện hiện có trên 10ha hồng không hạt cho thu hoạch, vụ hồng năm 2020 đạt giá trị kinh tế hơn 1,2 tỷ đồng. Hồng không hạt là loại nông sản đặc sản, những năm gần đây được giới thiệu, quảng bá, người tiêu dùng đánh giá cao, giá bán ổn định, nhưng vẫn chưa vào được các siêu thị, cửa hàng lớn, chủ yếu vẫn là cung ứng tại địa phương. Bên cạnh đó, do người dân chưa chú trọng áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăm sóc cây khiến nhiều diện tích hồng không hạt trồng lâu năm dần bị thoái hóa, kém phát triển, năng suất, sản lượng thấp nên chưa phát huy giá trị kinh tế.

Để nâng cao giá trị thương hiệu, từng bước sản xuất hàng hóa đối với cây ăn quả nói chung, hồng không hạt nói riêng, bên cạnh việc mở rộng diện tích trồng, nâng cao năng suất, chất lượng, huyện tăng cường tham gia xúc tiến đầu tư, quảng bá, giới thiệu sản phẩm trong và ngoài tỉnh, liên kết với các hệ thống siêu thị lớn như Big C, CoopMart… để đưa sản phẩm hồng không hạt và các nông sản đặc sản địa phương vào hệ thống siêu thị trên toàn quốc./.

Tùng Vân

Trồng cây ăn quả theo quy trình VietGAP

Nguồn tin: Báo Bắc Ninh

Nhờ năng động, sáng tạo, chịu khó học hỏi nên từ 2,2 ha trang trại trồng cây ăn quả theo quy trình VietGAP, anh Nguyễn Đức Điệp ở xã Việt Hùng (Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) có thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm, trở thành địa chỉ tham quan, học hỏi cho nhiều hộ trồng cây ăn quả trong vùng.

Trước khi bén duyên với cây ăn quả, vợ chồng anh Nguyễn Đức Điệp từng làm trang trại chăn nuôi và ao cá hơn 10 năm. Tuy nhiên do giá cả, dịch bệnh bấp bênh nên trang trại chăn nuôi của gia đình anh gặp rất nhiều khó khăn và hiệu quả kinh tế không cao. Đầu năm 2017, anh quyết định thuê 2,2ha khu đất trũng của xã để trồng cây ăn quả. Ban đầu, vợ chồng anh chia khu, đắp bờ chắn nước, cải tạo lại để phục vụ công tác tưới tiêu cho mô hình; trồng 800 cây ổi (giống ổi Đài Loan), 400 cây mít Thái siêu sớm. Hơn một năm sau anh tiếp tục thuê thêm 3ha đất ruộng (đất 5%) cấy lúa không hiệu quả của người dân để mở rộng diện tích và trồng thêm 600 cây mít, 700 cây ổi và 600 cây bơ với quyết tâm bứt phá lên từ mô hình này. Khi mới chuyển đổi mô hình, anh gặp phải không ít khó khăn do nguồn vốn ít, kinh nghiệm trồng cây ăn quả chưa có, nguồn thu lại không có ngay nhưng vợ chồng anh vẫn cố gắng từng ngày chăm sóc, tìm hiểu, học tập kinh nghiệm chăm sóc qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các mô hình khác trong và ngoài tỉnh.

Sau gần 1 năm, 800 gốc ổi của anh bắt đầu cho thu hoạch với sản lượng hơn 30 tấn, giá bán trung bình từ 13.000-14.000đồng/kg, gia đình anh thu được gần 400 triệu đồng. Anh Điệp cho biết: “Cây ổi cũng kén người trồng, muốn có quả đẹp, chất lượng ngon phải tìm tòi học hỏi để làm chủ khoa học - kỹ thuật, từ cắt tỉa cành đến chăm sóc, phòng bệnh cho cây. Nếu để nhiều cành sẽ không tập trung dinh dưỡng để nuôi quả; cây ra quả muộn, xấu dẫn đến chất lượng không cao. Khi cây phát triển khoảng 1m phải bấm ngọn, tỉa cành. Để quả đạt chất lượng cao nhất cần chú ý đến thời điểm bón lót, bón thúc. Từ tháng 4 đến tháng 6, quả hay bị táp do gió nên thời điểm này can thiệp kỹ thuật để cây nghỉ ra quả, chuẩn bị cho vụ mới quả sẽ nhiều và ngọt hơn. Thời kỳ cây ra quả được 15-20 ngày cần tiến hành bao quả bằng loại túi xốp chuyên dụng để hạn chế tối đa côn trùng gây hại, quả không bị bám bụi bẩn giúp bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, không làm cho vỏ bị trầy xước khi thu hoạch, tạo mẫu mã quả sáng bóng, mượt mà và lớn nhanh, tăng năng suất. Đặc biệt đến tháng 11-2019, sản phẩm Ổi lê Đài Loan của gia đình được cấp giấy chứng nhận VietGAP, qua đó mở rộng được thị trường tiêu thụ và giá bán ổn định hơn”.

Vừa qua, mít Thái siêu sớm tại vườn nhà anh cũng đã bắt đầu thu hoạch, sản lượng khoảng 4 tấn bán ra thị trường với giá 25.000 đồng/kg, thu nhập gần 100 triệu đồng. Hiện tại anh cũng đang xây dựng quy trình sản xuất và hoàn thiện những thủ tục cuối cùng để sản phẩm mít đủ tiêu chuẩn cấp giấy chứng nhận VietGAP. Trong thời gian tới nếu có thể tích tụ được ruộng đất anh sẽ mở rộng diện tích sản xuất và xây dựng thành vùng sản xuất cây ăn quả VietGAP tập trung giúp nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ. Cùng với đó, anh đang xây dựng chuỗi liên kết với các doanh nghiệp, siêu thị để tìm đầu ra ổn định cho sản phẩm.

Nguyễn Công Cường - Trung tâm Khuyến nông và PTNN Công nghệ cao

Thu nhập tiền tỷ nhờ đa dạng hóa cây trồng

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Gia đình chị Hồ Thị Cảnh (thôn 8, xã Cư Dliê M’nông, huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk) có 10 ha đất sản xuất. Trước đây, trên diện tích này gia đình chị chỉ trồng độc canh cây cà phê. Tuy vườn cây được chăm sóc tốt, năng suất, sản lượng cà phê đạt cao nhưng hiệu quả kinh tế khá bấp bênh, không ổn định, trong khi chi phí đầu tư cho vườn cây ngày càng tăng cao.

Sau nhiều lần nghiên cứu, tìm tòi và học hỏi, năm 1998 chị Cảnh mạnh dạn đầu tư mua hơn 300 cây sầu riêng giống Dona Techno về trồng xen trong vườn cà phê. Lần lượt những năm sau đó, chị tiếp tục đầu tư xen trong vườn cà phê hơn 1.000 trụ hồ tiêu, gần 100 cây bơ. Chị còn chịu khó nghiên cứu, học hỏi áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào vườn cây của mình nên vườn cây luôn phát triển tốt và cho thu nhập cao.

Chị Cảnh chăm sóc vườn sầu riêng.

Thấy lợi nhuận cao từ mô hình đa cây, năm 2019 chị Cảnh quyết định đầu tư thuê thêm 10 ha đất trong thời gian 50 năm để trồng thêm 2.000 cây sầu riêng, 1.000 cây na Thái và 1.000 cây mít Thái. Đồng thời chị còn cải tạo 3 ha cà phê già cỗi bằng phương pháp ghép chồi với giống cà phê TR4.

Hiện nay, mỗi năm gia đình chị Cảnh thu được trên 20 tấn cà phê, 20 tấn sầu riêng, từ 3 - 4 tấn bơ, 5 tấn hồ tiêu và một số loại cây ăn quả khác đang thu bói… Tổng thu nhập mỗi năm của gia đình chị đạt trên 1 tỷ đồng (sau khi đã trừ chi phí).

Ông Võ Tá Cúc, Chủ tịch Hội Nông dân xã Cư Dliê M’nông nhận xét: “Gia đình chị Hồ Thị Cảnh những năm qua đều đạt danh hiệu nông dân sản xuất giỏi cấp tỉnh. Mô hình kinh tế của gia đình chị Cảnh thu hút rất nhiều hội viên nông dân đến tham quan, học tập”.

H’Xiu Êban

Bình Phước: Ngọt ngào mùa nhãn Thanh Lương

Nguồn tin: Báo Bình Phước

Đến hẹn lại lên, cứ vào thời điểm này hằng năm, các hộ dân xã Thanh Lương, TX. Bình Long (Bình Phước) lại tất bật vào mùa thu hoạch nhãn. Người dân rất phấn khởi vì năm nay nhãn được mùa, được giá, đặc biệt đang trong thời gian khó khăn do ảnh hưởng dịch Covid-19.

Mùa nhãn ngọt

Thanh Lương là vựa nhãn lớn nhất của tỉnh và đang bước vào vụ thu hoạch chính. Vườn nhãn 3 ha của gia đình chị Bùi Thị Dung (ấp Thanh An) thu hoạch được hơn 30 tấn, ước năng suất cao hơn vụ mùa năm vừa qua. Theo chị Dung, đầu mùa giá nhãn dao động từ 13-14 ngàn đồng/kg, có thời điểm giảm sâu chỉ còn khoảng 7-8 ngàn đồng/kg. Tuy nhiên giá này chỉ kéo dài vài ngày rồi trở lại 15-17 ngàn đồng/kg, có thời điểm lên đến 20 ngàn đồng/kg. Vì vậy, nông dân rất phấn khởi vì nhãn được mùa lại được giá.

Niềm vui của chị Bùi Thị Dung, ấp Thanh An khi nhãn được mùa, được giá

Còn gia đình ông Vũ Mạnh Từ ở ấp Thanh An có 300 gốc nhãn với diện tích gần 2 ha. Theo ông Từ, vụ mùa năm qua, sau khi trừ chi phí gia đình ông lời hơn 160 triệu đồng. Năm nay, vườn nhãn gia đình ông ước đạt 20 tấn, với giá như hiện nay thì sau khi trừ chi phí gia đình ông lời trên 200 triệu đồng. Tương tự, gia đình anh Vũ Huy Học (tổ 5, ấp Thanh An) có 3 ha nhãn, sản lượng năm nay ước đạt hơn 30 tấn nhãn tươi. Vụ năm nay được xem là mùa nhãn “ngọt” đối với nông dân nơi đây. Anh Học cho biết, giá nhãn trung bình trên 12 ngàn đồng/kg thì nhà nông đã có lời. So với mùa vụ năm trước, giá nhãn năm nay trung bình cao hơn 3-4 ngàn đồng, thậm chí có thời điểm giá lên đến 20 ngàn đồng/kg. Vụ mùa năm nào cũng như năm nay thì người trồng nhãn không phải lo lắng gì. Đặc biệt, vào ngày rằm, ngày đầu tháng vừa qua có vườn chỉ chín 80% nhưng phải hái vì khan hiếm hàng.

Tấp nập thương lái thu mua

Thanh Lương có gần 1.000 ha cây ăn trái, trong đó nhãn tiêu da bò 450 ha với 170 hộ nông dân trồng. Nhãn tiêu da bò là một trong những thương hiệu trái cây có tiếng của Bình Phước. Cuối năm 2019, nhãn tiêu da bò Thanh Lương được Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ cấp bằng chứng nhận nhãn hiệu tập thể. Đây là cơ hội và động lực để nông dân Thanh Lương yên tâm sản xuất và phát triển loại cây ăn trái này. Thị trường tiêu thụ chủ yếu là xuất khẩu sang Trung Quốc và Campuchia. Mặc dù trong thời điểm dịch Covid-19 nhưng do nhu cầu thị trường tiêu thụ lớn, vì vậy nhãn Thanh Lương luôn được các thị trường trong và ngoài nước ưa chuộng. Hiện nay, nhãn Thanh Lương đang bước vào chính vụ, các thương lái hằng ngày tấp nập đến đây thu mua để xuất khẩu. Anh Học cho hay, mọi năm các thương lái thu mua quen chỉ cần gọi điện dặn ngày đến hái là được nhưng năm nay nhiều thương lái tìm đến nơi hỏi rồi đặt cọc tiền trước để đảm bảo.

Theo ông Đỗ Văn Tứ, thương lái thu mua nhãn lâu năm ở địa phương này cho biết: “Năm nay, nhu cầu nhãn của thị trường ngoài nước rất lớn. Vì vậy nhiều thương lái tìm về đây thu gom để xuất khẩu. Để có hàng thì các thương lái phải đến từng hộ đăng ký, đặt cọc tiền. Các năm trước không như vậy nhưng đó là nhu cầu, nếu muốn có đủ số hàng để xuất khẩu thì phải làm vậy thôi”.

Ông Trần Tuấn Dũng, Giám đốc Hợp tác xã nhãn tiêu da bò Thanh Lương chia sẻ: “Nhãn tiêu da bò Thanh Lương là mặt hàng nông sản có thương hiệu nhiều năm nay và đã được khẳng định trên thị trường, đặc biệt là thị trường nước ngoài. Mỗi năm vào mùa cứ giá thế này là bà con trồng nhãn có lời nên ai cũng phấn khởi. Tôi hy vọng mùa vụ năm tới nhãn Thanh Lương sẽ tiếp tục được mùa, được giá”.

Văn Đoàn - Như Nam

Giá mận An Phước giảm

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

Mận An Phước là cây trồng chính của nhiều hộ nông dân trên địa bàn huyện Lai Vung

Nông dân trồng mận An Phước trên địa bàn huyện Lai Vung (tỉnh Đồng Tháp) lo lắng vì giá nông sản này đang giảm liên tục. Theo ông Tống Văn Phong - Giám đốc Hợp tác xã an toàn Vĩnh Thới (huyện Lai Vung), mận An Phước loại 1 hiện có giá 25.000 - 26.000 đồng/kg; loại 2 giá 18.000 - 20.000 đồng/kg. Mức giá này giảm khoảng 10% so với tháng trước. Sở dĩ giá mận giảm là do mưa nhiều khiến năng suất bị ảnh hưởng và sức mua giảm, khiến nguồn cung lớn hơn cầu.

TRANG HUỲNH

Tôn vinh 30 sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu

Nguồn tin:  Sài Gòn Giải Phóng

Tối 8-10, Chợ phiên nông sản lần thứ X năm 2020 đã khai mạc tại Công viên Bình Phú (quận 6, TPHCM).

Khách tham quan các gian hàng sản xuất rau tại chợ phiên nông sản TP Hồ Chí Minh năm 2020. Ảnh: TTXVN

Đây là sự kiện nhằm hỗ trợ hội viên, nông dân, hợp tác xã, tổ hợp tác, các doanh nghiệp nông nghiệp, có điều kiện trưng bày, giới thiệu, quảng bá sản phẩm, giao lưu học tập, trao đổi kinh nghiệm, tiếp cận thông tin, công nghệ mới trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và xúc tiến thương mại; giúp nông dân nâng cao nhận thức về lợi ích của mô hình hợp tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng phát triển nền nông nghiệp đô thị.

Trong khuôn khổ chợ phiên, có lễ “Tôn vinh sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu TPHCM năm 2019” với 30 sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu của 29 đơn vị, cá nhân trên địa bàn thành phố đáp ứng các tiêu chí về chất lượng, giá trị, hiệu quả sản xuất, kinh doanh được tôn vinh và được UBND TPHCM tặng bằng khen.

Chợ phiên nông sản diễn ra đến ngày 14-10, với 230 gian hàng được chia làm 3 khu vực. Khu A gồm các gian hàng trưng bày các sản phẩm nông nghiệp của thành phố như hoa lan, bonsai, cây kiểng các loại; các loại rau, củ, quả, nấm sản xuất an toàn, các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ. Khu B trưng bày, triển lãm những thành tựu phát triển nông nghiệp đô thị thành phố; trưng bày, quảng bá sản phẩm từ chương trình bình chọn và tôn vinh sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu. Khu C gồm các gian hàng trưng bày các sản phẩm từ các tỉnh, thành phố khác.

THANH HẢI

Xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao và phát triển bền vững

Nguồn tin:  Báo Bạc Liêu

Bạc Liêu xác định nông nghiệp là trụ đỡ quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh; trong đó tập trung cho nông nghiệp sạch, nâng cao chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp. Để thực hiện mục tiêu này, tỉnh đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp, tạo ra sản phẩm sạch, thân thiện với môi trường, nâng cao năng suất, chất lượng, xây dựng thương hiệu nông sản, gắn sản xuất với chế biến và bao tiêu sản phẩm để nông nghiệp phát triển bền vững.

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT - Nguyễn Xuân Cường (thứ hai từ trái sang) thăm khu nuôi tôm công nghệ cao trên địa bàn TP. Bạc Liêu. Ảnh: C.L

CƠ GIỚI HÓA TRONG SẢN XUẤT LÚA

Đến thời điểm này, tỉnh đã xây dựng được 38 cánh đồng lúa lớn với hơn 30.000ha (mỗi cánh đồng có diện tích từ 100ha trở lên). Trong quá trình sản xuất, ngoài ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nông dân còn thực hiện cơ giới hóa nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp. Theo đó, mức độ cơ giới hóa trong sản xuất lúa hiện nay đã đạt 100% trong khâu làm đất, bơm nước, phun thuốc bảo vệ thực vật, 84% trong khâu thu hoạch lúa, 90% sản lượng lúa được sấy…

Sản xuất lúa phát triển theo hướng liên kết chuỗi giá trị; nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã cùng nông dân liên kết sản xuất gắn với bao tiêu, xuất khẩu lúa gạo. Nông nghiệp của tỉnh phát triển theo hướng chú trọng chất lượng cao; giá trị gia tăng của ngành từ 12.688 tỷ đồng năm 2015, ước tăng lên 19.139 tỷ đồng năm 2020. Bên cạnh đó, ngành chức năng cũng đã khuyến khích nông dân sản xuất lúa theo hướng hữu cơ, lúa sạch; thay việc bón phân hóa học thành phân hữu cơ, vi sinh; từng bước cơ cấu lại các giống lúa, mỗi cánh đồng sản xuất từ 1 - 2 giống lúa. Các giống lúa chủ yếu là lúa thơm, lúa chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng lúa. Đặc biệt là tạo nên vùng lúa nguyên liệu rộng lớn để các công ty, doanh nghiệp thuận tiện trong việc bao tiêu sản phẩm...

Mô hình lúa - tôm sinh thái ở huyện Phước Long. Ảnh: M.Đ

KHẲNG ĐỊNH THƯƠNG HIỆU TÔM BẠC LIÊU

Qua gần 5 năm đẩy mạnh tái cơ cấu ngành Nông nghiệp nói chung và lĩnh vực nuôi trồng thủy sản nói riêng, với khát vọng “nâng tầm tôm Việt”, tỉnh tập trung chỉ đạo nuôi trồng thủy sản theo hướng thâm canh và ứng dụng công nghệ cao, sản xuất hàng hóa lớn, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả nghề nuôi và đảm bảo môi trường sinh thái. Đến nay, Bạc Liêu được cả nước biết đến với những mô hình nuôi tôm siêu thâm canh trong nhà kín, đặc biệt là tỉnh đã triển khai dự án Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu; xây dựng khu nuôi tôm an toàn sinh học theo chuẩn của Tổ chức Thú y thế giới. Toàn tỉnh hiện có 12 công ty, doanh nghiệp và 324 hộ nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao, với tổng diện tích 2.250ha, năng suất tăng từ 10 - 15 lần so với nuôi thông thường. Sản xuất tôm giống cũng là thế mạnh của tỉnh, có quy mô lớn nhất cả nước, gồm 212 cơ sở sản xuất tôm giống với tổng số trên 32 tỷ con giống/năm, chiếm 84,54% thị phần tôm giống vùng ĐBSCL và 52,73% tổng thị phần tôm giống cả nước.

Trong nuôi trồng thủy sản, tỉnh xác định đối tượng nuôi chủ lực là tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Theo đó, quy hoạch vùng nuôi thâm canh, bán thâm canh, vùng nuôi sinh thái, vùng nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao và xác định phương thức nuôi. Ứng dụng rộng rãi quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt, nuôi trồng thủy sản có chứng nhận VietGAP, GlobalGAP, ASC, Organic; đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa nghề nuôi. Điển hình là Tập đoàn Việt - Úc, Công ty Hải Nguyên, Công ty TNHH Sản xuất và Thương mại Trúc Anh... Các công ty, doanh nghiệp này đã áp dụng công nghệ nhà màng vào nuôi tôm của Israel, công nghệ cho tôm ăn tự động của Úc, công nghệ sinh học xác định tình trạng sức khỏe tôm nuôi; thực hiện hợp tác, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm thủy sản, truy xuất nguồn gốc trong nuôi trồng thủy sản.

Từ thành công nuôi tôm siêu thâm canh, các công ty, doanh nghiệp cũng đã chia sẻ kinh nghiệm, quy trình nuôi tôm cho nông dân. Từ đó, có nhiều hộ thu về lợi nhuận hàng tỷ đồng mỗi năm. Ông Võ Việt Khởi (xã Long Điền, huyện Đông Hải) chia sẻ: “Nhờ áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, cụ thể nuôi tôm siêu thâm canh trong bể tròn nổi, gia đình tôi có nguồn thu gần 4 tỷ đồng/năm”.

Thu hoạch tôm nuôi theo quy trình công nghệ cao ở huyện Hòa Bình. Ảnh: C.L

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Để xây dựng Bạc Liêu trở thành trung tâm công nghiệp ngành tôm cả nước, Bạc Liêu có các giải pháp đồng bộ như: Đẩy mạnh phát triển nuôi tôm; phát triển mạnh nuôi tôm sinh thái kết hợp với trồng và bảo vệ rừng khu vực ven biển; sớm đưa vào khai thác Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu; nhân rộng các mô hình nuôi tôm siêu thâm canh trong nhà kín... Đồng thời, giám sát chuỗi sản xuất tôm bảo đảm an toàn dịch bệnh, phục vụ xuất khẩu; xây dựng chuỗi sản xuất tôm theo khuyến nghị của Tổ chức Thú y thế giới để xuất khẩu tôm nguyên con sang Úc. Bên cạnh đó, ứng dụng rộng rãi nuôi trồng thủy sản có chứng nhận ASC, MSC, CoC, GlobalGAP, BMP… vào các vùng nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao để tăng năng suất, sản lượng, chất lượng…

Song song đó, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân, nâng cao tỷ lệ canh tác giống lúa chất lượng cao, lúa mới, nhất là sớm triển khai canh tác giống lúa ST 24, ST 25 trên đất tôm - lúa; áp dụng chương trình IPM, “3 giảm - 3 tăng”, “1 phải - 5 giảm”, sử dụng tiết kiệm nước...

Mặt khác, phát triển vùng sản xuất lúa hàng hóa chất lượng cao, lúa đặc sản, lúa chịu mặn mang thương hiệu Bạc Liêu... Tập trung xây dựng nâng cao chuỗi giá trị gia tăng, phát triển bền vững; xây dựng chuỗi liên kết tiêu thụ giữa doanh nghiệp và nông dân, chỉ dẫn địa lý, thương hiệu sản phẩm lúa gạo chất lượng cao. Xây dựng vùng sản xuất lúa giống, tôm giống chất lượng cao, sạch bệnh đáp ứng được nhu cầu phục vụ sản xuất của nông dân.

Ông Dương Thành Trung - Chủ tịch UBND tỉnh nhấn mạnh: “Bạc Liêu là tỉnh nông nghiệp, con tôm, cây lúa là hai sản phẩm chính. Vì vậy, tỉnh ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp, hướng đến xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao, tạo ra sản phẩm tôm sạch, lúa an toàn để xây dựng thương hiệu xuất khẩu. Tỉnh khuyến khích nông dân liên kết xây dựng các cánh đồng tôm lớn, lúa lớn để tạo vùng nguyên liệu đủ lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thu mua, hợp đồng bao tiêu sản phẩm”.

MINH ĐẠT - CHÍ LINH

Mang đặc sản Đồng Tháp đến với người tiêu dùng Thủ đô

Nguồn tin:  Báo Chính Phủ

Chiều 9/10, Lễ khai mạc Tuần hàng cá tra/ba sa và đặc sản Đồng Tháp tại Hà Nội năm 2020 do Sở Công Thương tỉnh Đồng Tháp, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Du lịch và Đầu tư tỉnh Đồng Tháp phối hợp cùng Tập đoàn Central Retail tại Việt Nam tổ chức, đã diễn ra tại Siêu thị Big C Thăng Long (Hà Nội).

Lễ cắt băng khai mạc Tuần hàng cá tra/ba sa và đặc sản Đồng Tháp tại Hà Nội năm 2020. Ảnh: Thùy Linh

Tham dự Lễ khai mạc có các đồng chí: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Vương Đình Huệ; Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Chu Ngọc Anh; Phó Bí thư, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp Nguyễn Văn Dương, cùng đại diện lãnh đạo các bộ, sở, ngành.

Đây là lần đầu tiên sự kiện này được tổ chức tại siêu thị Big C Thăng Long nhằm mang đến cho người dân Thủ đô Hà Nội cơ hội trải nghiệm các đặc sản của tỉnh Đồng Tháp, thưởng thức những món ăn được các đầu bếp nổi tiếng chế biến từ nguyên liệu là cá tra/basa và được tặng cẩm nang 50 món ăn được chế biến từ cá tra/ba sa.

Tuần hàng cá tra/ba sa và đặc sản Đồng Tháp tại Hà Nội năm 2020 được chia thành 4 khu gian hàng với các gian hàng được bài trí gắn với hình ảnh đất Sen Hồng và Người Đồng Tháp, giới thiệu hơn 300 sản phẩm của hơn 50 doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất kinh doanh của tỉnh Đồng Tháp. Qua đó giới thiệu đến các nhà phân phối, người tiêu dùng thành phố Hà Nội nói riêng, cả nước nói chung các sản phẩm từ cá tra và đặc sản Đồng Tháp được công nhận là hàng Việt Nam chất lượng cao, sản phẩm OCOP, công nghiệp nông thôn tiêu biểu, thực phẩm đạt chuẩn an toàn, các sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu như: sản phẩm nông, thủy sản tươi, sống (cá, xoài, cam, chanh, ổi); sản phẩm chế biến (các sản phẩm sau gạo như bột các loại, bún, phở, hủ tiếu, miến; bánh phồng tôm); các sản phẩm chế biến từ rau củ quả (trái cây sấy, sen, mãng cầu, mứt vỏ trái cây); các sản phẩm giá trị gia tăng khác từ cá tra và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ để trang trí, làm quà tặng như hương tinh dầu, hoa cỏ khô,…

Trong khuôn khổ Tuần hàng sẽ diễn ra nhiều hoạt động quan trọng khác như: Phiên kết nối giao thương trực tiếp giữa các Nhà sản xuất, Hợp tác xã, Hộ sản xuất của tỉnh Đồng Tháp với bộ phận thu mua của hệ thống siêu thị GO! / Big C; trình diễn cách chế biến các món ăn từ cá tra/ba sa để đại biểu, khách tham quan thưởng thức, trải nghiệm, dùng thử; lễ ký kết hợp tác giữa Big C với các nhà sản xuất, hợp tác xã, hộ nông dân tỉnh về tiêu thụ và quảng bá các sản phẩm của tỉnh Đồng Tháp…

Bí thư Thành ủy Hà Nội Vương Đình Huệ cùng các đại biểu tham quan các gian hàng tại Tuần hàng cá tra/ba sa và đặc sản Đồng Tháp tại Hà Nội năm 2020. Ảnh: Thùy Linh

Phát biểu tại Lễ khai mạc, bà Trần Thị Phương Lan, Phó Giám đốc phụ trách Sở Công Thương Hà Nội cho biết, Tuần hàng thực phẩm cá tra/basa và đặc sản tỉnh Đồng Tháp tại Hà Nội là một trong những sự kiện xúc tiến trọng tâm, tiêu biểu tại thị trường Hà Nội. Sự kiện đã mang về Thủ đô Hà Nội hơn 300 chủng loại sản phẩm đặc sản tỉnh Đồng Tháp để giới thiệu đến người tiêu dùng, đồng thời kết nối, tiêu thụ tại các kênh phân phối trên địa bàn Thủ đô.

Trong thời gian qua, Sở Công Thương Hà Nội đã thường xuyên phối hợp với Sở Công Thương tỉnh Đồng Tháp triển khai nhiều chương trình liên kết, đưa sản phẩm của Đồng Tháp tham gia hội nghị kết nối cung cầu hằng năm. Đặc biệt, trong năm 2020, sản phẩm của Đồng Tháp đã được 2 sở tiến hành rà soát, lập danh sách các sản phẩm cần quảng bá, tiêu thụ để gửi cho các nhà phân phối nghiên cứu, kết nối thu mua, làm việc với Tập đoàn Central Retail, siêu thị Big C Thăng Long để tổ chức tuần hàng. Đồng thời, làm việc với Co.opmart, Hapromart để hỗ trợ các điểm bán hàng cố định từ nay đến Tết Nguyên đán, hỗ trợ quảng bá sản phẩm tại Trung tâm giới thiệu trưng bày đặc sản và du lịch Đồng Tháp, tư vấn các sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng miền Bắc.

Bà Nguyễn Thị Phương, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Central Retail, cho biết: “Với mong muốn hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất… phục hồi sau đại dịch, Central Retail kỳ vọng, thông qua sự kiện này, sẽ tìm kiếm thêm được nhiều nhà cung cấp mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng”.

Tuần hàng Đồng Tháp đồng thời được quảng bá tại các siêu thị GO!/Big C trên toàn quốc, từ ngày 9-11/10.

Thùy Linh

Phú Vang (Thừa Thiên Huế): ‘Vựa’ rau màu và hoa bị thiệt hại nặng nề

Nguồn tin:  Báo Thừa Thiên Huế

Mưa lớn khiến một số xã trên địa bàn huyện Phú Vang (Thừa Thiên Huế) ngập nặng, rau màu gần như mất trắng; có nơi hồ nuôi trồng thủy sản cao triều, hạ triều thiệt hại nặng.

Ruộng rau màu chìm trong nước bạc ở Phú Mậu

Trong cơn mưa lớn ngày 9/10, hộ nông dân Đinh Văn Hùng (xã Phú Mậu) huy động hết nhân khẩu, khẩn trương ra ruộng thu hoạch được khoảng 5 tạ dưa gang “chạy” nước bạc. Số lớn dưa gang còn lại không cứu kịp. Những hộ trồng dưa gang trên địa bàn cũng cố gắng vớt vát phần nào. Nhưng các loại rau màu khác coi như mất trắng.

Ông Nguyễn Văn Trai, Chủ tịch UBND xã Phú Mậu thông tin: Mưa lớn khiến Phú Mậu ngập nặng 6/6 thôn. Nơi ngập sâu nhất khoảng 1,6 mét. Tỉnh lộ 2 qua địa bàn, nơi ngập sâu nhất khoảng 1,2 mét. Với mức độ ngập nặng như vậy, 30 ha rau màu và 10 ha hoa thiệt hại hầu như 100%.

Xã Phú Dương ngập toàn bộ 9 thôn, nơi ngập sâu nhất khoảng 1 mét. 5 ha màu thiệt hại 100%. Cũng bị ngập 8/8 thôn, nơi sâu nhất khoảng 1,2 mét, xã Phú Thượng thiệt hại khoảng 5 ha hoa màu. Hơn 100 lồng cá (cá diêu hồng, cá trắm cỏ, cá rô phi, cá lóc của hơn 10 hộ) mặc dù đã được kéo sát vào bờ từ trước cơn bão số 5.

“Với tình trạng nước bạc chảy xiết trong mấy ngày nay thì không biết bao nhiêu cá còn chống chọi được. Trong tình hình bây giờ, chúng tôi chưa kiểm tra được mức độ, nhưng chắc chắn có thiệt hại” - bà Trần Thị Lý, một hộ nuôi gần 20 lồng cá tại xã Phú Thượng cho biết.

Ở xã Phú Gia, toàn bộ hơn 20ha với hơn 100 hồ nuôi trồng thủy sản cao triều, hạ triều mất hết. Cá trôi gần như 100%, theo thông tin từ ông Đỗ Viết Tư - người đứng đầu chính quyền xã.

Một số dưa gang "cứu" được ở Phú Mậu

Trước tình hình mưa lớn trên diện rộng từ ngày 6/10 đến nay, UBND huyện đã triển khai một số biện pháp cấp bách để đối phó mưa lũ như: di chuyển các lồng, bè nuôi trồng thủy sản đến nơi an toàn, thu hoạch sớm diện tích thủy sản để giảm mật độ, tránh rủi ro, thiệt hại; gia cố đảm bảo an toàn cho các lồng, bè trên sông, đầm phá và các ao hồ thủy sản cao triều, hạ triều. Đồng thời triển khai phương án di dời dân, bố trí các điểm dự kiến sơ tán, di dời…

Theo báo cáo nhanh của UBND huyện Phú Vang: Đến 10h ngày 10/10, do mực nước triều dâng cao, cộng với nước từ thượng nguồn đổ về nên toàn bộ diện tích hồ nuôi trồng thủy sản cao triều hạ triều đều bị ngập hoàn toàn trong nước, với diện tích 1.365 ha (chỉ còn khoảng hơn 100 ha cao triều ở xã Phú Xuân chưa bị ngập). Diện tích rau màu bị hỏng do mưa lớn và ngập là 57,2 ha tập trung tại các xã Phú Mậu, Phú Diên, Vinh Xuân, Vinh Thanh, Phú Dương. Trong đó, xã Phú Mậu là “vựa” rau màu và hoa của Phú Vang, bị thiệt hại nặng nhất.

Hiện đã di dời 145 hộ, 409 khẩu đến nơi an toàn. Các xã đã có phương án di dời cụ thể tùy theo diễn biến thời tiết để tiếp tục tổ chức di dời đến nơi an toàn. Ngay từ tối 9/10, UBND xã Phú Dương đã huy động nhân lực, phương tiện đẩy bèo trên sông Chợ Nọ.

“Trong buổi sáng ngày 10/10, chúng tôi tiếp tục khẩn trương xử lý bèo tại các cầu Chợ Nọ, cầu Mỹ An, cầu Phò An”- bà Lê Thị Thu Hằng, Chủ tịch UBND xã Phú Dương cho biết.

Hiện, các xã trên địa bàn huyện cũng đang chuẩn bị phương tiện, nhân lực để đẩy bèo khi nước sông dâng cao. Đồng thời, chính quyền các cấp, lực lượng và Nhân dân địa phương cũng đang khẩn trương chuẩn bị khắc phục hậu quả, khôi phục sản xuất sau mua lũ.

Bài, ảnh: Quỳnh Anh

Chủ động xuống giống sớm lúa đông xuân 2020-2021 né hạn, mặn

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Ngày 9-10, tại TP Cần Thơ, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) Lê Quốc Doanh chủ trì hội nghị sơ kết sản xuất vụ thu đông, vụ mùa năm 2020 và triển khai kế hoạch sản xuất vụ đông xuân 2020-2021 tại vùng Nam bộ.

Sản xuất lúa vụ thu đông và vụ mùa năm 2020 trong bối cảnh có nhiều khó khăn do ảnh hưởng biến đổi khí hậu, thiên tai và dịch bệnh, nhưng nhờ đẩy mạnh cơ giới hóa, ứng dụng đồng bộ tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, giúp giảm chi phí, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Lúa bán được giá cao, nông dân đảm bảo có lời nên rất phấn khởi. Vụ thu đông 2020, các địa phương vùng Nam bộ gieo trồng được hơn 800.500ha (chủ yếu tại ĐBSCL), tăng 76.000ha so cùng kỳ, năng suất đạt 55 tạ/ha, tăng 0,13 tạ/ha và sản lượng đạt 4,4 triệu tấn, tăng 429.000 tấn so với vụ thu đông 2019. Vụ mùa 2020, toàn vùng Nam bộ gieo sạ được 266.700ha, giảm 1.900ha, với năng suất ước đạt 48,03 tạ/ha, tăng 0,74 tạ/ha, sản lượng 1,28 triệu tấn, tăng 10.800 tấn so vụ mùa năm trước.

Theo đó, diện tích gieo trồng lúa trong cả năm 2020 tại vùng Nam bộ ước đạt 4,305 triệu héc-ta, giảm khoảng 31.500ha so với năm trước, nhưng năng suất lúa đạt cao, với khoảng 60,09 tạ/ha, tăng 0,75 tạ/ha nên sản lượng lúa dự kiến đạt 25,868 triệu tấn, tăng 134.000 tấn so với năm trước. Trong đó, vùng ĐBSCL gieo sạ được 4,041 triệu héc-ta, năng suất ước đạt 60,5 tạ/ha, tăng 0,76 tạ/ha và sản lượng đạt 24,45 triệu tấn, tăng 140.000 tấn.

Đối với vụ lúa đông xuân 2020-2021, toàn vùng Nam bộ có kế hoạch gieo sạ 1,63 triệu héc-ta, năng suất dự kiến đạt 69,8 tạ/ha và sản lượng đạt hơn 11,37 triệu tấn. Trong đó, vùng ĐBSCL gieo sạ 1,55 triệu héc-ta, với năng suất ước đạt 70,34 tạ/ha và sản lượng hơn 10,9 triệu tấn. Dự báo mùa khô năm 2020-2021, mặn xâm nhập sớm và diễn biến khốc liệt nên Bộ NN&PTNT yêu cầu các địa phương chủ động xuống giống sớm để né hạn, mặn vào cuối vụ. Đặc biệt, đẩy mạnh xuống giống sớm từ ngày 10 đến 30-10-2020 ở những địa phương ven biển tại ĐBSCL có nguy cơ cao bị hạn, mặn cuối vụ như: An Giang, Bến Tre, Tiền Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Kiên Giang, với tổng diện tích khoảng 400.000ha. Từ ngày 1 đến 30-11-2020, xuống giống khoảng 636.000ha cho cả 3 vùng thượng, vùng giữa và vùng ven biển. Từ ngày 1 đến 31-12-2020, tiếp tục xuống giống khoảng 615.000ha cho cả 3 vùng thượng, vùng giữa và vùng ven biển…

Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Thứ trưởng Lê Quốc Doanh yêu cầu các cơ quan chuyên môn thuộc Bộ và địa phương quan tâm thực hiện tốt giải pháp về thời vụ trong vụ đông xuân 2020-2021 để né hạn, mặn; đặc biệt, cần đẩy sớm thời vụ, gieo sạ sớm ngay trong tháng 10-2020. Về cơ cấu giống lúa, cần ưu tiên chọn sản xuất nhóm giống chất lượng cao, ngắn ngày để giảm rủi ro do hạn mặn, nhất là các địa phương ven biển. Song song đó, tiếp tục hỗ trợ nông dân đẩy mạnh áp dụng các biện pháp kỹ thuật để giảm giá thành sản xuất, đảm bảo chất lượng và an toàn, có sức cạnh tranh cao trên thị trường…

Tin, ảnh: KHÁNH TRUNG

Thừa Thiên Huế: Vùng rau Quảng Điền thiệt hại nặng do ngập úng

Nguồn tin: Báo Thừa Thiên Huế

Nhiều ruộng rau Quảng Thành, Quảng Thọ (Thừa Thiên Huế) bị mất trắng 100%.

Vùng sản xuất rau VietGap tại Quảng Thành ngập trong nước lũ

Từ sáng 8/10, nhiều ruộng rau Quảng Thành (Quảng Điền) nước ngập trắng đồng.

“Cây gì thì còn cứu được chứ rau mà ngâm nước, bầm dập thì xem như mất trắng hoàn toàn”, ông Trương Hoàng, một nông dân ở thôn Thành Trung buồn bã.

Toàn xã Quảng Thành có 32 ha rau các loại của hơn 750 hộ dân tham gia trồng với thu nhập bình quân 400 triệu đồng/ha. Tuy nhiên, vụ mùa năm nay, gặp mưa lớn kéo dài, nước đổ về trắng đồng đã khiến nhiều diện tích rau bị dập nát, trong đó có các loại có giá trị kinh tế cao như ngò thơm, cần tây.

Ông Ngô Hợi, Chủ tịch Hội Nông dân xã Quảng Thành cho biết, từ chiều 7/10 đến sáng 8/10, toàn bộ 32 ha rau của người dân các thôn Tây Thành, Thanh Hà, Thành Trung, Phú Ngạn… bị ngập úng, mất trắng hoàn toàn. Mặc dù nhiều năm nay, hệ thống thủy lợi và vùng quy hoạch rau an toàn Thành Trung được triển khai đồng bộ, mặt ruộng khá cao khiến các loại nông sản trồng ở đây giảm thiểu thiệt hại do ngập úng.

Tuy nhiên, mưa lớn liên tiếp trong những ngày qua đã khiến nhiều diện tích rau bị ngập, ước thiệt hại khoảng hơn 1 tỷ đồng. Ngoài ra, khoảng 70ha thủy sản nuôi xem ghép tại xã Quảng Thành cũng bị thiệt hại nặng do mưa lớn. Địa phương đang tiến hành thống kê.

Xã vùng trũng Quảng Thọ theo thống kê ban đầu cũng có khoảng 30 ha đậu bắp, nưa bị ngập úng, ngã đổ.

Ông Hoàng Công Phong, Chủ tịch UBND xã Quảng Thọ cho biết, đối với diện tích 70ha rau má bị ngập nhẹ có thể ít ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng nhưng đối với cây đậu bắp và nưa khi úng, đổ ngã xem như mất trắng. Riêng 800 lồng cá nuôi trên sông Bồ nhờ người dân chủ động neo giằng cẩn thận nên đến thời điểm hiện tại vẫn an toàn.

Tin, ảnh: Hà Nguyên

Bà Rịa - Vũng Tàu: Bệnh khảm lá trên khoai mì bùng phát

Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Với tốc độ lây lan nhanh chóng, hàng ngàn ha khoai mì trên địa bàn các huyện Xuyên Mộc, Châu Đức… đang bị nhiễm bệnh khảm lá, gây thiệt hại lớn cho người trồng.

100ha trồng khoai mì của hộ ông Nguyễn Văn Thành (ấp Bàu Ngứa, xã Tân Lâm, huyện Xuyên Mộc) bị nhiễm bệnh khảm lá trên 80%.

LÂY LAN TRÊN DIỆN RỘNG

Gia đình ông Nguyễn Văn Thành (ấp Bàu Ngứa, xã Tân Lâm, huyện Xuyên Mộc) đang trồng 100ha khoai mì, với các loại giống HL-S11, KM140, tai đỏ… chỉ còn khoảng 3 tháng nữa sẽ tới vụ thu hoạch. Thế nhưng, hơn 1 tháng qua, bắt đầu xuất hiện các vết khảm màu trắng, vàng hoặc xanh nhạt nằm rải rác khắp mặt lá, phiến lá bị cong vênh, biến dạng. Hiện toàn bộ diện tích này đều đã bị nhiễm bệnh khảm lá ở mức độ nặng, tỷ lệ nhiễm bệnh 80%.

Ông Thành cho biết, gia đình ông thuê 100ha để trồng khoai mì từ nhiều năm nay, tiền thuê đất 12 triệu đồng/ha/năm, cộng với các khoản giống, phân, thuốc, công làm, tổng chi phí lên đến 20-25 triệu đồng/ha. Nếu khoai mì phát triển tốt, năng suất trung bình đạt 27 tấn/ha, sau khi trừ chi phí ông lãi gần 10 triệu đồng/ha. Tuy nhiên, với tình hình dịch bệnh khảm lá bùng phát mạnh như năm nay thì không đủ bù vào chi phí.

Điều đáng nói là đây không phải vụ đầu tiên khoai mì bị nhiễm bệnh khảm lá. Theo ông Thành, năm 2018 vườn khoai mì nhiễm bệnh nhưng tỷ lệ rất thấp, khoảng 5-10%, đến năm 2019 tỷ lệ nhiễm là 10-20% thì năm nay tăng lên 80%, tốc độ lây lan của bệnh rất nhanh. Nguyên nhân có thể do gia đình ông sử dụng hom giống đã nhiễm bệnh được mua từ Tây Ninh - địa phương có diện tích khoai mì nhiễm bệnh khảm lá lớn. “Bệnh này chưa có thuốc chữa, chỉ có thể phát hiện sớm và tiến hành tiêu hủy may ra mới tránh lây lan sang cây khác. Cây bị nhiễm bệnh nặng khiến năng suất và lượng tinh bột trong củ khoai mì còn lại khoảng 40%, giá bán cũng giảm 50% nên năm nay vụ khoai mì gần như mất trắng”, ông Thành buồn rầu nói.

Thống kê từ Phòng NN-PTNT huyện Xuyên Mộc cho thấy, trên địa bàn huyện có 3.274ha trồng khoai mì, tập trung chủ yếu tại các xã Tân Lâm, Bưng Riềng, Hòa Hiệp, Hòa Bình… Đến thời điểm này, đã có hơn 1.000ha trồng khoai mì bị nhiễm bệnh khảm lá, với tỷ lệ nhiễm từ 10-90%. Đây là địa phương có số diện tích khoai mì bị nhiễm bệnh khảm lá lớn nhất của tỉnh.

Tại huyện Châu Đức, bệnh khảm lá cũng đã lây lan tới 60ha diện tích trồng, trong đó 18ha bị nhiễm nặng. Gia đình ông Võ Văn Dương (ấp Lộc Hòa, xã Bình Giã) có 4.000m2 trồng khoai mì đang trong giai đoạn nuôi củ. Tuy nhiên, đến nay vườn khoai mì của gia đình ông đã bị nhiễm khảm lá, với tỷ lệ khoảng 95%. Ông rất lo lắng, bởi với tình hình này nguy cơ gia đình ông mất trắng vụ mì là rất cao.

Theo khuyến cáo của ngành nông nghiệp, người trồng khoai mì tuyệt đối không sử dụng hom giống đã nhiễm bệnh, cần biết rõ nguồn gốc xuất xứ của giống và không sử dụng giống ở khu vực đã nhiễm bệnh cho vụ sau. Thường xuyên thăm đồng, nhất là giai đoạn đầu (mới đặt hom đến 2,3 tháng sau trồng), bọ phấn trắng thường ẩn náu ở mặt dưới lá, nếu phát hiện cây bệnh lập tức nhổ bỏ và tiêu hủy ngay đồng thời phun thuốc phòng trừ; dùng cồn 70 độ khử trùng các dụng cụ canh tác. Bà con nông dân cần chú ý trong lúc thu gom giống và chất thành bó chuẩn bị cho vụ sau thì một số mầm mì sẽ nảy ra trước thu hút bọ phấn trắng. Vì vậy cần phun thuốc ngừa xử lý khi chuẩn bị hom giống với các sản phẩm như: Brimgold 200WP liều lượng từ 14g/16 lít nước hoặc Osago 80WG liều lượng 10g/16 lít nước.

CẨN TRỌNG TỪ KHÂU CHỌN GIỐNG

Tính đến thời điểm tại, toàn tỉnh đã có gần 1.200ha/7.354ha diện tích trồng khoai mì bị nhiễm bệnh khảm lá, hầu hết số diện tích này đang trong giai đoạn nuôi củ, với tỷ lệ nhiễm từ 30% trở lên, cơ quan chức năng đã tiêu hủy khoảng 8,5ha. Trong đó Xuyên Mộc vẫn là địa phương có số diện tích bị nhiễm nặng nhất trên toàn địa bàn tỉnh. Năm nay diện tích khoai mì nhiễm bệnh khảm lá cao hơn rất nhiều so với các năm trước. Nếu như năm 2018, diện tích khoai mì bị nhiễm bệnh khảm lá là 133ha, năm 2019, diện tích bị nhiễm 60ha, thì nay đã tăng lên chóng mặt. Bệnh khảm lá hiện không có thuốc để phòng trừ, tốc độ lây lan rất nhanh, ảnh hưởng lớn đến năng suất của khoai mì.

Bà Vũ Thị Quý Trang, Phó Trưởng Phòng Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật (BVTV), Chi cục Trồng trọt và BVTV cho biết: Bệnh khảm lá khoai mì là bệnh rất nguy hiểm và khó phòng trừ, lan truyền qua trung gian là bọ phấn trắng và qua hom giống lấy từ cây bị bệnh. Triệu chứng đặc trưng dễ nhận biết của bệnh khảm lá khoai mì là khảm vàng loang lổ trên lá, mức độ hại nhẹ là không bị biến dạng hoặc biến dạng nhẹ, mức độ hại nặng làm cho lá xoăn, cong queo, nhăn nhúm.

Hiện Chi cục Trồng trọt và BVTV đang hướng dẫn người dân ngoài nhổ bỏ, tiêu hủy khi phát hiện khoai mì mắc bệnh nặng, thực hiện các biện pháp phòng ngừa như phun thuốc trừ bọ phấn trắng (trung gian mang mầm bệnh) ở những vùng có nguy cơ nhiễm bệnh; phối hợp với chính quyền địa phương quản lý tình hình buôn bán, sử dụng giống mì, không vận chuyển thân lá mì ra khỏi nơi nhiễm bệnh; kiểm soát việc vận chuyển thân lá mì trên địa bàn tỉnh cũng như vận chuyển từ tỉnh khác đến. “Chi cục đã vận động, tuyên truyền bà con nông dân không trồng các loại giống có nguy cơ mắc bệnh cao như HL-S11, HL-S12, thay vào khuyến cáo sử dụng các giống ít nhiễm bệnh như KM94, KM140”, bà Trang cho biết thêm.

Bài, ảnh: PHÚC HIẾU

Đồng Nai: Toàn tỉnh phát triển được hơn 12,7 ngàn ha rau các loại

Nguồn tin: Báo Đồng Nai

Theo số liệu từ Cục Thống kê Đồng Nai, từ đầu năm đến nay, tổng diện tích gieo trồng các loại rau ăn lá, rau củ quả trên địa bàn tỉnh đạt hơn 12,7 ngàn ha, tăng 442ha so với cùng kỳ năm ngoái. Trong 9 tháng đầu năm 2020, sản lượng thu hoạch rau các loại đạt gần 219 ngàn tấn, tăng gần 14,5 ngàn tấn, tương đương tăng hơn 7% so với cùng kỳ năm ngoái. Sản lượng các loại rau tăng cao ngoài nguyên nhân tăng về diện tích thì năng suất cây trồng này cũng tăng hơn nhờ nông dân đầu tư trong công tác phòng, chống dịch bệnh đến ứng dụng khoa học, kỹ thuật ở các khâu chăm sóc.

Trang trại trồng rau trong nhà màng của nông dân huyện Cẩm Mỹ. Ảnh: Phan Anh

Hiện Đồng Nai cũng đã hình thành được nhiều vùng chuyên canh trồng rau như: cánh đồng rau Tân Yên, vùng rau Phúc Nhạc (xã Gia Tân 3, huyện Thống Nhất); vùng trồng rau ở xã Xuân Đông, Xuân Tây (huyện Cẩm Mỹ), vùng chuyên canh rau hẹ tại xã Suối Nho (huyện Định Quán) vùng trồng rau ở các xã Xuân Định, Xuân Bắc (huyện Xuân Lộc)…Ngoài ra, mô hình trồng rau đạt chuẩn VietGAP, GlobalGAP, trồng rau trong nhà màng, ứng dụng công nghệ cao ngày càng thu hút nhiều nông dân, chủ trang trại đầu tư.

Phan Anh

Nam Định: Nhân rộng mô hình kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi lợn

Nguồn tin: Báo Nam Định

Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh Nam Định về việc sắp xếp lại ngành chăn nuôi theo hướng an toàn bền vững, thời gian qua ngành Nông nghiệp đã phối hợp với các đơn vị chuyên môn, các địa phương và người chăn nuôi xây dựng một số mô hình mới. Một trong số đó là mô hình kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi lợn bước đầu cho thấy các hiệu quả tích cực.

Các đồng chí lãnh đạo tỉnh, Sở NN và PTNT kiểm tra thực tế để đánh giá hiệu quả phát triển nuôi lợn tại trang trại của gia đình anh Nguyễn Văn Tiệp, xã Yên Thắng (Ý Yên).

Trang trại của anh Nguyễn Văn Tiệp ở thôn Tam Quang, xã Yên Thắng (Ý Yên) là trang trại đầu tiên của tỉnh được hỗ trợ xây dựng mô hình kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi lợn. Anh Tiệp cho biết: Trước đây, gia đình tôi nuôi lợn theo phương pháp truyền thống bằng hệ thống chuồng hở nên không thể kiểm soát được dịch bệnh, trong khi thời tiết, khí hậu ngày càng diễn biến bất thường nên không thể bảo đảm an toàn cho đàn lợn nuôi. Bệnh dịch tả lợn châu Phi xuất hiện đã khiến gia đình tôi phải tiêu hủy gần 10 tấn lợn, thiệt hại hàng trăm triệu đồng. Đang loay hoay tìm hướng phát triển mới, được sự hỗ trợ của Sở NN và PTNT, UBND huyện Ý Yên hỗ trợ, Chi cục Chăn nuôi và Thú y hướng dẫn, tôi đã quyết định đầu tư gần 800 triệu đồng để xây dựng 10 ô chuồng khép kín với quy mô 500m2 để thực hiện mô hình nuôi lợn tuần hoàn. Toàn bộ hệ thống chuồng nuôi được xây dựng khép kín, trang bị quạt thông gió, cấp nước uống tự động, gắn camera giám sát, nền chuồng sử dụng đệm lót sinh học với nguyên liệu chủ yếu là trấu trộn chế phẩm sinh học. Thức ăn cho lợn được phối trộn các chủng vi sinh để đảm bảo “đầu ra” tiêu hóa của lợn đã hạn chế yếu tố gây mùi, giảm mùi chất thải của lợn khi thải ra môi trường. Nền đệm lót sinh học gồm trấu phối trộn với một số chủng vi sinh vật giúp khử mùi chất thải của lợn, đồng thời thúc đẩy nhanh tốc độ hoai mục trở thành phân hữu cơ không mùi. Trong cả chu trình nuôi, toàn bộ đàn lợn không phải tắm nên tiết kiệm được rất nhiều nước, góp phần giảm chi phí sản xuất; lợn vận động trong môi trường chuồng kín có kiểm soát về nhiệt độ, độ ẩm thoáng, sạch, không mùi hôi thối và được giám sát thường xuyên qua hệ thống camera nên đàn lợn luôn khỏe mạnh. Sau hơn 2 tháng tái đàn, hiện toàn bộ 240 con lợn thịt của gia đình anh Tiệp đang lớn nhanh, khỏe mạnh và đạt trọng lượng khoảng 65-70 kg/con. Dự kiến khoảng 1 tháng nữa anh xuất bán lứa lợn đầu tiên được nuôi theo phương pháp mới. Nền đệm lót sinh học cũng được 3 HTX nông nghiệp trên địa bàn đăng ký thu mua khi thay mới để làm phân hữu cơ trồng rau màu, gia tăng thêm nguồn thu nhập cho gia đình anh Tiệp.

Đồng chí Hoàng Thị Tố Nga, Phó Giám đốc Sở NN và PTNT cho biết: Để thúc đẩy các hộ chăn nuôi áp dụng mô hình chăn nuôi an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, mang lại hiệu quả kinh tế cao, thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, Sở NN và PTNT đã phối hợp với các huyện Ý Yên, Xuân Trường, Hải Hậu… hướng dẫn các chủ trang trại có đủ khả năng, kinh nghiệm xây dựng phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi lợn. Trước mắt ưu tiên hỗ trợ triển khai tại 4 trang trại ở các huyện: Ý Yên, Xuân Trường, Hải Hậu là những trang trại có đủ các điều kiện để áp dụng: diện tích nuôi lợn thịt trên nền đệm lót sinh học, tiết kiệm nước, ứng dụng công nghệ vi sinh trong chế biến thức ăn, xử lý chất thải làm phân hữu cơ phục vụ sản xuất nông nghiệp, giảm thiểu tối đa chất thải ra môi trường, đồng thời quản lý tốt các loại dịch bệnh, nhất là bệnh dịch tả lợn châu Phi, tạo ra sản phẩm thịt lợn an toàn, chất lượng cao. Theo quy định, các cơ sở chăn nuôi tham gia xây dựng mô hình phải nằm trong vùng quy hoạch phát triển chăn nuôi của địa phương; bảo đảm đủ diện tích xây dựng chuồng trại khép kín, tối thiểu 2m2/con, quy mô từ 100 con lợn trở lên; đã được chứng nhận an toàn dịch bệnh hoặc đủ điều kiện để xây dựng cơ sở an toàn dịch bệnh, an toàn sinh học; có đơn đăng ký thực hiện mô hình, có xác nhận của UBND cấp xã, Phòng NN và PTNT các huyện, thành phố; có đủ nguồn lực đối ứng để cải tạo, nâng cấp, sửa chữa chuồng trại và cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng theo yêu cầu của mô hình; cam kết duy trì mô hình tối thiểu 3 năm và tạo điều kiện cho công tác thông tin tuyên truyền, nhân rộng mô hình cho các cơ sở chăn nuôi khác cùng thực hiện. Các cơ sở được lựa chọn triển khai xây dựng mô hình sẽ được Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh hướng dẫn và giám sát; được lồng ghép các nguồn lực từ các chương trình, dự án khác để hỗ trợ triển khai có hiệu quả mô hình. Mới đây, sau khi kiểm tra thực tế mô hình kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi lợn tại xã Yên Thắng, đồng chí Nguyễn Phùng Hoan, Phó Chủ tịch UBND tỉnh khẳng định: Mô hình tận dụng tối đa các điều kiện tự nhiên để kiểm soát được môi trường nuôi cũng như dịch bệnh và bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm; chất thải chăn nuôi được xử lý khép kín và làm nguồn phân bón tốt cho trồng trọt, sản xuất rau hữu cơ. Đây là hướng phát triển chăn nuôi mà UBND tỉnh đang tập trung chỉ đạo các ngành chức năng, các địa phương tích cực triển khai thí điểm, đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm để nhân rộng ra toàn tỉnh; đặc biệt trong điều kiện hiện nay dịch bệnh, thời tiết diễn biến phức tạp và tỉnh ta là tỉnh không có nhiều diện tích đất để phát triển chăn nuôi quy mô lớn.

Để có thể nhân rộng mô hình phát triển kinh tế tuần hoàn trong chăn nuôi lợn ra diện rộng trong thời gian tới, theo đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh trước hết chúng ta nên tập trung vào trang trại quy mô vừa đủ khả năng xây dựng quy trình chăn nuôi khép kín gắn với thị trường tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi an toàn, hướng tới một nền chăn nuôi có điều kiện, có kiểm soát chặt chẽ dịch bệnh, môi trường và bảo đảm phát triển bền vững. Bản thân các hộ chăn nuôi lợn cần chủ động tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật mới, đồng thời vận dụng kinh nghiệm và cải tạo phù hợp với điều kiện của mình, góp phần xây dựng và hình thành nền chăn nuôi bền vững, an toàn, hiệu quả, giải quyết tốt vấn đề môi trường. UBND tỉnh giao Sở NN và PTNT phối hợp với các huyện: Xuân Trường, Hải Hậu, Ý Yên... giám sát, ghi chép, cập nhật và xây dựng báo cáo để tham mưu tổ chức hội thảo vào cuối năm nay nhằm tổng kết mô hình chăn nuôi mới có hiệu quả về kinh tế, quản lý tốt dịch bệnh, môi trường, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm làm cơ sở nhân rộng ra toàn tỉnh. Sở NN và PTNT nghiên cứu xây dựng thành quy trình chuẩn để phổ biến, hướng dẫn người chăn nuôi áp dụng thực hiện, góp phần hình thành nền chăn nuôi phát triển an toàn, bền vững, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng của ngành Nông nghiệp./.

Bài và ảnh: Văn Đại

Giải bài toán môi trường trong chăn nuôi

Nguồn tin: Hà Nội Mới

Hà Nội có tổng đàn gia súc, gia cầm lớn, nhưng chăn nuôi nhỏ lẻ vẫn chiếm 60%, chất thải từ chuồng trại trong khu dân cư gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân. Lời giải cho bài toán xử lý ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi là một hệ thống giải pháp với sự chung tay của các cơ quan chức năng, địa phương, doanh nghiệp và người chăn nuôi.

Trang trại chăn nuôi gà của một hộ dân ở xã Đường Lâm (thị xã Sơn Tây) được bố trí ở xa khu dân cư để hạn chế ô nhiễm môi trường.

Ô nhiễm môi trường từ chăn nuôi nhỏ lẻ

Gia đình ông Đặng Văn Mỳ, thôn Lưu Xá, xã Phú Túc (huyện Phú Xuyên) thường xuyên nuôi 30-50 con lợn. "Do diện tích đất của gia đình chật chội nên nhà ở và chuồng trại chăn nuôi gần với nhau, không bảo đảm vệ sinh môi trường. Tuy nhiên hiện cũng không có cách nào khác bởi địa phương chưa quy hoạch được khu chăn nuôi tập trung xa khu dân cư", ông Đặng Văn Mỳ nói. Còn ông Nguyễn Gia Hùng, thôn Bá Dương Nội, xã Hồng Hà (huyện Đan Phượng) nêu thực tế ở địa phương vẫn có nhiều hộ chăn nuôi trong khu dân cư nhưng chưa có hệ thống xử lý chất thải phù hợp nên ảnh hưởng tới môi trường sống của các hộ dân xung quanh. Trao đổi thêm về tình trạng này, Chủ tịch UBND xã Hồng Hà Nguyễn Mạnh Hà, cho biết: Hiện trên địa bàn xã vẫn còn hàng nghìn con lợn, bò chăn nuôi trong khu dân cư. Do quy mô chăn nuôi nhỏ lẻ, các hộ không đủ kinh phí đầu tư hệ thống chuồng trại khép kín nên gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến đời sống người dân.

Hiện tại, Hà Nội có gần 155 nghìn con trâu, bò; 1,3 triệu con lợn; 38,9 triệu con gia cầm. Trong khi đó, theo đánh giá của Sở NN&PTNT Hà Nội, trong chăn nuôi, ô nhiễm nước thải chủ yếu từ quá trình chăn nuôi lợn. Theo tính toán, chăn nuôi lợn thải ra môi trường khoảng 24 lít nước thải/con/ngày.

Về nguyên nhân dẫn tới tình trạng ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi, Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới (Sở NN&PTNT Hà Nội) Đỗ Quý Hùng nhận định: Hiện công tác thu gom chất thải chăn nuôi gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ. Các trang trại nằm xen kẽ trong khu dân cư có quỹ đất nhỏ hẹp, không đủ diện tích để xây dựng các công trình bảo vệ môi trường, xử lý chất thải…

Một trang trại chăn nuôi lợn theo hướng sinh học đã khắc phục hiệu quả tình trạng ô nhiễm môi trường tại xã Cấn Hữu (huyện Quốc Oai).

Chăn nuôi tập trung, xa khu dân cư

Thực tế cho thấy, để phát triển chăn nuôi bền vững, giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giải pháp căn cơ nhất là chăn nuôi tập trung xa khu dân cư, ứng dụng công nghệ xử lý sinh học... Bà Trương Kim Hoa, chủ trang trại Hoa Viên (xã Yên Bình, huyện Thạch Thất) cho biết: Trang trại đã lấy chất thải từ hàng nghìn con lợn để nuôi trùn quế, lấy phân bón cho các vườn rau hữu cơ. Hiện, mỗi năm trang trại xử lý 30.000 tấn chất thải, cho sản lượng hơn 10.000 tấn phân trùn quế và 5.000 tấn sinh khối trùn giống. Bà Trương Kim Hoa đề xuất, thành phố hỗ trợ liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân, hợp tác xã trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm từ trùn quế để tạo chuỗi sản xuất, tiêu thụ ổn định.

Ở góc độ địa phương, Trưởng phòng Kinh tế huyện Thanh Trì Nguyễn Thị Tuyết Anh thông tin: Trước mắt, để khắc phục ô nhiễm môi trường do chăn nuôi trong khu dân cư, huyện đang đẩy mạnh tuyên truyền đến các hộ chăn nuôi thực hiện nghiêm các quy định bảo vệ môi trường. Ngoài ra, thời gian tới, Thanh Trì sẽ ưu tiên đẩy mạnh chuyển đổi sản xuất nông nghiệp sang các vùng chuyên canh rau và nuôi trồng thủy sản thay vì phát triển chăn nuôi.

Trao đổi thêm về vấn đề này, Phó Chủ tịch UBND huyện Đan Phượng Nguyễn Thạc Hùng cho hay: Thực hiện chỉ đạo của thành phố, huyện đã đầu tư 2 khu chăn nuôi tập trung xa khu dân cư tại khu vực bãi Đáy, thôn La Thạch (xã Phương Đình) quy mô hơn 24,6ha và khu vực bãi Ngũ Châu (xã Trung Châu) quy mô 10,6ha. Bên cạnh đó, Đan Phượng đang xây dựng dự án chăn nuôi xa khu dân cư tại khu vực Trung Châu A (xã Trung Châu) với diện tích khoảng 50ha.

Về giải pháp tổng thể, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Huy Đăng nhấn mạnh, đối với các địa phương thuộc diện điều chỉnh của Nghị quyết số 02/2020/NQ-HĐND của HĐND thành phố ban hành quy định khu vực không được phép chăn nuôi và chính sách hỗ trợ di dời cơ sở chăn nuôi ra khỏi khu vực không được phép chăn nuôi trên địa bàn thành phố Hà Nội, chính quyền cần có giải pháp sớm triển khai thực hiện. Với các địa phương khác cần tuyên truyền, vận động người dân không chăn nuôi trong khu dân cư; có cơ chế, tổ chức đào tạo nghề, chuyển đổi nghề nghiệp, mở hướng làm ăn mới cho nông dân. Cùng với đó là tăng cường kiểm tra, giám sát, yêu cầu các hộ chăn nuôi thường xuyên vệ sinh chuồng trại không để ảnh hưởng đến môi trường, đời sống nhân dân; kiên quyết không cấp phép và xử lý nghiêm đối với doanh nghiệp, trang trại không bảo đảm các biện pháp bảo vệ môi trường.

Thời điểm hiện tại, Hà Nội đang đẩy mạnh phát triển chăn nuôi ở 15 vùng chăn nuôi tập trung và chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học, VietGAP. Đây cũng là giải pháp mang tính dài hạn để hướng đến mục tiêu kép là bảo đảm an toàn dịch bệnh, hạn chế ô nhiễm môi trường, đồng thời phát triển bền vững ngành chăn nuôi.

NGUYỄN MAI

Nuôi rắn hổ mang cho thu nhập hơn 2 tỉ đồng/năm

Nguồn tin: Báo Sóc Trăng

Anh Phan Thanh Bình, ấp Mỹ Lợi C, xã Mỹ Tú (Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng) đã nuôi rắn hổ mang gần 5 năm nay. Chính nghề “độc lạ” này đã đem lại nguồn thu nhập tốt cho gia đình.

Để mọi người có thể chiêm ngưỡng được con rắn hổ mang, anh Bình nhanh chân vào phía bên trong chuồng nuôi rắn được xây thành từng ô nhỏ dành riêng cho rắn trú ẩn. Để đảm bảo sự an toàn cho mọi người, lúc nào anh Bình cũng cầm chiếc móc trên tay và tay nắm đuôi của con rắn để giữ cho nó không chạy thoát.

Anh Phan Thanh Bình, ấp Mỹ Lợi C, xã Mỹ Tú (Mỹ Tú) khoe con rắn hổ mang sinh sản dài hơn 2m anh đang nuôi. Ảnh: THÚY LIỄU

Đưa con rắn vào nơi trú ngụ của nó, anh Bình khóa cửa chuồng nuôi cẩn thận rồi mới bắt đầu câu chuyện về nghề nuôi rắn. “Trước đây, tôi đã từng nuôi ba ba, nuôi trăn nhưng hiệu quả kinh tế không cao. Trong dịp tình cờ đi ra ngoài tỉnh chơi, thấy có người quen họ nuôi rắn hổ mang, tôi cảm thấy rất thích thú với con vật này nên về nhà cải tạo chuồng nuôi trăn, chuyển sang nuôi rắn vào giữa năm 2015. Chuồng nuôi chuẩn bị xong, tôi mua 70 con rắn về nuôi, mỗi con có trọng lượng tầm 200g, với mức giá 100.000 đồng - 120.000 đồng/con". Do chưa có kinh nghiệm nuôi nên đàn rắn mua về được thả nuôi theo hình thức thả lan trong chuồng, con đực, con cái lẫn lộn nhau sống chung trong một chuồng vài m2. Vì vậy, sau hơn một năm nuôi, đàn rắn chỉ còn 35 con, nguyên nhân rắn bị hao hụt là do anh không biết cách chăm sóc, chuồng nuôi không đảm bảo cho rắn sinh trưởng, điều kiện môi trường không thuận lợi, kèm theo đó rắn thả chung trong một chuồng lớn chúng cắn xé lẫn nhau. Nhận thấy kỹ thuật nuôi rắn chưa phù hợp, anh đã tìm tòi các thông tin trên mạng và học theo cách hướng dẫn cho những người nuôi trước nên đã xây dựng chuồng nuôi hợp lý hơn.

Cũng theo anh Bình, nếu như trước đây nuôi rắn chung một chuồng, thì nay tiến hành xây dựng chuồng kiên cố, xong sẽ phân chia từng ô nhỏ (hộc nhỏ) cho rắn ở trong đó, mỗi chuồng rắn rộng 4m2 có sức chứa 100 con rắn và trong mỗi hộc đó sẽ được bỏ thêm đất khô vào để cho rắn vệ sinh vào phần đất đó. Chuồng nuôi rắn phải che chắn cẩn thận, không cần phải dùng bóng đèn sáng cho chuồng nuôi, nhằm giúp rắn sống như ngoài môi trường tự nhiên. Với số đàn rắn nuôi ban đầu đến lúc trưởng thành chỉ còn 35 con, anh Bình tiếp tục gây dựng đàn rắn bố mẹ qua từng năm, mặc dù rắn chỉ đẻ 1 lần/năm nhưng số lượng trứng ấp nở đạt trên 97%, quân bình mỗi rắn cái đẻ từ 20 - 30 trứng, ấp nở ra tầm 25 con rắn con. Tính đến thời điểm hiện tại, đàn rắn đã có số lượng hơn 1.000 con rắn bố mẹ sinh sản, mỗi năm cho ra đời hơn 14.000 rắn giống và trong chuồng nuôi lúc nào cũng có 2.000 - 3.000 con rắn thương phẩm (rắn thịt) cung cấp cho các nhà hàng, quán ăn trong và ngoài tỉnh.

Với rắn thương phẩm thời gian nuôi tầm 1 - 1,5 năm, rắn có trọng lượng 2kg - 3kg mới xuất bán, giá rắn thương phẩm 700.000 - 750.000 đồng/kg. Riêng rắn giống, sau ấp nở trứng 2 tháng mới bán con giống cho người dân có nhu cầu nuôi, giá rắn giống dao động 100.000 - 150.000 đồng/con. Kể cả rắn bố mẹ sinh sản cũng được bán từ 700.000 đến 750.000 đồng/kg, tất cả giá bán rắn trên đều tùy thuộc vào thời điểm. Tổng thu nhập mỗi năm, anh Bình thu về từ tiền bán rắn hổ mang trên 2 tỉ đồng.

Hiện tại, trại nuôi rắn của anh Bình có tổng cộng là 4 chuồng nuôi, mỗi chuồng nuôi đều được phân chia khu vực nuôi rõ ràng như: khu vực nuôi dưỡng rắn giống, khu vực nuôi rắn thương phẩm, khu vực nuôi rắn giống bố mẹ nhằm thuận tiện cho khâu chăm sóc. Dự định tới, anh Bình sẽ mở rộng thêm 2 chuồng rắn nuôi mới, diện tích tầm 300m2 để tăng số lượng đàn rắn bố mẹ lên từ 2.000 con, khi đó số rắn giống sản xuất ra tầm 28.000 con/năm. Theo anh Bình số lượng con giống rắn hổ mang như trên mới đáp ứng đủ nhu cầu thị trường trong và ngoài tỉnh.

Anh Bình cho biết thêm: “Qua quá trình nuôi rắn gần 5 năm, tôi nhận thấy nuôi rắn hổ mang nhẹ công chăm sóc, rắn không dịch bệnh, thị trường tiêu thụ khá, giá trị kinh tế cao, người nuôi có lợi nhuận tốt. Do đó, đây là mô hình nuôi phù hợp với những người không có nhiều thời gian chăm sóc vật nuôi mà vẫn đem về nguồn thu nhập tốt, bởi rắn chỉ cần cho ăn 5 ngày/lần thức ăn chủ yếu là vịt, cá, ếch, nhái dễ kiếm trong tự nhiên, chuồng trại nuôi không cần phải vệ sinh, chỉ việc cho rắn ăn và bổ sung một số loại men tiêu hóa cần thiết để tạo cho đường ruột rắn khỏe mạnh là chờ thời gian rắn lớn bán”.

THÚY LIỄU

Phê duyệt chiến lược phát triển chăn nuôi tầm nhìn đến 2045

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký Quyết định 1520/QĐ-TTg phê duyệt chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2045.

Mục tiêu chung Chiến lược đặt ra là công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững và nâng cao sức cạnh tranh của ngành chăn nuôi. Đến năm 2030, sản xuất chăn nuôi nước ta thuộc nhóm các quốc gia tiên tiến trong khu vực. Sản phẩm chăn nuôi hàng hóa được sản xuất chủ yếu trong các trang trại, hộ chăn nuôi chuyên nghiệp bảo đảm an toàn sinh học, an toàn dịch bệnh, thân thiện với môi trường, đối xử nhân đạo với vật nuôi, đáp ứng yêu cầu chất lượng, an toàn thực phẩm cho tiêu dùng trong nước và tăng cường xuất khẩu.

Chiến lược xác định các mục tiêu cụ thể cho ngành chăn nuôi đó là, mức tăng trưởng giá trị sản xuất giai đoạn 2021-2025 trung bình từ 4-5%/năm; giai đoạn 2026-2030 trung bình từ 3-4%/năm. Sản lượng thịt xẻ các loại đến năm 2025 đạt từ 5,0-5,5 triệu tấn, trong đó: thịt lợn từ 63-65%, thịt gia cầm từ 26-28%, thịt gia súc ăn cỏ từ 8-10%; đến năm 2030 đạt từ 6,0-6,5 triệu tấn, trong đó: thịt lợn từ 59-61%, thịt gia cầm từ 29-31%, thịt gia súc ăn cỏ từ 10-11%. Trong đó, xuất khẩu từ 15-20% sản lượng thịt lợn, từ 20-25% thịt và trứng gia cầm.

Sản lượng trứng, sữa đến năm 2025 đạt từ 18-19 tỷ quả trứng và từ 1,7-1,8 triệu tấn sữa; đến năm 2030 đạt khoảng 23 tỷ quả trứng và 2,6 triệu tấn sữa.

Tỷ trọng gia súc và gia cầm được giết mổ tập trung công nghiệp đạt tương ứng khoảng 60% và 40% vào năm 2025, khoảng 70% và 50% vào năm 2030. Tỷ trọng thịt gia súc, gia cầm được chế biến so với tổng sản lượng thịt từ 25-30% vào năm 2025, từ 40-50% vào năm 2030; xây dựng vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh, đến năm 2025 xây dựng được ít nhất 10 vùng cấp huyện, đến năm 2030 ít nhất 20 vùng cấp huyện.

Tầm nhìn đến năm 2045, chăn nuôi Việt Nam là ngành kinh tế kỹ thuật hiện đại và được công nghiệp hóa ở hầu hết các khâu từ sản xuất, chế biến, bảo quản đến kết nối thị trường tiêu thụ sản phẩm, trong đó trình độ và năng lực sản xuất thuộc nhóm dẫn đầu các nước trong khu vực Đông Nam Á; khống chế và kiểm soát tốt các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, bệnh lây nhiễm sang người. Hầu hết sản phẩm chăn nuôi chính, bao gồm thịt, trứng, sữa được sản xuất trong các cơ sở chăn nuôi an toàn sinh học và thân thiện với môi trường; 100% sản phẩm thịt gia súc, gia cầm hàng hóa được cung cấp từ các cơ sở giết mổ tập trung, công nghiệp và trên 70% khối lượng sản phẩm chăn nuôi chính được qua sơ chế, chế biến công nghiệp, trong đó có khoảng 30% được chế biến sâu.

Để đạt được các mục tiêu trên, Chiến lược đặt ra các giải pháp như hoàn thiện các nhóm chính sách về phát triển chăn nuôi (chính sách đất đai, tài chính, tín dụng, thương mại, khuyến nông và thông tin tuyên truyền); nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh và bảo vệ môi trường; khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế; nâng cao năng suất, chất lượng giống vật nuôi; nâng cao chất lượng, hạ giá thành thức ăn chăn nuôi; nâng cao năng lực giết mổ và chế biến sản phẩm chăn nuôi; phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành chăn nuôi...

Minh Hiển

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop