Tin nông nghiệp ngày 14 tháng 07 năm 2017

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 14 tháng 07 năm 2017

Người Thái đầu tiên trồng thanh long ruột đỏ cho thu nhập cao ở Con Cuông

Nguồn tin: Báo Nghệ An

Sau hơn 2 năm trồng, 160 gốc thanh long ruột đỏ của gia đình ông Lô Văn Phúc bắt đầu cho thu hoạch. Dự kiến năm nay gia đình ông sẽ thu về hơn 80 triệu đồng.

160 gốc thanh long của gia đình ông phúc đang vào vụ thu hoạch. Ảnh: Minh Hạnh

Với khoảng 80 triệu đồng đầu tư giống và vật tư ban đầu, ông Lô Văn Phúc, người dân tộc Thái ở bản Thanh Đào, xã Bồng Khê (Con Cuông, Nghệ An) bắt đầu trồng 160 gốc thanh long ruột đỏ từ năm 2015. Được biết, cũng trên diện tích 1.200m2 đất, mấy năm trước gia đình ông từng trồng nhiều loại cây màu, mất nhiều công sức nhưng hiệu quả không cao.

Lựa chọn trồng cây gì, nuôi con gì để phát triển kinh tế là câu hỏi luôn thường trực ở ông. Trăn trở, đắn đo, ông tìm hiểu thông tin các mô hình phát triển kinh tế của các địa phương. Đầu năm 2015, ông cất công vào tận tỉnh Bình Thuận rồi lên đến Đà Lạt để tham quan, học hỏi những mô hình trồng thanh long ruột đỏ cho hiệu quả kinh tế cao. Qua tìm hiểu, ông được biết giống thanh long ruột đỏ có năng suất và chất lượng cao hơn giống thanh long ruột trắng, mỗi năm cho thu 7 - 8 lứa quả.

Với giá bán buôn 35.000 đồng/1kg, bán lẻ 40.000 đồng/kg, ông Phúc cho biết giá trị kinh tế từ cây thanh long ruột đỏ cao hơn hẳn so với các cây trồng khác 2 - 3 lần. Ảnh: Bá Hậu

Một gốc thanh long ruột đỏ có thể cho 40 quả/vụ. Ảnh: Minh Hạnh

Tháng 10/2015, ông đầu tư khoảng 80 triệu đồng để mua giống, xây trụ tiến hành trồng giống cây ăn quả mới mẻ này. Ông Phúc cho biết, quá trình chăm sóc, bản thân ông đã tự mày mò tìm hiểu kỹ thuật cũng như cách xử lý cho cây ra hoa quanh năm. Trụ để thanh long leo làm bằng bê tông, hình vuông, có chiều cao khoảng 2,5 - 3m, trụ phải được chôn sâu, chắc chắn để phòng gió bão. Khoảng cách hàng cách hàng, cây cách cây là 2,5m.

Sau khi trồng khoảng 1 năm, cây bắt đầu ra trái, mỗi đợt từ lúc ra hoa cho đến thu hoạch khoảng 2 tháng. Ngoài ra, để tưới cho cây, ông tìm dây cáp quang cũ rồi về cắt bỏ phần lõi, đem đặt cố định dưới gốc làm thành hệ thống tưới nước nhỏ giọt tự động.

Theo tính toán với 160 gốc thanh long ruột đỏ, chăm sóc tốt, mỗi gốc thanh long có thể cho khoảng 40 quả/năm, trung bình mỗi quả nặng 0,3 - 0,4kg, bán với giá 35.000 đồng/kg, mỗi năm cho thu 7 - 8 lứa. Dự kiến năm nay, gia đình thu về khoảng gần 80 triệu đồng.

Để tăng hiệu quả kinh tế, trong vườn thanh long ông Lô Văn Phúc bước đầu nuôi 10 tổ ong mật. Ảnh: Bá Hậu

Tận dụng diện tích này, dưới gốc thanh long ông còn kết hợp nuôi gà, trồng cà và nuôi ong. Ngoài 10 triệu đồng thu được từ bán gà thịt, thì với hơn 10 tổ ong đặt dưới gốc thanh long cũng mang về cho gia đình nguồn thu khoảng 5 triệu đồng/năm.

Ông Phúc chia sẻ thêm: "Thanh long ruột đỏ được người dân trong vùng ưa chuộng vì chất lượng tốt, tuy quả nhỏ hơn so với thanh long ruột trắng nhưng hương vị lại ngọt đậm. Đến vụ thu hoạch, thương lái đến gom tận nơi, người dân cũng đặt mua rất nhiều".

Gia đình ông Lô Văn Phúc thu hoạch thanh long ruột đỏ. Ảnh: Minh Hạnh

Hiện nay, thanh long ruột đỏ được rất nhiều người ưa chuộng, giá bán trên thị trường cao gấp 2 - 3 lần so với thanh long ruột trắng. Ông Lô Văn Phúc cũng là người đầu tiên đưa mô hình thanh long ruột đỏ vào trồng trên địa bàn huyện miền núi Con Cuông. Hy vọng, cây trồng này sẽ trở thành cây xóa đói, giảm nghèo không chỉ cho cho gia đình ông Phúc mà còn được nhân rộng cho nhiều hộ nông dân huyện miền núi./.

Minh Hạnh - Bá Hậu

Hiệu quả từ mô hình trồng nhãn xuồng

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Ðến vườn nhãn của gia đình ông thương binh 4/4 Trần Văn Xê, ngụ tại ấp Chánh, xã Hiệp Thạnh (huyện Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh), hầu như ai cũng bị cuốn hút bởi những cây nhãn xuồng đang trĩu quả.

Vườn nhãn xuồng trĩu quả của gia đình ông Trần Văn Xê.

Ông Xê chia sẻ, trước đây gia đình ông trồng đủ loại cây như chanh, xoài cát Hoà Lộc, mãng cầu xiêm… nhưng hiệu quả rất thấp. Cách đây vài năm, ông đã mạnh dạn chuyển đổi sang trồng giống nhãn xuồng, tuy năng suất không cao bằng giống nhãn tiêu da bò, nhưng ngược lại cây nhãn xuồng có sức đề kháng khá tốt, ít bị sâu bệnh, nên hiệu quả kinh tế cao hơn.

Ông Xê chia sẻ: “Những năm đầu tiên do chưa nắm rõ kỹ thuật nên năng suất và hiệu quả kinh tế cây nhãn xuồng không cao. Từ năm thứ 4 trở đi, tôi đã nắm vững kỹ thuật chăm sóc nên cây bắt đầu cho năng suất ổn định hơn. So với một số giống nhãn khác, năng suất của nhãn xuồng không bằng, nhưng 1kg nhãn xuồng có giá cao hơn gấp 2-3 lần. Hiện nay, nếu thương lái thu mua tại vườn, thì nhãn tiêu có giá khoảng 18.000 - 20.000 đồng/kg, còn nhãn xuồng từ 40.000 - 45.000 đồng/kg”.

Ngoài ra, chi phí đầu tư về phân bón và thuốc trừ sâu trồng nhãn xuồng cũng thấp, với 3 công đất, mỗi vụ gia đình ông Xê chỉ bỏ ra khoảng 17 triệu đồng. Khi nhãn chín, bình quân mỗi công thu hoạch từ 1,6 - 1,7 tấn trái, được thương lái đến mua tận vườn rồi chuyển hàng đi TP. Hồ Chí Minh, Campuchia.

Giống nhãn xuồng có ưu điểm là trái to, cơm vàng khô, thịt giòn, vị ngọt thanh, cây khoẻ ít bị gãy đổ, đặc biệt là ít bị sâu bệnh trên trái và cành, lại dễ đậu trái và có tuổi thọ tới hơn 30 năm.

Ông Phạm Hoàng Anh- Chủ tịch Hội Nông dân xã Hiệp Thạnh cho biết, trước đây, mô hình trồng nhãn xuồng chỉ xuất hiện ở một số hộ, gần đây do hiệu quả kinh tế của cây nhãn xuồng mang lại tốt hơn một số loại cây hoa màu, lúa, và giống nhãn tiêu da bò nên bà con đã chuyển đổi sang trồng nhãn xuồng khoảng 10 ha, một số diện tích đã bắt đầu cho trái với năng suất cao. Hiệu quả kinh tế từ cây nhãn xuồng rất ổn định, trung bình 1 ha nhãn xuồng cho lợi nhuận từ 160 - 170 triệu đồng.

Vũ Nguyệt

Chuyển đổi cây trồng đúng - nông dân thu nhập cao

Nguồn tin: VOV

Với Đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi giai đoạn 2014-2016 và định hướng đến năm 2020 (gọi tắt là đề án 1.000), tỉnh Hậu Giang đã tạo điều kiện cho người dân thực hiện các mô hình chuyển đổi mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, góp phần tăng thu nhập trên cùng diện tích canh tác và phát triển sản xuất bền vững cho nông hộ.

Điển hình như tại huyện Phụng Hiệp, nhờ chuyển đổi cây trồng đúng hướng nên nông dân ở địa phương này đã có thu nhập tăng gấp nhiều lần so với trước đây, đưa huyện nông thôn thật sự khởi sắc.

Ông Võ Văn Phải ở ấp Mỹ Phú A, xã Hòa Mỹ, huyện Phụng Hiệp cho biết, vùng đất địa phương trước đây bị nhiễm phèn nặng, chỉ trồng được mía và 1 vụ lúa nhưng cho thu nhập không cao. Gia đình ông có đến 1 ha đất trồng mía nhưng đến lúc sắp thu hoạch, lũ tràn về ngập gốc làm giảm năng suất, chất lượng, rồi bị thương lái ép giá nên năm nào cũng thua lỗ.

Chuyển đổi trồng mãng cầu xiêm cho thu nhập cao.

Những năm qua, ông và những nông dân nơi đây mạnh dạn phá bỏ mía chuyển sang trồng cây mãng cầu xiêm. Với loại cây trồng mới này, ông và những nông dân nơi đây hàng năm thu nhập hàng trăm triệu đồng/ha, cao gấp mười mấy lần so với trồng mía, trồng lúa trước đây.

“Trồng mãng cầu xiêm đang mang lại hiệu quả cao cho người dân. Có nhiều hộ trồng mãng cầu xiêm trên 10 công đất thu 700-800 triệu đồng/năm”, ông Phải cho biết.

Không chỉ ở xã Hòa Mỹ, thời gian qua các địa phương trong huyện Phụng Hiệp đều đồng loạt chuyển đổi cây tạp, cây trồng kém hiệu quả sang trồng các loại cây khác có hiệu quả kinh tế cao.

Ngoài mô hình trồng mãng cầu xiêm tập trung nhiều ở xã Hòa Mỹ, các xã, thị trấn khác trong huyện cũng xuất hiện nhiều mô hình canh tác mới như mô hình trồng cam xoàn, cam sành, dưa lưới, thanh long ruột đỏ, dừa xiêm dứa.. Những mô hình này đều mang lại thu nhập cao cho nông dân.

Ông Đoàn Văn Vân ở ấp Mỹ Thuận 1, xã Phụng Hiệp cho biết, từ khi bỏ mía chuyển sang trồng cam xoàn đã 3 năm nay, đây là năm đầu tiên cam bắt đầu cho thu hoạch trái nhưng ước tính thu nhập cũng vài trăm triệu sau khi trừ chi phí.

“Gia đình ước định sẽ thu được khoảng 600 triệu đồng trong vụ thu hoạch này. Từ vụ sau thu nhập chắc chắn sẽ còn cao hơn lên tới 80-90% so với chi phí bỏ ra”, ông Vân cho biết.

Theo ông Nguyễn Thế Tự, Phó Trưởng phòng Nông NN&PTN huyện Phụng Hiệp, trước đây huyện có hơn 9.550 ha mía nhưng trong gần 3 năm qua, nông dân trong huyện đã chuyển hơn 2.000 ha mía ngoài đê bao thường xuyên bị ảnh hưởng lũ, năng suất không cao và hơn 200 ha vườn tạp sang trồng các loại cây trồng khác có giá trị kinh tế cao, nâng diện tích cây ăn trái của huyện đạt hơn 7.600 ha.

Ông Tự cũng cho biết, huyện chuyển đổi cây trồng đúng hướng và thành công là nhờ bên cạnh việc định hướng, lựa chọn cây trồng phù hợp, hướng dẫn nông dân kỹ thuật canh tác, địa phương còn tạo điều kiện cho các hộ có được nguồn vốn để chuyển đổi.

“Đối với tỉnh có sự hỗ trợ của đề án 1.000, huyện Phụng Hiệp thụ hưởng và giải ngân trong 4 hợp phần, trong đó có hợp phần chuyển đổi về cây trồng là thụ hưởng nhiều nhất và tổng cái giải ngân là 11,7 tỷ đồng đến thời điểm này. Trong đó, Nhà nước hỗ trợ 50% lãi suất, còn 50% lãi suất do người dân đối ứng”, ông Tự chia sẻ.

Năm 2016, giá trị sản xuất từ cây ăn trái của huyện Phụng Hiệp có bước tăng trưởng mạnh, đạt gần 470 tỉ đồng. Đây là minh chứng cho quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng đúng hướng của huyện trong thời gian qua.

Theo lãnh đạo huyện Phụng Hiệp trong những năm tiếp theo địa phương tiếp tục phát triển, nhân rộng những loại cây trồng cho giá trị kinh tế cao, từng bước xây dựng vùng trái cây đặc sản, đồng thời kết nối với các doanh nghiệp chế biến để tìm đầu ra ổn định cho các mặt hàng nông sản ở địa phương, tiếp tục nâng cao đời sống của người dân trong huyện./.

Tấn Phong/VOV-ĐBSCL

Thêm một bệnh lạ trên quýt hồng

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

Vườn quýt của anh Nguyễn Văn Vuông, ấp Long Hưng 2, xã Long Hậu, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp đang cho trái năm đầu tiên, diện tích 3.000m2, với 320 cây. Nhưng khoảng hơn tháng nay hiện tượng bệnh lạ xuất hiện, chiếm khoảng 10% tổng số cây trong vườn. Ban đầu quýt bị vàng đọt, sau đó hiện tượng vàng sẽ lan dần xuống gốc, dần dần rụng lá và chết. Mặc dù nhà vườn đã thử nghiệm xử lý bằng một vài loại thuốc nhưng không có kết quả.

Bệnh lạ này xuất hiện trên nhiều vườn quýt ở huyện Lai Vung, trong đó quýt hồng bị nhiễm bệnh nhiều hơn quýt đường, có nơi bị nhiễm lên đến khoảng 20%.

Các ngành chuyên môn huyện Lai Vung cũng đã tiến hành khảo sát thực tế. Ông Huỳnh Văn Tồn - Kỹ sư trồng trọt - Phó trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Lai Vung nhận định: “Khi quan sát ở rễ thì thấy bộ rễ hư rất nhiều. Nhà vườn cho biết có bón phân hữu cơ cộng với vô cơ. Vì vậy có thể do kỹ thuật bón phân hơi quá liều, khi tưới đẩm thì nước sẽ tràn tới những khu vực trũng, khu vực nào phân dồn xuống thì khu vực đó bị hư. Nhưng đây là quan sát ban đầu. Phòng Nông nghiệp đã làm đề nghị nhờ Viện Nghiên cứu Cây ăn quả Miền Nam tiếp tục khảo sát để kết luận chính xác và khoa học”.

Mỹ Thức

Bình Phước: Nông dân Lộc Ninh, Bù Đốp chuyển hướng trồng cây ăn trái

Nguồn tin: Báo Bình Phước

Tuy chưa có số liệu thống kê của ngành nông nghiệp về diện tích trồng mới nhưng theo tìm hiểu của phóng viên từ các vựa bán cây giống thì mùa trồng mới 2016 và 2017 nông dân ở Bù Đốp, Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước đang chuyển hướng trồng cây ăn trái. Đất đai màu mỡ, khí hậu nhiệt đới, Lộc Ninh, Bù Đốp không chỉ là thủ phủ của cao su, hồ tiêu mà còn thích hợp với nhiều loại cây ăn trái có giá trị kinh tế cao như sầu riêng, măng cụt, bưởi da xanh… Nhà vườn, nhà đầu tư chiến lược liên kết để tạo ra vùng cây ăn trái có chất lượng tốt làm chủ thị trường, giá cả.

Niềm tin vào cây ăn trái

Với 7 sào điều 18 năm, những năm trước ông Nguyễn Văn Nghĩa ở ấp 3, xã Lộc Điền (Lộc Ninh) cho rằng, các con đều làm công nhân ở Bình Dương, vợ chồng lại lớn tuổi nên không thể chạy theo phong trào trồng tiêu như các hộ trong xóm mà giữ vườn điều để vừa sức lao động. Thế nhưng, năm nay vườn điều già của ông Nghĩa chỉ thu được 3 tạ vì mưa trái mùa. Thấy nhà bên cạnh có 5 cây sầu riêng, 3 cây bơ nhưng thương lái vào vườn trả tiền “tươi” 35 triệu đồng (mua mão), vậy là vợ chồng ông Nghĩa quyết định cưa 2 sào điều để trồng 10 cây sầu riêng và 30 cây bơ sáp, với hy vọng 3-5 năm sau thu về vài trăm triệu đồng.

Từ cuối năm 1998 đến mùa mưa 2014, trên 4 sào đất hộ bà Nguyễn Thị Nhớ, ấp 2, xã Lộc Thiện (Lộc Ninh) đã chuyển đổi 5 loại cây trồng: điều, hồ tiêu, cà phê... Người tăng nhưng đất không tăng, hiện gia đình bà Nhớ đã tăng thêm 1 hộ, 3 người do con trai đầu lấy vợ, sinh 2 con và tách hộ. Ngoài thu nhập từ vườn, nhiều năm nay vợ chồng bà Nhớ và con trai đầu đi làm thuê để trang trải cuộc sống. Mùa xuống giống năm 2014, giá hồ tiêu đỉnh điểm. Vậy là 4 sào cà phê hộ bà chuyển qua trồng tiêu. Tuy nhiên, trồng tiêu trên đất cũ nên cây èo uột, thu hoạch vụ đầu không đủ trả vốn vay đầu tư. Giá tiêu năm 2017 giảm sâu trong khi giá sầu riêng, bơ sáp, chôm chôm Thái và cả mít Thái siêu sớm đều cao ngất ngưởng nên gia đình bà Nhớ lại mua 50 cây bơ, 20 cây sầu riêng và 30 cây chôm chôm Thái xen trong vườn tiêu để chuyển đổi cây trồng thêm lần nữa.

Bơ sáp giống mới (booth 7) đang được nhà vườn Lộc Ninh lựa chọn trồng trong năm 2017

Khi chúng tôi hỏi 2 năm nay nông dân các xã biên giới ở Bù Đốp gắn bó với loại cây gì anh Phan Văn Tư, nông dân giỏi xã Thanh Hòa trả lời: Không ham trồng hồ tiêu hay điều mà nông dân chủ yếu trồng bưởi da xanh, cam, quýt. Những “đại gia” có vốn lớn thì đầu tư trồng cây ăn trái tập trung trên đất mới ở khu vực đất bồi dọc lòng hồ thủy điện Srok Phu Miêng với diện tích 5, 20, 50 ha. Thấy lợi ích kinh tế cao, nhà vườn nhỏ lẻ cưa bớt diện tích điều già, cao su và cả hồ tiêu để xuống giống bưởi, cam, bơ, sầu riêng...

Liên kết tạo vùng nguyên liệu chất lượng cao

Mùa mưa năm 2016, giá giống cây ăn trái đạt “kỷ lục”, tăng gấp 2-3 lần so với những năm gần đây. Giá cao nhưng chất lượng cây giống giảm do ảnh hưởng xâm nhập mặn xảy ra nghiêm trọng ở “vương quốc” sản xuất giống cây ăn trái miền Tây Nam bộ. Theo đó, giá cây giống sầu riêng Mong Thon, Ri6 ở Lộc Ninh, Bù Đốp tăng lên 120-130 ngàn đồng/bầu giống (tăng gấp 2,5 lần so với năm 2014). Giá giống chôm chôm Thái, chôm chôm nhãn tăng gấp 2 lần...

Dạo một vòng các vựa bán cây giống trên quốc lộ 13 thuộc địa bàn huyện Lộc Ninh, chúng tôi ghi nhận giá cây giống sầu riêng đều cắm bảng 120-130 ngàn đồng, mít Thái siêu sớm 50 ngàn đồng (tăng 3 lần). Theo phản ánh của các vựa cây giống, mùa mưa năm nay, giống bưởi da xanh không bán chạy như năm trước nhưng sầu riêng, bơ sáp, bơ sáp giống mới (Buth 7, giống 304), mít Thái siêu sớm hút hàng. Nhà vườn không chỉ mua 2-3 cây trồng trong vườn để ăn như những năm trước mà mua từ 2 con số trở lên.

Chuyên bán các mặt hàng cây kiểng nhưng mùa xuống giống năm nay vựa cây kiểng Thanh Tuyền (Lộc Thái, Lộc Ninh) cũng nhận được nhiều đơn đặt hàng nhờ lấy giống mít Thái siêu sớm, sầu riêng... Chị Nguyễn Thanh Tuyền (chủ vựa cây kiểng Thanh Tuyền) cho biết: Giá cây giống sầu riêng tại gốc đã 110 ngàn đồng/bầu nhưng cây ghép chỉ lên bằng gang tay nên tôi không dám nhận đặt hàng vì sợ vận chuyển sẽ bị gãy mầm ghép.

Giá do thị trường quyết định nhưng chất lượng có đúng như quảng bá của các vựa cây giống hay không thì nông dân phải chờ 3-5 năm mới có câu trả lời. Ông Phan Văn Tư cho biết, hiện ở Bù Đốp có hợp tác xã bưởi da xanh với quy hoạch hàng trăm héc ta. Hợp tác xã và các đại gia có vốn lớn khi đầu tư trồng cây họ đều chủ động được nguồn giống tốt và đầu ra cho sản phẩm bằng cách tự sản xuất giống hoặc mua tại gốc bưởi, sầu riêng, chôm chôm, cam quýt ở các tỉnh miền Tây Nam bộ, bơ ở Tây Nguyên. Riêng nhà vườn nhỏ lẻ thì chỉ biết gửi trọn niềm tin vào các vựa bán giống. Vì vậy, trong thực tế trồng 10 cây bưởi chỉ 2 cây đạt hoặc trồng bơ mỏi mòn 5 năm mà cây vẫn chưa ra hoa kết trái và bị động đầu ra...

Chất lượng cây trồng còn phụ thuộc vào kỹ thuật, quy trình chăm sóc. Trong khi Lộc Ninh, Bù Đốp nói riêng, Bình Phước nói chung không phải vùng truyền thống của các loại cây ăn trái. Vì vậy, nông dân khi quyết định chọn trồng cây gì nên tìm hiểu, học hỏi kỹ quy trình chăm sóc để đạt năng suất cao.

Điều đáng nói, trồng cây gì, nuôi con gì thì nền nông nghiệp Việt Nam từ vĩ mô đến vi mô đều chưa có quy hoạch cụ thể nên điệp khúc “được mùa - mất giá” là nỗi lo lớn nhất của nhà nông. Trong thực tế, Lộc Ninh, Bù Đốp đã là vùng trọng điểm hồ tiêu nên đủ tiêu chí về thổ nhưỡng, khí hậu, nguồn nước để phát triển các loại cây ăn trái. Hợp tác xã, nhà vườn và các nhà đầu tư cần liên kết hỗ trợ nhau trong cung cấp giống, kỹ thuật để đa dạng thêm nông sản chủ lực trên địa bàn; xây dựng vùng trồng cây ăn trái có chất lượng sản phẩm ngon, ngọt, sạch để có giá bán phù hợp và tạo dựng thêm thị trường truyền thống cây ăn trái Bình Phước.

Phương Hà

Nông dân vững tin với hồ tiêu - Bài 1: Chung thủy với cây tiêu

Nguồn tin: Báo Bình Phước

Nhiều năm nay, người dân Bù Đốp luôn chung thủy với cây tiêu và đã có nhiều nông hộ trồng tiêu trở thành tỷ phú. Năm nay, giá tiêu xuống thấp, dao động trên dưới 80.000 đồng/kg nhưng người trồng tiêu ở đây vẫn tiếp tục đầu tư hệ thống tưới lẫn kỹ thuật canh tác để tăng năng suất, cải thiện thu nhập. Bởi nông dân Bù Đốp tin chắc mình không đơn lẻ trong hành trình phát triển và giữ vững thương hiệu hồ tiêu Bình Phước.

“Chăm tiêu như chăm con nít. Ở vùng đất này có cây gì cho thu nhập cao hơn cây tiêu đâu. Bao năm mình sống chung với nó rồi, không trồng tiêu thì biết trồng cây gì. Cho dù giá tiêu có giảm, không bán được dây tiêu, nhưng có sẵn vật tư (lưới, trụ tiêu…) nên tôi vẫn xuống giống tăng thêm diện tích” - ông Lê Quang Cường, thành viên Hợp tác xã (HTX) sản xuất tiêu sạch bền vững Hưng Phước (Bù Đốp) chia sẻ.

Giữ vững niềm tin

Ông Lê Quang Cường cho biết: “Tôi có 4.000 nọc, năm nay 2.000 nọc cho thu hoạch. Những năm trước, giá tiêu giống bán được 300 ngàn đồng/nọc. Nhờ tiêu giống có giá nên việc đầu tư trồng mới đối với người trồng tiêu không có gì khó khăn. Chỉ sau một năm đầu tư, tiền bán dây giống đã giúp tôi thu hồi vốn”. Bằng cách này mà năm nay ông Cường đầu tư thêm 1 ha dựa trên 1.000 nọc được trồng từ năm ngoái. 1 ha trồng tiêu, ông Cường đầu tư đến 3 hệ thống tưới: nhỏ giọt, pét quay và tưới tay. “Nếu người nào tưới bằng tay, giỏi lắm cũng chỉ được 500 nọc/ngày. Còn hệ thống tưới tiết kiệm thì tưới mấy ngàn nọc cũng chỉ trong một buổi. Do vậy, Nhà nước có hỗ trợ hay không thì tôi cũng tự đầu tư hệ thống tưới tiết kiệm để chăm sóc vườn tiêu thuận lợi hơn” - ông Cường nói.

2 ha tiêu trong thời kỳ kinh doanh của ông Lê Quang Cường, thành viên Hợp tác xã sản xuất tiêu sạch bền vững Hưng Phước (Bù Đốp) được đầu tư hệ thống tưới tiết kiệm

Không chỉ ông Cường mà 90% thành viên HTX sản xuất tiêu sạch bền vững Hưng Phước hiện đã đầu tư hệ thống tưới tiết kiệm cho vườn tiêu. Cách đây 5 năm, một số thành viên trong HTX đã thành lập câu lạc bộ (CLB) sản xuất tiêu sạch. Để làm được điều đó, mỗi nông hộ phải sử dụng sổ nhật ký nhà nông. Từ bón phân, phun thuốc đến tưới nước, phơi, hái tiêu đều phải được ghi chép đầy đủ mỗi ngày. Ngay cả việc vứt bỏ bao bì phân, thuốc bảo vệ thực vật cũng được thể hiện rõ qua nhật ký nhà nông. Đó là một trong những yêu cầu bắt buộc trong quy trình chăm sóc tiêu sạch được Công ty TNHH chế biến gia vị Nedspice thông qua hệ thống khuyến nông ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm trực tiếp với người trồng tiêu thuộc 2 huyện Bù Đốp và Lộc Ninh. HTX ra đời cũng dựa trên quy trình sản xuất của CLB tiêu sạch trước đây. Mọi thành viên trong HTX đều tuân thủ nghiêm ngặt quy trình phân bón cũng như thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình sản xuất để đảm bảo chất lượng hạt tiêu đạt tiêu chuẩn xuất khẩu ra thị trường thế giới.

Ông Bùi Quốc Hai, Chủ tịch Hội đồng quản trị HTX sản xuất tiêu sạch bền vững Hưng Phước cho biết: HTX quyết tâm không hợp tác với những đơn vị có sản phẩm trôi nổi, kém chất lượng trên thị trường. Mọi thành viên đều có chung một quy trình sản xuất, sử dụng chung một sản phẩm phân bón, thuốc bảo vệ thực vật. Có như vậy mới quản lý được sản phẩm của thành viên HTX, hạt tiêu cũng nhờ đó đảm bảo chất lượng, không tồn dư thuốc bảo vệ thực vật.

Thị trường đảo chiều

Ông Bùi Quốc Hai cho biết thêm: Giá hồ tiêu Việt Nam nói chung, Bình Phước nói riêng thấp hơn rất nhiều so với giá hồ tiêu của thế giới là do tồn dư thuốc bảo vệ thực vật trên sản phẩm. Người trồng tiêu sạch bị vạ lây từ sản phẩm tiêu bẩn, tiêu chạy theo năng suất bất chấp những khuyến cáo các chất cấm trong sản xuất nông nghiệp. Thành viên HTX sản xuất tiêu sạch bền vững Hưng Phước đã áp dụng quy trình chăm sóc tiêu sạch đến nay gần 5 năm. Hơn 4 năm qua, sản phẩm hồ tiêu của các thành viên HTX bán trực tiếp cho Công ty TNHH chế biến gia vị Nedspice. HTX hiện có 200 ha tiêu, trong đó 120 ha đang cho thu hoạch với năng suất bình quân 4 tấn/ha/năm. Giá bán hồ tiêu của các thành viên cho công ty luôn cao hơn thị trường từ 1.000-3.000 đồng/kg được thực hiện trong suốt 4 năm qua. Đây cũng là cam kết của công ty với các thành viên CLB sản xuất tiêu sạch bền vững Hưng Phước trước đây. Thế nhưng trước tình hình giá tiêu lao dốc, mùa vụ năm nay công ty đảo chiều mua tiêu với giá thấp hơn thị trường bên ngoài cho dù đó là tiêu sạch. Năm ngoái, CLB có khoảng 7% hộ trồng tiêu được thưởng thêm tiền nhờ tiêu đạt chuẩn. Năm nay, Công ty Nedspice chuyển sang kiểm tra (test) từng hộ, giá mua lại thấp, tiền thưởng tiêu đạt chuẩn vẫn chưa được đề cập đến. Trước cung cách mua bán của Công ty Nedspice như hiện nay đang làm cho các thành viên CLB sản xuất tiêu sạch Hưng Phước như “ngồi trên đống lửa”.

Muốn bền vững phải giải độc

Khái niệm quy trình chăm sóc hồ tiêu theo hướng hữu cơ sinh học đã có từ rất lâu. Cách đây không lâu, Sở Khoa học - Công nghệ đã có đề tài nghiên cứu, ứng dụng mô hình chăm sóc hồ tiêu theo hướng hữu cơ sinh học, nhưng không hiểu sao chưa thấy phổ biến trong canh tác hồ tiêu trên địa bàn tỉnh. Cả tỉnh vẫn chưa có mô hình chăm sóc hồ tiêu theo hướng hữu cơ sinh học đúng nghĩa.

Ông Lê Quang Cường chuẩn bị hệ thống tưới tiết kiệm cho 1 ha tiêu trồng mới trong mùa mưa năm nay

Theo tính toán của các nhà khoa học, chi phí đầu tư cho mô hình hữu cơ sinh học chỉ bằng 2/3 so với mức đầu tư theo hướng hóa học. Cái lợi của quy trình này là sức khỏe người nông dân và người tiêu dùng được đặt lên hàng đầu. Năng suất, chất lượng hạt tiêu được đảm bảo. Giá cả và thị trường rộng mở gấp 2 lần so với quy trình chăm sóc theo hướng hóa học. Mặc dù cái lợi của quy trình chăm sóc hồ tiêu theo hướng hữu cơ đã có, ai cũng biết nhưng rất lạ là người trồng tiêu không mấy mặn mà. Tại sao? Tại khó - đó là câu trả lời chung của người trồng tiêu hiện nay.

Muốn có quy trình chăm sóc hồ tiêu hữu cơ sinh học trước hết phải mất 2 năm để giải độc cho vườn tiêu đang chăm sóc như hiện nay. Đó là khoảng thời gian để đất, nước và dây tiêu đào thải những hóa chất không cần thiết cho quá trình sinh trưởng của hồ tiêu. Người trồng tiêu còn phải nắm vững kiến thức phân bón và thuốc sinh học trong quá trình canh tác. Những đòi hỏi này người trồng tiêu đang cần đến các nhà quản lý chuyên môn tuyên truyền, tập huấn một cách rõ ràng, cụ thể và bài bản.

Đ.Kiểm - N.Bích

Luống ngò om bạc triệu

Nguồn tin: Báo Cà Mau

Chỉ với hơn 1 công đất trống quanh nhà, chị Nguyễn Thị Thiểu, Khóm 3, thị trấn U Minh, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau trồng ngò om, thu nhập từ 500.000-700.000 đồng/ngày.

Trước đây, nguồn thu nhập chính của gia đình là từ 1 ha đất nuôi tôm được gần 70 triệu đồng/năm nhưng không ổn định, nên vợ chồng chị Thiểu quyết định tận dụng đất trống quanh nhà trồng thêm rau ngò om để tăng thu nhập.

Ban đầu chị chỉ trồng chút ít để dùng trong gia đình, thấy rau phát triển tốt, ăn không hết nên chị dựng cái chòi tạm trước cửa nhà để bán kiếm ít tiền chợ. Qua thời gian thấy ngò om có giá, chị bàn với chồng nhân rộng vườn ngò om của mình, từ vài đám rau nhỏ xung quanh nhà, chị đã xuống luống trữ nước để trồng ngò om.

“Mỗi ngày tôi phải thức từ sáng sớm để chở 40-50 kg rau ngò om ra chợ bán cho các sạp, chiều về lại cắt rau, rửa rau, bó lại để sáng sớm hôm sau đi bán tiếp. Chăm sóc ngò không khó, chỉ cần bón một ít phân vi sinh và tưới nước thường xuyên rau sẽ tươi tốt. Nói thì nói vậy chứ cũng phải chăm chỉ nhổ cỏ nữa”, chị Thiểu vui vẻ cho biết.

Chị Nguyễn Thị Thiểu cùng chồng thu hoạch rau ngò om, loại rau giúp kinh tế gia đình chị thêm phần khá hơn.

Trồng ngò om chỉ hơn 1 tháng là có thể thu hoạch. Chị Thiểu cho biết, ngò om được giá nhất là vào mùa cá khoai, khi ấy có khi lên tới 20.000 đồng/kg. Nhìn ra đám rau sau nhà, chị nói: “Từ khi trồng được đám rau ngò om này, kinh tế gia đình tôi ổn định hơn, có đồng ra đồng vào. Điều đáng phấn khởi là vợ chồng tự tạo mô hình phát triển kinh tế tại gia đình, không phải đi làm thuê xa xứ”.

Một công đất chị gieo hơn chục luống ngò om, những đám ngò om chưa thu hoạch nhô lên xanh mượt. Chị Thiểu bật mí, ngò om là giống thuỷ canh nên rất ưa nước, đất sình, đất ruộng trồng rất tốt. Đất nhà chị là đất phèn, để có thể trồng được đám ngò om này, vợ chồng chị phải xới, rồi phơi đất một mùa mưa. Bên cạnh đó, để giữ nước cho đám rau, chị và chồng phải lót cao su từng luống, rồi lấp đất lên để trữ nước.

Ra “ruộng” ngò om đang thời điểm thu hoạch, mùi thơm lừng xông lên mũi, chỉ tay về luống ngò mới cắt, chừng 10 m2, chị Thiểu vui mừng khoe: “Cái luống này nhỏ vậy chớ bán được hơn 2 triệu đồng đó”.

Chị Thiểu dự tính: “Trước nhà còn một khoảng đất trống vừa được vợ chồng tôi xới lên, đợi qua mùa mưa này phèn lắng xuống sẽ tiếp tục mở rộng diện tích trồng ngò om để nâng cao nguồn thu nhập”./.

Khánh Phương

Gieo ươm rau giống lãi 400-500 triệu đồng/năm

Nguồn tin: Nông Nghiệp VN

Anh Lê Văn Nghiêm ở xã Yên Phú, huyện Yên Mỹ, Hưng Yên là chủ hộ nông dân chuyên gieo ươm cây rau giống các loại. Với 6 lao động của gia đình, thuê mượn thêm 2 - 3 lao động thời vụ nữa, gia đình anh Nghiêm thường xuyên gieo được hơn 2 mẫu giống rau các loại.

Mỗi năm xuất bán ra thị trường hàng triệu cây giống cà chua, su hào, cải bắp, ớt, dưa chuột, cà bát, cà pháo các loại… Lợi nhuận sau trừ mọi chi phí vẫn còn 400 - 500 triệu đồng/năm.

Khu gieo ươm rau giống của anh Nghiêm

Gieo rau giống là công việc tỉ mỉ, tốn nhiều công lao động. Để đảm bảo gieo hạt giống kịp thời vụ trên diện tích lớn, anh Nghiêm đã đầu tư đồng bộ các tiến bộ kỹ công nghệ cao vào sản xuất như làm nhà kính, nhà lưới tản quang, ngăn côn trùng, che mưa nắng và sương gió cho rau. Đồng thời, lắp đặt hệ thống tưới phun sương tự động, mua sắm các máy làm đất mini, máy gieo hạt, bạt phân tầng canh tác, lưới phủ luống sau gieo… Nhờ vậy, đã căn bản giải phóng được sức lao động nặng nhọc, tăng năng suất lao động, giảm thiểu sâu bệnh hại phát sinh. Theo đó, các cây con giống xuất vườn từ nhà anh Nghiêm luôn đảm bảo mập khỏe, sạch sâu bệnh.

Tham quan khắp mô hình sản xuất rau giống của anh Nghiêm, chúng tôi thấy, ngoài các khu ruộng chuyên gieo hạt rau giống, còn có những ruộng canh tác rau thương phẩm. Anh Nghiêm cho biết, trước khi mua gieo một giống rau mới nào đó, bao giờ anh cũng thâm canh thử nghiệm giống trên diện tích hẹp, để đánh giá khả năng thích ứng, tính chống chịu và chất lượng rau thương phẩm… Làm cơ sở tư vấn cho các nhà nông mua về gieo trồng. Nhờ cách làm này, gia đình anh Nghiêm, chẳng những thu hút được khách mua cây giống từ các tỉnh mà còn được nhiều cơ quan nhà nước ký hợp đồng cung ứng giống cho các dự án.

Biết tiếng anh Nghiêm, nhiều công ty kinh doanh hạt giống đa quốc gia đã mời gia đình anh cùng hợp tác bao tiêu hạt giống rau đầu ra. Qua đó anh Nghiêm đã cập nhật kịp thời các tiến bộ khoa học của thế giới, giúp nông dân trong nước, ngày càng có nhiều giống rau chất lượng đưa vào sản xuất, gia tăng giá trị canh tác.

Theo anh Nghiêm, trong số các giống bắp cải, thì Bắp cải No1 (thường gọi bắp cải sần) có chất lượng ngon nhất. Các giống su hào, giống Nhật xanh chất lượng ngon hơn cả. Giống cà chua Nova đang được người dân chấp nhận gieo trồng rộng, do giống có khả năng kháng virus xoăn lá khá tốt, thịt quả dày, nhiều bột, năng suất cao… Tuy nhiên, khi đã có giống tốt, mà người dân vẫn lạm dụng các hóa chất phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, chất điều hòa sinh trưởng trong canh tác, thì chất lượng rau vẫn kém.

Hưng Thái

Đắk Lắk: Toàn tỉnh có 12 mô hình sản xuất tiêu an toàn

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Theo số liệu của ngành Nông nghiệp, toàn tỉnh Đắk Lắk hiện có 12 mô hình sản xuất tiêu an toàn liên kết với 4 đơn vị hỗ trợ đầu ra trên tổng diện tích gần 199 ha.

Mô hình liên kết sản xuất tiêu an toàn của Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu 2-9 Đắk Lắk tại xã Ea Tân, huyện Krông Năng

Cụ thể, Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu 2-9 Đắk Lắk liên kết, hỗ trợ cây giống, vật tư nông nghiệp, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho gần 192 ha tiêu tại xã Ea Tân và Ea Toh (huyện Krông Năng); Viện Bảo vệ thực vật (BVTV) hỗ trợ 50% vật tư nông nghiệp xây dựng 7 mô hình (6,3 ha) tại huyện Cư Kuin; Chi cục Trồng trọt và BVTV hỗ trợ cây giống, vật tư nông nghiệp, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho 2 mô hình (0,5 ha) tại thị xã Buôn Hồ và Cư Kuin; Trạm Trồng trọt và BVTV huyện Krông Bông hỗ trợ 100% chi phí vật tư nông nghiệp cho 1 mô hình (0,2 ha) tại xã Cư Drăm.

Thanh Hường

Sản xuất nấm kim châm theo công nghệ Nhật Bản

Nguồn tin: Báo Công thương

Sau 1 năm xây dựng, Nhà máy sản xuất nấm kim châm Kinoko Thanh Cao (tại thôn Đốc Kính, xã Đốc Tín, huyện Mỹ Đức, Hà Nội) đã khánh thành và chính thức đi vào hoạt động vào ngày 30/4/2017, nhằm cung cấp cho người tiêu dùng cả nước sản phẩm nấm kim châm sạch theo công nghệ Nhật Bản.

Hiện nhà máy đang sản xuất với công suất 700 kg/ngày, công suất dự kiến đến tháng 9/2017 là 1,5 tấn/ngày và công suất đến tháng 12/2017 dự kiến đạt 3 tấn/ngày

Chị Dương Thị Thu Huệ - Chủ tịch kiêm Giám đốc Nhà máy sản xuất nấm kim châm Kinoko Thanh Cao - cho biết: Nhà máy sử dụng công nghệ, quy trình sản xuất đóng gói 100% của Nhật Bản. Nhà máy có vốn đầu tư 3 triệu USD, với tổng diện tích 3ha, diện tích nuôi trồng nấm 3.000m2, công suất sản xuất giai đoạn 1 là 1,5 tấn nấm kim châm/ngày, đến cuối năm 2017 giai đoạn 2 đạt 3 tấn nấm kim châm/ngày.

Chị Dương Thị Thu Huệ chia sẻ, công nghệ của Nhật Bản để sản xuất ra nấm kim châm khác biệt với sản xuất nấm thủ công tại Việt Nam ở 3 điểm. Thứ nhất, vấn đề máy móc thiết bị hoàn toàn kín trong nhà lạnh được quản lý về nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng và rất chặt chẽ về kỹ thuật. Thứ hai, về nguyên liệu, ở Việt Nam sản xuất bằng mùn cưa và một chút cám (khoảng 15-20%), bởi tập quán trồng nấm của Việt Nam đến thời điểm này vẫn là trồng trong túi ni lông và bằng phương pháp thủ công là chính. Do vậy, số lượng sẽ không được nhiều, thời gian bị kéo dài và dễ bị nhiễm mốc. Ngược lại, sản xuất nấm kim châm bằng lọ nhựa, với công nghệ của Nhật Bản chuyển giao, chỉ 35% là chất thô, 65% còn lại là các loại cám dinh dưỡng, nên nấm ăn có sự khác biệt. Thứ ba, nấm được sản xuất trong điều kiện kiểm soát về nhiệt độ, độ ẩm, PH… rất kỹ bằng máy móc của Nhật nên doanh nghiệp định sản xuất bao nhiêu thì phía Nhật Bản thiết kế theo đúng yêu cầu.

Hiện sản phẩm được thương hiệu Nấm Lý tưởng thuộc Công ty TNHH Thực phẩm Lý tưởng Việt Nam độc quyền phân phối tại miền Bắc và một nhà phân phối độc quyền tại TP. Hồ Chí Minh.

Nguyễn Hạnh

Giống khoai mì mới năng suất cao

Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Với giống mì HL-S11, ông Ngô Quang Hòa (xã Suối Nghệ, huyện Châu Đức) thu được từ 30-33 triệu đồng/ha, tăng từ 5-7 triệu đồng/ha so với các giống cũ.

Nhận thấy được nhiều ưu điểm như khả năng chống chịu sâu bệnh, chịu hạn, hàm lượng tinh bột cao, dễ thích nghi với các loại đất, từ năm 2014, Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã triển khai trồng thử nghiệm giống khoai mì HL-S11. Đến nay, giống khoai mì này đã được nhân rộng trên địa bàn tỉnh.

Năm 2014, Trung tâm KNKN tỉnh bắt đầu triển khai trồng khảo nghiệm giống khoai mì HL-S11 (do Trung tâm Nghiên cứu Thực nghiệm Nông nghiệp Hưng Lộc, Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam nhập về tuyển chọn và nhân giống)trên diện tích 2ha tại 4 hộ trồng mì ở 2 huyện Châu Đức và Tân Thành. Sau vụ đầu tiên, các cán bộ Kỹ thuật Trung tâm xét thấy giống HL-S11 cho năng suất cao và ổn định, chống chịu với các loại sâu bệnh phổ biến như nhện đỏ, rệp sáp, chịu hạn và quan trọng là không bị bệnh chổi rồng (một loại bệnh chưa có thuốc trị trên cây mì). Cùng với đó, HL-S11 có hàm lượng tinh bột tới trên 30% trong khi các giống phổ biến đang trồng chỉ đạt 24-25%. Năng suất tinh bột của HL-S11 đạt tới hơn 14 tấn/ha, trong khi các giống mì trồng trước đó chỉ cho 10-12 tấn/ha, nhờ đó thu nhập từ trồng mì cũng tăng từ 20-30%.

Sau đánh giá thực nghiệm, từ năm 2015, Trung tâm KNKN tỉnh đã nhân rộng thành mô hình trình diễn tại 10 hộ dân trên địa bàn tỉnh với diện tích hơn 10ha. Sau hơn 2 năm canh tác, nhiều hộ nông dân thấy được hiệu quả kinh tế của giống mì này nên đã và đang tự nhân rộng, thay thế hoàn toàn giống mì cũ mà trước đây bà con trồng không mấy hiệu quả, thường xuyên bị nhiễm bệnh, năng suất thấp.

Là hộ đầu tiên tiếp cận với giống khoai mì mới này do được Trung tâm KNKN tỉnh chọn làm mô hình trình diễn, thấy được hiệu quả cao nên 3 năm qua ông Ngô Quang Hòa (thôn Hữu Phước, xã Suối Nghệ, huyện Châu Đức) từng bước thay thế hoàn hoàn giống mì cũ. Ông Hòa cho biết, ban đầu chỉ trồng thử nghiệm 5 sào, sau thu hoạch thấy giống mì này sinh trưởng phát triển tốt, năng suất, chất lượng cao, giá bán lại cao hơn các giống mì khác nên ông đã nhân giống để trồng trên toàn bộ diện tích 1,2ha cho những vụ sau.

Ông Nguyễn Văn Sơn (ấp 3, xã Tóc Tiên, huyện Tân Thành) cho biết, trước đây ông trồng giống mì KM140 nhưng nhiều năm liền thường xuyên bị nhiễm bệnh chổi rồng, năng suất mì thấp, chất lượng mì không đạt làm cho giá bán thấp, thu nhập toàn lỗ. Năm 2016, thấy nhiều bà con trong vùng chuyển qua trồng giống mì HL-S11 cho năng suất cao, ông Sơn quyết định trồng thử nghiệm 5 sào.Vụ đầu ông thu về 17 tấn/5 sào, do độ tinh bột cao nên thương lái mua với giá 1.200 đồng/kg, cao hơn 400 đồng/kg so với giống khoai mì cũ, thu hơn 33 triệu đồng/ha. “Thấy kết quả khả quan, nên vụ này tôi trồng đại trà toàn bộ giống mì mới trên diện tích 6ha. Hiện vườn mì đang sinh trưởng, phát triển rất tốt, tỷ lệ nảy mầm cao, cây mọc đều, đặc biệt đây là thời kỳ cây dễ bị nhện đỏ tấn công nhưng giống HL-S11 không hề bị loại nhện này gây hại”, ông Sơn nói.

Theo bà Trần Thị Thiên Hương, Phó Phòng Kỹ thuật nông nghiệp, Trung tâm KNKN tỉnh, HL-S11 là giống khoai mì mới được trồng tại BR-VT 3 năm nay, qua quá trình theo dõi và đánh giá giống mì này về đặc tính sinh trưởng và phát triển rất phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu tại địa phương. Giống mì này cho năng suất cao 25-30 tấn/ha. Hiện nay, giống mì này được bà con nông dân ưa chuộng và đã nhân rộng trên địa bàn toàn tỉnh.

Trên địa bàn tỉnh hiện có 8.800ha diện tích trồng khoai mì, thời gian qua với việc áp dụng giống khoai mì mới vào sản xuất, đã giúp cho bà con nông dân có thể tăng sản lượng để nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, người trồng mì vẫn gặp nhiều khó khăn khi giá bán không ổn định, nhiều lúc chỉ còn 500-600 đồng/kg mì tươi, làm nhiều người thua lỗ. “Vì vậy, bên cạnh việc hỗ trợ chuyển đổi giống cây trồng mới cho năng suất hiệu quả, ngành nông nghiệp cần nghiên cứu đề xuất giải pháp bền vững cho đầu ra sản phẩm nông nghiệp nói chung, cây mì nói riêng để người dân có thể canh tác ổn định với loại cây trồng mà chúng tôi đã gắn bó nhiều năm”, ông Ngô Quang Hòa cho biết thêm.

Cát Tường

Hồng Ngự (Đồng Tháp): Giá khổ qua bất ngờ lao dốc

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

Những ngày qua, hàng trăm nông dân trồng khổ qua ở huyện Hồng Ngự (Đồng Tháp) đứng ngồi không yên vì giá khổ qua bất ngờ lao dốc mạnh trong thời điểm vào mùa thu hoạch rộ. Tình trạng này làm người dân từ dự kiến có lãi chuyển sang cầm chắc thua lỗ.

Hiện giá khổ qua được thương lái thu mua với giá 4.000 đồng/kg loại 1 và giảm dần tùy loại. Trong khi đó vài tuần trước, khổ qua có giá từ 8.000 - 9.000 đồng/kg.

Theo tính toán của nông dân, trừ chi phí đầu tư từ 10 - 15 triệu đồng/công thì dù khổ qua có cho năng suất khá 2 tấn/công, người trồng cũng còn lỗ khoảng 2 – 5 triệu đồng/công.

Khổ qua là loại cây trồng được nông dân các xã Cù lao huyện Hồng Ngự canh tác nhiều với trên 25ha. Hiện giá cả lao dốc khiến nông dân thu hoạch cầm chừng, nhiều trái già và chín xem như bỏ, khiến năng suất thu hoạch cuối vụ giảm đáng kể.

Theo Hợp tác xã Rau an toàn Long Thuận, hiện đơn vị chưa tìm kênh phân phối cho sản phẩm khổ qua nên vào vụ thu hoạch, nông dân tự tìm thương lái để tiêu thụ.

Minh Hồ

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop