Tin nông nghiêp ngày 12 tháng 12 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiêp ngày 12 tháng 12 năm 2019

Quảng Ninh: Thúc đẩy phát triển kinh tế trang trại

Nguồn tin:  Cổng TTĐT tỉnh Quảng Ninh

Phát triển các trang trại quy mô để sản xuất tập trung là hướng phát triển nông nghiệp bền vững, mang lại nguồn thu nhập lớn cho người nông dân. Tuy nhiên, hiện nay việc phát triển các trang trại ở tỉnh Quảng Ninh vẫn được đánh giá là chưa tận dụng hết được tiềm năng, lợi thế.

Mô hình trang trại tổng hợp của ông Nguyễn Danh Thuyên (thôn Đè E, xã Lê Lợi, huyện Hoành Bồ).

Một trong những hình thức phát triển kinh tế nông nghiệp được các địa phương lựa chọn, đó là khuyến khích tổ chức, cá nhân xây dựng, hình thành nên những trang trại chăn nuôi, trồng trọt tập trung, quy mô lớn và có áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật. Bên cạnh những cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ của Nhà nước, như: Miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp; vay vốn tín dụng; hỗ trợ mua con giống, cây giống; ứng dụng KHCN…, các địa phương tùy theo điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đều có chính sách khuyến khích riêng, tạo thuận lợi và thúc đẩy quá trình hình thành, phát triển kinh tế trang trại trong nhân dân.

Hiện trên địa bàn tỉnh có 472 trang trại đang hoạt động. Trong đó có: 17 trang trại hoạt động dịch vụ trồng trọt, 230 trang trại hoạt động dịch vụ chăn nuôi, 5 trang trại hoạt động dịch vụ lâm nghiệp, 142 trang trại hoạt động dịch vụ thủy sản và 78 trang trại hoạt động dịch vụ tổng hợp.

Phần lớn các trang trại đều tận dụng, khai thác hiệu quả phần đất nông, lâm nghiệp và thủy sản được chính quyền giao, cấp hằng năm, tạo ra nhiều giá trị sản phẩm hàng hóa và giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động tại địa phương, nhất là lao động thời vụ.

Mô hình trang trại trồng na của hộ ông Phạm Văn Căn (thôn Đìa Mối, xã An Sinh, TX Đông Triều).

Theo báo cáo của các địa phương, tổng số lao động trang trại sử dụng đến thời điểm này khoảng 2.625 người. Trong đó, lao động gia đình 1.344 người, lao động thuê thường xuyên 996 người, lao động thuê thời vụ 285 người, góp phần tạo ra giá trị hàng hóa lớn, với tổng giá trị thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh nông, lâm nghiệp và thủy sản trong các trang trại đạt trên 670 tỷ đồng/năm (trung bình trên 1,4 tỷ đồng/trang trại).

Điển hình trong số đó phải kể đến trang trại làm ăn hiệu quả của ông Bùi Ngọc Liêm, nuôi trồng thủy sản tại khu 9, phường Hải Hòa (TP Móng Cái). Trang trại của gia đình ông có quy mô sản xuất 13ha, với tổng giá trị tài sản đầu tư hạ tầng kỹ thuật, vốn sản xuất 65 tỷ đồng; tổng giá trị sản phẩm hàng hóa thu được từ sản xuất khoảng 10 tỷ đồng/năm. Hay như trang trại của ông Bùi Tiến Lưu, chăn nuôi lợn tại thôn An Biên, xã Lê Lợi (Hoành Bồ) có quy mô sản xuất 1,5ha, với tổng giá trị tài sản 6,5 tỷ đồng đầu tư hạ tầng kỹ thuật, vốn sản xuất, tổng giá trị sản phẩm hàng hóa thu được từ sản xuất khoảng 2 tỷ đồng/năm. Hoặc là trang trại tổng hợp của ông Nguyễn Danh Thuyên, thôn Đè E, xã Lê Lợi (Hoành Bồ) ứng dụng công nghệ cao trong trồng hoa Lan và nhân giống cá song, cá vược, cá chim vây vàng, có quy mô 3ha, tổng giá trị sản phẩm hàng hóa thu được từ sản xuất gần 10 tỷ đồng/năm.

Đó chỉ là 3 trong số rất nhiều trang trại trên địa bàn tỉnh đến nay làm ăn hiệu quả, mang lại giá trị kinh tế lớn từ việc tận dụng quỹ đất nông nghiệp và mạnh dạn đầu tư quy mô, có trọng tâm, trọng điểm vào những loại cây trồng, vật nuôi có thế mạnh.

Mặc dù vậy, theo nhiều chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, số trang trại được hình thành ở Quảng Ninh chưa tương xứng với tiềm năng, ruộng đất nông, lâm nghiệp còn để hoang hóa, gây lãng phí. Đáng chú ý, hiện trên địa bàn tỉnh có khoảng 461.570ha đất nông nghiệp, trong đó diện tích phát triển trang trại mới khoảng 2.410ha, bình quân mỗi trang trại sử dụng trên 5ha.

Hiện nay có một nghịch lý đang tồn tại, đó là: Nhiều tổ chức, cá nhân có tiềm lực, muốn đầu tư, hình thành nên các trang trại, thế nhưng lại không có ruộng đất; ngược lại, nhiều tổ chức, cá nhân có đất nhưng lại không có tiềm lực, thậm chí lợi dụng chính sách, giữ đất sau đó để hoang hóa, chờ sự đền bù của nhà nước khi có dự án lấy vào.

Để khuyến khích hình thành, phát triển thêm nhiều trang trại, các sở, ngành, địa phương cần tích cực vào cuộc rà soát những diện tích đất nông, lâm nghiệp chưa sử dụng có thể canh tác; nắm bắt tình hình tư tưởng trong cộng đồng dân cư về nhu cầu được sử dụng đất nông nghiệp để sản xuất, nhất là đối với những tổ chức, cá nhân có nhu cầu phát triển kinh tế trang trại theo hướng tập trung, bền vững, theo chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, nhất là đối với những sản phẩm OCOP. Từ đó khuyến khích, định hướng, làm cầu nối gắn kết giữa hai bên “bên có đất, bên có tiềm lực”, hình thành nên những trang trại kiểu mẫu.

Mạnh Trường

Nhà nước quan tâm, nông dân cũng phải tự đổi mới

Nguồn tin:  Báo Chính Phủ

Sáng nay, 10/12, tại TP. Cần Thơ, thủ phủ miền Tây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có buổi đối thoại, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, giải đáp những kiến nghị, vấn đề mà đại biểu nông dân, đại diện cho hơn 12 triệu hội viên, nông dân cả nước nêu ra.

Đây là cuộc đối thoại lần thứ 2 kể từ cuộc đối thoại đầu tiên của Thủ tướng với nông dân tại tỉnh Hải Dương vào tháng 4/2018.

Dự cuộc đối thoại do Hội Nông dân Việt Nam tổ chức với chủ đề “Tháo gỡ vướng mắc, liên kết 6 nhà, kiến tạo chuỗi giá trị nông sản" có 600 đại biểu, gồm lãnh đạo các Bộ, ngành Trung ương, địa phương, chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp và bà con nông dân.

Tại đây, Người đứng đầu Chính phủ sẽ trao đổi những chủ trương, chính sách lớn của nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Đồng thời, Thủ tướng lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, những khó khăn, vướng mắc trong phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới cũng như những đề xuất, kiến nghị, hiến kế... của nông dân.

Hoan nghênh, chào mừng 300 đại biểu nông dân dự đối thoại, phát biểu mở đầu sự kiện, Thủ tướng bày tỏ mong muốn bà con nêu ra các vấn đề thiết thực như sản xuất sản phẩm giá cao, cạnh tranh không được trong khi hội nhập quốc tế thì sản phẩm nước ngoài vào, làm gì để có sản phẩm tốt, giá thành hạ để bán cho người tiêu dùng trong nước và hướng về xuất khẩu. Nhà nước phải làm gì, người dân phải làm gì, Thủ tướng đặt vấn đề và cho biết, dự đối thoại còn có lãnh đạo của nhiều bộ, ngành, cơ quan liên quan đến sản xuất, tiêu thụ nông sản như Ngân hàng Nhà nước, “lãi suất làm sao để bà con vay được vốn, trong 6 nhà thì có nhà băng, nhà ngân hàng rất quan trọng”.

Như đối với Bộ Tài chính, có trách nhiệm gì trong hỗ trợ một số công việc thuộc phạm vi quản lý cho bà con nông dân. Hay với ngành Giao thông vận tải, nếu không giảm chi phí logistic, chi phí vận tải thì làm sao cạnh tranh được? Không có khoa học công nghệ, nghiên cứu giống mới, chịu hạn, mặn thì làm sao có thể chống chọi với thiên tai, thời tiết…

Thủ tướng cũng muốn nghe ý kiến của bà con vùng Đồng bằng sông Cửu Long, khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu. Đó cũng là lý do tổ chức cuộc đối thoại hôm nay tại TP. Cần Thơ, thủ phủ miền Tây. Sắp tới, theo Thủ tướng, sẽ tổ chức cuộc đối thoại tại khu vực miền Trung để chính sách sát hơn với các vùng.

Nhà nước quan tâm, Thủ tướng đặt vấn đề, người nông dân cũng phải tự đổi mới, phải vào hợp tác xã, liên kết làm sao. Tính chủ động của bà con rất quan trọng, nếu cứ làm bài cũ, sản xuất tràn lan, thâm dụng đất đai, ảnh hưởng đến môi trường, không tự tái cơ cấu thì khó thành công.

Thủ tướng bày tỏ mong muốn lắng nghe ý kiến sâu sắc, sát thực của các cấp Hội Nông dân và các bộ, ngành cần tham gia trả lời thẳng thắn, trách nhiệm.

Ban tổ chức cho biết, đã nhận 2.000 câu hỏi từ nông dân, chuyên gia, doanh nghiệp trong nước gửi đến Thủ tướng, tập trung vào 3 nhóm vấn đề gồm: sản xuất nông nghiệp sạch theo hướng phát triển bền vững, tiêu thụ nông sản; vấn đề đất đai, đầu tư xây dựng hạ tầng nông thôn; biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường...

Theo ông Thào Xuân Sùng, Chủ tịch Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, một trong những khó khăn, vướng mắc hiện nay của nông dân là vấn đề tiêu thụ nông sản ổn định, đảm bảo có lãi mà để giải quyết được, cần có các giải pháp tổng thể, đồng bộ và xuyên suốt… Đó là lý do để ban tổ chức lấy chủ đề buổi đối thoại như nêu trên.

Cổng TTĐT Chính phủ sẽ tiếp tục cập nhật thông tin về cuộc đối thoại này.

Đức Tuân

TP. Tân An (Long An) phát huy hiệu quả chương trình ‘Mỗi xã một sản phẩm’

Nguồn tin:  Báo Long An

Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” tại TP.Tân An, tỉnh Long An phát huy hiệu quả và đặt nhiều kỳ vọng sẽ “thổi” luồng gió mới góp phần thay đổi đời sống người dân, góp sức đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới, văn minh đô thị.

Phát huy thế mạnh địa phương

Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (chương trình OCOP) đang được các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh tích cực triển khai.Đây được xem là "đòn bẩy" thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển, tạo ra ít nhất tại mỗi xã một hoặc nhiều sản phẩm chủ lực, có lợi thế so sánh, tiến tới xây dựng thương hiệu, liên kết mở rộng sản xuất và tiêu thụ nông sản chủ lực.

Mô hình trồng rau thủy canh tại hộ ông Trương Văn Phích, ngụ phường 7, TP.Tân An

TP.Tân An có 3 sản phẩm: Bưởi, thanh long và rau an toàn được chọn thí điểm thực hiện “Mỗi xã, phường sản phẩm ứng dụng công nghệ cao”. Tuy mới ở giai đoạn đầu triển khai thực hiện nhưng mỗi xã, phường của thành phố đều đang có những cách làm phù hợp nhằm khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế sẵn có để đạt mục tiêu phát triển kinh tế và nâng cao thu nhập cho người dân. Theo ông Trương Văn Phích, ngụ phường 7, TP.Tân An, qua tuyên truyền và định hướng của địa phương, gia đình quyết định đầu tư trồng rau thủy canh với diện tích 2.000m2. Gia đình áp dụng các kiến thức, ứng dụng kỹ thuật vào sản xuất. Sản phẩm tạo ra có năng suất, chất lượng cao, được nhiều đơn vị đến thu mua, lợi nhuận bước đầu cao hơn so với trước.

Xã Bình Tâm có cây thanh long được đưa vào chương trình “Mỗi xã, phường sản phẩm ứng dụng công nghệ cao” của giai đoạn 2019-2020.“Hiện diện tích trồng thanh long trên địa bàn xã là 93,5ha, tổng sản lượng hàng năm trên 1.000 tấn. Xã chú trọng đến quy trình sản xuất nông nghiệp theo hướng an toàn sinh học, chứng nhận VietGAP cho trên 15ha. Có thể nói, tham gia vào chương trình OCOP được xem là một thuận lợi cho sản phẩm thanh long Bình Tâm” - Chủ tịch Hội Nông dân xã Bình Tâm - Huỳnh Văn Sơn thông tin.

Cần chiến lược phát triển hợp lý

Thực hiện chương trình OCOP, phường Tân Khánh lựa chọn bưởi da xanh là cây trồng thế mạnh để tăng thu nhập cho người dân theo hướng bền vững. Từ đó, địa phương tích cực tuyên truyền, vận động người dân phát triển trồng bưởi theo hướng hàng hóa, áp dụng khoa học - kỹ thuật trong quá trình trồng và chăm sóc. Khởi phát từ năm 2017 với một vài hộ trồng nhỏ, lẻ, đến nay phường thành lập được Tổ hợp tác Trồng bưởi công nghệ cao với 12 thành viên, diện tích 8ha. Đây cũng là tổ hợp tác trồng bưởi đầu tiên của tỉnh.Được biết, bưởi da xanh có giá cao, từ 40.000-50.000 đồng/kg. Với mức giá này, nông dân có thể thu lợi nhuận từ 200-250 triệu đồng/ha.

Trồng bưởi da xanh mang lại thu nhập cao cho người dân

Chủ tịch Hội Nông dân phường Tân Khánh - Lương Văn Vạn cho biết: “Đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường, phường khuyến khích người dân sản xuất sản phẩm bưởi sạch, an toàn theo hướng VietGAP. Người trồng bưởi phải không ngừng học hỏi để có kinh nghiệm phòng, chống bệnh cho cây. Hội Nông dân phường thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, áp dụng tiến bộ kỹ thuật; đồng thời, tổ chức cho hội viên nông dân tham quan, học tập kinh nghiệm trồng bưởi ở các tỉnh: Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long,… từ đó phát huy thế mạnh của sản phẩm. Ngoài ra, hội cũng tham mưu cấp trên những định hướng phù hợp, chiến lược để hỗ trợ nông dân trong quá trình sản xuất”.

TP.Tân An áp dụng nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ nên ngành nông nghiệp bước đầu thu được nhiều kết quả khả quan. Việc thực hiện liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản hàng hóa, hướng đến sản xuất nông nghiệp tập trung, quy mô lớn và an toàn sinh học. Qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, cải thiện đời sống người dân khu vực nông thôn với bình quân thu nhập đầu người năm 2018 đạt 58,46 triệu đồng/năm, tạo tiền đề quan trọng để thành phố triển khai thực hiện chương trình OCOP.

Bên cạnh kết quả đã đạt, sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thành phố cũng còn những hạn chế nhất định: Chất lượng, mẫu mã đa phần sản phẩm chưa đáp ứng được các yêu cầu, chưa tạo được sức hút với khách hàng; sức cạnh tranh, thị trường tiêu thụ các sản phẩm chủ yếu vẫn bó hẹp phạm vi trong tỉnh, và liên tục trong tình trạng “được mùa, rớt giá”. Nguyên nhân chủ yếu là do sản xuất ở quy mô nhỏ, lẻ, thủ công, thiếu sự liên kết giữa các “nhà” với nông dân, thiếu đầu tư về khoa học - kỹ thuật, công nghệ, vốn, nguồn nhân lực. Mặt khác, sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn thành phố vẫn còn mang tính đại trà, chưa mang nét đặc trưng của địa phương; thị trường tiêu thụ của phần lớn sản phẩm ở phạm vi hẹp, quy mô sản xuất còn hạn chế; việc xây dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm nông nghiệp chưa được quan tâm đúng mức;…

“Để giải bài toán này, ngành nông nghiệp thành phố đang sát cánh cùng các ngành liên quan, các cấp chính quyền xây dựng lộ trình phát triển OCOP hợp lý, sát với điều kiện thực tiễn; quan tâm đến vấn đề đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực cho phát triển các sản phẩm địa phương theo đúng mục tiêu chương trình OCOP hướng tới: “Nhà nước chỉ định hướng và tạo cơ chế, còn người dân là chủ thể sáng tạo để có những sản phẩm mang tính đặc trưng, góp phần gia tăng giá trị và khả năng cạnh tranh trong nước cũng như tham gia vào các chuỗi giá trị xuất khẩu ra nước ngoài”” - đại diện Phòng Kinh tế TP.Tân An thông tin.

Như vậy, chương trình OCOP nếu được triển khai tốt sẽ rất thiết thực, thúc đẩy đầu tư phát triển sản xuất gắn với chế biến, kết nối thị trường tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị, góp phần phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập cho người dân. Thêm vào đó, chương trình sẽ thổi một luồng gió mới giúp các địa phương đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới từ nâng cao tiêu chí thu nhập, giảm tỷ lệ hộ nghèo./.

Châu Sơn

Vì sao trái cây Việt chưa rộng đường xuất khẩu?

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Là nước bốn mùa trái cây nhiệt đới, nhưng trái cây Việt Nam đang bị cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Khi trái cây nhập ngoại ồ ạt, năm 2019 cũng là năm xoài cát, thanh long, vú sữa, bưởi… đồng loạt đẩy vào tiêu thụ nội địa với giá thấp hơn nhiều so các năm trước.

Là doanh nghiệp đưa nhiều trái cây Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng Giám đốc Công ty Vina T&T Group, chia sẻ các nước rất chú trọng tiêu chuẩn an toàn trong sản phẩm xuất khẩu và cả sản phẩm sử dụng trong nước. Họ đã xây dựng được thói quen sản xuất và tiêu dùng thực phẩm là phải sạch. Trái cây nước ngoài buộc phải đầu tư công nghệ bảo quản an toàn từ khâu thu hoạch đến khi ra siêu thị. Ngược lại, mạng lưới thu hoạch và phân phối của nước ta rất ít nơi làm được những vấn đề này để có thể nâng cao giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu.

Có rất nhiều nguyên nhân, như: nông dân sản xuất không ổn định sản lượng, chất lượng bấp bênh và thiếu nhà máy chế biến, xử lý đạt chuẩn xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp muốn đầu tư, nhưng lại thiếu chính sách, nguồn vốn.

Đơn cử, nông dân Australia trồng nho với cánh đồng mẫu lớn để sử dụng cơ giới hóa. Trang bị kho lạnh tại trang trại, đầu tư công nghệ chiếu xạ để ngay sau khi thu hoạch xong, nho vẫn đảm bảo độ tươi. Bên cạnh đó, Australia có hệ thống quản lý chất lượng và truy xuất nguồn gốc chặt chẽ và tất cả người trồng trọt đều phải tham gia đào tạo kỹ lưỡng trước khi được cấp phép xuất khẩu.

Là nước bốn mùa trái cây nhiệt đới, nhưng trái cây Việt Nam đang bị cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Khi trái cây nhập ngoại ồ ạt, năm 2019 cũng là năm xoài cát, thanh long, vú sữa, bưởi… đồng loạt đẩy vào tiêu thụ nội địa với giá thấp hơn nhiều so các năm trước. 2019 cũng là năm có thêm nhiều loại trái cây Việt Nam được cấp phép xuất ra nước ngoài, nhưng kim ngạch xuất khẩu chung lại giảm.

Theo Hiệp hội Rau quả Việt Nam, 9 tháng qua, rau quả xuất khẩu chỉ đạt 2,82 tỷ USD, giảm 5,3% so với cùng kỳ năm 2018. Đã đến lúc ngành nông nghiệp Việt Nam phải mở một cuộc vận động nông nghiệp xanh và có chính sách hỗ trợ để 3 nhà: Nhà nước - Nhà nông - Nhà doanh nhân… nhanh chóng liên kết đầu tư từ giống cây đến công nghệ sau thu hoạch, để đưa ra thị trường trái cây nhiệt đới ngon, sạch, rẻ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xanh, sạch trong nước và mở rộng xuất khẩu.

QUÝ NGỌC

Từ hộ nghèo vươn lên tỷ phú

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Giữa vùng đất trồng điều Đạ P'Loa, một nông hộ đã vươn lên làm giàu từ những trái sầu riêng cơm vàng hột lép. Đi làm thuê làm mướn, gia đình có sổ hộ nghèo, vợ chồng người nông dân ấy đã vượt khó khăn trăm bề để nay mỗi năm thu về bạc tỷ. Đó là anh Nguyễn Văn Phố, Thôn 2, xã Đạ P'Loa, huyện Đạ Huoai (tỉnh Lâm Đồng).

Chị Thủy tỉa hoa sầu riêng trong vườn nhà. Ảnh: D.Quỳnh

Người làm thuê nổi tiếng

Anh Nguyễn Văn Phố, nông dân ở Thôn 2, xã Đạ P'Loa chia sẻ với nụ cười rất thoải mái: “Nói đâu xa, mươi năm trước, tôi là người làm thuê nổi tiếng khắp xã. Ngày đi làm, đêm kéo nước tưới cà phê, tưới sầu riêng mà gia đình vẫn còn nghèo. Lúc đó khổ lắm, Nhà nước cho sổ hộ nghèo. Mãi hết năm 2012 nhà tôi mới thoát nghèo”.

Anh Phố chia sẻ, anh vốn gốc người miền Tây. Năm 2006, theo gia đình lên Tây Nguyên làm vườn, anh cũng được cha mẹ chia cho ít rẫy điều. Điều năng suất thấp, vợ chồng anh không đủ sống. Để nuôi con, anh vừa làm thuê, vừa tính toán phải thay đổi cây trồng mới mong có thu nhập. Vậy là năm 2006, anh xuống giống 1 ha cà phê. Không may mắn, cà phê anh chăm rất tốt nhưng giá quá thấp, cả vùng cà phê lao đao vì khó khăn. Ngắm xung quanh, một vài gia đình có trồng ít sầu riêng lấy trái ăn chơi nhưng cũng có trái. Vậy là anh Phố trục bớt cà phê, xuống giống trăm cây sầu riêng con. Anh khảo sát rất kỹ, trồng hai giống Ri-6 và Monthong, sầu riêng cơm vàng hột lép ngon nổi tiếng.

Cà phê thu nhập thấp, sầu riêng lâu ra trái, vợ chồng anh làm thuê chuyên nghiệp. Chị Lê Thị Thanh Thủy, vợ anh kể, ban ngày đi làm thuê, ban đêm hai vợ chồng làm vườn nhà. Những ngày mùa điều, ban ngày đi nhặt hạt, ban đêm hai vợ chồng trằn lưng kéo hàng trăm mét ống tưới cà phê, tưới sầu riêng. Rồi từ từ, hai vợ chồng đổi thành đi làm thuê 20 ngày, 10 ngày chăm sóc vườn nhà. Cứ thế cho đến ngày hôm nay, anh chị đã trở thành tỷ phú nông dân, hai người vẫn giữ được lòng hăng say lao động, nhớ mãi những vất vả, khó khăn để luôn luôn phấn đấu.

Chủ động viết đơn thoát hộ nghèo

Thấy gia đình anh chị quá khó khăn, năm 2011, xã Đạ P'Loa cấp cho gia đình sổ hộ nghèo kèm theo nhiều hỗ trợ. Tới vụ năm 2012, lần đầu tiên sầu riêng ra trái, anh chị bàn nhau viết đơn thoát nghèo. Anh Phố kể: “Lúc đó sầu riêng cũng mới ra trái, giá đâu 10-15 ngàn/kí. Nhà tôi bán cả sầu, cả cà phê được 80 triệu. Nhìn quanh thấy nhiều bà con còn khó khăn hơn mình nên hai vợ chồng chủ động làm đơn xin trả hộ nghèo, để xuất cho bà con khác”.

Lá đơn thoát nghèo đã đánh dấu bước tiến mới trong cuộc đời vợ chồng tỷ phú chân đất Phố - Thủy.

Ban đầu, trồng sầu riêng là trồng xen trong vườn cà phê với mục tiêu lấy ngắn nuôi dài, thu cà phê chờ ngày sầu riêng ra trái. Khi vườn sầu riêng ra trái, có thu nhập tốt, anh chị trục hết cà phê, xuống giống sầu riêng. Hiện anh chị đã có 220 cây đang cho trái đều đặn và một số cây còn non. Với giá cả sầu riêng hiện khá ổn định, mỗi năm, tiền thu từ sầu riêng đạt xấp xỉ 2 tỷ đồng và xu thế sẽ còn tăng lên cùng với sự trưởng thành của cây. Anh Phố khoe cây sầu riêng “bảo bối” 12 năm tuổi, mỗi năm cho tới 7 tạ trái và khẳng định, trồng và chăm bón đúng kỹ thuật, một cây sầu riêng trưởng thành cho 4 tạ trái/vụ là bình thường.

Ngắm vườn sầu riêng nhà anh chị Phố - Thủy thật mát mắt. Vườn sạch, hệ thống tưới được đưa tới từng gốc cà phê. Anh Phố chia sẻ, cây sầu riêng ưa nước nhưng không được úng. Cây phải trồng thưa vì để giáp tán là cây kém phát triển. Sầu riêng ưa phân hữu cơ, mỗi năm anh Phố dùng tới 30 kg phân hữu cơ/gốc. Đồng thời, vào những thời điểm cần phải sử dụng thêm phân đạm-lân-kali cân đối. Anh Phố đang dự định cải tạo vườn, lên liếp, đào mương để thích ứng với biến đổi khí hậu, mưa quá nhiều gây úng rễ, cây sầu riêng năng suất thấp, thậm chí chết ngộp.

Ông K’Nõi, Chủ tịch Hội Nông dân xã Đạ P'Loa đánh giá, vợ chồng anh chị Nguyễn Văn Phố - Lê Thị Thanh Thủy thực sự là nông dân vươn lên từ hộ nghèo. Với tấm gương vượt khó làm giàu, anh đã được nhiều danh hiệu nông dân sản xuất giỏi. Hiện anh Phố là Chi hội trưởng Chi hội nông dân, luôn nhiệt tình với công tác hội, chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật trồng sầu riêng cho bà con xung quanh với mong mỏi hỗ trợ mọi nhà thoát nghèo như gia đình anh đã thoát nghèo.

DIỆP QUỲNH

Bà Rịa - Vũng Tàu: Vùng bưởi Sông Xoài chờ ‘hốt bạc’ vụ Tết

Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Hàng ngàn tấn bưởi da xanh Sông Xoài nức tiếng đang được nông dân chăm sóc kỹ càng, chuẩn bị tung ra bán mùa Tết. Có người sẽ thu về trên dưới 2 tỷ đồng.

Vườn bưởi của gia đình anh Hồ Hoàng Kha ước đạt khoảng hơn 30 tấn trong dịp Tết Nguyên đán.

Những ngày này, vườn bưởi da xanh của anh Hồ Hoàng Kha (ấp Phước Bình, xã Sông Xoài, TX.Phú Mỹ) lúc lỉu quả, ước chừng trọng lượng đạt 1-1,5kg/trái. Vườn bưởi của anh Kha có hơn 2.500 cây. Anh Kha xử lý khoảng 1.500 cây cho vụ Tết Nguyên đán Canh Tý 2020. Anh Kha cho biết, trồng bưởi Tết phải tính chính xác thời điểm cho ra bông, đậu trái. Nếu tính sai sẽ làm “lệch” việc thu hoạch, bưởi chín quá hay non quá đều không được. Vườn bưởi này được anh tuốt lá, bón phân và tưới nước từ tháng 4/2019. Theo tính toán của anh Kha, trung bình mỗi năm, vườn bưởi đạt năng suất 60 tấn, trong đó vụ Tết đạt hơn 30 tấn, giá bán từ 60.000-70.000 đồng/kg, anh thu về khoảng 1,5 - 1,8 tỷ đồng.

Hiện nay, bà con trồng bưởi ở Sông Xoài rất có kinh nghiệm xử lý bưởi trái vụ. Nhờ vậy nhà vườn có thể thu hoạch bưởi quanh năm. Riêng vụ Tết có giá bán cao hơn hẳn so với các vụ trong năm từ 20-30%, do vậy người trồng bưởi có thể thu tiền tỷ.

Ông Phạm Anh Ta (ấp Phước Bình, xã Sông Xoài) cho biết: “Thời tiết năm nay khá tốt nên năng suất bưởi ổn định. Hơn 1,5ha với 400 gốc bưởi, trong đó có hơn 100 gốc phục vụ Tết, mỗi năm cho 2 vụ trước và sau Tết, cộng thêm 1 vụ trái mùa cũng giúp tôi có thu nhập từ 1,2 -1,5 tỷ/năm”.

Sông Xoài là một trong những địa phương có diện tích bưởi da xanh lớn nhất tỉnh. Theo ông Nguyễn Văn Thọ, Chủ tịch Hội Nông dân xã Sông Xoài, từ một vài hộ trồng đơn lẻ, đến nay diện tích trồng bưởi đã tăng lên hơn 160ha, trong đó trọng điểm là ấp Phước Bình với 150ha, còn lại là các ấp Sông Xoài 1, Sông Xoài 2, Cầu Ri, Cầu Mới, ấp 3. Diện tích đang cho thu hoạch khoảng 60ha. Trái bưởi da xanh Sông Xoài được nhận xét chất lượng ngon, vị ngọt thanh, tép bưởi to, màu hồng đậm, khô ráo. Hiện bưởi da xanh rất được ưa chuộng trên thị trường.

Vườn bưởi của ông Phạm Anh Ta hiện quả đã đạt trọng lượng từ 1-1,5kg/quả, sẵn sàng phục vụ Tết Nguyên đán Canh Tý 2020.

Theo ước tính vụ Tết Nguyên đán Canh Tý 2020, xã Sông Xoài sẽ cung cấp cho thị trường 1.000-1.500 tấn, riêng HTX Bưởi da xanh Sông Xoài khoảng 250-300 tấn bưởi. Ông Hồ Văn Kiệt, Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX Bưởi da xanh Sông Xoài cho biết: Hiện HTX bưởi Sông Xoài có 135 thành viên với hơn 180ha diện tích. Với mô hình VietGAP, nông dân quen dần với hình thức ghi chép trong sản xuất, sử dụng phân, thuốc theo đúng thời gian, liều lượng nhằm đảm bảo an toàn cho sản phẩm sau khi thu hoạch. Hiện nay, sản phẩm bưởi da xanh Sông Xoài đã đạt được 4 tiêu chí theo tiêu chuẩn VietGAP đề ra gồm: tiêu chuẩn về kỹ thuật sản xuất; an toàn thực phẩm; môi trường làm việc an toàn; truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Nhờ vậy HTX nhận được nhiều đơn đặt hàng ngoài nước, tuy nhiên sản lượng còn ít nên HTX đang có kế hoạch mở rộng số lượng thành viên sản xuất bưởi VietGAP để nâng tổng diện tích trồng bưởi theo chuẩn an toàn lên cao hơn nữa. Khi đó, sản lượng bưởi của HTX mới đủ cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Đây là nền tảng giúp bưởi Sông Xoài có thể vươn xa ra thị trường trong và ngoài nước.

Bài, ảnh: KIM HỒNG

Nhu cầu xuất khẩu cao, giá xoài Đài Loan tăng

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Thương lái thu mua xoài Đài Loan tại xã Trường Long, huyện Phong Điền, TP Cần Thơ.

Giá trái xoài giống Đài Loan trồng tại nhiều tỉnh, thành vùng ĐBSCL hiện tăng từ 2.000-5.000 đồng/kg so với cách nay hơn 1 tháng do được nhiều tiểu thương và doanh nghiệp đẩy mạnh thu mua xuất khẩu.

Tại nhiều quận, huyện ở TP Cần Thơ và các tỉnh lân cận: Hậu Giang, An Giang... xoài Đài Loan (xoài bao trái, vỏ trái xoài màu vàng) có giá 35.000-37.000 đồng/kg; xoài Đài Loan loại vỏ màu xanh có giá khoảng 25.000-27.000 đồng/kg. Theo doanh nghiệp và tiểu thương kinh doanh trái cây, giá trái xoài Đài Loan có khả năng còn tăng trong thời gian tới do nhu cầu xuất khẩu tăng mạnh, nhất là xuất khẩu sang thị trường Đài Loan, Trung Quốc. Thời điểm này, nông dân trồng xoài tại nhiều địa phương ở Trung Quốc không xử lý được cho xoài ra trái nghịch mùa như nước ta nên đã tăng cường nhập khẩu trái xoài phục vụ nhu cầu tăng cao của thị trường vào dịp cuối năm và đầu năm mới 2020.

Tin, ảnh: KHÁNH TRUNG

Gò Công Tây (Tiền Giang): Mô hình điểm sản xuất lúa hữu cơ, sản xuất lúa an toàn đạt chuẩn xuất khẩu Châu Âu

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang

Vừa qua, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Gò Công Tây (tỉnh Tiền Giang) phối hợp với Công ty Dịch vụ Thương mại Phân bón HK và hơn 50 nông dân ấp Thạnh Lạc, xã Đồng Thạnh, huyện Gò Công Tây đã tổ chức báo cáo kết quả "Mô hình điểm sản xuất lúa hữu cơ, sản xuất lúa an toàn đạt chuẩn xuất khẩu Châu Âu".

Mô hình có quy mô 100 ha được thực hiện từ vụ Hè thu 2018 tại ấp Thạnh Lạc, xã Đồng Thạnh. 80% các giống lúa trong mô hình là giống lúa thơm VD20, Nàng Hoa được áp dụng kỹ thuật gieo sạ lan với mật độ từ 100 - 120kg/ha.

Tham gia mô hình, nông dân được nhận hỗ trợ 100 kg lúa giống, 54 kg phân hữu cơ/ha. Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Gò Công Tây kết hợp với Công ty Dịch vụ Thương mại HK tổ chức tập huấn đầu vụ, hỗ trợ kỹ thuật, hướng dẫn nông dân bón phân, phun thuốc có kế hoạch gắn với ứng dụng các chương trình "3 giảm, 3 tăng", "1 phải, 5 giảm" và trồng hoa trên bờ ruộng để thu hút thiên địch.

Qua 4 mùa vụ, hơn 90% hộ nông dân suốt vụ không phun thuốc trừ sâu. Ghi nhận tại các ruộng lúa tham gia mô hình cho thấy: Tỷ lệ sâu, bệnh thấp, các loài thiên địch cư trú đa dạng, năng suất lúa đạt bình quân 5 tấn/ha, tương đương với năng suất lúa ngoài mô hình, giá bán cao hơn từ 500 - 700 đồng/kg. Nhìn chung, mô hình đã giúp nâng cao chất lượng hạt lúa, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân, đồng thời giảm chi phí sản xuất, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, góp phần bảo vệ sức khỏe nông dân và tạo cân bằng sinh thái đồng ruộng.

Tại hội thảo, nông dân trên địa bàn huyện đã có nhiều ý kiến đóng góp. Trong đó, người dân kiến nghị khi tham gia mô hình cần có sự hỗ trợ bao tiêu sản phẩm, giá cả ổn định để nông dân yên tâm sản xuất.

Thời gian tới, Ủy ban nhân dân huyện Gò Công Tây sẽ liên kết với các doanh nghiệp thu mua, nhằm tìm đầu ra cho nông dân, đồng thời tiếp tục duy trì và có kế hoạch từng bước nhân rộng mô hình.

Kim Lan

Tìm thị trường cho trám đen Xứ Lạng

Nguồn tin: Báo Công Thương

Cây trám đen Lạng Sơn đã mang lại ý nghĩa lớn trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng, bảo vệ được nguồn gen quý và phát triển loại lâm sản có giá trị kinh tế cho xứ Lạng.

Cách đây khoảng 80 năm, cây trám đen được đưa vào trồng nhiều ở các xã miền núi huyện Văn Quan, Cao Lộc, Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn. Do là loại cây dễ trồng, thích hợp với vùng đồi núi, nên trám đen phát triển khá tốt tại địa phương và mỗi năm cho thu hoạch một mùa kéo dài từ tháng 7 - 9 âm lịch.

Cây trám đen đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân xứ Lạng

Trước đây, cây trám đen chỉ được trồng để lấy gỗ hoặc làm thực phẩm dân dã cho bữa ăn hàng ngày ở nông thôn. Vài năm gần đây, nhận thấy giá trị kinh tế từ loại cây này, nhiều địa phương đã chú trọng nhân giống cây và hướng tới xây dựng thương hiệu trám đen Lạng Sơn.

Số liệu thống kê ở huyện Hữu Lũng – một trong hai huyện điểm của tỉnh Lạng Sơn đang tích cực nâng cao giá trị sản phẩm trám đen cho thấy, toàn huyện có khoảng 10 ha trám đen, trong đó có khoảng 4 ha cây trồng từ hạt trên 20 năm tuổi. Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có một số hộ dân mua cây trám ghép về trồng với diện tích khoảng 6 ha. Vụ thu hoạch trám đen năm nay năng suất giảm so với mọi năm nhưng được giá cao hơn, giá bán khoảng 70.000 - 80.000 đồng/kg. Quả trám đen sau khi tách lấy thịt, hạt trám thu lại và bán với giá 40.000 - 50.000 đồng/kg. Với giá bán như vậy, trung bình mỗi vụ, nhiều hộ nông dân xứ Lạng có thể thu nhập tới cả chục triệu đồng từ mỗi cây trám đen.

Để đáp ứng nhu cầu thị trường, huyện Hữu Lũng đã triển khai Đề tài “Tuyển chọn và nhân giống trám đen”, với tổng kinh phí đầu tư trên 1,4 tỷ đồng, nhằm mở rộng diện tích, nâng cao giá trị kinh tế của cây trám đen. Theo đó, huyện đã tiến hành cấp phát giống cây và phân bón cho các hộ tham gia dự án trên địa bàn. Đây là những cây được nhân giống bằng phương pháp lấy mắt ghép từ 18 cây trám đã được tuyển chọn tại địa phương. Bên cạnh đó, huyện cũng tiến hành mở các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật giúp người dân hiểu và nắm rõ kỹ thuật trồng, chăm sóc thâm canh cây trám đen.

Cùng với Hữu Lũng, huyện Văn Quan cũng đã thực hiện Dự án “Xây dựng nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm trám đen của huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn”, với quyết tâm xây dựng nhãn hiệu tập thể cho sản phẩm trám đen của huyện Văn Quan. Qua đó, góp phần tìm thị trường bền vững cho quả trám xứ Lạng.Theo chuyên gia, với việc mở rộng diện tích trồng, cùng những đầu tư ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến… sẽ góp phần nâng cao giá trị sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước, đem lại giá trị kinh tế cho người dân xứ Lạng từ quả trám đen.

Trước đây, thị trường tiêu thụ của cây trám đen chủ yếu tại địa bàn tỉnh, tuy nhiên, nhờ có giá trị dinh dưỡng cao nên sản phẩm trám đen Lạng Sơn đã mở rộng ra địa bàn các tỉnh lân cận như Bắc Giang, Hà Nội...

Thu Trang

Sương muối trắng vườn, hơn 1.000 ha cây trồng ở Sơn La bị thiệt hại

Nguồn tin: VOV

Tình trạng sương muối kéo dài, nhiệt độ giảm sâu đã khiến hơn 1.000 ha cây trồng ở Sơn La bị thiệt hại.

Tại Sơn La, nhiều ngày nay, về đêm và sáng sớm xuất hiện sương muối phủ trắng khắp nơi. Nhiệt độ giảm sâu, lạnh buốt đã gây ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của người dân.

Theo thống kê mới nhất của Ban chỉ huy phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tỉnh Sơn La, rét đậm, rét hại kéo dài đã làm thiệt hại hơn 1.000ha chè, cà phê, nhãn, xoài…, tập trung chủ yếu tại các huyện Mai Sơn và Thuận Châu. Tại huyện Quỳnh Nhai cũng đã có 2 con trâu, bò bị chết rét.

Sương muối phủ trắng vườn.

Trước tình trạng này, Văn phòng thường trực Ban chỉ huy phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tỉnh Sơn La đã có văn bản gửi các địa phương về ứng phó với rét đậm, rét hại, băng giá, sương muối.

Trước mắt, đối với diện tích cây cà phê bị hại nhẹ đến trung bình, ngành Nông nghiệp khuyến cáo bà con tiến hành cắt bỏ ngay các bộ phận bị cháy gồm lá, hoa, quả, cành càng sớm càng tốt, hoặc cưa đốn 1/3 – 1/2 thân, thu gom cành, lá và cỏ dại ủ gốc để hạn chế thoát hơi nước. Tưới nước và bón phân sớm để tạo cành mới và nuôi trái kịp thời.

Năm 1999, tình trạng sương muối kéo dài cũng đã gây thiệt hại lớn cho sản xuất, nhất là diện tích cây cà phê của tỉnh Sơn La./.

Thanh Thủy/VOV-Tây Bắc

Vĩnh Long: Vùng nguyên liệu khoai lang- thay đổi để thích nghi

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Trước nay, khoai lang Bình Tân (Vĩnh Long) chủ yếu xuất tiểu ngạch sang Trung Quốc. Nhưng giờ thị trường này đang siết chặt thương mại tiểu ngạch, hướng sang chính ngạch.

Đặc biệt, từ ngày 1/5/2019, nông sản Việt Nam hay khoai lang Bình Tân nói riêng, muốn xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc phải đảm bảo chất lượng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Trong đó, có 2 yêu cầu quan trọng là có mã số vùng trồng (chứng nhận vùng sản xuất) và mã số cơ sở đóng gói.

Tập đoàn Việt Phúc và Phòng Kinh tế hạ tầng huyện Bình Tân ký biên bản ghi nhớ xây dựng hệ thống liên kết thu mua, phân phối, xuất khẩu khoai lang Bình Tân.

Tại hội thảo xây dựng chuỗi liên kết tiêu thụ, phân phối, xuất khẩu khoai lang Bình Tân mới đây, nhiều nông dân quan tâm đến quy trình sản xuất đạt tiêu chuẩn để khoai lang Bình Tân đi chính ngạch. Ông Nguyễn Văn Liêm- Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp- PTNT, giải đáp đó là quy trình VietGAP.

Theo đó, việc sử dụng phân, thuốc bảo vệ thực vật phải nằm trong danh mục được phép sử dụng trên cây khoai lang, đảm bảo thời gian cách ly. Hiện Trung tâm Chất lượng nông lâm thủy sản Vùng 6 phối hợp với Sở Nông nghiệp- PTNT để chứng nhận tiêu chuẩn VietGAP cho vùng khoai lang ở Bình Tân.

Ông Nguyễn Văn Liêm cho biết thêm, ngành nông nghiệp sẽ cùng đồng hành với người trồng khoai bằng cách tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật cũng như xây dựng các dự án để có chính sách hỗ trợ chứng nhận VietGAP, trang thiết bị phục vụ sản xuất.

Tuy nhiên, bà con nông dân cần phải đáp ứng được các yêu cầu của doanh nghiệp như sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn, có chứng nhận, đảm bảo thời gian cách ly phân, thuốc theo quy trình. Việc sản xuất khoai lang theo tập quán cũ thì khó bán với giá cao.

Có một thực tế là gần đây, nhiều chủ vựa khoai phản ánh khoai lang khó bảo quản. Trước đây, khoai thu hoạch về trữ 1,5- 2 tháng chưa nảy mầm thì nay chỉ sau 1 tuần, khoai đã nảy mầm, thậm chí hư hỏng. Đây là nguyên nhân của việc lạm dụng phân, thuốc, chất kích thích.

Sản xuất theo GAP là tất yếu nhưng ông Sơn Văn Luận- Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp- Dịch vụ Thanh Ngọc (xã Thành Trung- Bình Tân), nêu lên thực trạng đáng lo ngại mà là đơn vị thu mua nên ông rất khó “ăn nói” với nông dân.

Theo đó, thời gian qua, nhiều hộ sản xuất khoai theo tiêu chuẩn VietGAP ở địa phương nhưng năng suất và giá bán lại thua xa hộ không làm theo tiêu chuẩn này. Cụ thể, vụ khoai năm rồi, trong khi khoai VietGAP bán chỉ 500.000 đ/tạ, thì khoai thường bán được 700.000đ.

Năng suất khoai VietGAP cũng thấp hơn, chỉ khoảng 1,2 tấn/công, còn khoai thường tới 4 tấn/công. Vấn đề lạm dụng phân, thuốc kích thích cũng đáng báo động khi mà trước đây khoai đem về 10 ngày chưa nảy mầm, thì nay chỉ sau 3 ngày đã nảy mầm. Năm nay, hợp tác xã lỗ khoảng 7 tỷ đồng cũng vì lý do này.

Lý giải thêm về điều này, ông Nguyễn Văn Liêm cho biết, do xuất tiểu ngạch nên rủi ro thị trường là rất cao, nhưng sắp tới đây nếu không có chứng nhận, truy xuất nguồn gốc, mã vùng trồng thì sẽ không bán khoai lang được. Do đó, sản xuất theo hướng GAP nói chung sẽ giúp cho vùng khoai phát triển ổn định, đồng thời góp phần kiểm soát việc sử dụng phân, thuốc một cách an toàn, hiệu quả.

Có thể nói, sản xuất khoai lang không còn dễ dàng như trước do những rào cản về môi trường, đất, thời tiết, giá cả, chi phí sản xuất. Nếu năng suất khoai đạt 2,5 tấn/công, giá bán 10.000 đ/kg thì nông dân có lời 5- 7 triệu mỗi công khoai. Nhưng nếu giá khoai rẻ hơn hoặc năng suất thấp hơn, người trồng khoai sẽ lỗ. Trong khi giá bán thì phải cạnh tranh, không thể căn cứ vào giá thành sản xuất để định giá bán nên hạ giá thành sản xuất mới là giải pháp căn cơ.

Theo nhiều hộ trồng khoai, nếu giá khoai bán 6.000 đ/kg (360.000 đ/tạ) như hiện nay thì nông dân đang lỗ. Một trong những nguyên nhân khiến người trồng khoai không có lời khi bán ở mức giá này là do công lao động quá cao và chủ yếu là lao động thủ công, chưa kể chi phí phân, thuốc do nhu cầu thâm canh.

Theo tính toán, giá thuê cuốc giồng 1 công khoai từ 1- 1,5 triệu. Một nhân công làm 1 ngày khoảng 0,5 công đất. Khâu thu hoạch thì cần vài chục lao động cho việc giật giồng, thu gom, vận chuyển,… Trong khi máy móc có thể thay thế cho khoảng 45- 48 lao động cùng thời gian.

Ông Nguyễn Văn Liêm thông tin, đề tài cấp tỉnh về cơ giới hóa khoai lang (máy cuốc giồng, thu hoạch) đã nghiệm thu, được đánh giá khá. Tuy nhiên, máy cuốc giồng xuôi nhưng người dân có tập quán làm theo giồng ngang nên chưa thể thuyết phục người dân ứng dụng sản xuất.

Trong nỗ lực xây dựng chuỗi liên kết, mới đây, Tập đoàn Việt Phúc và Phòng Kinh tế hạ tầng huyện Bình Tân đã ký biên bản ghi nhớ xây dựng hệ thống liên kết thu mua, phân phối, xuất khẩu khoai lang Bình Tân.

Bà Nguyễn Thị Lan Hương- Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Việt Phúc- cho biết: Những yêu cầu về chất lượng nông sản của thị trường trong và ngoài nước là chính đáng, đây cũng là cơ hội để thay đổi phương thức sản xuất. Hiện nay, tiêu chuẩn VietGAP được nhiều khách hàng chấp nhận.

Doanh nghiệp cam kết sát cánh người trồng khoai Bình Tân trong việc đáp ứng nhu cầu về chất lượng cũng như đưa nông sản này xuất khẩu chính ngạch trong thời gian tới.

Bài, ảnh: THÀNH LONG

Sản phẩm từ sâm biển Bến Tre xuất khẩu sang Hoa Kỳ

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Sau hơn 3 năm thực nghiệm, Công ty CP Sa Sâm Việt đã xây dựng thành công quy trình trồng cây sâm trên cát biển tại tỉnh Bến Tre, nơi có điều kiện thời tiết và khoáng chất phù hợp.

Đề tài nghiên cứu nhân giống, bảo tồn và trồng sâm trên cát biển của công ty đã được Bộ KH-CN nghiệm thu, đưa vào dự án cấp quốc gia và được Bộ Y tế chứng nhận.

Theo Công ty CP Sa Sâm Việt, cây sâm thuộc loài dược liệu với nhiều hàm lượng rất tốt cho sức khỏe. Với đường bờ biển tỉnh Bến Tre dài khoảng 65km, công ty đang nhân rộng mô hình trồng sâm đến người dân, nhằm thay thế các loại các khác năng suất không cao, công ty cũng ký kết hợp tác với Công ty Việt Distribution (thuộc Tập đoàn GM Hoa Kỳ, có hệ thống phân phối tại hơn 16 quốc gia) nhằm phân phối sản phẩm sâm ra thị trường quốc tế. Dự kiến, trong 6 tháng tới, công ty sẽ hoàn tất thủ tục, nhãn mác, bao bì… để xuất khẩu lô sâm đầu tiên sang thị trường Hoa Kỳ.

QUÝ NGỌC

Kiên Giang: Nuôi vịt Grimaud theo hướng ATSH

Nguồn tin: Khuyến Nông VN

Được sự quan tâm chỉ đạo của Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, năm 2019, Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang phối hợp với Trạm Khuyến nông huyện Vĩnh Thuận và chính quyền địa phương triển khai mô hình “Nuôi vịt Grimaud thương phẩm theo hướng an toàn sinh học” tại 10 điểm thuộc 6 xã: Vĩnh Bình Minh, Vĩnh Bình Bắc, Vĩnh Thuận, Vĩnh Phong, Tân Thuận và Phong Đông, với số lượng 1.000 con.

Việc xây dựng mô hình nuôi vịt Grimaud thương phẩm theo hướng an toàn sinh học là cần thiết, nhằm chuyển giao quy trình kỹ thuật, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho bà con nông dân. Từ đó nhân rộng mô hình cho nông hộ trong vùng, cung cấp nguồn sản phẩm có chất lượng cao phục vụ người tiêu dùng.

Vịt Grimaud là giống vịt tăng trọng nhanh, có thời gian nuôi ngắn, hệ số chuyển hóa thức ăn thấp và tỷ lệ thịt cao. Tuy nhiên đây là giống vật nuôi mới nên người dân còn ngần ngại, chưa mạnh dạn đầu tư. Bên cạnh đó, giá cả thức ăn chăn nuôi ngày một tăng cao trong khi giá sản phẩm lại không ổn định; tình hình thời tiết, dịch bệnh trên vật nuôi diễn biến khá thất thường. Đây là những khó khăn trong việc triển khai mô hình.

Giống vịt Grimaud tăng trọng nhanh, có thời gian nuôi ngắn, hệ số chuyển hóa thức ăn thấp

Tham gia mô hình, các hộ dân được hỗ trợ 60% giá trị con giống, 30% giá trị thức ăn, vật tư; được hướng dẫn kỹ thuật nuôi và được cán bộ khuyến nông theo dõi sát sao mô hình để kịp thời tư vấn, xử lý nếu xảy ra dịch bệnh. Qua thời gian hơn 6 tháng thực hiện mô hình, từ 3/5- 30/8/2019, đàn vịt của mô hình được tiêm vắc xin phòng bệnh 5 lần. Trong quá trình nuôi, chủ hộ thường xuyên được hướng dẫn kỹ thuật tiêu độc, khử trùng, góp phần bảo vệ môi trường khu vực nuôi, hạn chế lây lan mầm bệnh. Kết quả, có 4/10 hộ có tỷ lệ vịt nuôi sống đạt từ 93 – 99%; có 6/10 không đạt theo kế hoạch của mô hình. Tổng hao hụt trong suốt thời gian nuôi là 193/1.000 con, chiếm 19,3%. Trong đó hao hụt giai đoạn úm là 35 con; nguyên nhân do vận chuyển, tiêm phòng… Từ tuần 4 đến nay, hao hụt 158 con; nguyên nhân do vịt bị ngộ độc phèn, bệnh bại huyết kết hợp E.coli do điều kiện vệ sinh môi trường chưa tốt.

Vịt khi mới nhận nuôi có trọng lượng trung bình 50 gram/con. Đến cuối kỳ, vịt có trọng lượng trung bình 3.290 gram/con. Trong giai đoạn từ tuần 1- 4, trọng lượng của vịt tăng trọng đều nhau; qua giai đoạn từ 5 – 8 tuần tuổi, mới có sự chênh lệch giữa các hộ. Cụ thể có 5/10 hộ đạt trọng lượng theo kế hoạch mô hình đề ra (3,5 kg/con), 5/10 hộ chưa đạt. Nguyên nhân là do khi hết thức ăn được hỗ trợ, các hộ tự đầu tư thức ăn, nhiều hộ không đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng cho vịt phát triển, từ đó trọng lượng vịt có sự chênh lệch giữa các hộ. Lợi nhuận trung bình của các hộ tham gia mô hình đạt trên 1,5 triệu đồng. Hộ có lợi nhuận cao nhất đạt trên 4 triệu đồng.

Từ kết quả đạt được có thể khẳng định, mô hình này phù hợp với điều kiện chăn nuôi tại địa phương. Thông qua mô hình đã trang bị cho nông dân kiến thức chăn nuôi cơ bản và những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong chăn nuôi; tuyên truyền để người chăn nuôi hiểu đúng, đủ về kỹ thuật nuôi dưỡng và quy trình an toàn sinh học trong chăn nuôi vịt thương phẩm.

Diễm Trang - Đài Truyền thanh huyện Vĩnh Thuận- Kiên Giang

Phòng, chống đói rét cho đàn vật nuôi

Nguồn tin: Báo Bắc Kạn

Trong những ngày này, tại tỉnh Bắc Kạn thời tiết rét đậm, rét hại, nhiệt độ thấp nhất phổ biến từ 5°C – 7°C, vùng núi cao có nơi dưới 5°C. Trước diễn biến của thời tiết, ngành chuyên môn và các địa phương trong tỉnh đang chủ động triển khai các biện pháp phòng, chống đói rét cho vật nuôi.

Người dân cần đưa trâu, bò về nuôi nhốt khi nhiệt độ ngoài trời dưới 12°C.

Trung tâm Khí tượng thủy văn dự báo, những ngày tới khối không khí lạnh tiếp tục ảnh hưởng đến các tỉnh miền núi phía Bắc. Tại tỉnh Bắc Kạn, dự báo từ đêm 09 đến ngày 12/12, nhiệt độ thấp nhất từ 6 – 8°C, vùng núi cao dưới 6°C.

Mùa đông nhiệt độ giảm sâu, độ ẩm cao, nguồn thức ăn khan hiếm là nguyên nhân dẫn đến sức đề kháng của đàn vật nuôi giảm, tạo điều kiện cho dịch bệnh lây lan, nhất là các bệnh truyền nhiễm như cúm gia cầm, lở mồm long móng, tai xanh…gây thiệt hại về kinh tế cho người chăn nuôi.

Để chủ động đối phó với các tình huống biến đổi thời tiết xảy ra, nhất là rét đậm, rét hại gây hại cho cây trồng, vật nuôi trong vụ Đông - Xuân năm 2019 - 2020, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bắc Kạn đã ban hành Phương án phòng, chống rét cho cây trồng, vật nuôi và thủy sản trên địa bàn tỉnh, hướng dẫn cụ thể những nội dung thực hiện trong từng lĩnh vực khi thời tiết thuận lợi và thời tiết rét đậm, rét hại.

Theo đó, để bảo vệ đàn vật nuôi, cần tích cực chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho gia súc, gia cầm ngay từ khi thời tiết ấm; thu gom, dự trữ thức ăn cho đàn vật nuôi trong mùa đông; thường xuyên kiểm tra, gia cố chuồng trại… Khi thời tiết rét đậm, rét hại xảy ra phải che kín chuồng nuôi đảm bảo đủ ấm, không bị gió lùa, mưa hắt làm ẩm, ướt chuồng, giữ nền chuồng luôn sạch và khô.

Nếu thời tiết rét đậm, rét hại kèm theo mưa và nhiệt độ dưới 12 độ C tuyệt đối không thả rông gia súc và tiến hành chăm sóc trâu, bò tại chuồng; bổ sung thêm thức ăn tinh, như: cám ngô, sắn, cám gạo... cho gia súc ăn và dùng bao tải đay, chăn cũ quấn quanh cơ thể gia súc để chống rét; sử dụng củi, trấu... để đốt sưởi cho gia súc (đặc biệt là bê, nghé và trâu, bò già yếu); không nhập gia súc, gia cầm non về nuôi trong thời gian rét đậm, rét hại.

Ông Nông Quang Hải (Trưởng phòng Quản lý dịch bệnh và Chăn nuôi - Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh) cho biết: “Qua kiểm tra, thăm nắm công tác phòng, chống đói rét cho đàn gia súc, gia cầm ở nhiều địa phương trong tỉnh cho thấy, ý thức bảo vệ đàn vật nuôi tương đối tốt, người dân đã chủ động dự trữ rơm rạ, chuẩn bị nguồn thức ăn, che chắn chuồng trại… Hiện nay Chi cục đang tăng cường công tác giám sát dịch bệnh, cử cán bộ trực tiếp xuống cơ sở kiểm tra việc thực hiện biện pháp phòng, chống đói rét cho gia súc, gia cầm và tiêm phòng dịch bệnh cho đàn vật nuôi, phối hợp với các địa phương hướng dẫn người dân chủ động nguồn thức ăn, không chăn thả trâu, bò khi nhiệt độ xuống thấp hay mưa rét; giữ khô nền chuồng, che chắn tránh gió lùa, giữ ấm, tạo nguồn nhiệt sưởi ấm cho vật nuôi”.

Để chủ động ứng phó với rét đậm, rét hại dự báo có thể tiếp diễn trong những ngày tới, ngành chuyên môn khuyến cáo người dân cần củng cố, sửa chữa, làm mới chuồng trại đảm bảo giữ ấm cho gia súc mùa đông, thường xuyên vệ sinh, tiêu độc, khử trùng chuồng nuôi; đưa trâu, bò về nuôi nhốt có kiểm soát khi nhiệt độ ngoài trời dưới 12°C; chủ động dự trữ thức ăn tinh và thức ăn khô; thực hiện chăn nuôi theo đúng quy trình kỹ thuật, đảm bảo khẩu phần ăn đủ dinh dưỡng, tăng cường các biện pháp chăm sóc nuôi dưỡng nâng cao sức đề kháng cho gia súc.

Tỉnh Bắc Kạn có đàn đại gia súc (trâu, bò, ngựa) khoảng 67.000 con, đàn lợn 118.300 con, đàn dê trên 18.900 con, đàn gia cầm 2.268.000 con. Trước diễn biến bất thường của thời tiết, nếu chủ quan trong công tác phòng, chống đói rét cho vật nuôi có thể gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế. Thực tế, thời tiết rét đậm, rét hại đợt đầu năm nay ở các địa phương trong tỉnh đã có 55 con gia súc (trâu, bò, nghé, dê) bị chết rét./.

Lê Trang

Mô hình nuôi gà sao trên đệm lót sinh học mang lại hiệu quả cao

Nguồn tin: VOV

Mô hình nuôi gà sao trên đệm lót sinh học được nhiều nông dân phát triển mạnh ở Hậu Giang bởi mô hình dễ thực hiện và mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Nhiều nông dân ở Hậu Giang cho biết, việc nuôi gà sao trên đệm lót sinh học dễ chăm sóc, gà ít mắc các loại bệnh về đường hô hấp so với nuôi bình thường, tỷ lệ đầu con đạt 90-95%. Đệm lót nuôi gà sao cũng khá đơn giản, được làm từ trấu hoặc cát trộn với men vi sinh.

Nuôi gà sao trên nệm lót sinh học.

Chi phí để làm một đệm lót sinh học có diện tích 100m2 chỉ khoảng 10 triệu đồng nhưng có thể sử dụng cho 2-3 lứa gà. Gà sao con sau khi thả nuôi khoảng 2,5-3 tháng thì đạt trọng lượng từ 1-1,2 kg và có thể xuất bán.

Với giá bán 100.000 đồng/con, sau khi trừ hết chi phí con giống và thức ăn, người nuôi đạt lợi nhuận khoảng 50.000 đồng/con. Với 1.000 con gà sao nuôi trên đệm lót sinh học, sau khoảng 3 tháng nuôi, người nuôi đạt lợi nhuận từ 45-50 triệu đồng và một năm có thể nuôi được 2 đợt./.

Tấn Phong/VOV-ĐBSCL

Thu nhập ổn định từ mô hình nuôi gà thả vườn

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Trong khi trên thị trường giá gà công nghiệp thấp khiến người chăn nuôi gà gặp nhiều khó khăn thì nhiều hộ nuôi gà ta thả vườn thuộc Tổ hợp tác ấp Đồng Cỏ Đỏ (xã Bình Minh, thành phố Tây Ninh) vẫn có thu nhập ổn định từ đàn gà của mình.

Ông Trần Ngọc Đào- Chủ tịch Hội Nông dân xã Bình Minh cho biết, năm 2017, Tổ hợp tác Nuôi gà ta thả vườn ấp Đồng Cỏ Đỏ được thành lập với 8 tổ viên, diện tích chăn thả gần 2 ha, là điều kiện thuận lợi để chăn nuôi gà thả vườn. Ông Nguyễn Quốc Việt làm Tổ trưởng Tổ hợp tác.

Đàn gà của ông Việt tại vườn nhà.

Với mong muốn tìm mô hình chăn nuôi phù hợp với điều kiện của gia đình là vốn ít, có diện tích chăn thả, đồng thời chủ động được thời gian rảnh rỗi, nên khi Hội Nông dân xã Bình Minh vận động tham gia vào Tổ hợp tác Nuôi gà ta thả vườn ấp Đồng Cỏ Đỏ, ông Việt nhiệt tình hưởng ứng.

Khi tham gia vào Tổ hợp tác, gia đình ông Việt được sự hỗ trợ của Trạm Khuyến nông Thành phố về thực hiện điểm trình diễn mô hình nuôi gà ta thả vườn tại hộ chăn nuôi, hướng dẫn áp dụng đệm lót sinh học trong chăn nuôi và cách thức nuôi gà ta thả vườn.

Nhờ được tập huấn và thực hành tốt kỹ thuật chăn nuôi an toàn sinh học về đảm bảo việc tiêm chủng phòng bệnh, dùng đệm lót sinh học... nên từ khi bắt đầu chăn nuôi đến nay, đàn gà của ông Nguyễn Quốc Việt và các tổ viên đều phát triển tốt, tỷ lệ mắc bệnh thấp, chất lượng thịt gà ngon hơn, vừa đảm bảo môi trường cũng như sức khỏe người chăn nuôi.

Ban đầu, ông Việt cũng gặp khó khăn về đầu ra, nhưng nhờ chất lượng gà tốt nên ông nhanh chóng tìm được mối ở chợ Ninh Sơn. Với phương pháp chăn nuôi thả vườn nên thịt gà săn chắc, dai, được người tiêu dùng rất chuộng, giá cả bán ra cũng khá hơn các giống gà khác.

Ông Việt chia sẻ, trước đây ông cũng thử nghiệm nuôi các giống gà khác nhưng có giá bán không bằng. “Hiện nay, cứ tới lứa, người ta đến tận nhà lấy gà. Giá được lắm. Với 3 lứa gà mỗi năm, trung bình mỗi lứa có khoảng 200 con, thu nhập sau khi trừ các khoản chi phí, mỗi lứa thu về hơn 10 triệu đồng. Ước tính là 1 lời 1, vốn bỏ ra 50% thì 50% còn lại là lợi nhuận. Tui là hộ vốn ít nên quy mô sản xuất nhỏ, có hộ đầu tư nhiều thì lợi nhuận cao hơn. Mấy tháng gần đây giá gà tăng (khoảng 90.000 đồng/kg – 100.000 đồng/kg), hay vào dịp đám tiệc, lễ, tết, giá gà cũng tăng, do đó thu nhập của người nuôi gà cũng phấn khởi hơn”- ông Việt cho biết.

Các tổ viên của Tổ hợp tác luôn nhiệt tình hướng dẫn cho các nông dân khác về cách thức chăn nuôi gà ta thả vườn, qua đó đã có thêm 2 nông dân tham gia vào Tổ hợp tác, nâng tổng số hội viên lên 10 người.

Quế Hương

Nuôi gà mặt quỷ cho thu nhập cao

Nguồn tin: Báo Khánh Hòa

Ông Lê Công An (thôn Xuân Tây, xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh, Khánh Hòa) vừa đạt giải khuyến khích tại hội thi Sáng tạo kỹ thuật tỉnh lần thứ IV (2018 - 2019) với mô hình nuôi gà mặt quỷ thả vườn, cho thu nhập cao.

Dễ nuôi

Gà mặt quỷ là giống gà hiếm trên thế giới, có xuất xứ từ Indonesia, giá rất cao, được giới săn cây cảnh, thú hiếm đưa về nuôi và cho sinh sản thành công tại Việt Nam trong những năm qua. Nói về lý do chọn gà mặt quỷ để nuôi, ông An cho hay, đây là giống gà mới, còn hiếm, lại có nhiều ưu điểm như: cách nuôi đơn giản, thức ăn sẵn có, dễ kiếm, sức đề kháng cao, giá bán cao hơn nhiều giống gà khác. Đây là cơ hội cho nông dân giải quyết việc làm, chuyển đổi cơ cấu chăn nuôi, nâng cao thu nhập... Hiện nay, việc nuôi gà bằng thức ăn công nghiệp tốn kém nhưng giá bán chưa tương xứng, chất lượng thịt giảm; yếu và thiếu nhiều vấn đề kỹ thuật như: đầu tư chuồng úm, nuôi dày, thức ăn chưa đáp ứng với từng giai đoạn tuổi, thiếu giải pháp vệ sinh, phòng bệnh, tiêu độc, khử trùng...

Gà mặt quỷ nuôi tại xã Vạn Hưng, huyện Vạn Ninh.

Từ thực tế trên, ông An đề xuất cách nuôi như sau: Giai đoạn úm, làm lồng úm cao chân, tránh cho gà bị nhiễm cầu trùng; dùng đèn bóng tròn 75W để sưởi ấm gà; thức ăn là cám xay nhỏ; gà mới nở cho uống vắc xin, uống nước sạch pha với thuốc úm liên tục trong thời gian úm... Giai đoạn 30 - 50 ngày tuổi, cho gà sống trên nền trệt nhưng cao ráo, lót trấu, dăm bào, xử lý thuốc sát trùng, rải vôi; dùng máng ăn, máng uống treo cao (5 - 10cm); thức ăn chính là bắp, cám, rau... Giai đoạn 50 - 120 ngày tuổi, gà đã cứng cáp, đưa về chăm sóc bình thường, không cần đệm lót; thức ăn chính là tấm, cám, bắp xay..., bổ sung thêm vitamin, các loại rau, củ, quả, côn trùng... Sau 120 ngày, đàn gà đạt trọng lượng 1,9 - 2,3kg (gà trống), 1,8 - 2kg (gà mái).

Hiệu quả cao

Ông Trần Ngọc Phú - Chủ tịch Hội Nông dân xã Vạn Hưng: Ông An là nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, có thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm. Ông cũng tích cực tham gia và đóng góp kinh phí xây dựng quỹ hội, sẵn sàng tư vấn, hỗ trợ, trao đổi kinh nghiệm, kiến thức khoa học kỹ thuật và hướng dẫn nông dân học tập để nhân rộng mô hình…

Theo ông An, nuôi gà mặt quỷ mang lại nhiều lợi ích cho nông dân, có thể nhân rộng do vật liệu làm chuồng đơn giản, có thể tận dụng ở nông thôn như: gỗ vườn, gạch, ngói, lưới sắt, cước...; nuôi gà không choán nhiều diện tích, sử dụng vườn cây ăn quả làm chuồng trại; thức ăn dễ tìm từ nguyên liệu là phụ phẩm nông nghiệp, chăn nuôi, rau củ quả thải bỏ ở các chợ quê...; tỷ lệ hao hụt thấp, dễ tiêu thụ, giá bán cao...

Hiện nay, nuôi 100 con gà mặt quỷ, tỷ lệ hao hụt chỉ 3%, sau 4 tháng, trừ hết chi phí (công lao động, gà giống 200.000 đồng/con, khấu hao ô chuồng, sưởi ấm, vật liệu chuồng trại, vệ sinh tiêu độc...) cho thu nhập hơn 107 triệu đồng, bình quân 1 con cho thu nhập hơn 1 triệu đồng. Giá bán gà hiện nay bình quân 1,4 triệu đồng/kg. Mỗi năm, ông An thả 3 lứa gà, lãi hơn 321 triệu đồng. Theo ông, với thu nhập như trên, nuôi gà mặt quỷ có hiệu quả vượt trội so với các giống gà thông thường hiện nay.

Giải pháp ông An đưa ra trong việc nuôi gà mặt quỷ có thể ứng dụng cho nhiều vùng, miền khác nhau, từ nông thôn đến miền núi, thích hợp cho cả chăn nuôi trang trại quy mô lớn, chi phí tiết giảm nhiều hơn, lợi nhuận cao hơn. Đối với nông dân có thể nuôi chuyên canh hoặc quảng canh để giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng.

V.L

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop