Tin nông nghiệp ngày 15 tháng 06 năm 2021

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 15 tháng 06 năm 2021

Hàng nông sản tiêu thụ chậm, rớt giá

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai

Mùa hè là vụ thu hoạch của nhiều loại cây ăn trái chủ lực trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Mặc dù Trung ương, tỉnh, các doanh nghiệp và HTX đã vào cuộc bàn giải pháp đẩy mạnh tiêu thụ nông sản trong nước và xuất khẩu nhưng đầu ra cho nông sản hiện vẫn còn chậm, giá giảm sâu.

Trồng bưởi da xanh tại H.Trảng Bom

Đầu tư cho công nghiệp chế biến để nâng cao giá trị, sức cạnh tranh; sản xuất gắn với tiêu thụ để giảm thiểu các rủi ro là vấn đề đặt ra cho tiêu thụ sản phẩm nông sản hiện nay.

Nông sản tiêu thụ chậm, giá rẻ

Với diện tích 26ha, gia đình anh Hoàng Quốc Đạt là một trong những hộ trồng chuối lớn nhất trên địa bàn xã Thanh Bình (H.Trảng Bom). Thời điểm trước tháng 3-2021, việc tiêu thụ chuối của gia đình anh Đạt khá thuận lợi. Thương lái vào tận vườn đặt cọc với giá hơn 6 ngàn đồng/kg. Tuy nhiên, khoảng 2 tháng nay, mỗi ngày anh Đạt phải nghe ngóng xem các chủ kho còn nhu cầu mua chuối, số lượng và giá cả rồi gọi họ đến vườn thăm và chốt giá. Mức giá tốt nhất mà anh Đạt chốt được với chủ kho vào đầu tháng 6 này là hơn 4 ngàn đồng/kg. Với mức giá này, anh Đạt lỗ khoảng 2 ngàn đồng/kg chuối.

Thời gian này, ông Nguyễn Văn Nga (xã Xuân Hưng, H.Xuân Lộc) như ngồi trên lửa, bởi ông đã gọi điện “cầu cứu” nhiều mối thu mua thanh long ở trong và ngoài tỉnh nhưng người thì từ chối, người không nghe máy. Gần 3ha thanh long, tương đương 20 tấn quả đang có nguy cơ “ế”.

Ông Nga cho biết, thanh long đã đến kỳ thu hoạch nhưng giá rất rẻ, không có người mua. Hiện thương lái mua xô (không phân loại) với giá 5 ngàn đồng/kg, còn phân loại thì 10 ngàn đồng/kg nhưng chỉ bán được khoảng phân nửa, còn lại nông dân phải tự tiêu thụ với giá 1-2 ngàn đồng/kg.

Các loại nông sản chủ lực khác như: xoài, mít, bưởi cũng tương tự; đến kỳ thu hoạch nhưng tiêu thụ chậm, nông dân phải bán rẻ. Ông Nguyễn Văn Thuật, Chủ tịch Hội Nông dân xã Bàu Hàm (H.Trảng Bom) cho biết, ông có 2ha bưởi da xanh. Do bưởi của gia đình ông trồng đã có chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP nên tiêu thụ cũng dễ. Trung bình mỗi tháng ông thu hoạch khoảng 3 tấn bưởi, bán với giá khoảng 25 ngàn đồng/kg. Nhưng hơn 1 tháng nay không có thương lái đến mua, nếu có chỉ thu hoạch vài tấn/đợt; số còn lại ông phải tự tiêu thụ ở chợ.

Ông Lê Thành Quân, chủ vựa trái cây ở xã Bảo Hòa (H.Xuân Lộc) cho biết, sau Tết Nguyên đán 2021, giá mít Thái lá bàng được vựa mua vào từ 8-10 ngàn đồng/kg tùy loại; mỗi ngày vựa bán ra khoảng 10 tấn. Gần 1 tháng nay, mặc dù loại quả này chỉ còn 2-3 ngàn đồng/kg, nhưng mức tiêu thụ giảm xuống chỉ còn khoảng 2 tấn/ngày.

Nguồn cung tăng nóng

Gần 100ha thanh long ở H.Xuân Lộc chờ thương lái đến mua

Thời gian gần đây, giá nông sản giảm sâu là do thị trường xuất khẩu gặp khó khăn do dịch bệnh Covid-19. Ngoài ra, còn có nguyên nhân khác là diện tích một số loại cây tăng nhanh dẫn đến cung vượt quá cầu. Thời điểm này là mùa thu hoạch nhiều loại trái cây nên thị trường tiêu thụ bị chia nhỏ. Câu chuyện giá cả và đầu ra nông sản đã và đang đặt ra nhiều vấn đề, đó là: liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ, dự báo và dự đoán thị trường; quản lý diện tích cây trồng, đầu tư cho công nghiệp chế biến để gia tăng giá trị.

Là địa phương có gần 4 ngàn ha chuối, chiếm khoảng 50% diện tích chuối toàn tỉnh nhưng H.Trảng Bom xây dựng được chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ chuối. Theo chia sẻ của lãnh đạo địa phương, vài năm trở lại đây, cây chuối có thể mang lại lợi nhuận 400-600 triệu đồng/ha/năm nên nhiều nông dân chủ động chặt bỏ các loại cây như: chôm chôm, bưởi, tiêu để chuyển sang trồng chuối. Cũng một vài đơn vị chế biến và xuất khẩu về địa phương đặt vấn đề xây dựng chuỗi liên kết tiêu thụ chuối, nhưng do các kho, vựa đang hoạt động tại địa phương có nguồn tài chính mạnh sẵn sàng trả giá cao hơn, có hệ thống kho lạnh, có đối tác tiêu thụ nên các đơn vị thu mua số lượng nhỏ và vừa khó tiếp cận.

Những ngày qua, nhiều nông dân ở xã Phú Lý (H.Vĩnh Cửu) đang cưa bỏ cây xoài ba mùa mưa với ý định chuyển đổi sang cây trồng khác. Theo người dân, trước đây dù có rớt giá, nông dân vẫn bán được từ 2-3 ngàn đồng/kg xoài tại vườn. Nhưng khoảng 2 tháng trở lại đây, xoài chín rụng đầy gốc mà không có thương lái đến mua, nông dân buộc phải cưa bỏ để đỡ hư đất. Không chỉ buồn vì thiệt hại về kinh tế, công chăm sóc, tới đây trồng cây gì, nuôi con gì cho hiệu quả trên đất trồng xoài cũng là nỗi lo của bà con.

Trên thực tế, thời gian qua, nhất là trong điều kiện khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19, nhiều địa phương, đơn vị, cá nhân đã có hướng đi mới trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Đó là chuyển sang sản xuất sạch để đưa sản phẩm vào các chuỗi bán hàng, xuất khẩu tươi và sơ chế, chế biến nông sản. Việc thay đổi này bước đầu đã góp phần làm gia tăng giá trị cho nông sản, đem lại lợi nhuận cho các bên. Công ty TNHH Xuất nhập khẩu thương mại Toàn Thắng (H.Cẩm Mỹ) đông lạnh múi sầu riêng tươi bán trong nước và xuất khẩu; HTX Thanh Bình (H.Trảng Bom) ngoài xuất khẩu chuối tươi còn thu mua chuối dạt, thái lát, sấy khô xuất khẩu...

Chia sẻ về câu chuyện đầu ra cho nông sản, Giám đốc HTX Nông nghiệp dịch vụ thương mại thanh long Xuân Hưng (H.Xuân Lộc) Nguyễn Văn Nga cho rằng, hạn chế trong tiêu thụ thanh long của HTX hiện nay là không có kho lạnh để bảo quản sản phẩm sau thu hoạch. “Thanh long chín có thể “neo” tại vườn được 1 tuần. Sau khi cắt, có thể giữ trong kho lạnh được thêm 1 tháng. Địa phương có gần 1 ngàn ha thanh long, đã thành lập HTX nhưng lại chưa bố trí được quỹ đất để chúng tôi đầu tư kho lạnh. Những lúc như thế này, nếu có kho lạnh, giá thanh long sẽ đỡ thê thảm hơn” - ông Nga chia sẻ.

Nam Vũ

Bắc Giang: Thương nhân Trung Quốc đặt cọc thu mua 30 nghìn tấn vải thiều

Nguồn tin: Báo Bắc Giang

Tính đến hết ngày 12/6, toàn tỉnh Bắc Giang thu hoạch được hơn 88,7 nghìn tấn vải thiều. Lượng vải xuất khẩu đạt gần 36,4 nghìn tấn.

Người dân thôn Qúy Thịnh, xã Qúy Sơn (Lục Ngạn) thu hoạch vải thiều xuất khẩu.

Được biết, đến thời điểm này, diện tích vải của Tân Yên đã thu hoạch xong, lượng vải còn lại chủ yếu của Lục Ngạn và một phần của huyện Lục Nam, Sơn Động, Lạng Giang.

Theo đánh giá của Sở Công Thương, hiện vải thiều đang tiêu thụ thuận lợi cả trong nước và xuất khẩu. Thị trường Trung Quốc vẫn chiếm ưu thế, chiếm 90% tổng lượng vải thiều xuất khẩu của tỉnh.

Lượng vải bán sang thị trường Lào và Campuchia cũng tăng cao, sản lượng hơn 2,7 nghìn tấn. Hiện giá vải đang giữ ở mức khá, tại Lục Ngạn giá vải dao động từ 13.000-30.000 đồng/kg. Cụ thể: Vải sớm Thanh Hà giá từ 20.000-30.000 đồng/kg; vải thiều ở mức13.000-25.000 đồng/kg.

Một điểm thu mua vải thiều xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc tại thị trấn Chũ (Lục Ngạn).

Theo UBND huyện Lục Ngạn, năm nay, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên hầu hết các thương nhân Trung Quốc không sang Bắc Giang thu mua vải. Tuy nhiên, do làm ăn lâu năm, có uy tín nên nhiều bạn hàng Việt Nam tại Lục Ngạn đã được thương nhân Trung Quốc chuyển tiền, đặt mua vải thiều Lục Ngạn với sản lượng hơn 30 nghìn tấn.

Nhiệm vụ của các thương nhân Việt Nam là thu mua, đóng gói và vận chuyển đến giao hàng tại cửa khẩu. Vì thế, việc vận chuyển, thông quan sang Trung Quốc rất thuận lợi. Đây là tín hiệu vui cho người trồng vải thiều của Lục Ngạn trong những ngày tới.

Theo thống kê của UBND huyện Lục Ngạn, tổng số điểm cân vải cố định tại huyện này là 236 điểm lớn và hàng trăm điểm thu mua nhỏ, lẻ. Các loại hàng phụ trợ phục vụ đóng gói vải thiều đều ổn định giá trong mấy ngày qua. Không có tình trạng người dân bị ép giá, gian lận thương mại.

Tin, ảnh: Đại La

Khánh Hòa: Mã số vùng trồng: Chìa khóa cho nông sản xuất khẩu

Nguồn tin: Báo Khánh Hòa

Để xuất khẩu nông sản chính ngạch, nhiều nước trên thế giới yêu cầu nông sản phải có mã số vùng trồng. Việc thúc đẩy các tổ chức, cá nhân đăng ký mã số vùng trồng là điều cần thiết để rộng đường xuất khẩu nông sản.

Gần 4.066ha xoài được cấp mã số

Theo ông Lê Bá Ninh - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT), trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa, Cục Bảo vệ thực vật, Bộ NN-PTNT đã cấp 17 mã số vùng trồng cho các cá nhân, tổ chức sản xuất xoài với diện tích gần 4.066ha để xuất khẩu sang thị trường: Úc, New Zealand, Hoa Kỳ, Trung Quốc và 1 mã số cơ sở đóng gói xoài để xuất khẩu sang Trung Quốc. Các vùng trồng xoài có diện tích lớn đã được cấp mã số là: Cam Hải Tây (975ha), Cam Thành Bắc (865ha), Suối Tân (745ha), Cam Đức (667ha), Cam Hòa (616ha) - huyện Cam Lâm…

Người dân Cam Lâm chăm sóc xoài.

Ông Trần Thiện Hùng - Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh cho biết, mã số vùng trồng là mã số định danh cho một vùng trồng trọt nhằm theo dõi và kiểm soát tình hình sản xuất, chất lượng sản phẩm, truy xuất nguồn gốc sản phẩm. Việc cấp mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói đang được triển khai thực hiện theo quy định, yêu cầu của nước nhập khẩu. Đối với từng thị trường khác nhau, các quy định liên quan đến cấp mã số vùng trồng có thể khác nhau nhưng tựu trung, việc cấp, quản lý và giám sát vùng trồng đã được cấp mã số là để bảo đảm truy xuất được đến từng vùng trồng, cơ sở đóng gói về những loại sinh vật gây hại phát hiện trên vùng trồng, các biện pháp quản lý sinh vật gây hại đã được sử dụng, đặc biệt là ghi nhận về những loại thuốc bảo vệ thực vật, phân bón đã sử dụng. Chỉ các loại nông sản, nhất là trái cây tươi đáp ứng được yêu cầu về kiểm dịch thực vật và an toàn thực phẩm theo quy định của nước nhập khẩu mới vào được nước đó. Đây là con đường nhanh nhất để nông sản Việt có thể tiếp cận với các thị trường khó tính. Đến nay, trên cả nước đã cấp được hơn 2.000 mã số vùng trồng và hơn 1.700 mã số cơ sở đóng gói cho các loại cây trồng khác nhau.

Đẩy mạnh cấp mã số vùng trồng

Các tổ chức, cá nhân có nhu cầu cấp mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói có thể đăng ký và nộp hồ sơ xin cấp mã số tại Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh. Sau khi nhận hồ sơ, cơ quan chuyên môn sẽ tiến hành kiểm tra thực tế, trong trường hợp đạt yêu cầu sẽ trình lên Bộ NN-PTNT xem xét cấp mã số vùng trồng, mã số cơ sở đóng gói.

Để xuất khẩu nông sản chính ngạch, nhiều nước trên thế giới đã yêu cầu loại nông sản đó phải truy xuất được tới vùng trồng. Chính vì vậy, việc xây dựng mã số vùng trồng không chỉ là thủ tục nhằm đạt được yêu cầu từ phía nhập khẩu mà còn gắn trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân sản xuất nông sản phải bảo đảm an toàn thực phẩm và kiểm dịch thực vật.

Cuối tháng 5, Cục Bảo vệ thực vật đã có văn bản đề nghị Sở NN-PTNT đẩy mạnh việc kiểm tra, giám sát vùng trồng, cơ sở đóng gói để cấp mã số phục vụ xuất khẩu; giao Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh thực hiện giám sát, quản lý số liệu về 17 mã số vùng trồng và 1 cơ sở đóng gói trên địa bàn tỉnh. Các mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói sẽ bị thu hồi nếu không thực hiện giám sát định kỳ theo quy định. Cục Bảo vệ thực vật cũng đề nghị sở chủ động chỉ đạo xây dựng cơ sở dữ liệu về mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói tại địa phương và tập huấn cho cán bộ kỹ thuật, người sản xuất, doanh nghiệp về nội dung này.

Theo lãnh đạo Sở NN-PTNT, ngày 9-6, sở đã có văn bản đề nghị UBND các huyện, thị xã, thành phố đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân, hộ nông dân đăng ký mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói cho nông sản (các loại trái cây, rau quả tươi…) trên địa bàn để thực hiện chuỗi liên kết bền vững giữa doanh nghiệp và nhà sản xuất nhằm phục vụ nhu cầu thị trường tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu.

Hồng Đăng

Bắc Kạn: Phát huy giá trị thương hiệu bí xanh thơm Ba Bể

Nguồn tin: Báo Bắc Kạn

Bí xanh là cây trồng thế mạnh của huyện Ba Bể (tỉnh Bắc Kạn) đang phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP cấp tỉnh. Điều này đã giúp cho bí xanh thơm Ba Bể có thêm điều kiện phát huy giá trị thương hiệu, phát triển theo hướng bền vững.

Cây trồng đặc sản

Bí xanh là cây bản địa được trồng ở huyện Ba Bể từ rất lâu, nhưng phù hợp với khí hậu và thổ nhưỡng của các xã Địa Linh, Yến Dương, Mỹ Phương. Bí xanh Ba Bể có hai loại, một loại vỏ xanh đậm được gọi là bí xanh thơm và một loại vỏ có phủ phấn trắng bên ngoài gọi là bí phấn thơm.

Vốn khác biệt so với những quả bí xanh thông thường có hình dáng thon và dài, loại bí xanh thơm đặc sản ở Ba Bể lại có hình bầu dục, nặng từ 1,5- 4kg/quả. Đây là cây trồng đặc biệt thích hợp trên chân ruộng 1 vụ, đất soi, bãi, thời gian thu hoạch ngắn ngày, năng suất cao hơn gấp ba lần so với trồng lúa, ngô. Quả bí ở đây có đặc trưng riêng không giống với các loại bí đao phổ biến trên thị trường với ưu điểm là quả to, đặc ruột, thân, lá, hoa, quả đều có mùi thơm, vỏ cứng dày nên sau khi thu hoạch có thể để được lâu.

Bí xanh thơm là cây trồng đặc sản của huyện Ba Bể.

Là hộ đầu tiên trồng bí xanh tại xã Địa Linh, ông Dương Văn Hoàn, thôn Nà Đúc chia sẻ: Khoảng năm 2013, một lần tình cờ khi đi đến một xã khác trong huyện được ăn món bí xanh thấy ngon, ông đã xin hạt giống về trồng. Do khí hậu và thổ nhưỡng ở Địa Linh phù hợp nên cây bí rất thích nghi, phát triển tốt. Những năm đầu, gia đình ông chỉ trồng 600m2, vừa phục vụ nhu cầu thực phẩm của gia đình, vừa bán lẻ tại các chợ. Hiện gia đình ông đã chuyển đổi 2.000m2 đất ruộng 1 vụ để trồng bí xanh thơm và bí phấn. Năng suất bình quân đạt 5 tấn/vụ.

Gia đình chị Mã Thị Đới, thôn Nà Giảo, xã Yến Dương trồng bí xanh đến nay đã được 4 năm. Nhận thấy giá trị kinh tế từ cây bí xanh mang lại nên gia đình chị đã chuyển đổi đất ruộng 1 vụ kém hiệu quả sang chuyên canh cây bí, thuê thêm đất để mở rộng diện tích lên 6.000m2.

Từ chỗ chỉ trồng manh mún, nhỏ lẻ, đến nay cây bí xanh đã được phát triển mạnh tại huyện Ba Bể, không chỉ được trồng tại các xã Địa Linh, Yến Dương, Mỹ Phương, nay còn được mở rộng sang các xã lân cận có khí hậu, thổ nhưỡng tương đồng là Chu Hương, Thượng Giáo, Hà Hiệu. Năm 2020 toàn huyện trồng được 76ha; năm 2021 trồng khoảng 122ha.

Diện tích trồng bí tăng nhanh, người dân ứng dụng kỹ thuật vào canh tác, đầu tư thâm canh theo hướng dẫn của cơ quan chuyên môn nên sản lượng, mẫu mã và chất lượng ngày càng được nâng lên. Hiện nay đang vào vụ thu hoạch bí xanh thơm, năng suất ước đạt 400 tạ/ha, sản lượng ước đạt hơn 4.000 tấn. Nếu tính giá bán bình quân trên thị trường hiện nay là 7.000 đồng/kg thì mỗi héc-ta cho thu nhập 280 triệu đồng, đó là nguồn thu nhập không nhỏ từ sản xuất nông nghiệp.

Nâng tầm thương hiệu sản phẩm

Xác định bí xanh thơm có nhiều tiềm năng để phát triển thành vùng nông sản đặc sản, thời gian qua, tỉnh ta đã lồng ghép nhiều chương trình, dự án, các cơ chế, chính sách để hỗ trợ huyện Ba Bể nâng cao năng suất, chất lượng, phát huy giá trị thương hiệu. Trong đó, tỉnh triển khai thực hiện đề tài bảo tồn nguồn gen, giống của cây bí bản địa, hỗ trợ canh tác theo hưỡng hữu cơ, nông nghiệp sạch VietGAP... Từ đó, lựa chọn và phát huy tốt nhất những đặc điểm quý của quả bí xanh thơm, xây dựng được kênh phân phối nguồn giống chuẩn, đồng nhất cho bà con canh tác, góp phần giữ được chất lượng thơm ngon của giống bí bản địa mà không nơi nào có được.

Theo đó, năm 2019 Sở KH&CN đã phối hợp với Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên và huyện Ba Bể triển khai thực hiện Đề tài “Xây dựng mô hình phục tráng bí xanh thơm Ba Bể đảm bảo năng suất cao, chất lượng tốt”, tập trung điều tra, đánh giá tình hình sản xuất và nghiên cứu phục tráng giống bí, tập huấn chuyển giao kỹ thuật để cải tạo giống bí đang có nguy cơ thoái hóa về đặc tính. Theo kết quả phục tráng vụ thứ 3, đã chọn sơ bộ được 2 dòng bí có kiểu hình đặc trưng là bí phủ phấn trắng, hình trụ, trọng lượng bình quân 1,8 - 2kg, chất lượng thơm ngon hơn hẳn. Ngoài đánh giá chỉ tiêu cảm quan, đề tài sẽ tiến hành phân tích các chỉ tiêu sinh hóa để đánh giá chất lượng loại quả đặc sản này của địa phương.

Bên cạnh đó, huyện còn chỉ đạo cơ quan chuyên môn hướng dẫn các địa phương, nhóm hộ trồng bí xanh theo hướng nông sản sạch, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào quy trình sản xuất, đảm bảo về chất lượng và an toàn thực phẩm; khuyến khích, hỗ trợ thành lập các tổ hợp tác, HTX tham gia liên kết với các hộ dân trồng và bao tiêu sản phẩm bí xanh thơm góp phần tạo đầu ra ổn định, giúp cây bí xanh phát triển bền vững.

HTX Yến Dương thu mua quả bí xanh cho người dân trên địa bàn.

Trên địa bàn huyện hiện có 03 HTX đứng ra liên kết với các hộ dân trồng bao tiêu sản phẩm bí xanh thơm cho nông dân là: HTX Nhung Lũy, HTX Yến Dương (xã Yến Dương), HTX Thanh Đức (xã Địa Linh). Các HTX này đã kết nối với các siêu thị, đại lý trong và ngoài tỉnh để bao tiêu sản phẩm bí xanh cho bà con. Sản phẩm bí xanh thơm của các HTX đã và đang được triển khai thực hiện canh tác theo hướng hữu cơ và tiêu chuẩn VietGAP, tham gia Chương trình "Mỗi xã, phường một sản phẩm" của tỉnh và đạt 3 sao OCOP.

Chị Ma Thị Ninh- Giám đốc HTX Yến Dương cho biết: Vụ bí xanh năm 2021 HTX chủ động hỗ trợ hơn 5 tấn phân bón hữu cơ cho 25 hộ dân tham gia để phát triển 10ha cây bí xanh theo hướng canh tác hữu cơ, từng bước xây dựng thương hiệu bí xanh an toàn. Năm nay, HTX liên kết với 135 hộ dân để trồng và bao tiêu sản phẩm bí xanh thơm với diện tích 17,6ha. Đến nay HTX thu mua được 30 tấn bí xanh với giá bình quân từ 6.000 - 8.000 đồng/kg.

Đối với HTX Nhung Lũy, các thành viên cũng đã áp dụng quy trình bí xanh thơm theo hướng hữu cơ, sử dụng phân chuồng ủ hoai mục bằng men vi sinh để bón lót cho cây, đảm bảo sản phẩm an toàn với người tiêu dùng. Năm nay HTX tiếp tục ký hợp đồng với 10 tổ hợp tác trồng bí xanh thơm trên địa bàn xã Địa Linh và Yến Dương với diện tích khoảng 23ha; đồng thời mở rộng maketting online, đưa sản phẩm lên các sàn thương mại điện tử, tìm kiếm các thị trường tiềm năng để tiêu thụ và giới thiệu sản phẩm bí xanh Ba Bể đến với người tiêu dùng trên toàn quốc.

Năm 2021, UBND huyện Ba Bể đã phê duyệt Dự án phát triển sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị gắn với tiêu thụ sản phẩm bí xanh thơm với quy mô 15ha thuộc Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới. Trong đó triển khai thực hiện tại các xã Địa Linh, Yến Dương, Chu Hương với mục tiêu hình thành vùng nguyên liệu tập trung, tổ chức liên kết sản xuất, nâng cao chất lượng và bao tiêu sản phẩm, nâng cao thu nhập cho người dân. Giai đoạn 2021-2022 huyện sẽ lồng ghép các chương trình, dự án để hỗ trợ hộ gia đình, hợp tác xã, tổ hợp tác về giống, vật tư, phân bón, tư vấn xây dựng liên kết, tập huấn kỹ thuật, đăng ký thương hiệu chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nhằm giúp cây bí xanh phát triển ổn định, bền vững.

Tuy nhiên, để nâng tầm được thương hiệu bí xanh thơm Ba Bể rất cần có sự quan tâm hơn nữa của tỉnh, các sở, ngành trong việc hỗ trợ phát triển mở rộng diện tích canh tác theo hướng hữu cơ, VietGAP, liên kết tiêu thụ, nghiên cứu chế biến sâu, xây dựng chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể và sản xuất theo chuỗi giá trị đối với cây trồng đặc sản này./.

Hà Thanh

Trồng bắp bán cây thu 160 triệu đồng/ha/năm

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai

Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng để nâng cao hiệu quả kinh tế của huyện Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai), nhiều nông dân trên địa bàn các xã: Xuân Phú, Lang Minh, Xuân Thọ đã chuyển sang trồng bắp bán cây cho các trang trại chăn nuôi, doanh nghiệp chế biến thức ăn gia súc trên địa bàn.

Thu hoạch cây bắp tại H.Xuân Lộc

Theo người dân, cây bắp trồng lấy thân có thời gian sinh trưởng ngắn hơn so với cây lúa và bắp lấy hạt nên có thể trồng 3 vụ/năm hoặc xen kẽ 2 vụ bắp và 1 vụ cây ngắn ngày khác. Năng suất bình quân của cây bắp là 60 tấn/vụ/ha, giá bán khoảng 900 ngàn đồng/tấn, thu nhập bình quân đạt 160 triệu đồng/năm, gấp 2-2,5 lần so với trồng lúa, gấp khoảng 1,5 lần so với trồng hoa màu.

Mặc dù huyện chưa có chuỗi liên kết tiêu thụ cây bắp nhưng do nhu cầu thức ăn cho các trang trại chăn nuôi và doanh nghiệp chế biến thức ăn gia súc lớn nên đầu ra của loại cây này khá thuận lợi.

Nam Vũ

Quảng Ngãi: Ốc bươu vàng xuất hiện trên cánh đồng lúa Hè Thu

Nguồn tin: KhuyếnNo6ng VN

Hàng trăm hecta lúa vụ Hè Thu của Quảng Ngãi đang bị nạn ốc bươu vàng đe dọa khiến nông dân rất lo lắng. Mật độ ốc bươu vàng cao hơn nhiều lần so với cùng kỳ năm trước, gây lo lắng cho nông dân trong tỉnh.

Theo thống kê của Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật tỉnh Quảng Ngãi, từ 1/6 đến 9/6 toàn tỉnh đã có 237,5ha diện tích lúa xuất hiện ốc bươu vàng, tăng 138,5ha so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, có 22 ha lúa bị ốc bươu vàng tàn phá nặng nề.

Có mặt trên cánh đồng của TP. Quảng Ngãi chúng tôi chứng kiến nhiều nông dân tích cực ra đồng chăm sóc lúa giữa cái nắng như thiêu đốt. Nông dân cho biết, đây là thời điểm bà con phải đưa nước vào ruộng cho cây lúa sinh trưởng và phát triển sau khi gieo sạ. Việc cung cấp đủ nước cho cây lúa có yếu tố khá quan trọng trong việc quyết định thành bại của vụ lúa bởi theo dự báo vụ Hè Thu năm nay nguy cơ thiếu nước trên diện rộng sẽ rất cao. Tuy nhiên, những ngày gần đây, cùng với nhiều địa phương khác ở tỉnh Quảng Ngãi, ốc bươu vàng xuất hiện ở địa phương này với mật độ khá dày đặc, ảnh hưởng rất lớn đến chăm sóc lúa. Lúa mới gieo sạ, đẻ nhánh đã xuất hiện ốc bươu vàng dày đặc khiến nông dân lo lắng. Lo ngại ốc bươu vàng sẽ gây hại lúa khi chưa kịp thực hiện các biện pháp diệt trừ nên bà con đành để ruộng khô, chưa dám đưa nước vào.

Nông dân tích cực thăm ruộng, bắt ốc bươu vàng

Tình trạng ốc bươu vàng gây hại cũng xảy ra tại các huyện Bình Sơn, Sơn Hà, Sơn Tịnh, Nghĩa Hành. Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật tỉnh Quảng Ngãi đã kiểm tra thực tế nhiều địa phương và ngay đầu vụ đã ban hành biện pháp để phòng trừ ốc bươu vàng. Trong đó nông dân cần vét rãnh xung quanh ruộng để ốc di chuyển xuống rãnh bắt diệt, thu gom ốc, ổ trứng ốc trên các khu vực kênh mương, bờ cỏ… nhằm hạn chế lây lan của ốc. Thường xuyên kiểm tra ruộng lúa nếu thấy trên lúa giai đoạn mới sạ, đẻ nhánh có mật độ ốc từ 2-3 con/m2 trở lên thì dùng 1 trong các loại thuốc trừ ốc như Honeycin 6GR, Anhead 6GR, Moi ốc 6GR,…

Như Đồng - Đài Truyền thanh Sơn Tịnh, Quảng Ngãi

Bình Dương: Hiệu quả mô hình sử dụng hệ thống phun tưới tự động

Nguồn tin:  Báo Bình Dương

Những năm gần đây, nhiều nông dân trong tỉnh Bình Dương đã mạnh dạn chuyển đổi, ứng dụng hệ thống tưới tự động trong sản xuất nông nghiệp mang lại hiệu quả tích cực.

Lắp đặt, sử dụng hệ thống tưới phun tự động tại vườn cây ăn quả của anh Nguyễn Văn Tiến (xã Tân Định, huyện Bắc Tân Uyên)

Ứng dụng công nghệ cao

Phun tưới tự động là một trong những hình thức ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp với nhiều ưu điểm vượt trội, như: Tiết kiệm nước, giảm công lao động, giảm chi phí sản xuất... Hiện, công nghệ tưới này đang được người nông dân ở các địa phương trên địa bàn tỉnh ứng dụng rộng rãi, bước đầu thành công, góp phần nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp.

Hiện nay, nhiều trang trại, hợp tác xã, hộ nông dân sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đã áp dụng công nghệ phun tưới tự động với những phương thức, như: Tưới quấn quanh gốc, tưới cục bộ, phun mưa... đáp ứng nhu cầu sản xuất đa dạng các loại cây trồng trên mọi địa hình. Đầu tư hệ thống phun nước tự động có chi phí khá cao, dao động từ 100 triệu đồng/ha, tuy nhiên hiệu quả mang lại nhiều và thời gian sử dụng trên 10 năm. Chỉ cần bật công tắc điện, kiểm tra hệ thống ống nước, có thể tưới cho một diện tích lớn, nhỏ bất kể thời gian và có thể điều chỉnh mức độ tưới theo ý muốn.

Anh Nguyễn Văn Tiến, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp - Thương mại - Du lịch và Vận tải Dân Tiến (xã Tân Định, huyện Bắc Tân Uyên), cho biết, sử dụng hệ thống tưới phun mưa tự động thì tia nước phun ra đều, tự động hóa các khâu điều khiển và dễ dàng vận hành, cây trồng được cung cấp vừa đủ nước giúp cây sinh trưởng và phát triển tốt. Ngoài ra, với hình thức tưới này, vừa giúp anh tiết kiệm tài nguyên nước, vừa tiết kiệm thời gian, tiết kiệm điện và công lao động; đồng thời mang lại năng suất ổn định cho các loại cây trồng.

Hạ giá thành, nâng sức cạnh tranh

Hiện, bà con nông dân trong tỉnh áp dụng mô hình tưới phun rất nhiều, bởi mô hình này không những cho hiệu quả kinh tế mang lại, mà còn góp phần khắc phục tình trạng thiếu hụt lao động ở nông thôn hiện nay. Đồng thời, từng bước đưa tự động hóa, cơ giới hóa vào sản xuất. Từ đó, giúp người dân tiết kiệm chi phí lao động sản xuất, hạ giá thành sản xuất, nâng tính cạnh tranh hàng nông sản trên thị trường trong nước và quốc tế.

Ông Trần Minh Thành, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Đồng Thuận Phát (xã Thường Tân, huyện Bắc Tân Uyên), cho biết ưu điểm lớn nhất của phương pháp tưới nước tiết kiệm này là người dân không phải tốn công đào mương dẫn nước, đồng thời điều chỉnh lượng nước tưới theo nhu cầu của từng loại cây trồng nên tiết kiệm đáng kể nguồn nước. Ngoài ra, còn có thể hòa lẫn các loại phân bón dễ tan như đạm, kali, hay các loại phân bón dạng nước... thông qua bồn pha chế gắn tại van điều chỉnh tổng. Từ đó, phân bón được hòa lẫn vào nước tưới nên cây hấp thụ tốt hơn, năng suất và hiệu quả kinh tế cao hơn so với cách tưới truyền thống. Với hiệu quả thiết thực trong sản xuất nông nghiệp nên hiện nay, công nghệ phun tưới tự động đã được áp dụng rộng rãi tại các địa phương đối với nhiều loại cây trồng, như cây ăn quả, cây rau màu các loại...

Từ hiệu quả của hệ thống tưới phun tự động, đến nay, 10 ha đất trồng bưởi da xanh, cam, quýt của anh Nguyễn Văn Tiến không ngừng phát triển tốt. Trung bình mỗi năm, anh cho thu hoạch khoảng 50 - 70 tấn bưởi da xanh, với giá bán trung bình khoảng 20.000 đồng/kg, sau khi trừ đi chi phí, mỗi năm anh mang lại lợi nhuận trên 500 triệu đồng. Đây là khoản lợi nhuận cao và tương đối ổn định đối với hộ nông dân làm kinh tế vườn. “Để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trái ngon và sạch, không có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, ít sử dụng hóa chất trong quá trình sản xuất, tôi đã xây dựng vườn bưởi đạt tiêu chuẩn VietGAP. Chủ yếu tôi sử dụng việc nuôi kiến vàng để phòng trừ sâu bệnh và sử dụng phân hữu cơ để bón cho cây”, anh Tiến chia sẻ.

Có thể nói, sự chủ động ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất nông nghiệp của nông dân Bình Dương đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao đời sống và tri thức của người dân, từng bước đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

THOẠI PHƯƠNG

Tăng thu nhập từ chăn nuôi bò

Nguồn tin: Báo Bình Dương

Là địa phương cửa ngõ của huyện Dầu Tiếng (tỉnh Bình Dương), kinh tế - xã hội của xã Thanh Tuyền đang ngày một phát triển nhờ sự giao thoa kinh tế với các địa phương lân cận. Trong đó tiêu biểu phải kể đến là sự khá giả lên trông thấy của người dân mà mô hình chăn nuôi bò đang trở thành một con đường làm giàu của nhiều nông hộ.

Thoát nghèo

Với lợi thế có nhiều ruộng vườn trải dài dọc dòng Sài Gòn, xã Thanh Tuyền từ lâu được biết đến như một vùng đất thơ mộng, hữu tình. Dù vậy nhưng từ những năm 2010 trở về trước, cuộc sống của người dân nơi đây còn khá nhiều khó khăn bởi phần lớn người dân làm nông nghiệp theo hướng truyền thống, ít chú trọng vào việc tìm hiểu, nghiên cứu kỹ đặc tính sinh học của cây trồng, vật nuôi, dẫn đến hiệu quả kinh tế thấp.

Những năm gần đây, khi nông dân được tham gia các khóa tập huấn về chăn nuôi bò theo hướng tập trung, khoa học, tổng lượng đàn bò tăng dần đều theo thời gian. Theo thống kê của Hội Nông dân xã Thanh Tuyền, đến nay trên địa bàn xã đã có 3 tổ hợp tác và 1 tổ hợp nghề nghiệp về chăn nuôi bò với số lượng lên đến gần 100 tổ viên. Ông Nguyễn Tuấn Anh, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Thanh Tuyền cho biết, hiện tổng đàn bò trên địa bàn xã Thanh Tuyền là 1.497 con, trong đó tỷ lệ bò cái đẻ con chiếm khoảng 60 - 70%. Với nhiều năm kinh nghiệm trong nghề chăn nuôi bò, nhiều nông hộ ở Thanh Tuyền đã chính thức thoát nghèo và đang vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất giàu truyền thống này.

Ông Nguyễn Quốc Trung bên trại bò của gia đình

Được sự giới thiệu của cán bộ xã Thanh Tuyền, chúng tôi đến nhà ông Nguyễn Quốc Trung ở ấp Rạch Kiến để tham quan mô hình nuôi bò cái. Ông Trung cho biết, gia đình ông quê ở Sóc Trăng, vì muốn thoát nghèo nên vợ chồng ông đã lên Bình Dương lập nghiệp. Thời điểm năm 2001, khi mới đặt chân lên Bình Dương, vợ chồng ông làm công nhân cho một công ty sản xuất nước giải khát ở TP.Thuận An. Sau hơn 10 năm tích cóp, ông Trung quyết định nghỉ làm công nhân để về Thanh Tuyền khởi nghiệp với nghề nuôi bò.

Khởi điểm với một cặp bò mẹ con từ năm 2011, đến nay đàn bò của gia đình ông đã có 20 con bò cái, cho thu nhập mỗi năm từ 300 - 350 triệu đồng. Tiếp chuyện với chúng tôi trong khuôn viên trại bò, ông Trung phấn khởi chia sẻ: “Tính đến thời điểm này tôi có thể tự tin nói là mình đã thoát nghèo. Hy vọng thời gian tới mọi việc suôn sẻ để giấc mơ làm giàu sớm trở thành hiện thực”.

Nhiều chính sách hỗ trợ

Kế bên trại bò của gia đình ông Trung là trại bò của gia đình bà Phan Thị Mỹ Huyền với quy mô đàn 19 con, trong đó có 6 con bò cái và 13 bò đực. Bà Huyền cho biết, gia đình bà đã thực hiện mô hình nuôi bò theo hướng trang trại tập trung đã được hơn 7 năm, hiệu quả kinh tế năm sau luôn cao hơn năm trước. Theo bà Huyền, để có được thành quả đó, phải kể đến sự hỗ trợ của Hội Nông dân xã, huyện, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện về vốn và tập huấn kiến thức, kinh nghiệm chăn nuôi bò hiệu quả, khoa học.

Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Tuấn Anh cho biết thêm, để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương mà đặc biệt là nghề nuôi bò, trong những năm qua xã đã đề xuất với cấp trên phương án hỗ trợ bà con nông dân vay vốn ưu đãi nhập con giống và mở các lớp tập huấn kỹ năng chăn nuôi bò hiệu quả. Cụ thể, năm 2020 vừa qua đã có nhiều tổ viên trong các tổ hợp tác chăn nuôi bò của xã Thanh Tuyền tiếp cận được nguồn vốn vay ưu đãi với tổng số tiền giải ngân đạt 1,9 tỷ đồng.

Việc tạo điều kiện để người nông dân được tiếp cận với nguồn vốn vay ưu đãi mở ra tiền đề giúp nông dân mở rộng quy mô chăn nuôi, tăng số lượng bò giống. Nhưng để giúp người nông dân làm kinh tế hiệu quả theo hướng phát triển bền vững, những khóa đào tạo, hướng dẫn nghiệp vụ chăn nuôi bò mà Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện tổ chức thời gian qua cũng không kém quan trọng. Thông qua những lớp tập huấn này, nông dân Thanh Tuyền được trang bị thêm nhiều kiến thức, kinh nghiệm để “thúc” đàn bò phát triển nhanh và không bị dịch bệnh, gặt hái hiệu quả cao.

Ông Trần Quang Tuyên, Phó Chủ tịch UBND huyện Dầu Tiếng cho biết, với mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, huyện luôn nỗ lực hết sức mình để hỗ trợ người dân làm kinh tế, gia tăng thu nhập. Là một địa phương có tiềm năng và lợi thế lớn về nông nghiệp, huyện luôn khuyến khích người dân tích cực học tập, ứng dụng khoa học - công nghệ vào chăn nuôi, trồng trọt để năng suất, chất lượng của cây trồng, vật nuôi được nâng cao. Nghề chăn nuôi bò ở Thanh Tuyền dù mới phát triển, nhưng tin rằng đây sẽ là một trong những hướng đi mới giúp nông dân thoát nghèo và vươn lên làm giàu bền vững.

ĐÌNH THẮNG

Gỡ ‘điểm nghẽn’ xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi

Nguồn tin: Hà Nội Mới

Nhiều sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam như mật ong, thịt gà chế biến, các sản phẩm từ sữa ... đã được xuất khẩu sang một số quốc gia trên thế giới, mang về cho đất nước hơn 1 tỷ USD/năm. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu khắt khe về chất lượng của các thị trường nhập khẩu nổi tiếng "kỹ tính" như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản..., thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi, rất nhiều "điểm nghẽn" cần được tháo gỡ.

Tập trung đầu tư các nhà máy chế biến hiện đại để tạo ra sản phẩm thịt gà chất lượng cao phục vụ xuất khẩu.

Nhiều tiềm năng, nhiều thách thức

Thời gian gần đây, Cục Thú y (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) đã hỗ trợ rất nhiều cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc quảng bá, giới thiệu sản phẩm chăn nuôi Việt Nam đến với thị trường quốc tế.

Phó Cục trưởng Cục Thú y Nguyễn Văn Long cho biết: Sản phẩm chăn nuôi xuất khẩu của Việt Nam gồm mật ong, các sản phẩm từ mật ong; sữa, các sản phẩm từ sữa; thịt gà chế biến; thịt lợn và trứng... Riêng với mật ong và các sản phẩm từ ong, đã có 44 doanh nghiệp Việt Nam được phép xuất khẩu sang 20 quốc gia và vùng lãnh thổ như: Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Ả Rập Xê-út..., trong đó Mỹ là thị trường lớn nhất. Trong 5 tháng đầu năm 2021, nước ta đã xuất khẩu 11.000 tấn mật ong, trị giá hơn 15 triệu USD, vào thị trường các nước.

Cùng với mặt hàng mật ong, thời gian qua, Việt Nam đã xuất khẩu được gần 7.000 tấn thịt gà chế biến, trị giá 32 triệu USD. Hiện ngành Nông nghiệp đang đàm phán với Bộ Nông nghiệp Nhật Bản về các yêu cầu thú y đối với thịt lợn và sản phẩm thịt lợn của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này.

Tuy nhiên, theo Quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) Nguyễn Xuân Dương, tiêu chuẩn khó nhất đối với doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam là sản phẩm chăn nuôi phải xuất phát từ vùng/cơ sở an toàn dịch bệnh, trong khi số doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu này quá ít. Đến nay, Việt Nam mới có 32 vùng an toàn dịch bệnh (31 vùng cấp huyện và 1 vùng cấp tỉnh), 138 cơ sở an toàn dịch bệnh cấp xã và 1.662 cơ sở an toàn dịch bệnh cấp trang trại.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến thông tin thêm: Thời điểm hiện tại, nhu cầu tiêu dùng của các nước nhập khẩu giảm mạnh, cùng với đó là những khó khăn trong vận chuyển do ảnh hưởng của dịch Covid-19... Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam so với thời gian trước.

Chất lượng - "chìa khóa" tạo sức cạnh tranh

Xây dựng vùng chăn nuôi an toàn dịch bệnh để phục vụ xuất khẩu.

Để thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) Nguyễn Văn Trọng cho biết, thời gian tới các địa phương đẩy mạnh việc chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học, hữu cơ, để tạo ra sản phẩm chất lượng, bảo đảm an toàn thực phẩm. Cục Chăn nuôi sẽ phối hợp với các đối tác quốc tế nghiên cứu, xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong quản lý và kiểm soát chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường xuất khẩu.

Cũng về vấn đề này, theo Phó Cục trưởng Cục Thú y Nguyễn Văn Long, Cục sẽ thúc đẩy đàm phán thỏa thuận thú y với các nước để mở rộng thị trường; đồng thời rà soát những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình xuất khẩu để kịp thời tháo gỡ. Cùng với đó là tiếp tục rà soát những khó khăn, vướng mắc của các địa phương trong việc xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh; ban hành các bộ tiêu chí kỹ thuật cụ thể đối với từng thành phần của chuỗi sản xuất, vùng an toàn dịch bệnh để các đơn vị làm căn cứ kiểm tra, đánh giá và chứng nhận...

Về phía doanh nghiệp, ông Đào Mạnh Lương - Tổng Giám đốc Tập đoàn Mavin đề xuất, các bộ ngành tham mưu Chính phủ có chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành chăn nuôi như: Xây dựng các khu giết mổ hiện đại, nhà máy chế biến ứng dụng công nghệ cao để tạo ra sản phẩm chất lượng cao, có thương hiệu, tem nhãn sản phẩm hàng hóa.

Bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước về cơ chế, chính sách liên quan đến công tác quy hoạch, phát triển chăn nuôi theo vùng sản xuất gắn với chế biến, bảo quản và thị trường tiêu thụ sản phẩm, các doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng hình ảnh sản phẩm của Việt Nam, từ đó gia tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Theo Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn Trần Công Thắng, cùng với việc hỗ trợ các hợp tác xã liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp trong các chuỗi sản xuất - tiêu thụ sản phẩm, các tỉnh, thành phố cần đầu tư vào hệ thống phân phối; đồng thời chủ động áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế và các tiêu chuẩn hữu cơ để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.

NGỌC QUỲNH

Tái đàn heo thành công - Kinh nghiệm từ một nông hộ

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Dịch tả heo châu Phi “quét” qua cả nước khiến các trang trại, nông hộ chăn nuôi heo Lâm Đồng cũng lao đao. Sau dịch, nhiều nông hộ rụt rè trong việc tái đàn bởi nhiều lí do, trong đó có lí do sợ tái dịch. Và, một nông hộ đã mạnh dạn tái đàn và thành công, rút ra nhiều kinh nghiệm quý trong việc nuôi heo an toàn.

Anh Cường kiểm tra đàn heo

Gia đình anh chị Bùi Mạnh Cường - Tạ Thị Rậu là một trong những hộ chăn nuôi heo tại Thôn 3, xã Tân Lâm, huyện Di Linh với quy mô cỡ vừa, khoảng 100 đầu heo các loại. Trong đợt dịch heo tai xanh năm 2020, cũng như hầu hết các hộ chăn nuôi, trại heo của anh chị dính dịch và phải tiêu hủy hoàn toàn. Vừa mất vốn, vừa thiếu tiền cám, công chăm, giá heo giống lại lên quá cao khiến cuối năm 2020, dù dịch đã hết, anh Cường vẫn băn khoăn không biết có nên tái đàn. Sau cùng, anh Cường nghĩ rằng mình là nông dân, con heo là vật nuôi quan trọng và cũng là nguồn thu nhanh, ổn định với nhà nông, vậy là anh quyết định tái đàn.

Trước khi tái đàn, anh Bùi Mạnh Cường sửa lại hoàn toàn chuồng trại. “Trước kia nuôi thì mình làm chuồng cũng bình thường như mọi nhà, heo nuôi dưới sàn. Heo cũng ăn, uống nước bằng máng tự động nhưng cơ bản quy trình chăm sóc cũng còn khá lung tung”, anh Cường cho biết. Khi tiến hành sửa chuồng, anh Cường nghiêm túc tuân theo khuyến cáo của ngành nông nghiệp. Anh xây chuồng kín hoàn toàn, không để hở. Thay vì để heo trên mặt sàn xi măng, anh Cường nâng sàn lên bằng khung thép, trên phủ một lớp lưới nhựa, cách li khỏi mặt sàn giúp heo vừa sạch, vừa an toàn với móng. Đặc biệt, anh điều chỉnh lại quy trình chăn nuôi theo chuỗi, một chiều vào - ra. Người lạ không được vào khu vực chăn nuôi, tránh việc lây lan mầm bệnh, không chỉ bệnh dịch tả heo mà cả các bệnh khác. Chất thải heo được gom lại bể bioga, vừa không làm ô nhiễm gây mùi hôi thối, vừa có phân hữu cơ bón cho vườn cà phê xen bơ của gia đình.

Và vào tháng 10/2020, anh Cường tái đàn với việc mua đàn heo nái về cho sinh sản, thay cho việc mua heo giống con giá quá cao và rất khan hàng. Anh mua một heo nái “ông bà”, heo nái giống chuẩn bên cạnh việc mua 6 con heo nái bình thường. Đàn heo nái đã sinh sản gần 100 heo con, anh để lại nuôi hoàn toàn. Tháng 4/2021, anh bán được lứa heo thịt đầu tiên sau tái đàn với 60 con, hoàn toàn do heo nái trong trại sinh sản. Lứa heo bán được mang lại cho gia đình anh tiền lời khoảng 100 triệu đồng và phần còn dư là 17 con heo nái, trong đó có gần 10 con heo nái chất lượng tốt đang chuẩn bị phối giống. Đến thời điểm tháng 5/2021, gia đình anh Bùi Mạnh Cường coi như tái đàn thành công, sẵn sàng cho việc ra đời những lứa heo khỏe mạnh, cung cấp cho thị trường nguồn thịt dồi dào.

Anh Bùi Mạnh Cường chia sẻ, dù dịch tả heo châu Phi khiến gia đình anh và hầu hết các hộ chăn nuôi trong vùng chịu thiệt hại rất lớn nhưng ở chiều ngược lại, nó cũng khiến người nông dân thay đổi ý thức trong việc chăn nuôi. Nông dân quan tâm đến việc xây dựng chuồng trại đúng chuẩn, quy trình chăm sóc an toàn, đúng kỹ thuật, giữ vệ sinh chuồng heo chứ không còn tình trạng chuồng trại tạm bợ, nuôi heo tự nhiên như trước nay vẫn làm. Về lâu dài, người chăn nuôi buộc phải nâng cấp chuồng trại, chuẩn hóa quy trình để tránh rủi ro dịch bệnh, đây cũng là tín hiệu tốt cho ngành chăn nuôi.

Bà Lê Thị Trinh, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Lâm cho biết, dịch tả heo châu Phi khiến hầu hết các hộ chăn nuôi heo trên địa bàn đều phải tiêu hủy đàn heo. Hiện tại, một số hộ đã tái đàn thành công, có hộ tái đàn bằng heo nái, có hộ tái đàn bằng heo giống nhỏ. Tuy nhiên, bà Trinh cũng nhận xét, chỉ có các trang trại chăn nuôi quy mô từ trung bình trở lên mới tái đàn, các hộ nuôi nhỏ lẻ không dám nuôi lại. Đầu tiên bởi chi phí sửa chuồng trại khá lớn, heo giống cũng rất đắt và khan hàng, thức ăn chăn nuôi cũng tăng giá. Chăn nuôi nhỏ lẻ không còn là sự lựa chọn phù hợp bởi rủi ro cao và thu nhập không đạt kì vọng. Xã luôn vận động các hộ chăn nuôi áp dụng chuồng trại theo quy chuẩn kỹ thuật, chăn nuôi quy mô lớn, giúp đàn heo phát triển tốt và an toàn trước dịch bệnh.

DIỆP QUỲNH

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop