Tin nông nghiệp ngày 13 tháng 11 năm 2020

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 13 tháng 11 năm 2020

Chất lượng là ‘chìa khóa’ để nông sản Đồng bằng sông Cửu Long ổn định đầu ra

Nguồn tin:  Công Thương

Thời gian qua, nhiều sản phẩm nông sản tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) liên tục gặp khó về đầu ra. Để tránh tình trạng này, bên cạnh việc đảm bảo về nguồn cung, sản lượng doanh nghiệp cần đảm bảo chất lượng hàng hóa “trước sau như một”.

Là những nội dung được đưa ra thảo luận tại Hội thảo “Đầu ra cho nông sản các tỉnh ĐBSCL” và Hội nghị “Kết nối cung cầu hàng Việt Nam tại khu vực ĐBSCL, TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Bắc”, diễn ra ngày 9/11 tại Vĩnh Long. Đây là chương trình thuộc đề án phát triển thị trường trong nước gắn với Cuộc vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam.

Việc đảm bảo chất lượng trước sau như một sẽ giúp nông sản tìm chỗ đứng vững chắc trên thị trường

Nhiều nông sản không có đầu ra

Theo ông Bùi Văn Chiều - Phó Chủ tịch Hội nông dân tỉnh Vĩnh Long, thời gian qua, đầu ra nông sản địa phương cũng như nhiều tỉnh thuộc khu vực ĐBSCL còn nhiều khó khăn. Điệp khúc được mùa mất giá, được giá mất mùa liên tiếp diễn ra. Nguyên nhân là do nông dân làm nông nghiệp truyền thống, nên hoạt động sản xuất nhỏ lẻ, chưa có liên kết chặt chẽ về vấn đề bao tiêu sản phẩm. Điển hình như sản phẩm cam Trà Ôn. Hiện Trà Ôn có khoảng 4.000 ha cam, mặc dù đã có hợp tác xã (HTX) liên kết sản xuất, nhưng đầu ra cho sản phẩm vẫn chưa có mà chỉ giao cho thương lái “nay bán giá này, mai bán giá khác”. Trong khi đó, chi phí sản xuất cao khiến người nông dân không an tâm sản xuất.

Không chỉ cam, mà hàng loạt sản phẩm khác như khoai lang Bình Tân, bưởi da xanh Mỹ Hòa, chôm chôm của HTX Bình Hòa Phước cũng gặp tình cảnh tương tự. Ông Nguyễn Ngọc Nhân - Giám đốc HTX chôm chôm Bình Hòa Phước cho biết, mặc dù sản phẩm của HTX này đã đạt được các chứng chỉ về VietGAP, Global GAP, truy xuất nguồn gốc hàng hóa… nhưng hiện đầu ra sản phẩm cũng gặp nhiều khó khăn.

Điều này được các HTX lý giải là do người tiêu dùng không phân biệt được đâu là sản phẩm sạch, đâu là sản phẩm thường thông qua cảm quan. Trong khi đó, với kênh siêu thị họ phân biệt thông qua mã code song việc kiểm tra thông qua những mã code này cũng không chính xác. Đó là chưa kể, ở kênh siêu thị thời gian công nợ kéo dài, người dân không có nguồn vốn để quay vòng sản xuất.

Cần đảm bảo hàng hóa “trước sau như một”

Để đảm bảo đầu ra cho nông sản được ổn định và bền vững, ông Tạ Minh Sơn - Giám đốc doạn nghiệp tư nhân Tứ Sơn (An Giang) lưu ý, các doanh nghiệp phải đảm bảo chất lượng sản phẩm “trước sau như một”. Thực tế, từ một số chương trình kết nối giao thương, hàng mẫu rất tốt, song khi giao thương thì chất lượng sản phẩm lại không đạt “Các đơn vị bán hàng về Châu Đốc, An Giang đồng nghĩa với việc bán cho thị trường Campuchia. Với người tiêu dùng tại thị trường này, khi đã quen sản phẩm thì họ sẽ tiếp tục quay lại. Nếu chất lượng thay đổi thì người tiêu dùng sẽ không quay lại nữa”, ông Sơn nhấn mạnh.

Đồng tình với ý kiến này, nhiều doanh nghiệp phân phối khác cũng cho biết, để hàng nông sản rộng đường vào các kênh bán lẻ hiện đại và tạo được niềm tin của khách hàng thì yếu tố chất lượng là quan trọng hàng đầu. Các đơn vị sản xuất cần lưu ý, chào hàng gì phải bán đúng hàng đó và giữ ổn định nếu không khó mà trụ được lâu dài.

Nhiều biên bản ghi nhớ đã được các doanh nghiệp ký kết tại hội nghị kết nối cung cầu ngày 9/11 ở tỉnh Vĩnh Long.

Cùng với đó việc kết nối cung- cầu giữa các tỉnh ĐBSCL với những địa phương khác cũng rất quan trọng. Bởi thông qua đó, doanh nghiệp sản xuất sẽ cọ sát với nhà phân phối, hiểu được rõ hơn nhu cầu của thị trường, từ đó có hướng sản xuất hợp lý.

Liên quan đến vấn đề này, bà Lê Việt Nga - Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương)- cho biết: Thời gian qua việc tiêu thụ nông sản gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là dịch Covid-19 đang gây đứt gãy rất nhiều chuỗi cung ứng hàng hóa, tác động trực tiếp đến ngành nông nghiệp. Chính vì thế nhiều hoạt động kết nối cung cầu giữa các địa phương trên cả nước, nhất là cho vùng ĐBSCL đã được ngành Công Thương tổ chức. Thông qua đó, rất nhiều nhà phân phối, bán lẻ đã quan tâm và ký kết hợp đồng tiêu thụ sản phẩm. Chẳng hạn ngay tại Hội nghị “Kết nối cung cầu hàng Việt Nam tại khu vực ĐBSCL, TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Bắc” ngày 9/11 này, các doanh nghiệp đã ký 26 bản ghi nhớ nhằm kết nối cung cầu hàng Việt Nam với các sản phẩm giữa các vùng miền trong cả nước.

Cũng theo bà Lê Việt Nga để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiêu thụ hàng hóa, từ nay đến cuối năm ngành Công Thương sẽ tiếp tục có những chương trình kết nối cung cầu bình ổn thị trường cho dịp Tết Nguyên đán.

Hà Duyên

Để mùa bơ thực sự ‘chín’: Chưa hết bấp bênh

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

Dù có nhiều ưu điểm trong sản xuất, nhưng thực tế, cây bơ ở Đắk Nông vẫn còn bấp bênh nhiều mặt.

Sâu bệnh, mất mùa

Theo ông Lê Văn Hưng, Giám đốc Công ty TNHH MTV Thương mại dịch vụ Bơ M’nông (Gia Nghĩa), dù đã có không ít kinh nghiệm trong việc trồng, chăm sóc, nhưng vườn bơ của ông vẫn bị sâu bệnh tấn công rất nhiều, ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng, phát triển, đậu quả.

Không ít cây bơ "chết đứng" sau khi thu hoạch của Công ty TNHH MTV DV Bơ M'nông (Tp.Gia Nghĩa)

Vườn bơ của ông Hưng dù cho quả sai, nhưng nhiều quả bị úng nước. Không ít cây đang phát triển bình thường thì chỉ trong thời gian ngắn bị chết. Tình trạng cây bơ bị sâu đục thân, nấm, rụng quả vào mùa mưa cũng xảy ra thường xuyên, gây thất thoát khá lớn về kinh tế.

Còn theo ông Vũ Văn Thủy, xã Thuận Hạnh (Đắk Song), giống bơ mà gia đình ông trồng chủ yếu mua từ các điểm cung cấp giống trôi nổi trên thị trường, nên chất lượng không cao, dễ chết, hay mắc bệnh thối thân.

Một trang trại trồng bơ booth tại xã Đắk Ha (Đắk Glong) không hiệu quả phải cưa ghép giống khác

Những năm gần đây, do ảnh hưởng của thời tiết, nên thời kỳ bơ ra hoa, đậu quả không được thuận lợi như trước. Cùng với nguyên nhân do các loại sâu bệnh tấn công, nên bơ đậu quả ngày càng ít hơn, những giống bơ khó tính như booth, hass tỷ lệ đậu quả giảm 20-50% so với trước.

Giá ngày càng đi xuống

Diện tích bơ tăng, sản lượng bơ cũng tăng mạnh, trong khi kênh tiêu thụ của nông dân hiện nay là chưa nhiều. Ngoài tiêu thụ nội địa, bơ chủ yếu được xuất khẩu qua 4 thị trường truyền thống là Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc. Do đó, chỉ cần có những biến động trên thị trường thì giá bơ lập tức rớt xuống, khiến cho người trồng bơ phải chịu cảnh thua lỗ.

Năm 2020, giá các loại bơ xuống thấp nhất trong vòng 10 năm qua

Điển hình nhất là vụ thu hoạch bơ năm 2020, giá bơ rớt xuống mức thấp nhất trong vòng 10 năm qua. Ông Huỳnh Văn Thanh, tổ dân phố 6, phường Nghĩa Trung (Gia Nghĩa), trồng xen hơn 200 cây bơ trong rẫy cà phê. Những năm trước, khi vào vụ, vườn bơ của ông liên tục có thương lái đến mua. Mùa thu hoạch năm nay, bơ bán không được, nên ông phải đưa ra chợ để bán, nhưng cũng ế ẩm.

Anh Phạm Vĩnh San, chủ trang trại bơ booth quy mô 10 ha tại thôn Hòa Phong, xã Đắk Sắk (Đắk Mil) cho biết, năm 2019 khi thu hoạch, giá bơ ở mức cao, nên anh có thu nhập khoảng 1,2 tỷ đồng từ vườn bơ. Năm nay, giá bơ vào vụ xuống quá thấp, khoảng 10.000 - 12.000 đồng/kg, khiến anh chịu cảnh thua lỗ. "Dù bơ đã có chứng nhận VietGAP, có dán tem truy xuất nguồn gốc, nhưng việc tiêu thụ cũng khó khăn. Tôi nghĩ tình trạng này phần nhiều là do cung vượt cầu", anh San nhận định.

Ông Thanh cho biết, vườn bơ sáp địa phương của gia đình có nhiều ưu điểm như cơm vàng, dẻo, ngọt... nên những năm mới trồng bán rất được giá. Thế nhưng, khoảng 3 năm nay, giá bơ xuống dần và đến năm 2020 thì rớt thê thảm, bằng 1/3 so với trước. Giá bơ quá rẻ, nên ông đành bán tháo khoảng 5.000-8.000 đồng/kg để vớt vát được đồng nào hay đồng đó.

Năm 2020, giá bơ booth chỉ khoảng 5000-12.000 đồng/kg

Theo bà Trần Thị Lệ Thu, tư thương chuyên mua bán trái cây ở chợ Gia Nghĩa, những năm trước, giá bơ booth dao động ở mức 60.000 - 80.000 đồng/kg, thậm chí cuối mùa lên đến 120.000 đồng/1 kg. Nhưng 2 năm nay, giá bơ booth chỉ còn khoảng 20.000 - 30.000 đồng/kg loại đẹp nhất.

Nhiều ý kiến cho rằng, bên cạnh những ảnh hưởng của dịch Covid-19, thì việc giá bơ những năm qua đi xuống một phần do cung vượt cầu.

Bài, ảnh: Hồng Thoan

Để mùa bơ thực sự ‘chín’: Tiếp tục tìm hướng đi phù hợp

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

Có thể khẳng định, việc phát triển cây bơ thành cây thế mạnh là chủ trương đúng đắn, phù hợp. Thế nhưng, để làm được điều này, tỉnh cần tiếp tục có sự điều chỉnh phù hợp, nhất là khâu chuyên canh và phát triển hạ tầng chế biến sản phẩm bơ.

Các giống bơ như Hass, Reed, Pinkerton phục vụ nhu cầu xuất khẩu vẫn chưa được trồng nhiều ở Đắk Nông

Tạo vùng nguyên liệu tập trung

Từ năm 2013, tỉnh Đắk Nông đã có quy hoạch về việc phát triển các loại cây ăn quả. Đối với cây bơ, diện tích gồm cả trồng chuyên canh và xen canh đến 2020 là 5.353 ha.

Như vậy, xét với diện tích thì chưa vượt quy hoạch, nhưng đã cho thấy nhiều vấn đề bất cập. Nhiều người cho rằng, tỉnh chỉ mới quy hoạch về vùng trồng, diện tích mà chưa gắn với quy hoạch chủng loại giống, nên xảy ra tình trạng, người dân thích trồng loại bơ nào thì trồng, không hình thành được vùng chuyên canh.

Về nội dung này, Tiến sỹ Trương Hồng, Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên cho biết, khi xác định được vùng trồng thì phải gắn được với bộ giống cụ thể. Bộ giống phải có sự nghiên cứu, khảo nghiệm, khẳng định với vùng đất, tiểu vùng khí hậu.

Đến nay, Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên đã nghiên cứu, chọn tạo được bộ các giống bơ phù hợp với từng khu vực ở Tây Nguyên như TA1, Booth 7, TA40 và Reed. Để đưa các bộ giống bơ này gắn với từng vùng đất, tiểu vùng khí hậu, Đắk Nông phải có sự vào cuộc mạnh mẽ hơn, phải có sự phối hợp nhịp nhàng, hiệu quả giữa các cơ quan chuyên môn, đơn vị nghiên cứu.

Hình thức tiêu thụ quả bơ tại Đắk Nông vẫn là bán tươi qua tư thương

Còn theo ông Võ Minh Châu, nguyên Viện trưởng Viện cây ăn quả miền Nam, cơ cấu giống bơ hiện nay của Đắk Nông là khá đa dạng, với những cây trồng từ hạt, các dòng chọn lọc địa phương và giống nhập nội.

Thế nhưng, tỉnh cần xác định bộ giống, cơ cấu giống phù hợp đến từng vùng đất. Trong đó, phải hướng đến đáp ứng các tiêu chuẩn thị trường nội địa, thị trường biên mậu, thị trường quốc tế và làm nguyên liệu cho chế biến. Điểm mấu chốt cho hoạt động chọn bộ giống bơ là phù hợp với điều kiện sinh thái và sản xuất, chất lượng, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của thị trường, mở rộng được thời gian thu hái quả quanh năm.

Ông Châu nhấn mạnh: "Khi có được vùng trồng chuyên canh một giống bơ sẽ dễ dàng, thuận tiện trong việc ứng dụng quy trình, kỹ thuật, công nghệ sản xuất, từ đó đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa".

Tiến sĩ Lâm Thị Bích Lệ, Trường Đại học Tây Nguyên, người có công trình nghiên cứu đặc tính sinh học của một số dòng bơ vô tính đầu tiên tại Việt Nam, cho rằng: Các tỉnh Tây Nguyên, trong đó có Đắk Nông, nên trồng các giống bơ thuộc chủng xuất xứ từ châu Mỹ đã được tuyển chọn như TA3, BMX1, BMX2.

Những giống bơ này đều có đặc tính chín sớm, hoặc chín muộn hơn so với thời vụ tập trung, giúp kéo dài thời gian thu hoạch, cung cấp quả quanh năm. Trọng lượng quả của những loại bơ này đạt từ 300-500g, với nhưng ưu điểm như hạt nhỏ, ít xơ, chất béo cao, nên được người tiêu dùng ưa chuộng.

Theo Quyết định số 1579/QÐ-UBND ngày 4/10/2013 của UBND tỉnh Ðắk Nông, cây bơ được quy hoạch phát triển theo 3 vùng. Cụ thể, vùng II ở phía nam huyện Krông Nô; huyện Ðắk Mil và các xã giáp Ðắk Mil của huyện Ðắk Song. Vùng III gồm thành phố Gia Nghĩa và huyện Ðắk Glong. Vùng IV gồm 2 huyện Ðắk R’lấp và Tuy Ðức.

Tập trung nâng cao chất lượng

Ông Lê Văn Tuấn, Giám đốc Công ty TNHH Nông nghiệp Bình Dương cho biết, sản phẩm bơ của Đắk Nông rất ngon. Tuy nhiên, để tạo được "chỗ đứng" trong các kênh phân phối hiện đại, tỉnh cần tập trung hỗ trợ nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp sản xuất, tạo thương hiệu cho trái bơ. Các sản phẩm bơ của Đắk Nông phải có chứng nhận VietGAP, GlobalGAP, Oganic, OCOP...

Tỉnh cũng cần phát triển các dòng bơ theo luồng một cách hợp lý. Các loại bơ sáp nội địa, bơ 034, bơ Cuba chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước. Còn các giống bơ có trái nhỏ hơn, đặc biệt là bơ Hass, phải được quy hoạch vùng trồng phù hợp để xuất khẩu.

Tháng 7/2018, công ty SAM Agritech, cơ quan hợp tác Chính phủ New Zealand, Viện Nghiên cứu Cây trồng và Thực phẩm New Zealand đã kí bản thỏa thuận dịch vụ sản xuất bơ tại tỉnh Đắk Nông

Còn theo ông Nguyễn Duy Thụy, Viện trưởng Viện Khoa học xã hội vùng Tây Nguyên (Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam), Đắk Nông chưa có nhà máy chế biến sản phẩm bơ. Trên địa bàn tỉnh chỉ mới có một số đơn vị bắt đầu đầu tư vào sơ chế, chế biến bơ, nhưng quy mô quá nhỏ, chưa có tác động đến việc tiêu thụ bơ trong tỉnh.

Do đó, để làm cho cây bơ trở thành cây chủ lực, tỉnh phải phát triển chế biến. Bên cạnh đó, các vấn đề như liên kết bền vững giữa người trồng và doanh nghiệp; xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu, mã vùng trồng; có chỉ dẫn địa lý... cũng phải giải quyết được. Việc xây dựng đồng bộ hệ thống hạ tầng về nhà máy, vùng nguyên liệu, giao thông vận tải... cũng rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nói chung, cây bơ nói riêng.

Năm 2018 Đắk Nông tổ chức các hoạt động để nâng tầm quả bơ

Những năm qua, tỉnh đã có nhiều hoạt động nhằm xúc tiến việc sản xuất, tiêu thụ quả bơ. Điển hình như năm 2018, tỉnh tổ chức chương trình “Đắk Nông mùa bơ chín” với sự tham gia của nhiều nhà khoa học, doanh nghiệp. Một số thỏa thuận hợp tác sản xuất, tiêu thụ bơ phạm vi quốc tế cũng đã được ký kết.

Thế nhưng, đến nay cây bơ vẫn còn đang ở vào thế "bấp bênh", chưa thực sự đáp ứng được kỳ vọng của nông dân cũng mục tiêu chung của tỉnh. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu, tính toán hướng đi cho cây bơ trong thời gian tới là điều mà cơ quan chức năng cần lưu ý, quan tâm.

Bài, ảnh: Hồng Thoan

Tập trung khôi phục sản xuất nông nghiệp sau mưa lũ

Nguồn tin:  Báo Quảng Bình

Nhằm nhanh chóng khắc phục hậu quả sau các đợt mưa lũ vừa qua, ngành nông nghiệp Quảng Bình đang tập trung hướng dẫn, hỗ trợ người dân phục hồi sản xuất, sớm ổn định cuộc sống.

Ước tính thiệt hại 1.780 tỷ đồng

Đến thời điểm hiện tại, rất nhiều hộ nuôi cá lồng tại xã Quảng Lộc (TX. Ba Đồn) vẫn đang tìm biện pháp xử lý số lượng cá chết do ảnh hưởng của đợt mưa lũ vừa qua.

Ông Phạm Chí Thanh, Bí thư Đảng ủy xã Quảng Lộc cho biết, toàn xã có 43 hộ nuôi cá lồng với gần 320 lồng cá, tập trung chủ yếu ở thôn Cồn Sẻ. Do ảnh hưởng của mưa lũ, 82 lồng cá chẽm của người dân trên địa bàn bị chết hàng loạt, trong đó nhiều lồng bị sóng cuốn trôi, ước tính thiệt hại hơn 2,5 tỷ đồng.

Gia đình ông Nguyễn Trị, ở thôn Cồn Sẻ là một trong những hộ nuôi cá lồng bị thiệt hại nặng tại xã Quảng Lộc. Năm nay, gia đình ông nuôi 36 lồng cá với gần 9.000 con, chủ yếu là cá chẽm. Số cá này được gia đình nuôi đã gần một năm và dự tính sẽ xuất bán từ tháng 10 Âm lịch đến Tết. Khi ông Trị chưa kịp bán thì mưa lũ xảy ra. Hiện, gia đình ông chỉ còn lại 4 lồng cá. 32 lồng cá cùng với thiết bị máy móc đã bị mưa lũ cuốn trôi.

Trước khi lũ về, chính quyền địa phương đã có thông báo cho các gia đình nuôi cá lồng nên bán sớm để tránh mưa lũ, các hộ dân cũng đã khẩn trương xuất bán. Tuy nhiên, mặc dù các chủ lồng, bè nuôi cá đã hạ giá đến mức thấp nhất nhưng do nhu cầu của người dân trong những tháng này còn thấp, nên cá không bán được nhiều.

Chị Nguyễn Thị Huề, thôn Bắc Ngũ, xã Gia Ninh đang khẩn trương làm đất để trồng vụ rau và hoa cúc mới.

“Với 32 lồng cá, dự kiến đến lúc thu hoạch, gia đình tôi có gần 7 tấn cá để xuất bán. Với mức giá 100.000 đồng/kg, tôi có thể thu về hơn 700 triệu đồng. Chỉ tính riêng 32 lồng cá và tất cả máy móc bị hư hỏng, gia đình tôi thiệt hại hơn 1 tỷ đồng. Gia đình trông chờ cả vào mấy lồng cá, giờ mất hết, không biết làm sao mà xoay xở được…”, ông Trị cho hay.

Công ty CP Thanh Hương, xã Hải Ninh (Quảng Ninh) là một trong những doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại nặng nề do mưa lũ. Ông Nguyễn Văn Tuân, quản lý Công ty CP Thanh Hương cho biết: “Năm nay, công ty nuôi 4,5ha tôm thẻ chân trắng. Đợt mưa lũ kéo dài đã làm thiệt hại 1,5ha tôm và 12 hệ thống cấp nước từ biển bị sóng đánh gãy, ước tính hiệt hại 3,5 tỷ đồng”.

Theo thống kê từ Sở Nông nghiệp-PTNN, đợt mưa lũ kéo dài vừa qua đã gây ngập lụt diện rộng trên địa bàn toàn tỉnh, làm thiệt hại 8.861ha lúa, hoa màu, cây trồng; 41.231 tấn hạt giống; 1.038.521 con gia súc, gia cầm; 4.383ha nuôi trồng thủy sản... 493 lồng, bè nuôi thủy, hải sản và 228 phương tiện khai thác thủy hải sản bị hư hại.Tổng thiệt hại toàn ngành Nông nghiệp trong hai đợt mưa lũ vừa qua ước tính 1.780 tỷ đồng.

Hỗ trợ người dân khôi phục sản xuất

Tại vựa rau và hoa xã Gia Ninh (Quảng Ninh), hiện nhiều người dân đang tất bật cày ải ruộng đất để tập trung bước vào vụ trồng rau và trồng hoa để đón kịp Tết Nguyên đán. Chị Nguyễn Thị Huề, thôn Bắc Ngũ, xã Gia Ninh chia sẻ, gia đình chị trồng hơn 300m2 hoa cúc, kết hợp làm giàn trồng mướp phía trên. “Như mọi năm, gia đình tôi đã xuống giống từ sớm. Nhưng năm nay lũ ngập lâu quá nên tôi phải lùi lại cuối tháng 9 Âm lịch mới xuống giống. Hy vọng trời sẽ không tiếp tục mưa lũ!”, chị Huề cho hay.

Nhằm nhanh chóng khắc phục hậu quả mưa lũ, giúp người dân sớm ổn định đời sống, phục hồi sản xuất, Sở Nông nghiệp-PTNT đã chỉ đạo các đơn vị chủ động nắm tình hình thiệt hại đối với sản xuất nông nghiệp, nhu cầu trợ giúp của người dân để có những hướng dẫn, chỉ đạo các địa phương bị thiệt hại khôi phục sản xuất. Các đơn vị chuyên môn trực tiếp phối hợp với các địa phương huy động tối đa mọi phương tiện và nhân lực, tiến hành đấu úng, tháo nước, bơm tiêu nhanh trên ruộng hoa màu, cây ăn quả và cây công nghiệp lâu năm bị ngập úng nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại do mưa lũ gây ra; khôi phục những diện tích ruộng bị vùi lấp, xói lở do mưa lũ để tổ chức sản xuất vụ đông-xuân bảo đảm diện tích và kịp thời vụ.

Ngành nông nghiệp và các huyện, thành phố, thị xã chuẩn bị sẵn sàng giống cây lương thực, rau màu để hỗ trợ người dân khôi phục sản xuất sau mưa lũ. Trước mắt, cần ưu tiên giống ngô, rau màu ngắn ngày. Các địa phương hướng dẫn người chăn nuôi đưa gia súc, gia cầm đến nơi khô ráo; cung cấp đầy đủ thức ăn; theo dõi tình hình sức khỏe đàn gia súc, gia cầm và có báo cáo kịp thời cho cán bộ thú y cơ sở khi có gia súc, gia cầm bị ốm, chết; tranh thủ thời tiết nắng ráo đẩy mạnh chăm sóc diện tích cây thức ăn thô xanh, bảo đảm nguồn thức ăn tại chỗ cho đàn gia súc, gia cầm.

Gia đình ông Nguyễn Trị-một hộ nuôi cá lồng ở thôn Cồn Sẻ, xã Quảng Lộc thiệt hại hơn 1 tỷ đồng do mưa lũ gây ra.

Đối với lĩnh vực thủy sản, Sở đã chỉ đạo các đơn vị, địa phương kiểm tra, tiến hành tu sửa, gia cố bờ đê, cửa cống, sửa chữa máy móc thiết bị, vệ sinh, khử trùng và cải tạo ao để chuẩn bị bước vào vụ nuôi mới; chủ động kế hoạch nhập đủ số lượng cá giống bị trôi để khôi phục sản xuất, đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu con giống của người nuôi trên địa bàn. Ngoài ra, Sở cũng đã kiểm tra, gia cố các công trình thủy lợi, đầu mối, đập dâng bị sạt lở do lũ, bảo đảm đủ nước cho sản xuất vụ đông-xuân...

Ông Mai Văn Minh, Giám đốc Sở Nông nghiệp-PTNT cho biết, Bộ Nông nghiệp-PTNT đã hỗ trợ tỉnh: 20.000 lít Benkocid, 20 tấn Clorine để xử lý môi trường chăn nuôi, thủy sản; 50.000 liều vắc xin lở mồm long móng, 50.000 liều vắc xin dịch tả lợn, 50.000 liều vắc xin tụ huyết trùng trâu bò… Bộ cũng đã cấp 5.000kg hạt giống ngô và 4.200kg hạt giống rau. Sau khi tiếp nhận, Sở sẽ phân bổ về các địa phương để kịp thời hỗ trợ người dân khôi phục sản xuất.

Với sự vào cuộc quyết liệt của ngành nông nghiệp và chính quyền các địa phương, việc khôi phục sản xuất đã và đang được khẩn trương triển khai, góp phần từng bước ổn định đời sống, giảm bớt khó khăn cho người dân vùng lũ.

Lan Chi

Trà Vinh: Mô hình canh tác lúa sử dụng phân bón thông minh chậm tan đạt hiệu quả cao

Nguồn tin: Khuyến Nông VN

Năm 2020, Trung tâm Khuyến nông Trà Vinh xây dựng “Mô hình canh tác lúa sử dụng phân bón thông minh chậm tan” tại ấp Bến Thế, xã Tân Sơn, huyện Trà Cú, với qui mô 8,2 ha/12 hộ.

Tỉnh Trà Vinh có diện tích gieo trồng lúa mỗi năm khoảng 220.000 ha, sản lượng đạt trên 01 triệu tấn. Trong những năm qua, Ngành Nông nghiệp tỉnh đã triển khai nhiều chương trình, dự án nhằm mục tiêu hạ giá thành sản xuất, nâng cao thu nhập cho người trồng lúa thông qua việc chọn giống lúa chất lượng, năng suất cao; áp dụng qui trình kỹ thuật tiên tiến; áp dụng quản lý dịch hại tổng hợp IPM hạn chế sử dụng thuốc BVTV. Đồng thời, chú trọng cơ giới hóa trong sản xuất; chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng thâm canh và sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP.

Tuy nhiên, biến đổi khí hậu làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất lúa. Để giúp nông dân sản xuất lúa đạt hiệu quả cao, năm 2020, Trung tâm Khuyến nông Trà Vinh xây dựng “Mô hình canh tác lúa sử dụng phân bón thông minh chậm tan” tại ấp Bến Thế, xã Tân Sơn, huyện Trà Cú, với qui mô 8,2 ha/12 hộ. Mô hình đối chứng thực hiện canh tác lúa sử dụng phân bón vô cơ thông thường.

Quá trình thực hiện mô hình cho thấy, lượng phân bón trong mô hình là 320 kg/ha, thấp hơn so với ruộng đối chứng 370 kg/ha (ruộng đối chứng sử dụng 690 kg/ha). Nông dân tham gia mô hình thực hiện đúng quy trình hướng dẫn từ khâu làm đất, gieo sạ với mật độ thưa 100 kg/ha, đồng loạt theo lịch khuyến cáo của địa phương, đặc biệt chỉ bón vùi phân một lần ngay từ đầu vụ giảm được chi phí chăm sóc (công bón phân, phun thuốc BVTV, chăm sóc,...), lúa sinh trưởng phát triển tốt, hạn chế đổ ngã, ít bị sâu bệnh…

Lúa trong mô hình đang trong giai đoạn chín

Năng suất lúa trong mô hình đạt 7,0 tấn/ha, ruộng đối chứng năng suất đạt 6,3 tấn/ha. Giá thành sản xuất lúa trong mô hình là 2.443 đồng/kg, ruộng đối chứng là 3.063 đồng/kg. Trong đó, việc giảm thuốc bảo vệ thực vật, giảm công lao động góp phần quan trọng trong việc hạ giá thành sản phẩm. Như vây, lợi nhuận trong mô hình đạt 24.895.000 đồng/ha, cao hơn ruộng đối chứng 6.390.000 đồng/ha (ruộng đối chứng cho lợi nhuận 18.505.000 đồng/ha).

Bên cạnh hiệu quả kinh tế, mô hình đã hướng dẫn nông dân sản xuất lúa chất lượng cao đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, cung cấp ra thị trường được khoảng 60 tấn lúa chất lượng cao. Mô hình cũng giúp tăng cường sự liên kết của các hộ sản xuất, từng bước tiến tới hợp tác sản xuất hàng hóa tập trung, là cơ sở để người nông dân an tâm sản xuất trong điều kiện thời tiết diễn biến bất thường, đặc biệt là ành hưởng của hạn, mặn.

Mô hình thực hiện đạt được kết quả cao đây sẽ là mô hình điểm để người nông dân trong và ngoài địa phương đến tham quan, trao đổi kinh nghiệm và ứng dụng rộng rãi vào thực tế sản xuất nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.

Huỳnh Quãng Sơn - Trung tâm Khuyến nông Trà Vinh

Bình Phước: Hồ tiêu Thiện Hưng không ra trái

Nguồn tin: Báo Bình Phước

Mấy năm trở lại đây, giá tiêu xuống thấp, đời sống người trồng tiêu gặp nhiều khó khăn. Năm nay, bên cạnh khó khăn về giá thì nhiều vườn tiêu của nông dân ở xã Thiện Hưng, huyện Bù Đốp (tỉnh Bình Phước) lại không có trái mặc dù cây vẫn sinh trưởng và phát triển tốt.

Vườn tiêu nhà ông Phạm Văn Đao, thôn 4, xã Thiện Hưng xanh tốt nhưng không ra trái

Gia đình ông Phạm Văn Đao ở thôn 4, xã Thiện Hưng có 1.500 nọc tiêu. Những năm trước, năm nào gia đình ông cũng thu được 3-5 tấn hạt tiêu. Vậy mà năm nay đến thời điểm này, 90% diện tích tiêu của nhà ông lại không cho trái, cây chỉ bung đọt và ra lá non, ước tính mỗi nọc chỉ thu được khoảng 2 lạng tiêu. Ông Đao cho biết: Thông thường cây tiêu sẽ phù cựa và ra bông vào tháng 4 âm lịch. Năm nay, thời điểm này trời lại nắng chang chang, hết đợt nắng quay lại đợt mưa kéo dài, do vậy cây tiêu cầm cự không bị chết, còn toàn bộ mất mùa hết. Tiêu không có trái, giá lại xuống thấp, thu không đủ chi nhưng gia đình vẫn phải bỏ công chăm sóc để giữ vườn tiêu chờ tăng giá.

Nổi tiếng có vườn tiêu đẹp nhất tại xã Thiện Hưng, gia đình ông Vũ Văn Khỏe ở thôn 4 có 2.000 nọc tiêu nhưng năm nay khoảng 1/3 diện tích vườn tiêu nhà ông cho rất ít trái, nhiều trụ chỉ lác đác vài chùm. Theo ông Khỏe, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, mưa, nắng thất thường đã ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây. Thêm vào đó vì không thuê được công hái nên thời gian thu hoạch kéo dài khiến cây bị suy kiệt, không kịp phục hồi để phân hóa mầm hoa.

Bình Phước hiện có 14.500 ha hồ tiêu. Năm 2018, sản lượng tiêu đạt gần 27.000 tấn. Thế nhưng năm 2019 và 2020, nhiều diện tích tiêu của nông dân trong tỉnh không có trái, hoặc có nhưng năng suất chỉ đạt trên 60%, vì vậy nguy cơ giảm sản lượng là hiện hữu. Để giữ vững thương hiệu hồ tiêu Bình Phước cả về sản lượng và chất lượng thì ngành nông nghiệp cần tích cực hơn nữa trong việc hướng dẫn nông dân cách chăm sóc, phòng bệnh cho hồ tiêu.

Ông Lê Hữu Thanh, Phó chủ tịch Hội Nông dân xã Thiện Hưng cho biết: Toàn xã có 3.050 hộ dân thì hơn 1.000 hộ trồng tiêu. Trước năm 2018, diện tích hồ tiêu của xã lên tới 550 ha, hơn 2 năm trở lại đây tiêu bị bệnh chết nhanh, chết chậm khiến diện tích giảm còn 250 ha. Năm nay, rất nhiều vườn tiêu không có trái hoặc cho trái ít khiến nông dân vô cùng lo lắng. Nguyên nhân là do giá xuống thấp nên nông dân ít đầu tư, cộng với thời tiết diễn biến thất thường, một số giống tiêu cứ 1 năm được mùa thì năm sau lại không có trái, do vậy diện tích hồ tiêu không có trái tăng. Nhiều hộ dân không có nguồn thu để trả lãi và vốn vay ngân hàng. Với thực trạng này, mong rằng Nhà nước, các ngân hàng có những biện pháp giãn nợ cho người trồng tiêu, giúp họ có điều kiện tái đầu tư chăm sóc vườn, ổn định cuộc sống.

Kỹ sư Trần Trung Dũng, nhân viên kỹ thuật Công ty TNHH chế biến gia vị Nedspice Việt Nam cho biết: Muốn cây tiêu ra hoa đồng loạt thì yếu tố đầu tiên là sự thuận lợi về thời tiết. Cây tiêu không ưa hạn, cũng không ưa mưa lớn kéo dài, nó cần một thời gian khô nhất định. Vì vậy, nếu gặp hạn hán lâu hoặc mưa lớn kéo dài sẽ khiến quá trình ra hoa bị ảnh hưởng. Hơn nữa, việc bón phân cũng rất quan trọng và cần phải khoa học. Nông dân nên chọn loại phân bón có hàm lượng đạm vừa phải để tăng cường cho quá trình ra hoa tốt hơn, kết hợp với kỹ thuật canh tác tốt giúp vườn tiêu phát triển đồng bộ. Nông dân cũng cần có kỹ thuật xử lý ra hoa dựa trên những đặc tính sinh lý, hóa sinh và quy trình chăm sóc khoa học cho cây hồ tiêu, thúc cây tạo mầm hiệu quả, đánh thức mầm ngủ, kích ra hoa đồng loạt ngay trong điều kiện bất lợi. Đặc biệt chú ý việc chăm sóc vườn tiêu ngay sau giai đoạn thu hoạch, đồng thời tiêu diệt mầm bệnh và bón phân kích cây tái sinh, sinh trưởng mạnh.

Hiền Lương

Khởi nghiệp từ mô hình nuôi dê nhốt chuồng

Nguồn tin: Báo tỉnh Đắk Lắk

Nhiều năm trồng và chăm sóc 5 sào cà phê nhưng hiệu quả kinh tế không cao, đôi lúc anh Niê Nhật Quốc (dân tộc Êđê, ở buôn Yôk, xã Ea H’đing, huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk) cảm thấy nản.

Thế nhưng khát vọng làm giàu trên mảnh đất quê hương thôi thúc anh tìm tòi, học hỏi các mô hình làm kinh tế phù hợp với điều kiện của địa phương và gia đình. Trăn trở, tìm hiểu, tính toán, cuối cùng anh Quốc quyết định phát triển kinh tế bằng cách nuôi dê nhốt chuồng.

Nghĩ là làm, anh tìm đến những hộ nuôi dê thành công học hỏi kỹ thuật xây dựng chuồng trại, cách chăm sóc, phòng tránh các bệnh thường gặp ở loài vật nuôi này. Khi đã sẵn sàng, tháng 6-2019, anh bắt tay hiện thực hóa giấc mơ khởi nghiệp với mô hình nuôi dê nhốt chuồng. Anh Quốc cho hay, nuôi dê nhốt chuồng khá nhàn nên anh vẫn có thời gian đi làm rẫy. Hơn nữa dê sinh sản nhanh, khả năng thu hồi vốn chỉ trong thời gian ngắn.

Ban đầu, anh Quốc đầu tư gần 60 triệu đồng mua 20 con dê sinh sản giống Bách Thảo và Boer lai. Vừa nuôi, anh vừa tìm tòi, học tập thêm kinh nghiệm từ bạn bè, sách báo, mạng Internet, nhờ đó đàn dê của gia đình phát triển tốt. Thấy chăn nuôi dê khá thuận lợi, tháng 9-2019, anh Quốc vay mượn tiền mua thêm 100 con dê thịt, với trọng lượng hơn 10 kg/con về nuôi vỗ béo. Sau hơn 3 tháng chăm sóc, đàn dê thịt tăng từ 25 - 30 kg/con; anh Quốc xuất chuồng lứa dê đầu tiên, thu về gần 300 triệu đồng, giúp anh trang trải nợ nần, đầu tư con giống, tiếp tục theo đuổi ước mơ làm giàu.

Anh Niê Nhật Quốc chăm sóc đàn dê của gia đình mình.

Với đàn dê giống, sinh sản đến đâu anh Quốc để nuôi đến đấy. Nhờ có kỹ thuật chăm sóc tốt, đàn dê không ngừng tăng số lượng qua mỗi đợt sinh sản. Thông thường, mỗi lần dê mẹ đẻ từ 1 - 3 con, mỗi năm đẻ hai lứa. Hiện đàn dê đã lên đến 80 con. Dê giống nuôi khoảng ba tháng tuổi, cân nặng 25 kg là xuất chuồng, với giá bán 115.000 - 135.000 đồng/kg, gia đình anh Quốc có trong tay hơn 200 triệu đồng. Theo anh Quốc, để nuôi dê hiệu quả, chuồng nuôi phải được thiết kế bằng ván gỗ, cao ráo, cách 1 mét so với mặt đất và làm theo kiểu chuồng sàn chia ngăn. Các thanh gỗ lát sàn có khe hở để bảo đảm phân và nước thải lọt xuống. Đối với dê sinh sản, phải bám sát chu kỳ và lập sổ ghi chép kỹ lưỡng quá trình phối giống cũng như sinh sản của đàn dê. Lợi thế lớn nhất khi nuôi dê là tận dụng được thức ăn có sẵn trong vườn, vì dê là loài ăn tạp; trong đó thức ăn ưa thích nhất là cây keo, chuối.

Ngoài chăn nuôi dê, anh Quốc còn kết hợp nuôi gà, trồng cây ăn trái và cải tạo vườn cà phê. Việc nuôi dê giúp anh tận dụng được nguồn phân bón để cho vườn cây. Nuôi dê nhốt chuồng khá hiệu quả, anh Quốc dự tính tiếp tục đầu tư mở rộng quy mô chăn nuôi trong thời gian tới.

Đỗ Lan

Tân Trụ (Long An) công bố dịch tả heo Châu Phi

Nguồn tin: Báo Long An

UBND huyện Tân Trụ, tỉnh Long An vừa công bố dịch tả heo Châu Phi (DTHCP) xảy ra tại xã Tân Bình và thị trấn Tân Trụ.

Tất cả các ổ bệnh đều được tiêu hủy bằng phương pháp đốt cháy hoàn toàn

Theo đó, ổ dịch đầu tiên xảy ra tại hộ ông Nguyễn Văn Danh, ngụ khu phố Bình Hòa, thị trấn Tân Trụ. Tổng đàn heo của gia đình ông có 8 con. Theo báo cáo của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tân Trụ, ngày 24/10 ông Danh báo với chính quyền địa phương có 1 con heo chết bất thường.

Đến ngày 25/10, đàn heo của ông Danh có thêm một con chết. Cơ quan chức năng thực hiện test nhanh với DTHCP, kết quả 1/2 mẫu dương tính với DTHCP. Ngày 26/10, toàn đàn heo 8/8 con với tổng trọng lượng 703kg đã được tiêu hủy.

Ngày 04/11, DTHCP tiếp tục xuất hiện tại hộ bà Cao Thị Lương ngụ ấp 3, xã Tân Bình. Đàn heo của gia đình bà có tổng cộng 35 con, trong đó ngành nông nghiệp huyện đã tiến hành tiêu hủy theo quy định 17 con sau cai sữa và tiếp tục theo dõi số heo còn lại.

Hiện nay, ngành nông nghiệp huyện đang tích cực thực hiện tiêu độc, khử trùng chuồng trại chăn nuôi, nơi buôn bán, giết mổ. Đồng thời, thực hiện việc tiêu hủy, chôn lấp heo bệnh nhằm bảo đảm vệ sinh môi trường và hạn chế việc lây lan dịch bệnh sang các xã còn còn lại trong huyện./.

Bùi Tùng

Bình Dương: Huyện Dầu Tiếng có 224 trại chăn nuôi

Nguồn tin: Báo Bình Dương

Đến nay, toàn huyện Dầu Tiếng có 224 trại chăn nuôi gia súc, gia cầm, tăng 9 trại so với cùng kỳ năm 2019. Trong số này có 147 trại chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao. Ước tính, toàn huyện hiện có 188.500 con gia súc, tăng 13,3%; đàn gia cầm 3,1 triệu con, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2019; diện tích nuôi trồng thủy sản khoảng 116.000m2. Hiện trên địa bàn huyện có trên 320 nhà nuôi chim yến.

Từ đầu năm đến nay, huyện đã triển khai đến các chi, tổ hội cơ sở thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm và thủy sản. Đáng chú ý, việc phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp của huyện bước đầu đạt được kết quả khả quan, tạo tiền đề cho việc triển khai nhân rộng trong những năm tiếp theo.

HỒNG NGA

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop