Tin nông nghiệp ngày 14 tháng 11 năm 2016

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 14 tháng 11 năm 2016

Lễ hội Cam Cao Phong lần thứ 2 và Hội chợ vùng Tây Bắc diễn ra trong 8 ngày (từ 13 đến 20/11/2016)

 

Nguồn tin: Báo Hòa Bình

 

Sáng 7/11, UBND huyện Cao Phong đã tổ chức họp báo giới thiệu về việc tổ chức lễ hội Cam Cao Phong lần thứ 2 và Hội chợ Nông nghiệp - Du lịch - Thương mại vùng Tây Bắc năm 2016 với sự quan tâm tham gia của đông đảo các cơ quan báo chí T.Ư và địa phương.

 

 

Lãnh đạo UBND huyện Cao Phong trả lời các câu hỏi của các cơ quan báo chí trung ương và địa phương.

 

Ông Quách Văn Ngoan, Phó Chủ tịch UBND huyện Cao Phong cho biết: Lễ hội cam và hội chợ được tổ chức ở quy mô cấp tỉnh là một trong chuỗi hoạt động chào mừng Lễ kỷ niệm 130 năm thành lập tỉnh, 25 năm tái lập tỉnh và công bố Quy hoạch Khu du lịch quốc gia Hồ Hòa Bình năm 2016, diễn ra từ ngày 13-20/11/2016 tại Nhà văn hóa huyện Cao Phong và trung tâm bảo tồn di sản tiến sỹ Việt Nam. Quy mô có 300 gian hàng. Trong đó, có 80 gian hàng trưng bày và bán sản phẩm cam quýt, bưởi các loại; gian hàng thưởng thức các sản phẩm cam; gian hàng trưng bày vật tư nông nghiệp; 80 gian hàng nông nghiệp, du lịch; 100 gian hàng thương mại tổng hợp và 40 gian hàng ẩm thực truyền thống đặc sắc của huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Binh và các tỉnh vùng Tây Bắc. Trong chương trình lễ hội và hội chợ sẽ diễn ra các hoạt động triển lãm, trưng bày; xúc tiến đầu tư, thương mại và du lịch, trao giấy chứng nhận sản xuất cam theo tiêu chuẩn VietGap cho các hộ sản xuất cam, thăm quan mô hình sản xuất tiêu biểu; các hoạt động liên kết, ký kết hợp tác sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, giao lưu văn nghệ, thưởng thức các sản phẩm nông nghiệp, ẩm thực dân tộc.

 

Lễ hội và hội chợ nhằm quảng bá, giữ gìn và nâng cao thương hiệu cam Cao Phong; phát triển giao thương các tỉnh vùng Tây Bắc, hỗ trợ tạo điều kiện cho doanh nghiệp liên kết hợp tác, quảng bá, giới thiệu sản phẩm hàng hóa dịch vụ, tìm kiếm cơ hội hợp tác đầu tư, liên danh, liên kết phát triển sản xuất kinh, doanh thương mại, đẩy mạnh các hoạt động du lịch vùng miền. Tại buổi họp báo, lãnh đạo UBND huyện Cao Phong đã trả lời những câu hỏi của các cơ quan báo chí, tập trung vào lĩnh vực quy hoạch, định hướng phát triển vùng cây có múi, công tác giữ gìn, bảo vệ và phát triển thương hiệu cam Cao Phong, nhân rộng các mô hình sản xuất cam sạch, an toàn, việc thực hiện liên danh, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cam, cách nhận biết sản phẩm cam Cao Phong…Sau họp báo các cơ quan báo chí đã đi tìm hiểu thực tế các mô hình sản xuất cam trên địa bàn huyện Cao Phong. Cam là cây truyền thống mang lại hiệu quả kinh tế của huyện Cao Phong. Năm 2014, Cục Sở hữu trí tuệ cấp Giấy chứng nhận chỉ dẫn địa lý Cao Phong cho sản phẩm Cam của huyện Cao Phong. Mới đây cam Cao Phong đã lọt top 10 thương hiệu, nhãn hiệu nổi tiếng do Viện Sở hữu trí tuệ quốc tế tổ chức. Toàn huyện có 2.078 ha cây ăn quả có múi, trong đó diện tích thời kỳ kinh doanh là 900 ha, sản lượng 23.000 tấn, giá trị thu nhập khoảng 700 triệu đồng/ha, các giống cam chủ yếu là CS1 (lòng vàng), Xã Đoài cao, xã Đoài lùn, quýt Ôn Châu, V2, cam canh. Thời gian thu hoạch bắt đầu tư khoảng tháng 8 đến tháng 4 hằng năm.

 

P.V

 

Chuối tăng giá, nông dân vẫn lo

 

Nguồn tin: Báo Cà Mau

 

Theo Cục Thống kê, Cà Mau là tỉnh có diện tích chuối lớn thứ 2 trong khu vực ÐBSCL, với 5.509 ha, tập trung chủ yếu ở 3 huyện: U Minh, Trần Văn Thời và Thới Bình. Năng suất trung bình khoảng 10,5 tấn/ha, sản lượng đạt khoảng 55.000 tấn/năm. Vài năm trở lại đây, cây chuối trở thành nguồn thu nhập đáng kể cho nông dân.

 

Theo ghi nhận trên thị trường, chuối xiêm hiện có giá từ 10.000-12.000 đồng/nải lớn; loại nhỏ 8.000-10.000 đồng/nải; chuối già 15.000-20.000 đồng/nải; chuối cao từ 10.000-15.000 đồng/nải tuỳ theo trái lớn, nhỏ; tăng hơn 30% so với thời điểm đầu năm.

 

 

Chuối già hương và chuối già Philippines cho năng suất cao gấp 2 lần so với chuối địa phương.

 

Là người gắn bó lâu năm với đất rừng U Minh Hạ, ông Phan Văn Tre, xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời, cho biết: "Trước đây chuối rẻ lắm, chỉ từ 15.000 - 20.000 đồng/10 nải. Hơn 2 tháng nay, giá chuối bất ngờ tăng mạnh nên gia đình tôi có thêm khoản thu nhập khá. Giá tăng nên nông dân ai cũng muốn phá các loại cây trồng khác chuyển sang trồng chuối".

 

Theo ông Tre, chuối là loại cây dễ canh tác vì ít đầu tư phân, thuốc, công chăm sóc, chỉ sau khoảng 9 tháng là cho trái. Bên cạnh đó, loại cây trồng này có thể thu hoạch quanh năm, những năm đầu mới trồng cho sản lượng rất cao và kéo dài. Ðiều quan trọng là cây chuối trồng xen được với tất cả các loại cây trồng khác, không làm cho đất đai bạc màu.

 

Anh Ngô Văn Cải, Ấp 4, xã Tân Lộc, huyện Thới Bình, trồng 150 cây chuối già hương và chuối già Philippines, sau gần 1 năm, hiện nay vườn chuối đang phát triển tốt và đang cho trái. Bình quân mỗi cây chuối cho buồng từ 9-10 nải, trọng lượng khoảng 20 kg, nhờ đó mang lại hiệu quả kinh tế khá cao.

 

Anh Cải chia sẻ: "Thu nhập vụ chuối năm nay cao hơn so với năm trước. Tuy nhiên, người dân còn e ngại khi muốn mở rộng diện tích, vì sợ đến khi thu hoạch, giá cả lại xuống thấp. Mong muốn của người dân là giá chuối được giữ ổn định để nhà nông có thể làm giàu từ cây chuối".

 

Trong mấy ngày qua, thương lái đến mua chuối cũng ít đi, giá cả cũng giảm chút ít so với trước đây. Liệu cây chuối có cùng chung “điệp khúc” cung vượt cầu dẫn đến mất giá như củ gừng, cây mía đã từng xảy ra trước đây.

 

Anh Nguyễn Văn Ðấu, ấp Bình Minh 2, xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời, lo lắng: "Nếu giữ mức giá ổn định thì chuối là loại cây trồng có thể mang lại thu nhập cao cho nông dân. Bên cạnh nguồn thu chính từ chuối nguyên liệu thì bắp chuối cũng mang lại nguồn thu đáng kể. Với hơn 0,5 ha, tôi thu hoạch mỗi tháng 2 đợt, mỗi đợt hơn 1 triệu đồng. Nhưng điều tôi lo lắng là giá chuối luôn thay đổi thất thường và phụ thuộc vào việc thu mua của thương lái".

 

Anh Nguyễn Hữu Bình, thương lái thu mua chuối tại huyện Trần Văn Thời, cho biết, ngoài tiêu thụ nội địa, hiện tại, chuối nguyên liệu các loại tăng giá do xuất khẩu mạnh sang các nước lân cận, trong đó có Trung Quốc. Hiện giá chuối ở mức cao, nhưng theo anh Bình, thị trường sẽ khó ổn định khi nhiều nhà vườn đua nhau trồng mới với diện tích ngày càng nhiều và ít có sự liên kết.

 

Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Trần Văn Thời Duy Quốc Tuấn cho biết, để phát triển loại cây trồng này trong thời gian tới, huyện đang khuyến khích người dân cải tạo vườn tạp trồng chuối kết hợp với nhiều loại cây, con khác để khai thác hết tiềm năng. Qua đó, góp phần tăng thu nhập, phát triển kinh tế gia đình, từng bước vươn lên ổn định cuộc sống./.

 

Trung Ðỉnh

 

Tiền Giang: Triển vọng phát triển cây thanh long trên vùng đất Tân Phước

 

Nguồn tin: Tiền Giang

 

Vùng Đồng Tháp Mười, huyện Tân Phước (Tiền Giang) trước đây được biết đến với "bàng năn chắn lối, lác phủ đầu người", chủ yếu sản xuất cây lúa, khóm và khoai mỡ. Thế nhưng, vài năm trở lại đây, cây thanh long bắt đầu "bén duyên" và đang phát triển mạnh, hứa hẹn nhiều thắng lợi trên vùng đất này.

 

 

Cây thanh long đang phát triển trên vùng đất Tân Phước.

 

Theo thống kê của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) huyện, cây thanh long xuất hiện ở Tân Phước cách nay khoảng 5 - 6 năm, sau một thời gian phát triển, đến nay, toàn huyện có gần 300ha, trong đó có 40ha VietGAP chủ yếu tập trung tại các xã Thạnh Tân, Hưng Thạnh, Tân Lập 1, Mỹ Phước... thay thế cho các loại cây trồng kém hiệu quả trước đây. Thanh long khá thích nghi với thổ nhưỡng của vùng đất Tân Phước này, nếu biết cách xử lý đất, bón phân và chăm sóc theo khuyến cáo của các ngành chức năng thì năng suất, chất lượng không thua kém với các vùng khác trên địa bàn tỉnh.

 

Ông Nguyễn Văn Hải, xã Thạnh Tân cho biết: "Vì đặc thù đất vùng này bị nhiễm phèn nặng, vì vậy muốn trồng và phát triển được cây thanh long phải tuân theo sự khuyến cáo của các ngành chức năng và học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau giữa các hộ trồng thanh long. Nếu trồng đúng kỹ thuật, biết cách xử lý, thì hiệu quả kinh tế cây thanh long mang lại là rất lớn. Nông dân có thể làm giàu nhờ xử lý thanh long cho trái nghịch vụ trên vùng đất đầy phèn, mặn này".

 

Trước sự thích nghi này, nhiều xã đã chọn cây thanh long thay thế các loại cây trồng kém hiệu quả khác và chọn đây làm cây trồng chủ lực, tiếp tục phát triển mạnh trong những năm tiếp theo. Ông Hồ Văn Học, Bí thư Đảng ủy xã Thạnh Tân cho biết: "Theo định hướng của Đảng ủy, cây thanh long sẽ thay thế dần các loại cây trồng kém hiệu quả khác, góp phần nâng cao thu nhập cho bà con nông dân. Trước mắt, chúng tôi sẽ cùng các ngành chức năng tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật và kêu gọi các doanh nghiệp bao tiêu thanh long hoặc các nhà máy về thu mua thanh long tại chỗ để bà con an tâm gắn bó, phát triển cây thanh long trong những năm tiếp theo".

 

Hiện tại, một số doanh nghiệp vào huyện đầu tư trồng loại cây này với diện tích lớn: Cơ sở vịt quay Cát Tường, Công ty Long Việt, Cơ sở đá hoa cương Công Sơn... Theo lộ trình, Nghị quyết của Huyện ủy đề ra, đến năm 2020, phấn đấu đưa diện tích thanh long đạt 2.000ha. Chính vì thế, ngành nông nghiệp huyện đã có những giải pháp cụ thể để phát triển cây thanh trên vùng đất phèn mặn này.

 

Ông Huỳnh Văn Bườn, Trưởng phòng NN&PTNT huyện cho biết: "Trước những tín hiệu vui từ cây thanh long mang lại, chúng tôi sẽ có giải pháp, định hướng đúng đắn để người dân chuyển đổi phù hợp. Ngoài việc chuyển giao khoa học - kỹ thuật, chúng tôi cũng quan tâm đề xuất các ngành chức năng huyện mời gọi các doanh nghiệp về đây đầu tư xây dựng nhà máy, thu mua để bà con an tâm phát triển cây thanh long".

 

Để nông dân chuyển đổi những loại cây trồng kém hiệu quả sang trồng thanh long được tốt hơn, rất cần sự vào cuộc của các ngành chức năng trong việc đẩy mạnh hội thảo, tổ chức các lớp tập huấn nhằm chuyển giao quy trình, kỹ thuật trồng thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP và cung cấp thông tin về những chính sách có liên quan để người dân an tâm gắn bó với cây trồng triển vọng này, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đảng bộ huyện lần thứ V, nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã đề ra.

 

Ông Đỗ Vũ Thuận, Bí thư Huyện ủy cho biết: "Chúng tôi đang tập trung mọi nguồn lực và tạo điều kiện tốt nhất để các doanh nghiệp đầu tư cơ sở hạ tầng, thu mua thanh long và định hướng với ngành Nông nghiệp huyện quan tâm đề xuất các giải pháp để cây thanh long phát triển bền vững, thay thế các loại cây trồng kém hiệu quả khác. Nếu cây thanh long phát triển đúng định hướng, sẽ giúp nâng cao thu nhập cho bà con nông dân, góp phần quan trọng trong thực hiện xây dựng nông thôn mới hiện nay".

 

Minh Toàn

 

Cánh đồng lớn thanh long xứ Đoài

 

Nguồn tin: Nông Nghiệp VN

 

Về Chợ Bãi, xã Vân Phúc, huyện Phúc Thọ, Hà Nội hỏi thăm vườn trồng thanh long quy mô lớn, chúng tôi được chỉ đến nhà ông Đặng Văn Tuấn (48 tuổi) ở cụm 6.

 

 

Vườn thanh long của ông Tuấn

 

Tiếp chúng tôi, ông Tuấn cho hay ông trồng thanh long từ tháng 8/2014 với diện tích ban đầu 2,2 mẫu, bao gồm cả giống thanh long ruột đỏ và ruột trắng. Đến tháng 5/2015, ông tiếp tục đầu tư mở rộng thêm 5 mẫu thanh long ruột đỏ, sắp cho thu hoạch.

 

Đến nay lứa thanh long đầu đã cho thu hoạch 1,5 tấn/mẫu, bán từ 20.000 - 25.000 đồng/kg (ruột đỏ) và 14.000 đồng/kg (ruột trắng).

 

Ông Tuấn cho biết, khi có ý định trồng thanh long, ông đã vào Bình Thuận, Ninh Thuận để khảo sát giống và học hỏi kinh nghiệm. Sau đó ông quyết định mua giống ở huyện Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận. "Thanh long là loại cây ăn quả được trồng nhiều ở vùng có nhiệt độ nóng. Vì thế đem giống về Phúc Thọ trồng để cây đạt năng suất cao không phải dễ dàng. Lúc mới trồng tôi không vội vàng tưới nước, mà cắm gốc trên mặt cát, nếu cắm sâu xuống sẽ hỏng.

 

Khi gốc xuất hiện mầm là lúc cây ra rễ, sau đó đánh ra trụ trồng. Mỗi góc của trụ buộc 2 cây, 4 góc là 6 cây và 1 cây cột vào cạnh. Sau khi trưởng thành mỗi cây sẽ cho 30 tàu ứng với 30 quả. Như vậy 1 trụ sẽ cho 200 quả thay vì trồng 5 cây một trụ như ở những nơi khác”, ông chia sẻ.

 

Trong 2 năm đầu, ông bón phân đạm để tập trung nuôi cây, khi cây bắt đầu ra quả thì giảm đạm và tăng kali. Vì thời tiết miền Bắc khác trong Nam nên ông linh hoạt trong khâu chăm sóc. Để tránh cho cây bị nấm, trước mùa mưa ông phun thuốc phòng bệnh.

 

Được biết trước đây vợ chồng ông Tuấn từng xuất khẩu lao động sang Nhật Bản. Nhận thấy cách làm mô hình ở nước bạn có nhiều ưu việt, sau khi về nước, vợ chồng ông đã mạnh dạn vay vốn ngân hàng để xây dựng mô hình trang trại, sản xuất hàng hóa tập trung. Ông Tuấn thuê 6 nhân công làm việc thường xuyên, có thời điểm thuê hơn 10 người.

 

Ngoài việc trồng thanh long ông Tuấn còn trồng đinh lăng, ớt, bí, mướp đắng, chanh tứ thời… để tận dụng diện tích đất sản xuất và tạo thêm nguồn thu nhập. Chia sẻ dự định trong tương lai, ông nói sẽ đầu tư nuôi 40 con bò sinh sản, đồng thời xây dựng thương hiệu thanh long xứ Đoài.

 

NGUYỄN NGỌC - TRƯỜNG HÙNG

 

Quản lý bệnh chổi rồng theo quy trình mới

 

Nguồn tin: Khoa Học Phổ Thông

 

 

Bệnh chổi rồng gây hại cây nhãn

 

Bệnh chổi rồng đang hoành hành trên cây nhãn tiêu da bò tại ĐBSCL, để tìm giải pháp đối phó, Cục bảo vệ thực vật tổng hợp các kết quả nghiên cứu khoa học của Viện bảo vệ thực vật và kết quả từ thực tế đã ban hành quy trình kỹ thuật quản lý bệnh chổi rồng hại nhãn để nông dân ứng dụng hiệu quả hơn (quy trình này thay thế quy trình tạm thời, sổ tay phòng trừ bệnh chổi rồng đã ban hành trước ngày 28/6/2016).

 

Qua nhiều nghiên cứu cũng như tranh luận, đến thời điểm này, Cục bảo vệ thực vật vẫn cho rằng nhện lông nhung (Eriophyes dimocarpi) là nguyên nhân gây hại các bộ phận non của cây nhãn tạo ra triệu chứng chổi rồng. Triệu chứng này xuất hiện rất sớm trên đọt non và trên bông. Nhện lông nhung rất khó nhìn thấy bằng mắt thường, vòng đời ngắn (8 - 15 ngày), hình thành 13 - 15 thế hệ trong một năm. Nhện chích hút trên cả hai mặt lá của đọt non tạo ra lớp lông mịn và sống trong đó. Cần chú ý, nhện phát sinh mạnh vào các đợt cây nhãn ra đọt non ra bông, gây hại nặng nhất trong các tháng mùa khô (tháng 11, 12 và tháng 2, 3, 4).

 

Theo khuyến cáo của các nhà chuyên môn, sau khi thu hoạch nhãn, cần vệ sinh vườn, loại bỏ các ký chủ phụ trong hoặc gần vườn nhãn, bón phân NPK cân đối, tăng cường bón phân hữu cơ, bón phân trung vi lượng, giúp cây sinh trưởng tốt, ra hoa tập trung. Trong mùa khô cần tưới đủ nước, che phủ gốc bằng xác thực vật hoặc phủ bùn để giữ ẩm. Đối với vùng bị bệnh chổi rồng hại nặng, cần phun thuốc trừ nhện lông nhung (có kết hợp với dầu khoáng), thời điểm phun là cơi đọt 1, 2, phun khi đọt mới nhú 0,5 - 1 cm, phun kỹ lên đọt non, lá bánh tẻ và lá già. Khi mầm hoa vừa nhú 1 - 2 cm thì phun thuốc trừ nhện, phun kỹ lên mầm hoa, đọt non, lá bánh tẻ và lá già. Đối với vùng bệnh chổi rồng hại nhẹ thì tập trung phun thuốc trừ nhện lông nhung khi nhãn ra cơi đọt 1 và lúc ra bông. Sử dụng thuốc trừ nhện lông nhung trong danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng ở Việt Nam ban hành trong năm, phun theo nguyên tắc 4 đúng. Nên sử dụng luân phiên các loại thuốc trừ nhện lông nhung có cơ chế tác động khác nhau hoặc có hoạt chất khác nhau, tránh nhện kháng thuốc. Sau khi phun thuốc trên cơi bông, không phun thuốc trừ nhện lông nhung cho đến khi thu hoạch.

 

Theo cục trưởng Cục bảo vệ thực vật, ông Hoàng Trung, trước mắt, các địa phương và nông dân tuân thủ quy trình kỹ thuật hướng dẫn của Cục bảo vệ thực vật quản lý nhện lông nhung, dập dịch kịp thời khi phát hiện, không để bùng phát như thời điểm trước đây. Ngoài ra, nông dân trồng mới hoặc cải tạo vườn cần chú ý giống nhãn chống chịu bệnh chổi rồng và nhện lông nhung, không nhân giống từ vườn bệnh. Ở vùng nhiễm nặng nên chọn trồng giống mới hoặc ghép cải tạo bằng giống chống chịu bệnh. Vườn trồng mới nên xử lý nhện lông nhung trên cây giống trước khi trồng.

 

TS. Lê Quốc Cường, giám đốc Trung tâm bảo vệ thực vật phía Nam cho biết, trung tâm phối hợp với Chi cục bảo vệ thực vật các tỉnh có công bố dịch xây dựng các mô hình quản lý bệnh chổi rồng hại nhãn. Bằng các giải pháp kỹ thuật cũng đã tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức và năng lực của nông dân về biện pháp canh tác, chăm sóc bón phân, quản lý nước thích hợp để cây nhãn phát triển khỏe. Khi cần, xử lý thuốc trừ nhện lông nhung một cách kịp thời. Đặc biệt là sự chỉ đạo và các chính sách hỗ trợ của địa phương để giúp dân tiêu hủy và ngăn chặn sớm nguồn bệnh, góp phần quản lý bền vững bệnh chổi rồng. Hai biện pháp có tác động và hiệu quả nhất để quản lý bệnh chổi rồng là cắt tỉa cành và quản lý dinh dưỡng (bón phân đủ lượng để cây bung đọt nhanh). Hai biện pháp này phải tiến hành song song, nếu thực hiện riêng lẻ, hiệu quả quản lý bệnh sẽ không cao.

 

Hiện ở Việt Nam, các khảo sát ngoài đồng cho thấy mức độ nhiễm chổi rồng của các giống nhãn ở Nam bộ rất khác nhau. Có giống nhiễm nặng, nhiễm nhẹ hơn và có giống chưa thấy triệu chứng. Có 3 giống nhãn chưa xuất hiện triệu chứng, đó là nhãn long, super và xuồng cơm vàng. Riêng giống nhãn Idor đang phát triển hiện nay vẫn xuất hiện bệnh chổi rồng nên nông dân thường xuyên theo dõi để xử lý, không nên chủ quan dù bệnh chưa xuất hiện nhiều như trên nhãn tiêu da bò.

 

PHƯƠNG DUY

 

Nỗ lực cứu chữa bưởi da xanh nhiễm bệnh

 

Nguồn tin: Báo Bà Rịa Vũng Tàu

 

 

Anh Nguyễn Hoàng Ân cưa bỏ cây bưởi bị nhiễm bệnh tránh lây lan sang bưởi giống mới được trồng cạnh bên.

 

Theo phản ánh của người dân trồng bưởi da xanh tại xã Sông Xoài (huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), hiện có gần 60ha bưởi da xanh trên địa bàn bị nhiễm bệnh vàng lá và thối rễ. Hiện các hộ dân đang chặt bỏ một số cây yếu và trồng dặm thay thế cây non để duy trì vườn.

 

Anh Nguyễn Minh Thắng (người trồng 2ha bưởi da xanh ở ấp Phước Bình, xã Sông Xoài, huyện Tân Thành) cho biết, từ tháng 4-2016, vườn bưởi của gia đình anh đã bắt đầu bị nhiễm bệnh vàng lá và thối rễ. Tuy nhiên, do không kịp thời phát hiện và xử lý ngăn chặn bệnh, đến nay, gần 1ha bưởi của gia đình anh bị nhiễm bệnh nặng. Theo anh Thắng, lúc đầu, chỉ có vài nhánh bị vàng và rụng lá nhưng sau đó thân cây, rễ cây dần dần bị thối. Đa số bưởi bị nhiễm bệnh đều từ 3 năm tuổi trở lên và đang cho trái. “Trung bình mỗi năm, tôi thu hoạch 5-6 tấn bưởi để bán Tết, nhưng với tình trạng như hiện nay, sản lượng bưởi sẽ sụt giảm 40-50%”, anh Thắng cho biết.

 

Tình trạng tương tự cũng xảy ra tại vườn bưởi da xanh của gia đình anh Nguyễn Hoàng Ân, ngụ ở ấp Sông Xoài 1, xã Sông Xoài. Hiện tại, 250 gốc bưởi 3 năm tuổi trồng trên diện tích gần 2ha của gia đình anh Ân đều bị bệnh vàng lá và thối rễ. Anh Ân cho biết, trong điều kiện bình thường, sau 3 năm trồng, bưởi sẽ cho trái. Tuy nhiên, do bị nhiễm bệnh vàng lá và thối rễ nên vườn bưởi của gia đình anh hiện vẫn chưa ra hoa. Vì thế, anh có nguy cơ mất trắng gần 40 triệu đồng tiền mua giống, phân bón, công chăm sóc trong thời gian qua. Theo anh Ân, nguyên nhân khiến bưởi nhiễm bệnh là do anh mua trúng giống không bảo đảm chất lượng. Bên cạnh đó, do chăm sóc chưa đúng kỹ thuật nên cây bưởi phát triển kém, sức đề kháng yếu nên dễ bị nhiễm bệnh. Hiện nay, anh Ân đang tỉa bớt 60 cây yếu, không phát triển và trồng xen các cây giống mới khỏe mạnh, bảo đảm chất lượng, và thực hiện các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ như bón phân hữu cơ, các chế phẩm sinh học, xịt thuốc trừ nấm để cải tạo lại vườn.

 

Theo thống kê của Trạm Bảo vệ thực vật (BVTV) huyện Tân Thành, hiện toàn huyện có gần 60ha bưởi bị nhiễm bệnh vàng lá, thối rễ. Trong số này, có 2-3ha bưởi bị nhiễm bệnh nặng, lại gặp các cơn mưa lớn liên tiếp trong vài tuần trở lại đây, dẫn đến cây bị chết. Bà Dương Thị Thu Sương, cán bộ Trạm BVTV huyện Tân Thành cho biết, có 3 nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nêu trên là: do những năm gần đây, giá bưởi cao nên người trồng thường xử lý kích nước để bưởi ra trái quanh năm, làm cho sức đề kháng của cây yếu, dễ bị nhiễm bệnh. Thứ hai, một số hộ mua phải giống cây không bảo đảm chất lượng. Thứ ba là người trồng không thực hiện đúng kỹ thuật chăm sóc, bón phân bổ sung không hợp lý nên cây dễ bị các loại nấm bệnh như nấm Fusarium spp, Phytophthora spp, Pythium spp và tuyến trùng “tấn công”, dẫn đến bị bệnh vàng lá, thối rễ. Triệu chứng của bưởi bị nhiễm bệnh là lá biến dần sang màu vàng, rễ bị hư, thối, làm mất khả năng hấp thu dinh dưỡng và nước để nuôi cây.

 

Để phòng bệnh vàng lá, thối rễ, ngành nông nghiệp khuyến cáo người trồng bưởi cần chú ý thoát nước tốt trong mùa mưa, tránh tình trạng vườn bị ngập úng. Hàng năm, bón bổ sung vôi cho vườn cây với liều lượng 1-2 kg/gốc; bón phân đầy đủ, cân đối, tăng cường bón phân hữu cơ, hữu cơ vi sinh, đặc biệt nên kết hợp với chế phẩm sinh học nhằm giúp cây khỏe và tăng khả năng đề kháng; thường xuyên tỉa cành, tạo tán cho cây, loại bỏ những cành già yếu, sâu bệnh để cây thông thoáng và thúc đẩy phát triển chồi mới. Bên cạnh đó, khi phát hiện cây bị bệnh, cần cắt bỏ đem tiêu hủy để trồng lại các giống mới có chất lượng, tránh lây lan sang các vườn khác...

 

Hiện nay, HTX Bưởi da xanh Sông Xoài đang phối hợp với ngành nông nghiệp tỉnh hướng dẫn người dân sử dụng các biện pháp như dùng thuốc đặc trị, vệ sinh vườn để hạn chế tác hại của bệnh vàng lá, thối rễ. Với giải pháp này, ngành chức năng cũng như địa phương dự báo có thể cứu vãn được tình trạng của 2/3 diện tích cây bưởi đang bị hư hại.

 

NGÔ THANH

 

Đồng hành cùng nhà nông

 

Nguồn tin: Báo Bắc Giang

 

Từ mối hàng nhỏ lẻ, anh Giáp Văn Nam (SN 1971) ở thôn Thượng, xã Cao Xá, huyện Tân Yên (Bắc Giang) đã tạo dựng được cơ sở chuyên thu mua và tiêu thụ nông sản uy tín, không những làm giàu cho gia đình mà còn giúp người dân yên tâm sản xuất.

 

 

Vườn rau an toàn của gia đình anh Giáp Văn Nam.

 

Sinh ra, lớn lên trên vùng quê Cao Xá, từng nếm trải những khó khăn của cuộc sống, vợ chồng anh Nam đã vay mượn vốn đầu tư chăn nuôi gia súc, gia cầm, cuộc sống dần khấm khá. Hai năm 2010-2011, nhiều lần chứng kiến rau màu của bà con làm ra không tiêu thụ được, anh quyết định mở điểm thu mua nông sản.

 

Ngôi nhà của anh Nam ở thôn Thượng, xã Cao Xá nằm cạnh đường 295. Đây là vị trí lý tưởng giúp anh Nam mở điểm thu mua nông sản từ nhiều năm nay. Vào mùa vụ, tại điểm cân nhà anh luôn nhộn nhịp người dân trong, ngoài xã đem ớt, dưa bao tử, rau các loại đến cân với lượng trung bình 1-2 tấn/ngày. Sản phẩm sau đó được cung cấp cho các tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh, TP Hà Nội…

 

Từ công việc thu mua, anh đã tiếp cận với một số công ty giống cây trồng đưa những giống cây con về phục vụ bà con thâm canh như: Dưa bao tử, ngô ngọt, bí các loại…. Để bảo đảm cơ cấu giống kịp thời cho mùa vụ và chất lượng sản phẩm, mới đây anh đầu tư gần 100 triệu đồng làm 2 sào nhà lưới để gieo ươm cây giống. Kết thúc đợt nhân giống, nhà lưới dùng để trồng rau, dưa an toàn.

 

Không chỉ chia sẻ kinh nghiệm trong sản xuất, anh Nam còn quan tâm hỗ trợ giống, vốn, bán phân bón trả chậm để các hộ thuận lợi khi bước vào mùa vụ. Hiện nay gia đình anh đã có một cửa hàng chuyên bán phân bón và vật liệu xây dựng, tạo việc làm cho 4-5 lao động. Nói về dự định của mình, anh Nam cho biết: “Toàn bộ nhà kho sẽ chuyển thành khu sơ chế nông sản, chủ yếu các mặt hàng xuất khẩu và bảo đảm hoàn thiện các phần việc từ khâu sơ chế đến đóng gói. Khi hoàn thành sẽ tạo việc làm cho khoảng 100 công nhân”.

 

Thanh Tâm

 

Tiền Giang: Hiệu quả khi đưa cây bắp xuống chân ruộng

 

Nguồn tin: Tiền Giang

 

Nhằm đa dạng hóa cây trồng vật nuôi, nông dân trong tỉnh Tiền Giang đã trồng được gần 4.000 ha bắp, trong đó có trên 2.500 ha trồng luân canh trên chân ruộng. Từ đầu năm đến nay, bà con đã thu hoạch đạt sản lượng trên 14.000 tấn.

 

Trong các huyện, thành, thị, huyện Chợ Gạo đi tiên phong với diện tích trồng bắp không ngừng mở rộng. Trong năm 2016, nông dân trong huyện đã đưa diện tích bắp lên gần 3.000 ha. Ngoài bắp chăn nuôi, bà con còn trồng nhiều loại bắp dùng để ăn tươi, mang lại hiệu quả kinh tế lớn.

 

Qua khảo sát của ngành chức năng, trung bình mỗi ha bắp cho thu hoạch khoảng 32.000 trái, bán với giá 2.000 đồng/trái, nông dân thu 64 triệu đồng, trừ chi phí, còn lãi trên 43 triệu đồng, gấp ba lần so với lợi nhuận từ vụ lúa. Ngoài thu hoạch trái, thân và lá bắp còn là nguồn phụ phẩm quan trọng phục vụ ngành chăn nuôi bò tại địa phương, nên nông dân thu được nhiều mối lợi từ chuyển đổi trồng lúa sang luân vụ lúa + bắp hoặc chuyên canh bắp trên nền đất lúa.

 

Nhiều nông dân nhờ phát huy tiềm năng, thế mạnh của cây bắp trong cơ cấu sản xuất mà vượt khó, thoát nghèo. Đơn cử như nông dân Lê Văn Nhường, cư ngụ tại xã Long Bình Điền, huyện Chợ Gạo. Thuở đầu lập nghiệp, ông Nhường chỉ có 1.000m2 đất canh tác. Do đất hẹp, gia đình đông nhân khẩu, để giải quyết sinh kế, ông chuyển từ trồng lúa độc canh sang trồng các loại rau màu: Dưa leo, ớt, bắp,... mùa nào thức nấy kết hợp đầu tư vốn chăn nuôi thêm bò, heo mang lại thu nhập khá. Trung bình, mỗi năm, ông thu lãi khoảng 80 triệu đồng từ các nguồn lợi trồng màu, chăn nuôi. Qua vài năm dựng nghiệp, gia đình ông Nhường trở thành triệu phú nông thôn.

 

Minh Trí

 

Hợp tác sản xuất rau an toàn

 

Nguồn tin: Nông Nghiệp VN

 

Tổ chức sản xuất, hợp tác ứng dụng công nghệ cao, liên kết tiêu thụ hàng nông sản là một trong những nội dung được Sở NN-PTNT An Giang và Hội Nông dân tỉnh ký kết, phối hợp thực hiện.

 

 

Sản xuất rau an toàn ở khu vực biên giới Tịnh Biên

 

Trong đó, có việc phát huy vai trò các tổ liên kết, hợp tác sản xuất đang mang lại hiệu quả cao.

 

Ở khu vực đất biên giới huyện Tịnh Biên, việc hình thành mô hình “Trồng rau an toàn” cũng gặp không ít khó khăn, do điều kiện đất đai, khí hậu thiên nhiên và nguồn nước tưới. Anh Nguyễn Minh Tâm, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Tịnh Biên cho biết, việc phối hợp giữa Hội Nông dân huyện, Trạm BVTV và Trạm Khuyến nông góp phần quan trọng trong việc xây dựng mô hình và tổ chức tập huấn các tiến bộ kỹ thuật.

 

Anh Lê Văn Tuấn ở khóm Xuân Hiệp, thị trấn Tịnh Biên cho biết, THT sản xuất rau an toàn Tịnh Biên được thành lập với 10 thành viên và canh tác 5ha.

 

Mỗi vụ SX đều trồng luân canh, với nhiều loại rau màu khác nhau, chủ yếu là đảm bảo dinh dưỡng và cây phát triển tốt, hiệu quả SX và hạn chế dịch bệnh, thị trường tiêu thụ. Hàng năm, mỗi thành viên trồng từ 3 - 4 đợt, tùy theo các loại rau màu (rau ăn lá, rau ăn củ, rau ăn trái…).

 

Tính chung, mỗi năm THT SX rau an toàn Tịnh Biên cung cấp thị trường trong và ngoài thị trấn hàng trăm tấn rau màu an toàn các loại, tổng doanh thu trên 980 triệu đồng, sau khi trừ chi phí SX, lợi nhuận còn trên 344 triệu đồng/năm (diện tích 5ha).

 

Với mô hình trồng rau an toàn, anh Đoàn Thành Tâm ở ấp Long An, xã Long Kiến, huyện Chợ Mới cho biết, nhờ có tập huấn kỹ thuật tại các khoá học, ứng dụng các kiến thức căn bản được trang bị, kết quả rất thành công. Năm 2015 chỉ 1,4ha trồng bắp thu trái non, bắp ngọt, dưa leo, ớt... đến năm 2016 nâng lên 1,8ha mỗi năm gia đình lợi nhuận trên 250 triệu đồng, cao gấp nhiều lần so với trồng lúa 3 vụ.

 

 

Thu hoạch củ cải ở huyện Chợ Mới

 

Đối với vùng đất Kiến An, các loại rau màu chiếm hơn 50% diện tích của xã, đây cũng là nơi có đất trồng màu lớn nhất ở Chợ Mới và kể cả toàn tỉnh. Trong 12 ấp thì 5 ấp đã hình thành khu vực chuyên canh. Hoạt động THT rau màu Kiến An được xem là khâu đột phá “Hợp tác ứng dụng công nghệ cao” ở Chợ Mới. Với khả năng tiêu thụ 1,5 - 2 tấn/ngày, phương án SX chủ yếu là trồng theo đơn đặt hàng và nhu cầu tiêu thụ thị trường. Thế nhưng, sản phẩm được ưa chuộng, giá cả luôn ổn định và cao hơn mức giá thương lái mua tại chỗ khoảng 20%.

 

Theo anh Nguyễn Văn Minh Hùng ở ấp Hoà Trung, xã Kiến An, sử dụng phân hữu cơ sinh học đạt chất lượng tốt và hiệu quả kinh tế cao, là việc ứng dụng sau tập huấn do Hội Nông dân huyện, Trạm BVTV và Trạm Khuyến nông huyện tổ chức.

 

Anh Hùng cho biết, với 5 công đất mỗi năm trồng được 1 vụ hành lá và 3 vụ cải bẹ vúng, qua hạch toán chi phí, hành lá lợi nhuận 77 triệu đồng/vụ và cải bẹ vúng lợi nhuận 75 triệu đồng/3 vụ. Như vậy, tổng doanh thu 5 công đất trồng màu (1 vụ hành và 3 vụ cải bẹ vúng), gia đình lợi nhuận được 152 triệu đồng/năm.

 

Các thành viên THT trồng rau an toàn xã Mỹ Hòa (TP Long Xuyên) cho biết, nhờ ứng dụng các biện pháp canh tác, mỗi người lợi nhuận từ 300.000 - 500.000 đ/công. Trên 8ha trồng các loại rau như: Ớt, cà tím, đậu bắp, cải, xà lách, ngò thơm… đạt tổng doanh thu trên 3,5 tỷ đồng/năm, trừ chi phí còn lợi nhuận trên 1,7 tỷ đồng, bình quân trên 227 triệu đồng/ha/năm.

 

Hiện toàn tỉnh An Giang có 793 THT (hơn 17.000 thành viên) và 254 Câu lạc bộ nông dân (hơn 8.200 thành viên). Qua thông tin sinh hoạt, nhiều tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới được hội viên, nông dân ứng dụng mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần làm tăng giá trị SX và thu nhập đời sống nông thôn.

 

TRỌNG ÂN

 

Cung ứng hơn 200 tấn khoai tây giống

 

Nguồn tin: Báo Bắc Giang

 

Công ty cổ phần Giống cây trồng Bắc Giang vừa cung ứng hơn 200 tấn khoai tây giống Solada và Marabel cho nông dân trong tỉnh để trồng trong vụ đông.

 

Đây là những giống được nhập từ Đức, có thời gian sinh trưởng từ 80 - 85 ngày, thâm canh tốt có thể đạt 20-30 tấn/ha; ít sâu bệnh, chất lượng tốt, dễ tiêu thụ. Công ty cam kết bảo hành giống, cử cán bộ hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc cho bà con.

 

Ngoài ra, để bảo đảm nguồn giống chất lượng, sạch bệnh, hạ giá thành sản phẩm ở vụ sau, Công ty liên kết với nông dân tại TP Bắc Giang, Lục Nam sản xuất 20 ha khoai tây giống.

 

Trịnh Lan

 

Thái Bình: Người nông dân ôm ruộng làm giàu

 

Nguồn tin: Khuyến Nông VN

 

Trong khi nhiều nông dân đang bỏ ruộng đi làm ăn xa hoặc làm cho các công ty thì ông Bùi Văn Khuể ở thôn An Nạp, xã An Châu, huyện Đông Hưng lại mạnh dạn thuê ruộng của bà con để mở rộng sản xuất, xây dựng mô hình trồng màu tổng hợp. Ba năm gần đây, ông thu lãi trên 150 triệu đồng/năm.

 

 

Ông Khuể chăm sóc cây trồng của gia đình

 

Tâm sự với chúng tôi, ông Khuể cho biết, ông thuê được 2 mẫu ruộng cấy lúa kém hiệu quả của bà con nông dân trong xã với giá 300.000 đồng/sào/năm. Nhận thấy cây màu có giá trị cao hơn lúa rất nhiều nên ông đã mạnh dạn chuyển đổi trồng lúa sang trồng màu quanh năm. Song nếu chỉ trồng trồng màu thì thu nhập chỉ được 30-50 triệu đồng, chưa tương xứng với tiềm năng của đất. Sau thời gian tìm hiểu, nhận thấy thị trường cần nhiều loại cây trồng khác nhau có giá trị kinh tế cao hơn nên ông đã đa dạng hóa các loại cây trồng trong mô hình: 125 hốc cây thanh long, 3000 gốc cây đinh lăng, còn lại là ớt, bí đao và các loại quất, táo, đào... Chỉ tính riêng cây ớt, năm 2016 này ông đã thu lãi trên 50 triệu đồng.

 

Trên 20 năm gắn bó với đồng ruộng, ông nổi tiếng là người mê ruộng, mê đất và chịu khó tìm tòi, học hỏi. Mặc dù đây là vùng đất khô cằn, khó làm, nếu cấy lúa chả được là bao nhưng ông vẫn quyết tâm làm bằng được. Ông nói: “Đất không phụ lòng người, song cần phải tìm hiểu kỹ đặc tính, thời gian sinh trưởng, thị trường tiêu thụ mới đưa vào gieo trồng. Việc trồng xen nhiều loại cây khác nhau trên một mảnh đất rất có lợi. Trước hết là lấy cây ngắn nuôi cây dài, có thể một vụ trồng 3-4 thứ cây, hỏng cây này đã có cây khác”.

 

Chọn cây làm vườn, lách vụ để có thị trường giá cao là cách mà ông Khuể đang áp dụng. Cách làm này của ông không mới nhưng đã mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Ông Nguyễn Văn Nam - thôn Kim Châu 2 cho biết: “Tôi thấy hiệu quả làm vườn của ông Khuể rất cao, chúng tôi và các hộ dân cần phải học tập theo mô hình này”.

 

Hiện nay tích tụ ruộng đất đang là chủ trương được cấp ủy chính quyền địa phương huyện Đông Hưng chỉ đạo thực hiện. Để không còn những cánh đồng bỏ hoang thì ngoài các chủ trương chính sách của nhà nước cần phải có những người dám nghĩ dám làm như người nông dân giỏi này.

 

Mai Thị Thu Hương (Trung tâm Khuyến nông Thái Bình)

 

Đô Lương (Nghệ An): Rau vụ đông cho thu nhập hơn 100 triệu đồng/ha

 

Nguồn tin: Báo Nghệ An

 

Vụ đông năm nay, huyện Đô Lương (Nghệ An) sản xuất cây rau màu với diện tích 450ha. Điển hình như các xã Lưu Sơn, Thượng Sơn, Giang Sơn Đông, Trung Sơn, Thuận Sơn.

 

 

Nông dân Lưu Sơn thu hoạch dưa chuột.

 

 

Dưa chuột đầu vụ đang được giá.

 

Xã Lưu Sơn, một xã có truyền thống về sản xuất rau màu đến nay đã gieo trồng đạt gần 70ha. Trong đó đậu cove 24ha, bầu lấy quả 22ha, bí xanh 5ha, dưa chuột 3ha, khoai lang 4,8ha, rau màu các loại 11ha.

 

Số diện tích gieo trồng này tập trung ở các xóm: Hồng Phong, Phú Thọ, Điện Biên, Quang Trung. Riêng xóm Hồng Phong có diện tích lớn nhất, đạt 21ha và đã cho thu hoạch.

 

Những ngày này, vào các buổi sáng sớm, bà con nông dân khắp các địa phương ở Đô Lương đã khẩn trương ra đồng thu hoạch rau màu để kịp bán vào phiên chợ buổi sáng. Sau mưa, lụt, giá rau đang tăng, nhất là dưa chuột, ngọn bầu bí, khoai lang và một số loại rau ngắn ngày khác.

 

 

Rau bầu bí là những loại cho thu nhập cao trong vụ đông.

 

Một mớ rau bầu 10.000 - 12.000 đồng, rau khoai lang 10.000 đồng/ kg...Trung bình mỗi buổi sáng, mỗi hộ thu hoạch và bán sản phẩm được 200.000 - 300.000 ngàn đồng. Mỗi sào cây trồng rau màu vụ đông chi phí hết 1 triệu đồng, bao gồm các khoản như: Choải cho cây leo, giống, phân bón. Bù lại, bà con thu nhập khoảng 7-12 triệu đồng/sào. Như vậy, 1 ha cây trồng vụ đông đạt hơn 100 triệu đồng.

 

 

Bà con phấn khởi đưa rau đi chợ.

 

Bên cạnh đó, bà con nông dân thường xuyên xen gối lứa các loại cây trồng dưa chuột, đậu, bí xanh, bí đỏ, bí đao.

 

Theo kinh nghiệm của bà con nơi đây, khi làm đất phải làm vồng lớn và cao để tránh ngập úng, rãnh thoát nước phải rộng và lớn. Khi có mưa to, cần ra đồng kiểm tra, để tháo thoát nước kịp thời./.

 

Lê Ngọc Phương (Đài Đô Lương)

 

Bình Định: Vào vụ thu hoạch mì: Mất mùa, giá thấp

 

Nguồn tin: Báo Bình Định

 

Giữa tháng 10 đến nay, nông dân trên địa bàn tỉnh Bình Định khẩn trương vào vụ thu hoạch mì để tránh thiệt hại do mưa lũ kéo dài. Tuy nhiên, mới vào đầu vụ thu hoạch mà giá mì khá thấp cùng với năng suất mì giảm nên nông dân không vui.

 

 

Do giá mì thấp, một số nông dân trồng mì ở Cát Hiệp thu hoạch mì về xắt lát phơi khô, dự trữ làm thức ăn chăn nuôi. Ảnh: NGUYỄN HÂN

 

Giá mì nguyên liệu giảm mạnh

 

Ông Vũ Quốc Bảo, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Phù Cát, cho biết: Năm nay, do hạn hán kéo dài nên năng suất mì trên địa bàn huyện giảm sút. Các năm trước, thời tiết thuận lợi, năng suất mì tại địa phương đạt từ 26 - 28 tấn/ha; năm nay chỉ đạt 18 - 20 tấn/ha.

 

Một khó khăn khác đối với người trồng mì là giá mì đang có chiều hướng giảm mạnh. Hiện giá thu mua của các thương lái tại rẫy dao động từ 800 - 900 ngàn đồng/tấn mì tươi, giảm 300 - 500 ngàn đồng/tấn so với đầu vụ thu hoạch năm trước. Với mức giá này, theo tính toán của nông dân, 1 ha mì trồng trong thời gian từ 10 - 11 tháng chỉ thu được từ 16 - 18 triệu đồng. Trong khi đó, chi phí sản xuất như phân bón, công lao động, vận chuyển năm nay lại tăng cao, nên hầu hết người trồng mì lãi rất thấp, thậm chí bị thua lỗ.

 

Ông Đào Văn Chung, nông dân ở thôn Hòa Đại, xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát, trồng 2 ha mì, cho biết: “Vụ thu hoạch năm ngoái, giá mì tươi tăng liên tục, vào chính vụ thương lái mua tại ruộng lên đến 1,4 - 1,6 triệu đồng/tấn; thu hoạch đến đâu thương lái mua ngay đến đó. Vụ này, giá mì chỉ ở mức 900 ngàn đồng/tấn, giảm đến 500 ngàn đồng/tấn. Với mức giá này, nông dân trồng mì tại địa phương chỉ từ huề vốn đến thua lỗ chứ không có lãi”.

 

Nông dân Nguyễn Đình Phú, ở thôn Hội Vân, xã Cát Hiệp, cho biết thêm: “Vụ mì năm nay, gia đình tôi trồng 0,5 ha. Cuối tháng 6, đầu tháng 7.2016, khô hạn kéo dài, mì chết nhiều, số còn lại năng suất rất thấp. Hiện tôi đã thu hoạch xong toàn bộ diện tích mì nhưng chỉ được 10 tấn, bán cho thương lái chỉ được 9 triệu đồng, giảm hơn một nửa so với các vụ trước. Mì vừa mất mùa, mất giá, nên vụ mì này thất thu nặng”.

 

Theo ông Vũ Quốc Bảo, nhiều năm qua, Phù Cát là vùng nguyên liệu trọng điểm của nhà máy chế biến tinh bột sắn Phù Mỹ, với diện tích 2.554 ha, tập trung chủ yếu tại các xã: Cát Hiệp, Cát Sơn, Cát Lâm, Cát Trinh, Cát Tân, Cát Hanh... Nhờ được cơ quan Khuyến nông xây dựng mô hình sản xuất và chuyển giao các giống mì cao sản nên hầu hết diện tích mì ở đây được trồng các giống mì mới như: KM 94, KM 98, KM 140. Tuy nhiên, giá mì tươi năm nay giảm mạnh làm người trồng mì rất lo lắng, thu nhập giảm sút. Nếu nhà máy không có chính sách hỗ trợ người trồng mì trong thời gian đến, e rằng rất khó giữ vững vùng nguyên liệu.

 

Tại huyện Tây Sơn, thời điểm này, nông dân cũng đang tập trung thu hoạch 2.700 ha mì nguyên liệu. Tuy nhiên, do năng suất mì thấp, hàm lượng tinh bột kém, giá lại giảm nên chẳng mấy ai vui. Ông Thi Văn Lợi, ở thôn 1, xã Tây Giang, huyện Tây Sơn, rầu rĩ: “Năm nay, gia đình tôi trồng 4 sào mì. Do các đợt nắng nóng kéo dài hồi giữa năm nên cây mì cho năng suất và tinh bột rất kém. Hiện thương lái thu mua tại rẫy chưa đến 1 triệu đồng/tấn mì tươi, nên nhiều hộ xắt lát phơi khô để dành chăn nuôi heo, bò”.

 

Theo ông Đặng Vĩnh Kính, Phó Chủ tịch UBND xã Bình Tân, huyện Tây Sơn, trên địa bàn xã có khoảng 250 ha đất trồng mì. Đầu vụ, nắng nóng đã làm chết khoảng 50% diện tích; đến khi thu hoạch thì mì mất năng suất, tinh bột thấp, nên chỉ được nhà máy thu mua ở mức dưới 1 triệu đồng/tấn mì tươi. Trong khi đó, ngày công lao động, chi phí vật tư, phân bón, công thu hoạch tăng, dẫn đến việc người trồng mì bị thua lỗ.

 

Giá mua giảm do xuất khẩu gặp khó

 

Theo ông Đỗ Văn Tâm, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty CP Chế biến tinh bột sắn xuất khẩu Bình Định (nhà máy đặt tại xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ), từ giữa tháng 10 đến nay, công ty mua mì nguyên liệu của nông dân với các mức giá gồm: mì có hàm lượng tinh bột đạt 30% giá 1,42 triệu đồng/tấn, mì có hàm lượng tinh bột 25% giá 1,22 triệu đồng/tấn, mì hàm lượng tinh bột dưới 20% giá 920 ngàn đồng/tấn.

 

“So với cùng kỳ năm ngoái, giá mì nguyên liệu năm nay thấp hơn từ 300 - 350 ngàn đồng/tấn vì việc xuất khẩu tinh bột mì gặp khó khăn; đặc biệt là thị trường Trung Quốc giá nhập khẩu tinh bột hạ thấp. Bên cạnh đó, do nắng hạn kéo dài nên nhiều diện tích mì trên địa bàn tỉnh bị thiệt hại, hàm lượng tinh bột hầu hết chỉ đạt dưới 20%, dẫn đến giá thu mua của nhà máy thấp” - ông Tâm thừa nhận.

 

Ông Lê Thanh Hà, Quyền Giám đốc Công ty CP Chế biến tinh bột sắn xuất khẩu Bình Định, chia sẻ: Với giá xuất khẩu tinh bột mì ở mức thấp và khó khăn như hiện nay thì việc sản xuất của nhà máy hầu như không có lãi. Tuy nhiên, bằng trách nhiệm với nông dân tại các vùng nguyên liệu, công ty vẫn duy trì sản xuất và đảm bảo thu mua hết mì nguyên liệu cho nông dân. Thời điểm này, mỗi ngày, nhà máy thu mua trên 300 tấn mì nguyên liệu; đồng thời, cam kết sẽ đảm bảo thu mua hết lượng mì nguyên liệu thu hoạch sau mưa lũ. Để chia sẻ một phần khó khăn cho nông dân, công ty hỗ trợ thêm tiền công vận chuyển với mức 80.000 đồng/tấn đối với những vùng xa nhà máy.

 

“Trong tình thế khó khăn, công ty đang xúc tiến tìm kiếm các thị trường xuất khẩu mới, để nâng mức thu mua mì nguyên liệu, đảm bảo sản xuất có lãi” - ông Hà cho biết.

 

NGUYỄN HÂN

 

TP Hồ Chí Minh: Nhiều doanh nghiệp tập trung phát triển nông nghiệp đô thị

 

Nguồn tin: Báo Công Thương

 

Nhu cầu thực phẩm sạch ngày càng trở thành vấn đề nóng của toàn xã hội đã và đang thúc đẩy nhiều DN của TP.HCM đang đẩy mạnh phát triển các loại hình nông nghiệp đô thị với diện tích canh tác nhỏ nhưng sản phẩm được sản xuất theo hướng hữu cơ, an toàn, giá trị kinh tế cao và nhận được sự ủng hộ tích cực của người tiêu dùng.

 

 

Mô hình trồng rau sạch tại nhà

 

Thực tế sản xuất nông nghiệp cho thấy, trên cùng một diện tích canh tác nhưng làm nông nghiệp công nghệ cao, sản phẩm sạch có hiệu quả kinh tế cao gấp hàng chục lần so với canh tác bình thường. Vì thế mô hình nông nghiệp đô thị với diện tích nhỏ nhưng các DN đã thu về lợi ích kinh tế không hề nhỏ.

 

Ông Ngô Quang Vũ - Giám đốc Công ty TNHH MTV Nông nghiệp Cánh Cam (Nông trại rau sạch Cánh Cam) cho biết nông trại Cánh Cam áp dụng công nghệ trồng rau hữu cơ của Mỹ và trồng rau thủy canh của Israel, cam kết không phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, không kích thích tăng trưởng, không biến đổi gen, không chất bảo quản. Những khách hàng được tận mắt chứng kiến sự đầu tư và quy trình chăm sóc các loại rau củ quả của Nông trại Cánh Cam đã an tâm sử dụng cho dù giá đắt hơn giá thị trường 3 - 4 lần, bởi đảm bảo sạch, tươi trong ngày từ vườn về nhà, không qua một trung gian nào. Nông trại Cánh Cam có hơn 50 loại rau củ quả được thu hái hằng ngày, nhận đặt hàng trực tiếp và giao tận nơi đến người tiêu dùng.

 

Nông nghiệp đô thị không chỉ là sản xuất, cung cấp nguồn rau sạch, nông trại Cánh Cam còn hướng đến cho mọi người có thể tự trồng rau sạch, an toàn tại nhà. Với chi phí khoảng từ 500 ngàn đồng/m2 cho sân thượng, ban công ngoài trời có đủ ánh nắng, nếu không gian trồng thiếu nắng, cần thêm ánh sáng nhân tạo từ hệ thống đèn led thì chi phí khoảng 1,5 – 2 triệu đồng/m2 là có thể có nguồn rau sạch tự cung cấp cho gia đình hàng ngày.

 

Cũng với mô hình trồng rau sạch ngay tại nhà, Công ty TNHH Nguyên Nông (Gino) gọi việc trồng rau sạch tại nhà là “nông nghiệp hữu cơ nhỏ” trong phát triển nông nghiệp đô thị. Công ty GINO tập trung vào chương trình “nông nghiệp hữu cơ nhỏ” từ năm 2000 góp phần tạo các mảng xanh hữu dụng trong cộng đồng dân cư.

 

Ông Trương Văn Bảo - Giám đốc điều hành Veeteq Farm cho biết với trang trại khoảng 20 ha tại Đà Lạt và hơn 2 ha tại Củ Chi, Veeteq Farm cung cấp cho thị trường khoảng 2 tấn rau củ mỗi ngày. Toàn bộ quy trình từ khi thu hoạch, sơ chế, giao tới tận tay khách hàng chỉ gói gọn trong vòng 12 - 24 giờ, bảo đảm độ tươi ngon tối đa cho sản phẩm. Minh bạch hóa mọi thông tin về sản phẩm, Veeteq Farm lắp đặt hệ thống Live Camera tại các trang trại, nhà máy sơ chế, cửa hàng... truyền hình ảnh trực tiếp 24/24 giờ đến người tiêu dùng. Nhờ thế, từng công đoạn trong quy trình sản xuất, vận hành của Veeteq Farm đều có thể được theo dõi, kiểm soát dễ dàng. Veeteq Farm đầu tư phát triển kênh phân phối riêng. Mục tiêu quan trọng mà Veeteq Farm hướng tới là cho người tiêu dùng trong nước có thể tiếp cận nông sản chất lượng cao với mức giá hợp lý nhất.

 

Để duy và mở rộng phát triển các DN đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp tiếp tục quảng bá rộng rãi hơn để tiếp cận người tiêu dùng có nhu cầu đối với các loại nông sản sạch, mở rộng tiêu thụ qua các kênh phân phối khác nhau.

 

Thanh Thanh

 

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop