Tin nông nghiệp ngày 15 tháng 05 năm 2021

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 15 tháng 05 năm 2021

ĐBSCL: Giá phân bón tăng cao, nông dân gặp khó

Nguồn tin:  Báo Cần Thơ

Vụ lúa đông xuân ở ĐBSCL được mùa được giá, nhưng vụ hè thu giá phân bón tăng liên tục đến nay chưa hạ nhiệt, tiền lời từ vụ đông xuân nông dân phải dành dụm để “gánh” cho vụ hè thu, nhưng chưa biết năng suất, giá cả đầu ra như thế nào!

Hiện ĐBSCL đang vào vụ sản xuất lúa hè thu nên sử dụng lượng phân bón khá lớn. Ảnh chụp tại một cánh đồng ở huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long. Ảnh: LÊ VŨ

Hiện nay, nông dân ĐBSCL đang sản xuất vụ lúa hè thu 2021, một số nơi gieo sạ sớm lúa đã làm đồng và trổ bông. Nhờ giá lúa đông xuân ở mức cao nên nhiều nông dân tranh thủ bán lấy tiền mua phân bón dự trữ trước để tránh bị tăng giá khi vào vụ rộ.

Trong khi đó, các doanh nghiệp đầu mối kinh doanh phân bón đang tăng cường nhập hàng phục vụ cho vụ lúa hè thu. Vì vậy, thị trường phân bón ở khu vực ĐBSCL đã nóng ngay từ đầu vụ. Tại vùng Tứ giác Long Xuyên, tỉnh An Giang nông dân đã vào vụ hè thu cả tháng nay. Nhiều tháng qua, giá phân có những biến động tăng cao từ các đại lý khiến nông dân kém vui.

Anh Ngô Văn Định ở xã Cần Đăng, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang làm 3ha lúa, cho biết: Sau khi thu hoạch xong vụ đông xuân tiếp tục xuống giống vụ hè thu. Hiện nay, lúa trên đồng đã được 30 ngày tuổi, đến lúc cần bón phân nhiều thì giá phân bón cứ tăng cao. Cụ thể như phân DAP, Urê tăng 30% so với trước đó, các loại phân khác giá cũng tăng từ 1.000-1.500 đồng/kg.

Tuy giá phân tăng nhưng anh Định cũng phải chấp nhận mua số lượng lớn để bón cho lúa. “May mắn là vụ lúa đông xuân vừa qua lúa trúng mùa, được giá nên nông dân còn có chút tiền đầu tư cho vụ lúa hè thu này. Chưa biết giá lúa vụ hè thu này như thế nào nhưng giá phân tăng cao chắc chắn sẽ làm giảm lợi nhuận” - anh Định nói.

Ông Lương Văn Hận ở xã Đông Hiệp, huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ, bộc bạch: Tới đại lý nghe thông báo giá phân bón tăng cả trăm ngàn đồng một bao so với năm rồi. Nói thiệt làm nông nghiệp ngán nhất là gặp tình trạng giá phân tăng cao và kéo dài như năm nay.

Tại Vĩnh Long, ông Dương Văn Thành, ấp Tân Tiến, xã Mỹ Lộc, huyện Tam Bình, cho biết: Gia đình làm 16 công lúa hè thu đến nay đã được 45 ngày tuổi và vừa mới bón phân đợt cuối. Dù áp dụng lượng giống không cao, 12 kg/công nhưng do vụ hè thu nặng phân bón nên phải sử dụng gần 50kg/công.

Ông Thành nói: Vụ hè thu này chi phí cái gì cũng tăng. Tính trên mỗi công, chi phí phân bón tăng gần 200.000 đồng, công xịt thuốc tăng 5.000 đồng/bình, công giặm lúa tăng 40.000 đồng/ngày… Chưa biết công cắt, công chuyên chở lúa có tăng hay không. Vụ này, thời tiết thất thường nên thấp thỏm quá. Nếu giá lúa dưới 100.000 đồng/giạ chắc không có lời.

Theo khảo sát tại các cửa hàng, doanh nghiệp kinh doanh phân bón trên địa bàn TP Cần Thơ, hiện giá các loại phân bón đều tăng bình quân từ 50.000-100.000 đồng/bao so với vụ lúa trước. Ông Trương Công Điệu, chủ đại lý kinh doanh vật tư nông nghiệp Tám Điệu, ở xã Tân Thạnh, huyện Thới Lai, TP Cần Thơ, cho biết: chưa bao giờ giá phân bón lại tăng cao như năm nay. Đặc biệt là các loại phân NPK, DAP, Urê, Kali.

Cụ thể, Urê Cà Mau giá 525.000 đồng/bao, Urê Phú Mỹ 520.000 đồng/bao, DAP 64 Hồng Hà 780.000 đồng/bao, Kali Canada 430.000 đồng/bao, NPK 20-20-15 (loại 3 màu cao cấp) giá 650.000 đồng/bao, NPK 16-16-8 Việt - Nhật (loại 3 màu cao cấp) 550.000 đồng/bao, NPK 16-16-8 của Cà Mau 510.000-545.000 đồng/bao.

Tại Đồng Tháp, anh Lê Văn Lập, chủ đại lý phân bón ở xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười, cho biết: Từ đầu năm đến nay các loại phân bón đều tăng giá, trong khi các mặt hàng nông sản (ngoài lúa gạo ra) thì tiêu thụ khó khăn nên sức mua phân bón của nông dân chậm hơn trước đây. Thậm chí, đại lý phải bán nợ cho nông dân trong nhiều tháng. Đặc biệt, nguồn phân như DAP, Urê từ phía doanh nghiệp cung ứng về đại lý chậm. Phân bón tăng giá kéo dài gây thiệt thòi cho nông dân trong vụ hè thu này.

Anh Nguyễn Nhi Phương, chủ cửa hàng vật tư nông nghiệp Phương Xuyên, ở xã Mỹ Phước, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long, cho biết: Tình hình phân bón tăng như thế này, không những gây khó cho nông dân mà cũng gây khó cho chúng tôi. Người dân thấy phân bón giá cả thay đổi liên tục thì sợ mình bán mắc nên so sánh ở các nơi rồi mới mua. Trước nông dân mua nhiều, giờ phân bón lên giá kêu hàng ít lại, chia ra nhiều lần đi giao tốn thêm chí phí. Bên cạnh đó, giá phân bón tăng như vậy cũng cần nhiều vốn để dự trữ mới giữ khách hàng được.

Theo kết quả điều tra của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (BVTV) tỉnh Vĩnh Long, giá thành sản xuất lúa đông xuân 2020-2021 là 3.551,9 đồng/kg. Ước tính chi phí đầu tư sản xuất trên 3 trà lúa (trà sớm, trà chính vụ và trà muộn), mức chi phí đầu tư vật chất vào sản xuất chiếm tỷ lệ rất cao 66,39% trong tổng chi phí. Trong đó, chi phí phân bón 23,46% và thuốc BVTV 16,08 % chiếm tỷ lệ cao nhất so với các khoản đầu tư vật chất khác.

Việc giá phân bón tăng từ 10-20% sẽ đẩy phần chi phí phân bón trong giá thành sản xuất tăng từ 2-5% nếu tỷ trọng chi phí phân bón trong giá thành sản xuất chiếm khoảng 25% như vụ đông xuân vừa qua.

Tuy nhiên, theo kinh nghiệm sản xuất của nông dân vụ lúa hè thu do thời thời tiết thất thường nên năng suất lúa thường thấp hơn vụ đông xuân. Bên cạnh đó, vụ hè thu chi phí phân bón sẽ nặng hơn vụ đông xuân và áp lực sâu rầy cũng nặng nề hơn.

Do đó, ngành chức năng khuyến cáo nông dân cần tiết giảm chi phí sản xuất bằng cách áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật như “3 giảm 3 tăng”, “1 phải 5 giảm”, trong đó khâu quan trọng nhất là giảm giống gieo sạ để giảm phân bón, giảm áp lực sâu bệnh gây hại…

LÊ VŨ - NGUYỄN MINH

Tìm hướng đi mới để trái xoài An Giang vươn xa

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

An Giang là tỉnh có diện tích xoài khá lớn đứng thứ 2 ở ÐBSCL với gần 10.000ha, chỉ đứng sau tỉnh Ðồng Tháp. Hiện xoài đang vào mùa thu hoạch rộ nên giá các loại xoài keo, xoài ba màu, xoài cát Hòa Lộc… trên địa bàn tỉnh có giảm nhẹ so với cùng kỳ những năm trước. Các vùng trồng xoài trong tỉnh đang hướng đến tiêu chuẩn chất lượng, liên kết đầu ra để ổn định lâu dài.

Phát triển ngành hàng xoài xuất khẩu trong mô hình tái cơ cấu nông nghiệp là hướng đi mới của ngành Nông nghiệp tỉnh An Giang. Trong ảnh: Thu hoạch xoài ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Hiện nay, hơn 60% nhà vườn trồng xoài áp dụng kỹ thuật bao trái, giúp trái xoài nâng cao chất lượng. Ông Trần Phước Ðường, ở ấp Tân Phước, xã Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới, cho biết: Gia đình tôi có 10 công xoài cát Hòa Lộc, thay vì trước đây trồng theo truyền thống chỉ cho thu nhập 160-170 triệu đồng/năm. Hai năm nay gia đình áp dụng trồng xoài theo kỹ thuật mới có bao trái giúp tăng năng suất và bán được giá cao hơn, thu nhập từ 210-220 triệu đồng/năm.

Là một trong những đại lý chuyên thu mua xoài keo lớn nhất vùng biên giới huyện An Phú, Hợp tác xã (HTX) Long Bình không mua xoài nhập từ Campuchia mà tập trung liên kết tiêu thụ với nông dân trồng xoài keo ở các xã Khánh Bình, Khánh An và thị trấn Long Bình. Ông Huỳnh Thanh Minh, Giám đốc HTX Long Bình, cho biết: HTX vừa mua vào 10 tấn xoài keo để giao cho các doanh nghiệp đặt hàng tiêu thụ nội địa và xuất khẩu qua các nước đòi hỏi chất lượng cao như Hàn Quốc, Úc, Nhật… HTX thành lập từ năm 2017 nhưng đến nay HTX Long Bình đã thu hút được 25 xã viên tham gia, diện tích liên kết trồng xoài keo trên địa bàn huyện An Phú khoảng 90ha. Các nông dân tham gia liên kết với HTX đều tuân thủ tốt quy trình canh tác an toàn, đảm bảo trái xoài không nhiễm dư lượng thuốc bảo vệ thực vật và hoạt chất cấm.

Ông Nguyễn Sĩ Lâm, Giám đốc Sở Nông nhiệp và Phát triển nông thôn tỉnh An Giang, cho biết: Ðối với các vùng đất sản xuất lúa kém hiệu quả, tỉnh chủ trương chuyển đổi sang rau màu, cây ăn trái. Ðến nay, diện tích cây ăn trái của tỉnh đạt hơn 13.000ha, chủ yếu là xoài, chuối, bưởi, cam, quýt… Trên thực tế, nông dân canh tác xoài đạt lợi nhuận cao hơn nhiều mô hình khác. Ðối với những vùng chuyên canh xoài như cù lao Giêng ở huyện Chợ Mới, tỉnh hỗ trợ hạ tầng, hệ thống thủy lợi, hướng nông dân trồng xoài theo tiêu chuẩn VietGAP, hỗ trợ nông dân đạt chứng nhận chất lượng để xuất khẩu sang các thị trường cao cấp như Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Mỹ… Ðồng thời, tạo điều kiện cho doanh nghiệp xây dựng nhà máy chế biến, liên kết tiêu thụ xoài theo hướng bền vững, hạn chế rủi ro khi lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc.

Cách đây không lâu UBND tỉnh An Giang lần đầu tiên công bố xuất khẩu lô xoài sang Hoa Kỳ thông qua Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Trái cây Chánh Thu (Bến Tre). Ðể trái xoài An Giang xuất khẩu ổn định qua thị trường Mỹ và chinh phục các thị trường khó tính khác trong tương lai. Vùng nguyên liệu trồng xoài lớn như các huyện: Chợ Mới, Tri Tôn và Tịnh Biên đã ký biên bản ghi nhớ hợp tác với Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Trái cây Chánh Thu về việc phối hợp sản xuất và xuất khẩu xoài tại 3 huyện nói trên.

Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Trái cây Chánh Thu cũng đã thống nhất hợp tác với huyện Tri Tôn và Tịnh Biên về xây dựng vùng nguyên liệu xoài, đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật canh tác, đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu sang các thị trường khó tính, nhất là thị trường Mỹ.

Theo ông Lâm, để phát triển thương hiệu xoài An Giang xuất khẩu, thời gian tới ngành Nông nghiệp sẽ đẩy nhanh tiến độ cấp mã số vùng trồng xoài (mã code) tại những nơi chưa có mã code như Hội làm vườn An Sơn Bảy Núi, HTX Xoài VietGAP Bến Bà Chi và các vùng cần cấp tại các huyện: Chợ Mới, An Phú, Tri Tôn, Tịnh Biên, thị xã Tân Châu và TP Long Xuyên. Hiện vùng xoài tại An Giang đã được cấp mã code đạt tiêu chuẩn xuất khẩu là trên 20 mã, với tổng diện tích gần 300ha.

Năm 2020, diện tích xoài trong toàn tỉnh An Giang gần 9.700ha, trong đó có khoảng 7.700ha xoài 3 màu (xoài Ðài Loan). Hiện nay có khoảng 7.000ha xoài đang cho trái với sản lượng khoảng 95.000 tấn/năm, trong đó vụ chính chiếm 70-80% sản lượng, vụ muộn chiếm 20-30% sản lượng. Diện tích xoài sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP trên 200ha, sản lượng khoảng 1.900 tấn/năm. Tuy nhiên, thời gian qua việc tiêu thụ xoài phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường nội địa và Trung Quốc. Gần đây xoài An Giang có thêm thị trường Hàn Quốc, Mỹ nhưng số lượng không đáng kể.

An Giang đang tập trung đẩy mạnh thực hiện Ðề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp của tỉnh, nhằm chuyển đổi sản xuất, thích nghi với điều kiện thực tế, khắc phục khó khăn, thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp. Giai đoạn 2017-2020, toàn tỉnh đã chuyển đổi được hơn 31.130ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng rau màu, cây ăn trái. Các mô hình chuyển đổi đã mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều lần so với trước đây, trong đó, mô hình trồng xoài có thể đạt lợi nhuận từ 500-600 triệu đồng/ha sau 3 năm đầu tư...

Bài, ảnh: LÊ VŨ

Trồng thanh long theo ngưỡng an toàn

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang

Trong các năm qua, cụ thể hóa việc thực hiện mục tiêu tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp, thích ứng biến đổi khí hậu, huyện Chợ Gạo đã xây dựng được vùng chuyên canh thanh long xuất khẩu 7.415 ha, lớn nhất tỉnh Tiền Giang, hàng năm đạt sản lượng 188.000 tấn trái cung ứng thị trường.

Đáng chú ý, để nâng cao chất lượng nông sản hàng hóa, khẳng định thương hiệu thanh long Chợ Gạo, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và xuất khẩu, huyện tăng cường công tác chuyển giao khoa học - kỹ thuật nông nghiệp, khuyến khích bà con trồng thanh long theo ngưỡng an toàn VietGAP, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, bảo vệ môi sinh môi trường.

Huyện tranh thủ sự hỗ trợ của cán bộ kỹ thuật nông nghiệp, các cấp, các ngành hữu quan…, trung bình mỗi năm tổ chức hàng trăm lớp chuyển giao về thực hành nông nghiệp tốt (VietGAP) cho hàng chục ngàn lượt nông dân, giúp bà con nắm vững kỹ thuật canh tác và ứng dụng tốt, hiệu quả vào quá trình sản xuất. Từ đó, thay đổi tư duy, nâng cao trình độ canh tác, gắn kết thị trường, nâng cao hiệu quả kinh tế từ cây trồng đặc sản mà dựng nên cơ nghiệp vững bền. Riêng trong năm 2020, địa phương đã thực hiện chứng nhận đạt chuẩn VietGAP và truy xuất nguồn gốc cho 1.118 ha thanh long tại 14 xã vùng trọng điểm về chuyên canh thanh long trong huyện. Nâng đến nay, huyện có 2.184 ha thanh long đạt chứng nhận VietGAP, vượt 9,2% so chỉ tiêu đề ra đến năm 2020 và đạt 29,5% tổng diện tích vùng trồng.

Từ thành quả đạt được, trong năm 2021, huyện Chợ Gạo tiếp tục thực hiện những biện pháp tích cực phát triển, nâng chất vùng chuyên canh, tạo thêm những nông sản hàng hóa chất lượng, an toàn, truy xuất nguồn gốc đáp ứng nhu cầu thị trưởng. Một mặt, tăng cường công tác chuyển giao khoa học - công nghệ, hướng dẫn thực hành nông nghiệp tốt VietGAP trên cây trồng đặc sản, một mặt phát triển kinh tế hợp tác, hình thành các tổ hợp tác, hợp tác xã chuyên canh thanh long. Đồng thời, huyện cũng hỗ trợ các xã vùng trọng điểm triển khai các đề án liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm.

Trong năm 2021, huyện sẽ tổ chức 60 lớp tập huấn sản xuất theo tiêu chí VietGAP, thu hút khoảng 1.800 nông dân vùng chuyên canh. Đồng thời, địa phương phấn đấu mở rộng diện tích vùng chuyên canh thanh long lên 7.500 ha, trong đó có thêm 500 ha đạt chứng nhận VietGAP, nâng tổng diện tích thanh long đạt chứng nhận VietGAP trên địa bàn huyện lên 2.684 ha vào cuối năm 2021.

Mộng Tuyết

Tam Điệp (Ninh Bình): Dứa được mùa, được giá, nông dân lãi đậm

Nguồn tin: Báo Ninh Bình

Dứa được mùa lại đang được các nhà máy chế biến, thương lái thu mua với giá cao khiến người trồng dứa Tam Điệp (tỉnh Ninh Bình) vô cùng phấn khởi.

Nông dân Tam Điệp thu hoạch dứa.

Có mặt tại vùng nguyên liệu dứa của Công ty cổ phần Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (thành phố Tam Điệp) những ngày đầu tháng 5, từ tờ mờ sáng, các xe tải thu mua đã tập trung dọc các con đường lớn nhỏ đi đến các đồi dứa. Rất đông lao động trong vùng và các vùng lân cận được thuê đến thu hoạch dứa. Mỗi đội chừng 20-30 người, phân công ra người chuyên bẻ quả, xoáy hoa, người chuyên vác dứa, người cân, đưa lên xe.

Mặc dù công việc vất vả, thời tiết thì nắng nóng nhưng từ chủ dứa, thương lái đến người làm thuê đều hết sức vui vẻ, minh chứng cho một vụ dứa bội thu.

Tất bật cùng nhân công thu hoạch dứa, ông Nguyễn Văn Khởi, đội Ghềnh, Công ty cổ phần Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao phấn khởi cho biết: Chưa năm nào dứa được giá như năm nay. Thông thường như mọi năm, dứa chỉ được giá trong 15-20 ngày đầu vụ, còn vào giữa vụ giá sẽ giảm.

Nhưng năm nay từ đầu năm đến giờ, giá dứa liên tục giữ ở mức cao, trung bình từ 7-8 nghìn đồng/kg, cá biệt có lúc lên tới 12-14 nghìn đồng/kg. Thời điểm hiện tại, vào chính vụ rồi mà giá vẫn ổn định. Gia đình tôi đợt này có 2 vạn gốc dứa đến kỳ thu hoạch, dứa còn xanh mà thương lái đã tìm đến đặt mua. Nhìn chung vụ này, dứa của gia đình tôi cũng như các gia đình quanh đây đều cho năng suất cao, quả to, đều, chín tự nhiên và rất ngọt, do đó đặc biệt hút khách.

Các nhân công thu hoạch dứa cho gia đình anh Khởi chia sẻ: Năm nay, dứa được mùa, được giá nên không chỉ ông chủ vui mà người lao động chúng tôi cũng phấn khởi. Ngày nào cũng có người thuê đi làm, đều đều mỗi buổi được trả công 200-300 nghìn đồng.

Ông Nguyễn Văn Trung, thôn Bãi Sải (xã Quang Sơn) trồng gần 3 ha dứa cả mới lẫn cũ. So mặt bằng vài năm gần đây, năm nay dứa quả bán được giá nên gia đình ông Trung rất phấn khởi. Vừa đôn đốc nhân công khẩn trương vận chuyển dứa lên xe để các thương lái đưa đi tiêu thụ trong ngày, đảm bảo độ tươi, ngon, ông Trung vừa tranh thủ trò chuyện: Với giá cả như hiện nay, 1 ha dứa, năng suất đạt 40-50 tấn, bà con chúng tôi có thể thu lãi tới 200-250 triệu đồng.

Đó là chưa tính nguồn lợi nhuận từ bán cây giống cũng rất đáng kể. Hy vọng, dịch bệnh COVID-19 được khống chế tốt, để không ảnh hưởng đến việc tiêu thụ nông sản của bà con.

Thành phố Tam Điệp có khoảng 3.000 ha dứa với tổng sản lượng quả hàng năm đạt khoảng 55 nghìn tấn, đứng đầu miền Bắc. Dứa ở đây có trọng lượng quả lớn, mắt to, đều, đẹp, ruột màu vàng cam nhạt, mùi thơm, vị ngọt đậm, không xơ. Sự thơm ngon nức tiếng của loại quả này được tạo thành từ điều kiện tự nhiên độc đáo ở Tam Điệp là vùng đất bán sơn địa, thành phần đất có hàm lượng sét cao, tầng mặt tơi xốp, biên độ nhiệt độ ngày đêm lớn, lượng bức xạ cao và những kinh nghiệm, bí quyết canh tác của người dân.

Quả dứa Tam Điệp có mặt trong sách Top 50 trái cây đặc sản nổi tiếng nhất Việt Nam và đã được Cục Sở hữu trí tuệ bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Dứa ở đây phần lớn được Công ty cổ phần Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao thu mua, chế biến và xuất khẩu đi nước ngoài. Bên cạnh đó, một lượng nhỏ vẫn được các tư thương từ các tỉnh Thái Bình, Hà Nội, Nghệ An… về mua để bán ở các chợ dân sinh, phục vụ nhu cầu của người dân.

Anh Nguyễn Đức An, thương lái chuyên mua dứa đến từ Chợ đầu mối phía Nam Hà Nội cho biết: Năm nay các nhà máy ở ngoài Bắc và trong Nam tiêu thụ dứa mạnh nên nhu cầu dứa nguyên liệu cần nhiều. Ngoài ra, thời điểm này dứa rất ngon, trong khi các loại hoa quả khác cũng ít nên dứa được giá.

Đặc biệt, dứa Tam Điệp ăn có vị thơm, ngon, ngọt hơn so với các vùng khác nên rất được người tiêu dùng ưa chuộng. Hiện tôi đang thu mua 8 nghìn đồng/kg dứa quả tại vườn, cao gấp đôi, gấp ba so với mọi năm nhưng dứa về đến đâu là hết đến đó.

Bài, ảnh: Hà Phương

Rau an toàn vẫn khó khăn về đầu ra

Nguồn tin: Báo Long An

Khi những bất cập về an toàn, vệ sinh thực phẩm ngày càng báo động thì những sản phẩm có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng như rau an toàn luôn được người tiêu dùng quan tâm sử dụng. Tuy nhiên, hiện nay, việc sản xuất rau an toàn trên địa bàn tỉnh Long An gặp nhiều khó khăn, nhất là vấn đề đầu ra.

Hiện nay, chỉ có khoảng 20% rau an toàn được bao tiêu

Trước thực trạng sản xuất nông nghiệp truyền thống gặp nhiều rủi ro do biến đổi khí hậu, tiềm ẩn nguy cơ mất vệ sinh, an toàn thực phẩm, Hợp tác xã (HTX) Rau an toàn Phước Hòa (xã Phước Vân, huyện Cần Đước) đã khuyến khích, hỗ trợ người dân phát triển được 15ha rau an toàn, trong đó có 13ha được chứng nhận tiêu chuẩn VietGAP. Tuy nhiên, theo Giám đốc HTX Rau an toàn Phước Hòa - Kiều Anh Dũng, mặc dù là rau an toàn nhưng hiện nay, HTX vẫn phải tự tìm đầu ra cho sản phẩm hoặc chờ thương lái đến thu mua vì chưa có thị trường tiêu thụ ổn định.

Ông Dũng cho biết: “Tuy đã liên kết với một số doanh nghiệp (DN) để tiêu thụ rau an toàn nhưng sau một thời gian, liên kết này không được duy trì do các DN thường có nhu cầu tiêu thụ với số lượng lớn, sản phẩm đa dạng nhưng lại không thông báo khiến người dân bị động trong sản xuất nên không đáp ứng được nhu cầu của DN. Bên cạnh đó, nhiều nông dân chưa quen với việc sản xuất theo hợp đồng, chưa tuân thủ quy trình, tiêu chuẩn, quy chuẩn sản xuất hàng hóa, chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt mà chưa thấy được lợi ích lâu dài”.

Tìm hiểu tại các hộ dân, chị Trần Thị Kim Nga - thành viên HTX Rau an toàn Phước Hòa, cho biết: “Khi sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP, gia đình tôi phải tuân thủ chặt chẽ quy trình kỹ thuật, bảo đảm thời gian cách ly khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật; tuy nhiên, mẫu mã không bắt mắt, khi mang đi tiêu thụ thường bị đánh đồng với rau khác. Chính vì vậy dẫn đến tình trạng bị mất giá, trong khi đầu tư cho sản xuất rau an toàn cao hơn rau thường khoảng 1,5 lần”.

Theo đánh giá chung, khó khăn nhất của người trồng rau hiện nay là thị trường tiêu thụ rau an toàn chưa ổn định, khả năng cạnh tranh của sản phẩm còn thấp. Theo thống kê, chỉ có khoảng 20% sản lượng rau an toàn được các DN, siêu thị hợp đồng thu mua, số còn lại được bán cho các chủ vựa, tiểu thương chợ đầu mối đưa đi tiêu thụ trong và ngoài tỉnh hoặc nông dân tự tiêu thụ. Số lượng HTX sản xuất rau, đặc biệt là số cơ sở được cấp chứng nhận VietGAP còn quá ít so với diện tích sản xuất rau hiện có. Bên cạnh đó, tỉnh chưa có quy hoạch và hình thành mạng lưới vận chuyển, xử lý, phân loại, đóng gói, tiêu thụ và tiếp thị mở rộng thị trường. Việc tiếp cận chính sách, nguồn vốn ưu đãi để đầu tư mở rộng sản xuất của các HTX còn nhiều khó khăn.

Là địa phương có diện tích rau lớn nhất tỉnh nhưng huyện Cần Giuộc đang gặp nhiều vướng mắc trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Hiện huyện có khoảng 1.200ha rau, trong đó có khoảng 200ha rau an toàn nhưng chỉ khoảng 20% rau an toàn được bao tiêu, có đầu ra ổn định, số còn lại vẫn phải bán cho các thương lái như các loại rau thông thường khác. Việc không có đầu ra khiến nông dân không còn mặn mà với sản xuất rau sạch, dẫn đến khó khăn trong quá trình phát triển diện tích rau an toàn.

Ông Nguyễn Tấn Cường - thành viên HTX Phước Thịnh (xã Phước Hậu, huyện Cần Giuộc), chia sẻ: “Với 2.000m2 đất, gia đình chủ yếu trồng các loại rau ăn lá như cải, quế, húng cây,… theo hướng an toàn nhưng khi bán cũng bằng với giá rau thường, thậm chí khó bán hơn do rau không được bắt mắt. Vấn đề đầu ra đang khiến cho nông dân gặp khó. Hiện nhiều nông dân muốn chuyển đổi sản xuất nhưng lo không có đầu ra nên cũng ngại đầu tư”.

Việc rau an toàn trở nên “yếu thế” hơn so với các loại rau thường một phần do khâu quản lý an toàn, vệ sinh thực phẩm ở các chợ thiếu chặt chẽ, khiến người tiêu dùng không thể phân biệt được đâu là rau an toàn, đâu là rau thường. Công tác tuyên truyền về các thực phẩm an toàn đến với người tiêu dùng chưa được chú trọng đúng mức. Mặc dù muốn lựa chọn, sử dụng sản phẩm rau an toàn nhưng chính người tiêu dùng cũng chưa trang bị kiến thức cho bản thân làm thế nào nhận diện được rau an toàn và rau không an toàn. Người tiêu dùng vẫn còn tâm lý muốn mua rau đẹp, xanh mướt, giá rẻ nên dễ bị nhầm lẫn.

Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cần Giuộc - Ngô Bảo Quốc cho biết: “Để tháo gỡ bài toán đầu ra cho rau an toàn, rất cần sự nỗ lực từ nhiều phía, đặc biệt là sự hỗ trợ của các cấp, các ngành trong việc tìm kiếm DN tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. Thời gian tới, ngành Nông nghiệp huyện tiếp tục khuyến khích các DN đầu tư vào sản xuất nông nghiệp nhằm liên kết với nông dân sản xuất rau an toàn; đồng thời, phối hợp các ngành chức năng tổ chức các lớp tập huấn, đẩy mạnh xây dựng, quảng bá thương hiệu rau an toàn của huyện để đáp ứng nhu cầu và tạo niềm tin đối với người tiêu dùng. Bên cạnh đó, ngành Nông nghiệp huyện sẽ tích cực phối hợp chặt chẽ các cơ quan chức năng để tiến hành kiểm định chất lượng sản phẩm thường xuyên, tạo niềm tin cho người tiêu dùng”./.

Bùi Tùng

Sản xuất giống cây lâm nghiệp không dùng túi bầu ny lông: Thân thiện với môi trường, tăng hiệu quả

Nguồn tin: Báo Bình Định

Sản xuất giống cây lâm nghiệp không dùng túi bầu ny lông giúp giảm chi phí vận chuyển, chi phí trồng rừng, hạn chế ô nhiễm môi trường, nâng cao hiệu quả kinh tế trồng rừng.

DNTN Dịch vụ cây trồng Nguyên Hạnh (xã Phước Thành, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định) là DN đầu tiên trong tỉnh sản xuất giống cây lâm nghiệp theo phương pháp nuôi cấy mô từ năm 2005, mỗi năm cung ứng ra thị trường cả nước khoảng 10 triệu cây cấy mô. Từ năm 2013, DN áp dụng phương pháp sản xuất cây giống keo lai giâm hom không sử dụng túi bầu ny lông.

Cây giống lâm nghiệp ươm trong giá thể đựng trong khay nhựa, khay xốp, không sử dụng túi bầu ny lông tại Công ty TNHH Hoa Đôn.

Bà Phan Thị Hạnh, Giám đốc DNTN Dịch vụ cây trồng Nguyên Hạnh, cho biết: Chúng tôi đã ứng dụng công nghệ tự động hóa từ khâu xử lý giá thể, ép nén giá thể, bón phân, tưới nước, vận chuyển cây giống… trong sản xuất giống keo lai giâm hom không sử dụng túi bầu ny lông. Cái lợi lớn nhất khi trồng rừng bằng cây giống không sử dụng túi bầu là giảm chi phí vận chuyển từ 4 - 5 lần, góp phần giảm tác hại môi trường. Ví dụ, 50 cây giống đựng trong túi bầu có trọng lượng 8 kg, nhưng cũng từng ấy số cây không đựng trong túi bầu thì trọng lượng chỉ còn… 1,5 kg.

Vài năm trở lại đây, Công ty TNHH Hoa Đôn (xã Canh Vinh, huyện Vân Canh) cũng không còn sử dụng túi bầu ny lông trong sản xuất cây giống lâm nghiệp. Cây giống được cấy trong giá thể là hỗn hợp đất trộn phân, xơ dừa có đủ thành phần dinh dưỡng để cây sinh trưởng tốt, được chứa trong các khay nhựa hoặc xốp đã được tạo thành khối bầu để ươm cây. Giám đốc Công ty, ông Đào Duy Đôn, chia sẻ: “Chúng tôi quyết định chuyển hướng sang sản xuất cây giống lâm nghiệp không sử dụng túi bầu ny lông để góp phần bảo vệ môi trường. Mỗi năm, đơn vị sản xuất hơn 10 triệu cây giống các loại. Cây giống ươm trong các khối bầu trên khay nhựa, xốp có bộ rễ chắc chắn với độ kết dính cao, đảm bảo bộ rễ cây không bị vỡ khi xuất vườn, vận chuyển và trồng rừng. Mỗi khay nhựa, khay xốp ươm cây được tái sử dụng trong 5 - 6 năm, tính ra DN lợi về kinh tế rất nhiều”.

Ông Nguyễn Văn Tựu (xã Canh Vinh, huyện Vân Canh) có hơn 30 ha rừng keo lai; mỗi héc ta rừng sau khai thác, ông trồng lại với mật độ từ 2.000 - 3.000 cây keo giống giâm hom không có túi bầu ny lông mua tại Công ty TNHH Hoa Đôn. “Ban đầu được giới thiệu mua keo giống không sử dụng túi bầu ny lông về trồng, đúng là hơi ngần ngại, cũng lo không biết giống mới như thế nào. Nhưng khi trồng thấy cây phát triển rất tốt, tỷ lệ sống cao, chi phí vận chuyển, thuê công trồng rừng giảm đáng kể, nên mấy năm nay tôi tin tưởng sử dụng giống này. Trước đây, khi vận chuyển keo giống ươm trong túi bầu ny lông từ vườn ươm tới rừng của tôi hơn 4 km chi phí 1.500 đồng/cây, tiền công trồng 1.000 đồng/cây; thì nay chi phí vận chuyển giảm chỉ còn 400 - 500 đồng/cây, công thuê trồng cũng giảm còn 400 - 500 đồng/cây do không còn công đoạn phải rạch bỏ túi bầu”, ông Tựu phân tích.

Hiện, trên địa bàn tỉnh có 160 cơ sở, hộ sản xuất, kinh doanh giống cây lâm nghiệp, trong đó bước đầu có DNTN Dịch vụ cây trồng Nguyên Hạnh và Công ty TNHH Hoa Đôn đầu tư cho sản xuất giống cây không dùng túi bầu ny lông.

Theo ông Lê Đức Sáu, Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm (Sở NN&PTNT), các cơ sở sản xuất, kinh doanh giống cây lâm nghiệp từng bước ứng dụng KHKT trong quy trình sản xuất góp phần phát triển ngành lâm nghiệp của tỉnh hướng đến bền vững. Trong đó, việc sản xuất giống cây lâm nghiệp không dùng túi bầu ny lông còn giúp nâng cao chất lượng rừng trồng, thân thiện môi trường và tạo thói quen tốt cho người trồng rừng trong sử dụng giống cây lâm nghiệp. Đây cũng là mô hình cần nhân rộng trong định hướng phát triển ngành lâm nghiệp của tỉnh thời gian tới với chủ trương khuyến khích xã hội hóa các hoạt động liên quan đến giống cây trồng lâm nghiệp.

Bài, ảnh: ĐOÀN NGỌC NHUẬN

Hàng ngàn hecta khoai mì bị bệnh khảm lá

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Ngày 13-5, Văn phòng UBND tỉnh Thanh Hóa cho biết, trước tình hình bệnh khảm lá trên sắn (khoai mì) lan rộng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Lê Đức Giang đã có văn bản chỉ đạo các sở, địa phương liên quan tập trung các biện pháp cấp bách phòng, trừ bệnh.

Cán bộ Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Tân Kỳ (Nghệ An) kiểm tra bệnh khảm lá trên sắn

Bệnh khảm lá sắn do virus Sri Lankan Cassava Mosaic Virus gây ra, môi giới lây lan truyền bệnh là Bọ phấn trắng (Bemisia tabaci); ngoài ra bệnh còn lây lan qua hom giống nhiễm bệnh.

Theo báo cáo của Sở NN-PTNN Thanh Hóa, bệnh khảm lá sắn đang xảy ra tại 5 huyện là Thường Xuân, Như Xuân, Như Thanh, Ngọc Lặc và Thọ Xuân khiến trên 1.975ha sắn nhiễm bệnh.

Trước tình hình này, lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa yêu cầu Chủ tịch UBND các huyện, thị xã chỉ đạo, thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng trừ bệnh theo hướng dẫn của Sở NN-PTNT tỉnh; hướng dẫn người dân nhổ bỏ, tiêu hủy đối với diện tích sắn bị nhiễm bệnh trên 70%; tăng cường quản lý nguồn hom giống sắn, chuyển sang cây trồng mới để cắt nguồn bệnh,…

Trong khi đó, tại Nghệ An, bệnh khảm lá sắn cũng xuất hiện tại huyện Tân Kỳ khiến hơn 800ha mắc bệnh; ngoài ra, huyện Quỳ Châu cũng có 180ha bị mắc bệnh này.

DUY CƯỜNG

Đồng Tháp: Nuôi heo khép kín trong hệ thống chuồng lạnh - giải pháp hiệu quả trong chăn nuôi

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

Những năm gần đây, dịch bệnh trên đàn heo bùng phát, cộng với giá bán không ổn định, có lúc giảm sâu khiến người chăn nuôi thua lỗ. Tuy nhiên, ở huyện Tháp Mười (tỉnh Đồng Tháp), có 1 chuồng nuôi hoàn toàn không bị ảnh hưởng là nhờ nuôi trong hệ thống chuồng lạnh khép kín.

Nuôi heo trong chuồng lạnh khép kín là hướng đi mới trong phát triển chăn nuôi

Năm 2019, theo thống kê của ngành chuyên môn, Tháp Mười có gần 10.000 con heo của 406 hộ dân bị tiêu hủy do dịch tả heo Châu Phi. Cũng như các hộ nuôi heo khác, trang trại gần 500 con heo của bà Lương Thanh Hương ở ấp 3, xã Tân Kiều cũng bị tiêu hủy 164 con, điều đáng nói là cùng trong 1 điểm nuôi nhưng chuồng nuôi theo hình thức truyền thống bị dịch bệnh còn chuồng nuôi theo hình thức chuồng lạnh khép kín (chỉ cách vài mét) hoàn toàn không bị ảnh hưởng. Bà Hương cho biết, năm ngoái dịch bệnh dịch tả Châu phi, trại nuôi theo hình thức truyền thống của bà cũng bị bệnh phải tiêu hủy rất nhiều, còn trong trại nuôi theo hình thức chuồng lạnh khép kín thì không bị ảnh hưởng nên bà đã xây lại chuồng, nuôi tất cả theo hình thức chuồng lạnh. Nuôi theo hình thức này, heo mau lớn, giảm được rất nhiều chi phí và được bao tiêu với giá cao hơn thị trường.

Hệ thống chuồng lạnh khép kín được chia làm 3 khu vực gồm: khu xử lý thức ăn, khu nuôi heo và khu liên hợp hầm biogas xử lý phân, nước thải. Đây là trang trại hiện đại với đầy đủ các trang thiết bị như hệ thống làm mát bằng nước, quạt hút gió, máng ăn, uống nước tự động, hệ thống tự động điều chỉnh nhiệt độ bên trong... Mô hình chuồng trại lạnh khép kín, nhiệt độ luôn ở mức ổn định, đàn heo ít bị mệt do ảnh hưởng nắng nóng, giúp heo vận động tốt, ăn khỏe và tăng trưởng ổn định, ít tốn công chăm sóc và heo sạch nên được bao tiêu với giá cao hơn thị trường. Vì vậy, có rất nhiều hộ chăn nuôi đến tìm hiểu mô hình chăn nuôi bằng hệ thống chuồng lạnh khép kín. Cũng là người nuôi heo với số lượng lớn, bà Nguyễn Thị Mỹ Em ở ấp 4, xã Tân Kiều đang có ý định sẽ xây lại chuồng theo hình thức chuồng lạnh khép kính nhưng còn gặp khó khăn về nguồn vốn.

Chăn nuôi heo trong hệ thống chuồng lạnh khép kín đang là hướng đi mới trong phát triển chăn nuôi hiện nay, tuy nhiên vốn đầu tư ban đầu tương đối lớn. Ông Nguyễn Hồng Sang – Phó Trưởng Phòng Kỹ thuật Huấn luyện và Chuyển giao công nghệ, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp Tháp Mười cho biết: “Hiệu quả khi chăn nuôi theo hình thức chuồng lạnh khép kín thì đã rõ nhưng khó khăn chung của các hộ chăn nuôi trong huyện là nguồn vốn, vì nuôi theo mô hình này cần nguồn vốn tương đối lớn. Đồng Tháp cũng có những chính sách hỗ trợ phát triển chăn nuôi nông hộ nhưng người dân khó tiếp cận với nguồn vốn này do thói quen còn chăn nuôi nhỏ lẻ mà chính sách ràng buộc là phải quy mô đủ lớn, tùy theo đối tượng nuôi mà có quy định khác nhau, phải liên kết tiêu thụ, vấn đề bảo vệ môi trường... nên người dân khó tiếp cận”.

Để chăn nuôi không bị ảnh hưởng của dịch bệnh, đảm bảo vệ sinh môi trường, an toàn, hiệu quả, trong thời gian tới, Tháp Mười cần tăng cường công tác tuyên truyền thay đổi tập quán chăn nuôi nhỏ lẻ, manh mún sang hình thức nuôi trang trại, tập trung, khép kín, chăn nuôi bền vững.

Thúy Ly

Thu lãi nửa tỷ mỗi năm từ nuôi thỏ

Nguồn tin: Báo Thái Bình

Sau nhiều lần thất bại với chăn nuôi lợn, lươn, ngan, chuyển sang nuôi thỏ New Zealand, chị Đỗ Thị Thúy, thôn Xuân Thọ, xã Đông Cường (Đông Hưng, tỉnh Thái Bình) thu lãi 500 triệu đồng/năm.

Để dễ chăm sóc, chị Thúy phân khu chuồng nuôi thỏ con riêng. Ảnh chụp trước ngày 28/4/2021

Năm 2015, chị Thúy đầu tư xây dựng hệ thống chuồng trại nuôi lợn với khoảng 200 con. Những lứa đầu có lãi nên chị phấn khởi đầu tư mở rộng chăn nuôi. Song vài năm gần đây thu nhập từ nuôi lợn bấp bênh, thậm chí lỗ nặng vì dịch bệnh, vì mất giá; đặc biệt, năm 2019, dịch tả lợn châu Phi bùng phát đã làm gia đình chị điêu đứng, rơi vào cảnh nợ nần.

Ngay sau khi nhận được tiền hỗ trợ của nhà nước cho những hộ có lợn chết, chị mạnh dạn vay mượn thêm cải tạo chuồng trại đầu tư nuôi lươn, song do không phù hợp với môi trường, việc nuôi lươn thất bại. Chị lại mày mò, học hỏi các mô hình đã thành công rồi chuyển tiếp sang nuôi ngan, kết quả cũng không như mong đợi bởi ngan bị bệnh chết nhiều, tiền đầu tư không thu lại được.

Liên tiếp thất bại trong chăn nuôi, chị Thúy không khỏi buồn rầu, chán nản. Nhìn hệ thống chuồng trại đã đầu tư xây dựng kiên cố giờ bỏ không lãng phí, chị lại tiếp tục nghiên cứu các loại con dễ nuôi, có thị trường tiêu thụ lớn, ổn định. Qua tìm hiểu trên mạng internet và tham quan một số mô hình, nhận thấy giống thỏ New Zealand dễ nuôi, chăm sóc đơn giản, xoay vòng vốn nhanh, chị bàn với chồng tận dụng chuồng trại sẵn có mua con giống về nuôi.

Chị Thúy cho biết: Hai vợ chồng đi tìm hiểu trang trại của Nhật, thấy họ nuôi được nên mua giống về nuôi thử nghiệm. Lúc đầu chỉ dám nuôi 30 con, sau thấy hiệu quả mới nhân dần ra. Giống thỏ New Zealand rất to, nuôi nhanh lớn, đẻ nhiều, ít bị bệnh. Hiện chuồng trại của gia đình chị được chia thành nhiều khu trên diện tích 500m2, nuôi 2.000 con thỏ, trong đó có 200 con thỏ sinh sản. Trung bình một con thỏ đẻ từ 7 - 8 lứa/năm, mỗi lứa từ 6 - 7 con, thậm chí 10 - 12 con. Trung bình mỗi tháng chị Thúy xuất bán được 2 lứa, mỗi lứa từ 2 - 3 tạ thỏ thịt.

Để tạo điều kiện cho thỏ sinh trưởng và phát triển, chị Thúy đầu tư giàn lạnh 2 đầu, 2 quạt hút gió, khử mùi chuồng trại. Mùa đông thì có đèn sưởi ấm để tăng cường sức đề kháng cho thỏ, mỗi khu chuồng được chị quy hoạch hiện đại, sạch sẽ, thoáng mát.

Chị Thúy cho biết: So với nuôi gà, lợn thì nuôi thỏ nhàn hơn nhưng phải chăm sóc cẩn thận vì thỏ đã nhiễm bệnh rất dễ chết. Để tiện chăm sóc, tôi sắp xếp thành các khu nuôi thỏ sinh sản, khu nuôi thỏ con và khu nuôi thỏ thịt riêng biệt. Đặc biệt, thỏ con có chế độ ăn riêng, chuồng phải rửa 2 - 3 lần/ngày. Tất cả các khu chuồng thỏ đều phải duy trì nhiệt độ 280C. Để thỏ nhanh lớn, ít bệnh, tôi cho ăn điều độ, tăng cường vitamin.

Từ đầu năm 2020 đến nay, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, giá bán thỏ thịt có giảm song đầu ra luôn ổn định. Chị Thúy nuôi nhiều nhưng không phải lo đầu ra, thường thì thương lái tới tận nhà mua với giá trung bình từ 70.000 - 80.000 đồng/kg. Năm 2020, gia đình chị thu lãi từ nuôi thỏ 500 triệu đồng.

Chị Phạm Thị Huế, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Đông Cường cho biết: Chị Thúy là người rất năng động, bại không nản; đặc biệt, chị luôn tìm tòi, đưa vật nuôi có giá trị kinh tế cao vào phát triển chăn nuôi. Đây là mô hình phát triển kinh tế hộ gia đình quy mô lớn, hiệu quả cao, tiêu biểu của xã. Từ mô hình của chị Thúy, một số chị em trong xã đã học hỏi và làm theo đều mang lại hiệu quả kinh tế cao. Chúng tôi đang tiếp tục vận động hội viên, phụ nữ nhân rộng mô hình này để phát triển kinh tế gia đình. Chị Thúy là điển hình cho những người dám nghĩ, dám làm. Mô hình nuôi thỏ của chị Thúy thành công mở ra hướng phát triển kinh tế mới cho chị em phụ nữ vươn lên làm giàu chính đáng.

Trung Hiếu

Người chăn nuôi có nguy cơ thua lỗ nếu giá lợn hơi tiếp tục giảm

Nguồn tin: Lao Động

Nếu giá lợn hơi tiếp tục giảm, thì nguy cơ thua lỗ của các hộ chăn nuôi nhỏ là rất lớn. Ảnh: Vũ Long

Giá lợn hơi liên tục giảm trong thời gian gần đây, các hộ chăn nuôi có nguy cơ thua lỗ nếu giá lợn hơi tiếp tục "lao dốc".

Trao đổi với PV Lao Động, ông Nguyễn Văn Thành – Giám đốc Công ty TNHH Thành Đô Nghệ An - cho biết: Hiện nay, các trang trại nuôi giỏi có quy mô lớn, có con nái cung cấp giống thì giá thành chăn nuôi khoảng 50.000 đồng/kg, còn các hộ chăn nuôi nhỏ, phải mua con giống thì giá thành khoảng 65.000 đồng/kg. Trong khi đó, giá lợn hơi nhiều nơi đã ở mức 64.000-65.000 đồng/kg.

"Giá lợn hơi nhiều nơi đã ở dưới mức này, coi như các gia hộ chăn nuôi thua lỗ" - ông Thành khẳng định.

Đại diện của Anova Feed – một trong những doanh nghiệp chăn nuôi hàng đầu tại Việt Nam (đề nghị không nêu tên), cũng nhấn mạnh: Nếu giá lợn hơi tiếp tục giảm, thì nguy cơ thua lỗ của các hộ chăn nuôi nhỏ là rất lớn.

“Hiện tại giá thành chăn nuôi của các doanh nghiệp có nái khoảng 55.000 đồng/kg, còn của các hộ chăn nuôi phải mua con giống ở ngoài thì giá thành chăn nuôi lên tới khoảng 65.000-70.000 đồng/kg, hộ chăn nuôi càng nhỏ giá thành càng cao” – đại diện Anova Feed cho biết.

Theo Hiệp hội chăn nuôi Đồng Nai và nhiều người chăn nuôi, giá thành chăn nuôi lợn tăng cao là do giá nhân công, dịch vụ, lương… ngày càng tăng, nếu chăn nuôi nhỏ, chi phí đầu vào cao, thì rất khó có lãi.

“Xu thế là chăn nuôi nhỏ sẽ nghỉ dần trong tương lai và các doanh nghiệp chăn nuôi sẽ tăng thị phần. Đây cũng là xu thế chung của thế giới” – ông Nguyễn Văn Hanh – Chủ trang trại chăn nuôi lợn tại Mỹ Đức (Hà Nội) nhận định.

Theo các thương nhân, trong khi giá thức ăn chăn nuôi đã liên tiếp tăng 3 đợt, thì giá lợn hơi lại đi ngược lại xu thế. Ngày 13.5, giá lợn hơi vẫn tiếp tục giảm nhẹ.

Tại khu vực miền Bắc, giá thấp nhất (64.000 đồng) tại tỉnh Lào Cai. Miền Trung là khu vực có giá lợn hơi cao nhất (từ 72.000-75.000 đồng/kg). Trong đó, Quảng Trị là địa phương có giá lợn hơi cao nhất nước (75.000 đồng)/kg.

Giá lợn hơi tại các tỉnh phía Nam bán ra ở mức từ 67.000-71.000 đồng/kg. Mức giá 67.000 đồng tại các tỉnh Bình Định, Vĩnh Long, Bến Tre; ngoài 1 tỉnh bán lợn hơi với giá 69.000 đồng/kg (Bình Thuận), 5 tỉnh bán ra với giá 70.000 đồng/kg (Khánh Hòa, Lâm Đồng, Ninh Thuận, Hậu Giang, Cà Mau), giá lợn hơi tại các tỉnh phía Nam còn lại bán với giá 71.000 đồng/kg.

Nhiều người cho rằng, giá thấp nhưng lượng tiêu thụ chậm, dự báo giá lợn hơi sẽ tiếp tục giảm trong thời gian tới.

VŨ LONG

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop