Tin nông nghiêp ngày 15 tháng 01 năm 2020

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiêp ngày 15 tháng 01 năm 2020

Bưởi 'khổng lồ' tiền triệu chưng Tết

Nguồn tin: VnExpress

Quả bưởi nặng 7-8 kg, khi chín ngả màu vàng được thương lái săn lùng bán Tết với giá từ 700.000 đến một triệu đồng.

Ông Tám dùng giấy báo che, cột dây neo giữ vì quả bưởi quá nặng, 7 - 8 kg. Ảnh: Hoàng Nam

Sáng sớm, ông Ngô Văn Tám (66 tuổi, Đạo Thạnh, TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang) mang xấp giấy báo cùng cuộn dây ra sau vườn bưởi 30 gốc, xen lẫn dừa. Cẩn thận kiểm tra từng trái, ông Tám dùng giấy báo quấn xung quanh, vừa che nắng vừa để bưởi không bị xây xát vỏ. Do mỗi trái nặng 7 – 8 kg, ông Tám phải dùng dây cột giữ để không gãy nhánh.

Những gốc bưởi 10 năm tuổi này thoạt nhìn không khác mấy so với bưởi da xanh truyền thống, nếu quanh thân không có hàng chục trái bưởi khổng lồ đu đưa, đường kính khoảng 40 cm. Nhiều quả đã chín da căng bóng, ngả sang màu vàng chanh.

Chủ vườn lý giải, do bưởi có kích thước khổng lồ, giống cái thúng nên dân địa phương còn gọi là bưởi thúng. Bưởi chỉ cho trái mỗi năm một vụ đúng vào dịp Tết, có vị chua nhạt, ăn không ngon như bưởi thường. Nhưng do có vỏ màu vàng tươi, ruột màu đỏ, mang ý nghĩa may mắn nên loại này vẫn hút khách mua để chưng Tết.

Để trái đạt kích thước lớn nhất, ông Tám thường xuyên tỉa bớt trái non, chỉ giữ lại mỗi cây khoảng 7-10 trái.

Quả bưởi thúng có đường kính lớn nhất khoảng 80 cm, vỏ khi chín màu vàng, ruột đỏ, vị nhạt dùng chưng Tết. Ảnh: Hoàng Nam

"Vườn tôi được hơn 100 trái loại to, đã được thương lái đặt mua toàn bộ với giá từ 500.000 – 700.000 đồng mỗi trái. Tết năm nay, gia đình tôi thu nhập khoảng 120 triệu đồng", ông Tám nói.

Trước Tết Nguyên đán một tuần, các thương lái sẽ đến vườn để thu hoạch bưởi thúng và đưa đi tiêu thụ tại các tỉnh miền Tây và TP HCM.

Ông Võ Văn Nhì (64 tuổi, Đạo Thạnh, TP Mỹ Tho) cũng chia sẻ, trước đây người dân địa phương chủ yếu trồng bưởi da xanh bán Tết. Do nhiều năm giá cả bấp bênh, sau khi tham dự một số triển lãm ở địa phương, nhiều nông dân thấy giống bưởi thúng trái to, bắt mắt nên mua cây con về trồng thử. Đây là loại cây không cần nhiều đất, có thể trồng xen trong vườn với các loại cây khác, sau ba năm trồng, cây bắt đầu cho trái sai.

"Đây là giống bưởi rất khó trồng, phải phù hợp với đất trái mới to, xung quanh đây có gần chục nhà trồng mà chỉ có 2,3 hộ thành công", ông Nhì nói.

Một gốc bưởi thúng sai quả ở xã Đạo Thạnh. Ảnh: Hoàng Nam

Theo kinh nghiệm của ông Nhì, để trái chín đúng dịp Tết, từ tháng tư âm lịch, do đang vào mùa mưa nên nông dân cần dùng bạt nhựa che phủ gốc cây, đồng thời ngưng tưới nước. Sau khoảng một tháng, nhà vườn tháo các tấm bạt, rửa cành, tưới nhiều nước đồng thời bón phân hữu cơ, thường là phân ủ từ xác cá, đến giữa tháng năm cây bắt đầu ra hoa, kết trái.

Năm nay, gia đình ông Nhì có 10 gốc bưởi thúng, khoảng hơn 50 trái loại to đã được thương lái đặt mua với giá 250.000 – 700.000 đồng mỗi trái.

Do lợi nhuận trồng bưởi thúng cao gấp 5 – 7 lần bưởi da xanh, gia đình ông Nhì đang chiết trồng thêm 50 gốc xung quanh vườn nhà.

Những người trồng bưởi thúng cho hay, đây là giống trái cây chưng Tết thuộc loại "độc lạ", nên các thương lái sau khi kết thúc vụ trước sẽ làm sẵn hợp đồng bao tiêu cho vụ năm sau. Nhiều người dân hiếu kỳ lẫn thương lái trái cây sau khi xem qua mạng, đã đến tận vườn hỏi mua giá cao nhưng phải về tay không. Hiện một số nhà vườn đã chiết nhánh, bán với giá khoảng 200.000 đồng mỗi cây con.

Hoàng Nam

Trái cây Việt Nam đã ‘đủ sức’ thâm nhập nhiều thị trường khó tính

Nguồn tin: VOV

Gần đây, nhiều trái cây Việt liên tục được cấp phép XK vào những thị trường khó tính. Tín hiệu vui này hứa hẹn khả năng thúc đẩy XK trái cây bền vững.

Theo số liệu mới nhất của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NN&PTNT), giá trị xuất khẩu rau quả năm 2019 ước đạt 3,74 tỷ USD, giảm 1,9% so với năm 2018.

Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu rau quả lớn nhất của Việt Nam với hơn 65% thị phần. Nguyên nhân xuất khẩu rau quả sụt giảm là do sự sụt giảm tại thị trường Trung Quốc.

Trái cây Việt Nam đã thâm nhập nhiều thị trường khó tính. (Ảnh: KT)

Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, xuất khẩu rau quả sụt giảm trong năm qua là do Trung Quốc đã siết chặt tiểu ngạch, chỉ nhập khẩu hàng chính ngạch. Nhiều mặt hàng rau quả có lợi thế của Việt Nam chưa được cấp phép xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc nên phải thúc đẩy tiêu thụ nội địa hoặc gia tăng chế biến.

Điều đáng nói, ở một số thị trường lớn khác, xuất khẩu rau quả Việt Nam lại tăng trưởng mạnh. Cụ thể, xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt 137,7 triệu USD, tăng 9,2%; Hàn Quốc đạt 119,4 triệu, tăng 14,2%; Nhật Bản đạt 112,4 triệu USD, tăng 14,4%...

Những loại quả có tiềm năng xuất khẩu lớn của Việt Nam đến nay đã thâm nhập hầu hết các thị trường “khó tính” bậc nhất thế giới, chiếm khoảng hơn 30%, trong đó có những thị trường tăng trưởng mạnh như: Mỹ, Hàn Quốc, Australia, Canada…

Tuy nhiên, hiện nay cũng đã xuất hiện những đối tác cạnh tranh với Việt Nam như: Campuchia đã xuất khẩu được xoài vào Hàn Quốc; Trung Quốc đã mở rộng diện tích trồng thanh long...

Do đó, theo Bộ NN&PTNT, nếu ngành trái cây Việt không thay đổi, không cải tiến chất lượng thì sẽ gặp nhiều khó khăn trong xuất khẩu. Ngoài yếu tố chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, người nông dân phải sản xuất hàng hóa ở quy mô lớn để đáp ứng được những đơn hàng lớn của nhà nhập khẩu. Từ nhiều năm nay, đây vẫn là bài toán khó với ngành hàng trái cây Việt Nam./.

Chung Thủy/VOV.VN

Cây khóm trên vùng đất phèn Thạnh Lợi

Nguồn tin: Báo Long An 

Anh Trần Quyền Thân đang xử lý khóm để kịp bán dịp Tết Canh Tý 2020

Huyện Bến Lức, tỉnh Long An có diện tích trồng khóm nhiều nhất tỉnh với hơn 406ha, tập trung ở các xã: Thạnh Hòa, Thạnh Lợi. Thời gian qua, nhờ áp dụng tốt các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nên cây khóm đạt năng suất, chất lượng cao, góp phần giảm nghèo, từng bước ổn định và nâng cao đời sống của nông dân, qua đó góp phần phát triển kinh tế địa phương.

Theo anh Trần Quyền Thân (SN 1983), ngụ ấp 4, xã Thạnh Lợi, người gần 10 năm gắn bó với cây khóm, trước khi gia đình anh đến đây lập nghiệp, vùng đất này như cánh đồng hoang, nay là cánh đồng bạt ngàn với diện tích 16ha khóm đang cho trái của gia đình. Để trồng khóm hiệu quả, anh Thân tích cực tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật chăm sóc, xử lý cho cây ra trái theo ý muốn để tránh "trúng mùa, mất giá". Ngoài ra, anh còn học tập kinh nghiệm thâm canh của những nông dân giỏi đi trước và các kênh thông tin khác để áp dụng trong quá trình sản xuất.

"Bình quân khóm đạt năng suất từ 20-25 tấn/ha. Từ đầu năm đến nay, giá khóm được thương lái thu mua 8.000-10.000 đồng/kg, riêng dịp tết dao động từ 12.000-14.000 đồng/kg. Với giá này, sau khi trừ các khoản chi phí, tôi lãi khoảng 700-800 triệu đồng/năm” - anh Thân cho biết.

Xã Thạnh Lợi hiện có 1 hợp tác xã trồng khóm và 1 tổ hợp tác trồng khóm theo tiêu chuẩn VietGAP tại ấp 4 với 14 thành viên, canh tác 20ha. Để mô hình trồng khóm trên vùng đất phèn đạt hiệu quả, xã chủ trương vừa quan sát, hỗ trợ, tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật cho nông dân, vừa chủ động nhân rộng mô mình. Theo nhiều nông dân có kinh nghiệm, cây khóm có thể thích ứng với đất phèn và chịu mặn, dễ trồng, chi phí đầu tư thấp, cách chăm sóc đơn giản. Sau khi trồng khoảng 14-18 tháng, khóm sẽ cho thu hoạch quanh năm. Trung bình một vườn khóm thu hoạch từ 3-5 năm.

Bà Lê Thị Lệ Thanh - Chủ tịch Hội Nông dân xã Thạnh Lợi, cho biết: “Trải qua nhiều thăng trầm, giờ đây, cây khóm của địa phương đang dần phục hồi và phát huy được thế mạnh, trở thành loại cây mang lại thu nhập cao cho nông dân. Chính quyền địa phương xây dựng đê bao ngăn mặn, triều cường, ngành nông nghiệp thì tăng cường chuyển giao khoa học - kỹ thuật cho người trồng khóm để đạt hiệu quả cao.Nhờ đó, nông dân biết cách xử lý phèn, mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất”.

Hiện nay, huyện đã và đang định hướng, nỗ lực xây dựng nền sản xuất hiện đại, tìm thị trường tiêu thụ ổn định cho nhiều loại nông sản, trong đó có trái khóm để góp phần phát triển kinh tế địa phương, “đổi đời” cho những nông dân gắn bó với trái khóm trên vùng đất phèn./.

Việt Hằng

Người Xơ Đăng ở Kon Tum trở thành tỷ phú nhờ trồng cây dược liệu

Nguồn tin: VOV

Nhờ trồng sâm Ngọc Linh, sâm dây cùng một số loại dược liệu khác, đã giúp nhiều người dân Xơ Đăng ở Kon Tum trở thành triệu phú, tỷ phú.

Những năm gần đây từ định hướng của tỉnh Kon Tum, người Xơ đăng ở các huyện: Kon Plông, Tu Mơ Rông và Đăk Glei đã tích cực trồng cây dược liệu mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đến cuối năm 2019 vừa qua nhờ trồng sâm Ngọc Linh, sâm dây cùng một số loại dược liệu khác, đã có nhiều người Xơ đăng thành triệu phú, tỷ phú.

Những ngày cuối năm, vợ chồng chị Y Hiếp, ở làng Tư Rang, xã Ngọc Linh, huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum vẫn tất bật thu hoạch sâm dây. Chị Y Hiếp vui vẻ cho biết, sâm dây đào đến đâu bán hết đến đó. Loại to 8 củ một kg bán với giá 200.000 đồng. Loại từ 10 đến 15 củ bán 150.000 đồng. Loại nhỏ hơn bán xô từ 50.000 - 80.000 đồng một kg.

Chị Y Hiếp thu hoạch sâm dây.

Mỗi ngày vợ chồng Y Hiếp thu được từ 4 đến 5 triệu đồng tiền sâm dây. Năm ngoái riêng tiền bán sâm dây gia đình thu khoảng 250 triệu đồng. Năm nay năng suất, giá bán có nhỉnh hơn chắc chắn thu nhập sẽ cao hơn.

"Trồng sâm dây có lợi hơn cà phê nhiều lắm. Được giá, dễ bán hơn lại dễ trồng. Mình chỉ việc trồng thu hoạch thôi còn người mua thì đến tận rẫy. Năm nay sâm dây cũng được mùa, nhiều củ to và đẹp nên thu mỗi ngày cũng bán được khoảng 5 triệu đồng. Tết này thì chắc là rất vui” - chị Y Hiếp cho biết.

Giống như gia đình chị Y Hiếp, người Xơ đăng ở các xã: Mường Hoong, Ngọc Linh (huyện Đăk Glei); Tê Xăng, Măng Ri, Ngọc Lây (huyện Tu Mơ Rông); Măng Bút, thị trấn Măng Đen (huyện Kon Plông) trồng sâm dây dưới tán rừng, xen cả trong rẫy mì, cà phê… và đều mang lại hiệu quả.

Người Xơ Đăng huyện Đăk Glei thu hoạch dược liệu.

Thực tế cho thấy việc phát triển cây dược liệu ở vùng dân tộc thiểu số của tỉnh Kon Tum rất thuận lợi. Đối với hai loại cây có giá trị kinh tế cao thị trường tiêu thụ mạnh là sâm Ngọc Linh và sâm dây (Hồng đẳng sâm), vốn là loài bản địa nên người dân hiểu rõ đặc tính và kỹ thuật canh tác. Nếu như sâm Ngọc Linh chỉ trồng được dưới tán rừng già trên núi cao thì sâm dây vừa dễ canh tác lại phát triển được ở nhiều địa hình đồi núi và môi trường khác nhau.

Tại huyện Kon Plông và Tu Mơ Rông, người Xơ đăng còn thành công với việc trồng một số cây dược liệu mới mà điển hình là cây đương quy.

Chị Y Mua, ở làng Đăk Ne, xã Măng Cành, huyện Kon Plông, cho biết mỗi năm gia đình có thêm thu nhập hàng chục triệu đồng nhờ loại cây này.

Theo chị Y Mua: “Cây đương quy dễ trồng, dễ chăm sóc hơn cây cà phê rất nhiều. Qua 2 năm trồng đương quy, thu nhập của gia đình tôi đã tăng đáng kể. Tư thương họ vào tận vườn để thu mua. Củ thì tôi bán 1kg được 40.000 đồng còn lá thì 1kg được 2.000 đồng. Trồng đương quy có thu nhập, nâng cao cuộc sống của gia đình, bớt vất vả hơn”.

Người Xơ Đăng trồng Sâm Ngọc Linh.

Xét về hiệu quả kinh tế, việc trồng cây dược liệu mang lại thu nhập vượt trội so với những loại cây trồng khác. Với cây sâm Ngọc Linh, người dân ở các xã Tê Xăng, Măng Ri, Ngọc Lây của huyện Tu Mơ Rông đã trồng được khoảng 30ha. Mỗi kg sâm Ngọc Linh tươi gồm cả lá và củ đang có giá khoảng 100 triệu đồng.

Hàng năm mỗi cây sâm Ngọc Linh trưởng thành cho vài chục hạt. Chỉ cần 1 phần trong số này ươm thành công, mỗi cây giống bán đi người dân đã có khoảng 300.000 đồng. Đối với cây sâm dây, hiện người Xơ đăng đa số vẫn trồng xen với một số cây trồng khác. Theo tính toán của ngành nông nghiệp tỉnh Kon Tum, nếu tổ chức trồng và canh tác tốt, mỗi ha sâm dây sẽ cho thu nhập hơn 1 tỷ đồng.

Ông Lê Đức Tín, Phó Chủ tịch UBND huyện Kon Plông cho biết, việc phát triển dược liệu đã mở hướng thoát nghèo bền vững cho người dân địa phương.

“Hai năm qua, tuy địa phương vẫn trồng ở một quy mô chưa nhiều, chưa lớn, nhưng với những sản phẩm bước đầu và đầu ra ổn định; nên phần nào giải quyết được vấn đề thoát nghèo và có những hộ đã vươn lên thu nhập khá. Kỳ vọng trong 2 năm tới và giai đoạn sau 2020 theo định hướng phát triển nông nghiệp dược liệu này thì người dân ở huyện sẽ sớm thoát nghèo với tỷ lệ cao” - ông Lê Đức Tín cho biết.

Giúp người dân mở rộng diện tích cây dược liệu phát triển kinh tế gia đình, trong năm 2019, các huyện Đăk Glei, Tu Mơ Rông và Kon Plông đã lồng ghép, kết hợp nhiều chương trình hỗ trợ nông dân cây giống, phân bón… tổng giá trị hàng chục tỷ đồng.

Đồng thời, ngành nông nghiệp tỉnh Kon Tum tăng cường việc chuyển giao khoa học kỹ thuật trồng cây dược liệu cho nông dân.

Hỗ trợ cây giống Sâm Ngọc Linh.

Ông Phạm Thanh, Trưởng Ban Quản lý Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Măng Đen cho biết, đơn vị tập trung sản xuất 7 loại giống dược liệu. Năm 2019 đã cung cấp cho người dân, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh trên 300.000 cây sâm dây, hơn 40.000 cây đương quy, khoảng 120.000 cây lan kim tuyến.

Theo ông Phạm Thanh: “Những cây dược liệu mà chúng tôi cung cấp tỷ lệ sống rất cao. Thứ hai chúng tôi hỗ trợ về mặt tư vấn kỹ thuật, khuyến cáo cho bà con những thời điểm để bà con xuống giống cho phù hợp. Chúng tôi thấy có một tiềm năng rất lớn để phát triển dược liệu. Bên cạnh chuyện phát triển còn hỗ trợ cho mọi người phân bón hoặc vốn ban đầu và thu mua chế biến lại thì tiềm năng, triển vọng rất là tốt”.

Đến hết năm 2019 tỉnh Kon Tum đã phát triển được 750 ha dược liệu, sản lượng đạt trên 3.900 tấn, chưa tính Sâm Ngọc Linh. Hầu hết diện tích dược liệu của địa phương được trồng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số Xơ đăng, gồm các huyện: Kon Plông, Tu Mơ Rông và Đăk Glei.

Cùng với hỗ trợ người dân phát triển cây dược liệu để thoát nghèo và vươn lên làm giàu, tỉnh Kon Tum đã giao đất, cho thuê đất, giao rừng, cho thuê rừng đối với 10 doanh nghiệp thực hiện đầu tư, phát triển và chế biến dược liệu với tổng diện tích khoảng 7.660 ha.

Đây cũng là cơ hội nữa để người Xơ đăng có thêm việc làm, thu nhập ổn định. Trong niềm vui năm mới, người Xơ đăng bàn nhiều đến việc trồng thêm những cây sâm Ngọc Linh dưới tán rừng già, mở rộng thêm rẫy sâm dây, đương quy, lan kim tuyến, ngũ vị tử… để có thêm thu nhập, thêm những mùa Xuân no ấm./.

Khoa Điềm/VOV-Tây Nguyên

Hồ tiêu trước nguy cơ đứt gãy nguồn cung. Kỳ III: Đưa hồ tiêu trở lại chuỗi giá trị

Nguồn tin: Công Thương

Chuỗi cung ứng bền vững, giải pháp đưa hồ tiêu giữ được tăng trưởng, đảm bảo sinh kế cho người trồng tiêu. Điều này chỉ có được khi Nhà nước giải quyết được những vấn đề mất cân đối cung - cầu trong sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu.

Phát triển chuỗi cung ứng bền vững

Trong cơn bão khủng hoảng của ngành hồ tiêu thì HTX Nông nghiệp và dịch vụ Nam Yang (thôn 5, xã Nam Yang, huyện Đăk Đoa, tỉnh Gia Lai) với mô hình trồng tiêu hữu cơ vừa bảo vệ môi trường, sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của thị trường khó tính như Mỹ, EU và đã xuất khẩu sang các thị trường này.

Ông Nguyễn Tấn Công - Chủ tịch HĐQT Hợp tác xã nông nghiệp và dịch vụ Nam Yang (thương hiệu tiêu Lệ Chí) - chia sẻ, là đơn vị làm tiêu hữu cơ đầu tiên của Gia Lai từ diện tích 1,5ha dự kiến sẽ tăng lên 20 ha vào năm 2020, HTX hướng đến chế biến sâu không chỉ với cây tiêu và còn nhiều sản phẩm khác. Đầu tư theo hướng hữu cơ chi phí không cao hơn canh tác thông thường nhưng giá tiêu cao gấp đôi so với giá thị trường, HTX liên kết với doanh nghiệp bao tiêu đầu ra cho nông dân.

Vườn tiêu hữu cơ của HTX Nông nghiệp và dịch vụ Nam Yang đem lại giá trị cao

Từ thực tế tại địa phương mình, ông Nguyễn Tấn Công nhận thấy, không có gì siêu lợi nhuận có thể bền vững, chỉ có lợi nhuận vừa đủ thì mới có thể tồn tại và kéo dài. Sản phẩm hữu cơ bán được giá rất tốt nhưng chỉ chiếm khoảng 20% tổng sản lượng của nông sản thế giới. Không khuyến khích tất cả người nông dân làm tiêu hữu cơ nhưng việc ý thức cần phải bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe, đa canh cây trồng là cần thiết.

Trên bình diện quốc tế, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đứng đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu. Thị phần xuất khẩu mặt hàng này đã tăng từ 47% lên đến 60% và hiện có mặt tại 100 thị trường trên toàn thế giới. Hiệp hội Hạt tiêu Quốc tế dự báo đến 2050, sản lượng hạt tiêu thế giới sẽ tăng lên 1 triệu tấn và nhu cầu tiêu dùng hạt tiêu thế giới cũng tăng lên, nhưng chưa cân đối với nguồn cung. Do vậy, giá tiêu có thể vẫn còn bấp bênh trong một thời gian nữa.

Hồ tiêu Việt Nam có lợi thế cạnh tranh khá lớn trong các nước trong khối Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), trong khi đó Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực sẽ là đòn bẩy tốt để các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường xuất khẩu vào các nước EU. Tuy nhiên, theo Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển Nông nghiệp nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), các tiêu chuẩn của EVFTA và CPTPP khá nghiêm ngặt. Xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam có thể gặp nhiều thách thức ở các thị trường EU và CPTPP khi nhiều quốc gia trong hai hiệp định này là các nước phát triển, có hệ thống tiêu chuẩn trong nước ở mức rất cao. Điều này đòi hỏi, các hộ nông dân cần tuân thủ các quy định về thực hành sản xuất nông nghiệp sạch; tích cực tham gia tổ nhóm HTX, liên kết với doanh nghiệp nhằm chia sẻ kinh nghiệm canh tác bền vững và thông tin nhu cầu của thị trường.

Hỗ trợ thiết thực cho nông hộ

Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương) nhận định, về dài hạn, ngành hồ tiêu nước ta vẫn còn nhiều dư địa phát triển. Để giải quyết vấn đề mất cân đối cung cầu trong sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu, việc phát triển chuỗi cung ứng hồ tiêu bền vững, xây dựng nền tảng liên kết nâng cao chuỗi giá trị, chế biến, xuất khẩu hồ tiêu gắn với vùng nguyên liệu. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh sản xuất theo quy trình hữu cơ, tạo sản phẩm sạch mới đủ sức cạnh tranh với tiêu Brazil và Ấn Độ... nâng tỷ lệ tiêu trắng xuất khẩu đạt 30 - 40%, tiêu bột đạt 20% vào năm 2030; đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng thị trường yêu cầu chất lượng cao như: sản phẩm tiêu hữu cơ, tiêu đỏ, tiêu xay, nhựa hồ tiêu…

Trước thực trạng người dân trồng tiêu, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã làm việc với UBND tỉnh Gia Lai và Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Gia Lai - tỉnh có thiệt hại về hồ tiêu lớn nhất tại khu vực Tây Nguyên về các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho người trồng tiêu. Đến nay, các ngân hàng đã xem xét, áp dụng các biện pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các hộ dân trồng tiêu thông qua các biện pháp như: cơ cấu lại nợ 398,5 tỷ đồng; điều chỉnh giảm lãi suất 248,5 tỷ đồng; cho vay mới khôi phục sản xuất kinh doanh 1.032 tỷ đồng; khoanh nợ khoản vay tại ngân hàng chính sách xã hội đạt 122 triệu đồng.

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Gia Lai, trong sản xuất hồ tiêu, nông hộ chiếm 97,4% diện tích, 2,6% còn lại là doanh nghiệp. Các chính sách hỗ trợ cho các nông hộ hiện nay đang được lồng ghép vào các chương trình như: Chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh tại Nghị quyết số 97 ngày 6/12/2018 do HĐND tỉnh ban hành. Theo đó, có 3 nội dung hỗ trợ lớn gồm hỗ trợ chi phí tư vấn xây dựng liên kết; hạ tầng phục vụ liên kết; hỗ trợ khuyến nông đào tạo tập huấn, giống, vật tư, bao bì nhãn mác sản phẩm.

Một số giải pháp khác cũng đang được các tỉnh Tây Nguyên thực hiện nhằm hạn chế mức thấp nhất thiệt hại cho người trồng tiêu. Ông Trần Văn Văn - Phó Chi cục Phát triển nông thôn, Phó chánh văn phòng Nông thôn mới tỉnh Gia Lai - cho biết, hiện Sở nhận được thông tin về liên kết trong 3 cây trồng gồm: Hồ tiêu, mía và lúa. Riêng đối với hồ tiêu, các huyện đang hoàn thiện hồ sơ gửi lên Sở nên số liệu cụ thể chưa có.

Hiệp hội gia vị Mỹ, Đức, châu Âu đã đưa ra khuyến nghị: Trong xu hướng nguồn cung quá lớn, nếu Việt Nam chỉ hướng đến sản xuất hồ tiêu để ăn thì đó là một sự lãng phí. Hồ tiêu làm mỹ phẩm, nước hoa, làm nguyên liệu thứ cấp cho các ngành khác phải là con đường cần tính đến bởi nhu cầu này trên toàn cầu là rất lớn.

Nguyễn Hạnh

Kbang (Gia Lai): Nông dân ‘méo mặt’ vì vụ bí thất bát

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Hơn 110 ha bí đỏ của người dân xã Đông (huyện Kbang, Gia Lai) bị nhiễm bệnh khảm lá và phấn trắng khiến năng suất giảm mạnh, thậm chí mất trắng. Nhiều nông dân không khỏi xót xa khi rơi vào cảnh thất bát ngay trước thềm Tết Nguyên đán.

Tại ruộng bí của gia đình mình, bà Lê Thị Thu (thôn 2) đang cào dây bí thành đống lớn để chuẩn bị đốt. Bà Thu buồn bã cho hay: “Nhà tôi bỏ ra hơn 10 triệu đồng để làm đất, mua giống trồng 3 sào bí đỏ hồi giữa tháng 10-2019. Ban đầu, cây bí phát triển nhanh, đẻ nhiều cành nhánh. Gia đình đang phấn khởi nghĩ về một vụ mùa bội thu thì vườn bí bắt đầu khô quắt lá rồi chết dần. Hỏi ra mới biết, bí bị nhiễm bệnh khảm lá. Chúng tôi tìm mọi cách trị bệnh cho bí nhưng không được. Thành thử đến nay, gia đình chỉ thu được 4 tạ bí đỏ, trong khi vụ trước, vẫn diện tích này thu được gần 5 tấn. Tết nhất cận kề mà mất mùa, chúng tôi không biết xoay xở sao đây”.

Ruộng bí của bà Lê Thị Thu (thôn 2, xã Đông, huyện Kbang) giảm mạnh năng suất do bị nhiễm bệnh khảm lá. Ảnh: H.S

Ruộng bí đỏ rộng hơn 1 ha của gia đình bà Trần Thị Hà (thôn 4) không bị bệnh khảm nhưng lại nhiễm bệnh phấn trắng. Bên ruộng bí có hơn một nửa nhiễm bệnh, bà Hà bộc bạch: “Tôi trồng tháng 11 nên cây bí không nhiễm bệnh khảm lá. Cả nhà chưa hết mừng thì tá hỏa phát hiện vườn bí bị nhiễm bệnh phấn trắng. Gia đình đã nỗ lực trị bệnh cho cây nhưng hơn 70% diện tích vẫn nhiễm bệnh, phần còn lại không nhiễm nhưng quả bé. Vụ bí này coi như chúng tôi lỗ nặng vì đầu tư 15 triệu đồng tiền để làm đất, mua giống, chưa kể tiền công chăm sóc mà chỉ thu lại được khoảng 5 triệu đồng”.

Bí đỏ nhiễm bệnh khiến năng suất giảm mạnh, nhiều hộ dân không còn thiết tha với việc thu hoạch mà bỏ mặc vườn bí nằm phơi giữa mưa nắng. Điển hình như 1 gia đình bà Phêu (thôn 4) trồng 1 ha bí nhưng đến giờ vẫn bỏ mặc không thu hoạch dù có nhiều dây ra quả rất to. “Bí bị nhiễm cả bệnh khảm lá và phấn trắng nên hư gần hết. Còn một vài góc không nhiễm bệnh, cho quả to nhưng tính đi tính lại thì thu hoạch không đủ trả tiền công nên chúng tôi bỏ luôn. Để vài bữa nữa, gia đình ra cày đất trồng ớt”-bà Phêu nói.

Theo bà Trần Thị Mai-Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Kbang, nguyên nhân bí đỏ mất mùa là do thời tiết thay đổi thất thường đã tạo điều kiện cho mầm bệnh sinh sôi. “Hiện nay, có 2 loại bệnh gây hại cho cây bí đỏ tại huyện là khảm lá và phấn trắng. Đối với bệnh khảm lá, cây bí sẽ ngả sang màu vàng nhạt, lá nhăn nheo, phát triển chậm và sau đó chết dần. Còn bệnh phấn trắng xuất hiện ngay từ thời kỳ cây con, một lớp phấn trắng bao phủ trên mặt lá khiến lá chuyển sang màu vàng rồi khô dần. Cây bị bệnh này thì năng suất giảm mạnh hoặc không ra quả. Vì người dân điều trị không đúng cách nên 2 loại bệnh lây lan rộng. Hiện nay, riêng xã Đông đã có hơn 110 ha bí đỏ bị nhiễm bệnh khảm lá và phấn trắng; trong đó, có 60 ha bí không ra quả, 50 ha còn lại có quả nhưng sản lượng thấp”-bà Mai cho biết.

HOÀNH SƠN

Mô hình ngăn mặn, trữ ngọt trồng dừa hiệu quả

Nguồn tin:  Đồng Khởi

Mô hình ngăn mặn, trữ ngọt trồng dừa của ông Phạm Văn Bảy.

Với sự nhạy bén và năng động trong việc ứng phó hạn, mặn, thời gian qua, không ít nông dân ở huyện Bình Đại (tỉnh Bến Tre) đã chủ động xây dựng nhiều mô hình ngăn mặn, trữ ngọt, đảm bảo nhu cầu sản xuất và sinh hoạt, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Điển hình có hộ ông Phạm Văn Bảy, ở ấp Phú Mỹ, xã Phú Vang thành công với ý tưởng lắp đặt cống trữ ngọt cục bộ khép kín trong mương vườn dừa.

Ông Bảy cho biết: Sau đợt mặn xâm nhập sâu năm 2016, vườn dừa rộng 5ha, trên 25 năm tuổi của gia đình ông bị ảnh hưởng không nhỏ. Với ý nghĩ làm sao để vườn dừa phục hồi và không bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn, đầu năm 2017, ông quyết định làm mới và đào sâu các mương nhỏ bên trong vườn dừa cho thông nhau và xây dựng hệ thống cống 2 mặt kiên cố khép kín, kết hợp thả nuôi tôm càng xanh, cá các loại. Nhờ đó, đến nay, khu vực 5ha trồng dừa của ông Bảy luôn đảm bảo nước tưới quanh năm.

Bên cạnh đó, ông còn tích cực học hỏi và thực hiện quy trình canh tác dừa theo chuẩn hữu cơ, không dùng thuốc, phân bón hóa học, giúp đảm bảo môi trường, giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu. Quy trình canh tác vườn dừa hữu cơ theo ông Bảy khá đơn giản, chủ yếu tận dụng phân bò, phân dê đem ủ men vi sinh cho hoai rồi đem ra bón cho vườn dừa. Theo ông Bảy, một năm ông bón phân hữu cơ 3 lần, mỗi lần ông bón 6 tấn kết hợp với tưới nước và bồi gốc. Nhờ đó vườn dừa phát triển tốt, cho năng suất cao, trái to, ít rụng trái, bán được giá cao và ổn định, được Công ty TNHH Chế biến dừa Lương Quới bao tiêu hàng tháng. Bình quân mỗi tháng, ông Bảy thu được từ 4 - 5 ngàn trái, bán với giá 80 ngàn đồng/chục. Hiện tại, thu nhập bình quân mỗi năm của gia đình ông Bảy trên 300 triệu đồng.

Cần cù, chịu khó trong nghiên cứu đổi mới phương pháp sản xuất phù hợp với tình hình thực tế địa phương, ông Phạm Văn Bảy được công nhận là nông dân tiêu biểu trong phong trào thi đua nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi giai đoạn 2014 - 2019.

Chủ tịch Hội Nông dân xã Phú Vang Nguyễn Văn Chiến cho biết: Hiện nay, xã có 44 hộ canh tác dừa hữu cơ, trong đó có nhiều hộ thực hiện theo mô hình ngăn mặn trữ ngọt như ông Phạm Văn Bảy đạt hiệu quả cao. Sắp tới, Hội Nông dân xã sẽ nhân rộng mô hình của ông Bảy để người trồng dừa ở xã có thu nhập cao hơn.

Bài, ảnh: Thanh Hương

Sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và bền vững

Nguồn tin:  Cổng TTĐT tỉnh Kiên Giang

Năm 2020, tỉnh Kiên Giang đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp phát triển theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, nâng cao giá trị gia tăng, tăng sức cạnh tranh của nông sản, nhất là 2 sản phẩm chủ lực là lúa gạo và thủy sản.

Sản xuất lúa chất lượng cao vụ Đông Xuân 2019 – 2020.

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang, tỉnh phấn đấu năm 2020, sản lượng lúa đạt khoảng 4,3 triệu tấn; sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản 755.000 tấn, trong đó tôm nuôi 85.000 tấn; chăn nuôi đàn lợn 200.000 con…

Ông Đỗ Minh Nhựt, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang nhấn mạnh: “Tỉnh đẩy mạnh tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững, an toàn và hiệu quả. Sản xuất hàng hóa lớn theo nhu cầu của thị trường tiêu thụ và vùng quy hoạch, nâng cao giá trị gia tăng, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm nông sản. Qua đó, xây dựng vùng chuyên canh, trọng điểm sản xuất nông nghiệp hàng hóa và lộ trình thực hiện theo các ngành hàng chủ lực của tỉnh.”

Tỉnh thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững. Khuyến khích phát triển nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, liên kết theo chuỗi giá trị bảo đảm đầu ra cho nông sản, tăng thu nhập cho nông dân. Tỉnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với lợi thế, nhu cầu thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Chuyển đổi đất trồng lúa kém hiệu quả sang mô hình trồng cây màu, cây ăn quả, chú trọng một số cây trồng chủ lực như: Khóm (dứa), hồ tiêu, măng cụt…

Đối với trồng lúa, ngành chức năng tăng cường quản lý giống, tăng diện tích lúa chất lượng cao trong từng vụ mùa, chiếm 80% diện tích gieo trồng, xây dựng vùng lúa chuyên canh tập trung chất lượng cao, cánh đồng lớn theo hướng hợp tác, liên kết sản xuất gắn với bao tiêu sản phẩm. Áp dụng đồng bộ cơ giới hóa trong sản xuất, liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ và chế biến xuất khẩu lúa gạo.

Lĩnh vực chăn nuôi, tỉnh xây dựng và triển khai thực hiện đề án “Phát triển chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học, đảm bảo tính bền vững”, cơ cấu lại ngành chăn nuôi theo hướng tăng tỷ trọng, phát triển quy mô trang trại kết hợp với duy trì chăn nuôi nông hộ. Tỉnh tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp ngăn chặn, phòng chống dịch bệnh gây hại ngành chăn nuôi, nhất là ngăn chặn, dập tắt bệnh dịch tả lợn Châu Phi.

Tiếp đến, lĩnh vực đánh bắt hải sản trên biển, tỉnh giảm dần cường lực khai thác gắn với bảo vệ, tái tạo nguồn lợi thủy sản tự nhiên, thực hiện nghiêm quy định về đánh bắt và truy xuất nguồn gốc thủy sản, thực hiện đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả các khuyến nghị của Đoàn Thanh tra EC, hướng tới phát triển khai thác đánh bắt thủy sản bền vững trên ngư trường. Ông Quảng Trọng Thao, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang khẳng định: “Tỉnh tăng cường quản lý đóng mới, đăng ký, đăng kiểm tàu cá, xử lý nghiêm tàu cá không đăng ký, đăng kiểm. Đẩy mạnh phân cấp quản lý tàu cá cho huyện theo quy định, nâng cao hiệu quả khai thác đánh bắt, vận động ngư dân đổi mới, áp dụng công nghệ bảo quản sau thu hoạch để nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm khai thác. Tăng cường quản lý, tuần tra kiểm soát ngư trường, hướng dẫn, quản lý việc đánh bắt hải sản theo đúng quy định. Kịp thời ngăn chặn tàu thuyền ngư dân sang vùng biển nước ngoài khai thác hải sản trái phép.”

Đối với nuôi trồng thủy sản, tỉnh hoàn thành, triển khai thực hiện hiện đề án “Phát triển nuôi biển theo hướng bền vững trên địa bàn Kiên Giang đến năm 2030” và quy hoạch vùng biển của tỉnh. Đa dạng hóa mô hình, chủng loại thủy sản nuôi trồng, tập trung vào loại có lợi thế xuất khẩu, triển khai nhân rộng mô hình nuôi tôm công nghiệp 2 giai đoạn năng suất, chất lượng cao. Quản lý, kiểm soát chặt chẽ chất lượng con giống, thức ăn, thuốc thú y và kiểm soát dịch bệnh. Ngành chức năng tỉnh phối hợp với các địa phương sắp xếp, bố trí lại vị trí nuôi cá lồng bè, nuôi nhuyễn thể 2 mảnh vỏ trên biển hợp lý, phát triển mạnh nuôi ven biển, ven đảo và xa khơi. Tỉnh kêu gọi các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có tiềm lực mạnh về vốn, kinh nghiệm, công nghệ, khoa học kỹ thuật… đầu tư phát triển nuôi vùng biển xa.

Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Kiên Giang cho biết, tổng sản phẩm GRDP ngành nông nghiệp tỉnh năm 2019 đạt gần 22.150 tỷ đồng. Tổng diện tích gieo trồng lúa hơn 722.000 ha, sản lượng thu hoạch hơn 4,2 triệu tấn. Nông dân trồng lúa chất lượng cao chiếm 72% tổng diện tích gieo trồng, liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm trên 56 cánh đồng lớn, tổng diện tích hơn 33.250 ha ở các huyện Hòn Đất, Gò Quao, Tân Hiệp, Châu Thành... Nông dân đẩy mạnh thực hiện cơ giới hóa trong sản xuất, với khâu làm đất 97%, thu hoạch 98%, gieo cấy 40%, bơm điện 35%, sấy lúa 80%, chăm sóc 85%.

Tỉnh chuyển đổi diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả sang cây trồng khác 32.864 ha, mời gọi Công ty cổ phần nông nghiệp công nghệ cao Trung An, Công ty cổ phần nông trại sinh thái… đầu tư phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ nâng cao giá trị sản xuất theo chuỗi giá trị.

Cùng với đó, tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản 845.430 tấn, đạt 101,3% kế hoạch, tăng 3,67% so với năm 2018, trong đó tôm nuôi 82.726 tấn.

Tỉnh tập trung tuyên truyền, thanh tra, kiểm tra xử lý nghiêm các tàu cá có dấu hiệu vi phạm vùng biển nước ngoài khai thác hải sản trái phép, phân cấp quản lý tàu cá trên địa bàn, triển khai thực hiện dự án “Điều tra các nghề khai thác vùng biển ven bờ và vùng lộng biển Kiên Giang, đề xuất sắp xếp lại cơ cấu nghề khai thác vùng biển ven bờ và vùng lộng biển Kiên Giang”.

Nuôi trồng thủy sản, ngành chức năng tăng cường quản lý chất lượng con giống, vận chuyển giống tôm nhập vào tỉnh; triển khai xây dựng đề án “Phát triển nuôi biển theo định hướng bền vững trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đến năm 2030”. Tỉnh mời gọi Tập đoàn Minh Phú đầu tư nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao. Doanh nghiệp, nông dân chuyển từ nuôi tôm công nghiệp truyền thống sang nuôi tôm công nghiệp 2 giai đoạn, chiếm khoảng 70 - 80% diện tích nuôi tôm công nghiệp, năng suất 10 - 15 tấn/ha. Ngoài ra, nông dân nuôi xen kết hợp tôm sú, tôm thẻ, tôm càng xanh và cá đem lại hiệu quả cao; đầu tư nuôi tôm công nghiệp - bán công nghiệp vùng Tứ giác Long Xuyên, nuôi tôm - lúa vùng ven biển U Minh Thượng và Hòn Đất./.

Lê Huy Hải

Bắc Giang: Giá gà đồi Yên Thế tăng mạnh

Nguồn tin: Báo Bắc Giang

Theo Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Yên Thế (tỉnh Bắc Giang), thời điểm này việc tiêu thụ gà đồi trên địa bàn diễn ra khá thuận lợi. Tính đến ngày 13-1, giá gà lông (ri lai) là 80-81 nghìn đồng/kg, gà lai Hồ và gà mía lai giá từ 65-68 nghìn đồng/kg, tăng khoảng 5 nghìn đồng/kg so với một tuần trước.

Tiểu thương huyện Việt Yên đến thu mua gà tại xã Phồn Xương (Yên Thế).

Chị Dương Thị Hằng, xã Phồn Xương cho biết: “Hơn 2 nghìn con gà ri lai thả đồi của gia đình vừa xuất bán với giá 80 nghìn đồng/kg, trừ chi phí thu lãi hơn 40 triệu đồng/1 nghìn gà”.

Cùng với gia đình chị Hằng, nhiều hộ chăn nuôi gà trên địa bàn huyện cũng phấn khởi vì thời tiết thuận lợi, gà giảm nguy cơ dịch bệnh, bán được giá.

Theo ông Lương Văn Hiến, Phó trưởng Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện, năm nay toàn huyện chuẩn bị 2,5 triệu con gà phục vụ Tết Nguyên đán Canh Tý 2020. Đến thời điểm này, bà con đã tiêu thụ được hơn 1 triệu con gà các loại, trong đó chủ yếu là giống ri lai cho thị trường các tỉnh, TP như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh, Hà Nội,...

Hiện nay, UBND huyện tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, tiểu thương đến các hộ dân thu mua tiêu thụ gà trong những ngày cuối năm; đồng thời tuyên truyền, hướng dẫn người chăn nuôi chú trọng vệ sinh chuồng trại, phòng chống dịch bệnh, chăm sóc đàn gà, bảo đảm chất lượng đến khi xuất chuồng.

Hoàng Phương

Nông dân Sa Pa ‘căng mình’ chống rét cho trâu

Nguồn tin: Nhân Dâ

Tết đã đến rất gần nhưng người dân ở các xã vùng cao của thị xã Sa Pa (Lào Cai) như: Sa Pả, Trung Chải, Tả Phìn, Bản Khoang, Tả Giàng Phình vẫn “căng mình”chống rét cho trâu, bởi thời tiết giá rét khắc nghiệt ở Sa Pa và lại thêm đợt rét mới đang tràn về.

Người dân Sa Pa di chuyển trâu xuống vùng thấp tránh rét hại, bảo vệ đàn gia súc.

Chỉ còn gần hai tuần nữa là Tết Nguyên đán nhưng thời tiết ở Sa Pa vẫn rét đậm, rét hại, thường xuyên ở mức 10-12 độ C, những hôm có mưa, nhiệt độ xuống còn 7-9 độ C. Rét lạnh kéo dài, kèm theo sương muối làm tàn lụi cây cỏ, thiếu thức ăn tự nhiên, sức đề kháng kém làm trâu, bò chết hàng loạt, rất khó cứu vãn. Ngay cả khi nắng ấm lên, kết thúc đợt rét kéo dài thì trâu vẫn bị chết hàng loạt, rất khó cứu chữa do bị bệnh “cước chân”, tụ huyết trùng…

Để cứu đàn trâu là đầu cơ nghiệp, là “túi tiền” của mình, nhiều nông dân vùng cao Sa Pa chọn cách “sơ tán” trâu xuống vùng thấp tránh rét, cũng rất hiệu quả. Vì vậy, ở khu vực vùng thấp sát TP Lào Cai và huyện Bát Xát, như Cốc San, Toòng Sành và khu vực hạ huyện Sa Pa như: Nậm Cang, Thanh Phú, Nậm Sài… “mọc” lên rất nhiều lán trại tạm, là nơi bà con quây nhốt trâu và sinh hoạt thường ngày trong thời gian sơ tán trâu tránh rét.

Lui cui nhóm lửa chuẩn bị bữa tối, anh Má A Phó, dân tộc Dao, ở thôn Má Tra, xã Sa Pả (thị xã Sa Pa) cho biết, gia đình có năm con trâu, rét quá, cỏ tàn lụi hết, không có cái ăn, vợ chồng anh phải di chuyển đàn trâu xuống khu vực Toòng Sành, cách nhà hơn 20 km để tránh rét và kiếm cỏ cho trâu ăn. Hằng ngày, vợ anh là Thào Thị Sồng ở lại chăn trâu, còn anh đi xe máy về nhà ở Má Tra để chăm sóc mấy sào cây dược liệu Actiso và trông coi nhà cửa, tối đến lại “phi” xe máy xuống Toòng Sành để cùng vợ giữ đàn trâu ở nơi sơ tán. “Con trâu là sức kéo và tài sản lớn nên dù có vất vả nhưng bảo vệ được nó trong mùa rét khắc nghiệt ở vùng cao thì mình cũng cố gắng”- anh Phó bộc bạch.

Cạnh lán trại nhà anh Phó là “nhà tạm” của chị Giàng Thị Vư, dân tộc H’Mông, bằng cọc tre đóng xuống nền đất, mái lợp bằng ni-lông, vách quây bằng bạt dứa xanh đỏ, kín gió. Trong nhà tạm ấy có chiếc phản gỗ trải chiếu nằm và chăn, mùng cùng với nồi niêu, xoong chảo, bát đĩa… Chị Vư cũng ở xã Sa Pả, cùng anh Phó “lùa” trâu sơ tán xuống cách đây hơn một tháng. Gia đình chị có bốn con trâu, nhờ sơ tán xuống vùng thấp, thời tiết ấm áp và có nhiều thức ăn tự nhiên nên đàn trâu khỏe mạnh, phát triển tốt.

Chị Giàng Thị Vư chăm sóc đàn trâu của gia đình.

Mùa đông ở Sa Pa thường rất lạnh và kéo dài, vì thế Tết đã gần rồi, nhưng dọc hai bên quốc lộ 4D, ở khu vực xã Toòng Sành và Cốc San thuộc huyện Bát Xát và khu vực giáp ranh với TP Lào Cai xuất hiện rất nhiều lán tạm bằng cây rừng, lợp vải dứa ni-lông. Đó là chỗ ở tạm của đồng bào và nơi nhốt trâu sơ tán tránh rét. Cứ ba, bốn gia đình quây lại một khu để tiện cho việc chăn thả và bảo vệ gia súc, đông nhất là dân ở xã Trung Chải, huyện Sa Pa, kế đến là dân ở hai xã Sa Pả và Tả Phìn...

Chủ tịch UBND xã Trung Chải cho biết, toàn xã có gần 900 con trâu. Vụ rét năm 2008, do bị động nên bị chết rét gần hết. Được tỉnh và các tổ chức nhân đạo hỗ trợ gây dựng lại đàn trâu, ngay từ đầu mùa đông, xã vận động bà con tích cực thực hiện các biện pháp phòng, chống rét. Thị xã Sa Pa đã hỗ trợ kinh phí cho người dân sửa chữa, cải tạo và làm mới chuồng nuôi nhốt gia súc. Hầu hết các gia đình đều có chuồng trại, khoảng 1/2 số hộ đã sơ tán trâu xuống khu vực Toòng Sành, Cốc San, TP Lào Cai để tránh rét. Đến nay, toàn xã Trung Chải đã bảo đảm an toàn cho đàn gia súc qua các đợt rét đậm, rét hại, có lúc nhiệt độ xuống đến 3-4 độ C, kể từ đầu mùa đông đến nay.

Bà Trần Thị Lan Hương, Phó phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Sa Pa cho biết, đến nay đã có 1.000 con trâu được người dân di chuyển xuống vùng thấp để tránh rét, nhờ vậy đàn trâu được bảo vệ, chống rét tốt hơn. Nhìn đàn trâu hàng trăm con được sơ tán xuống vùng thấp ấm áp để tránh rét, ung dung gặm cỏ, con nào cũng khỏe, không xác xơ, rúm dó như ở trên núi cao rét buốt, rất mừng. Mong cho cái rét sớm qua đi, để cuộc sống của đồng bào vùng cao Sa Pa không bị xáo trộn, bình yên như thường ngày.

BÀI VÀ ẢNH: QUỐC HỒNG

An Giang: Chuẩn bị tái đàn hơn 30.000 con heo

Nguồn tin: Báo An Giang

Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y Trần Tiến Hiệp cho biết, qua rà soát, có 292 hộ chăn nuôi trên địa bàn tỉnh An Giang đăng ký tái đàn với số lượng 4.623 con heo (heo cái 752 con, heo đực 17 con, heo thịt 3.854 con).

Trong đó có 209 hộ chăn nuôi đã có dịch bệnh qua 30 ngày và 83 hộ chăn nuôi chưa có dịch; chuồng trại chăn nuôi đảm bảo an toàn sinh học 149 hộ, không đảm bảo 132 hộ. Đa số các hộ có nhu cầu tái đàn để chuẩn bị nguồn heo hơi cung ứng sau Tết Nguyên đán 2020. Riêng đối với các doanh nghiệp, trang trại, tổng số lượng heo tái đàn dự kiến 28.884 con heo. Trong đó, Trại chăn nuôi Vĩnh Khánh (Thoại Sơn) chuẩn bị nhập khoảng 200 con, Công ty An Khang 3.400 con, Công ty Hoàng Vĩnh Gia 6.000 con, Công ty Việt Thắng mở trại thứ 3 nuôi 15.000 con heo sinh sản…

Đến nay, toàn bộ các điểm bệnh dịch tả heo Châu Phi trên địa bàn tỉnh đã qua 30 ngày không phát sinh ổ dịch. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc tái đàn heo nhưng cần áp dụng biện pháp an toàn sinh học trong chăn nuôi.

N.C

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop