Tin nông nghiệp ngày 16 tháng 03 năm 2021

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 16 tháng 03 năm 2021

Đồng Tháp: Diện tích cây ăn trái của huyện Châu Thành tăng hơn 1.000ha

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

Những năm gần đây, người dân trên địa bàn huyện Châu Thành (tỉnh Đồng Tháp) đã chuyển đổi diện tích đất trồng lúa sang trồng hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn trái tại các vùng sản xuất có điều kiện. Đến nay, diện tích hoa màu, cây công nghiệp ngắn ngày toàn huyện là 5.071,1ha; diện tích vườn cây ăn trái là 7.408,19ha (tăng 1.005ha) so với năm 2015, trong đó diện tích trồng cây nhãn tiếp tục tăng trưởng và định hướng phát triển các vùng canh tác theo tiêu chuẩn GAP và truy xuất nguồn gốc.

Người dân chú trọng trồng nhãn theo tiêu chuẩn GAP và truy xuất nguồn gốc để nâng cao giá trị kinh tế

Huyện đã tập trung triển khai quảng bá các ngành hàng chủ lực của địa phương như: lúa gạo, nhãn, khoai lang, heo, cá tra gắn với việc khuyến khích nông dân sản xuất nông nghiệp kết hợp với khai thác du lịch sinh thái để phát triển kinh tế. Đồng thời chú trọng thúc đẩy tinh thần hợp tác trong Nhân dân, mô hình Hội quán được khởi xướng và nhân rộng trên toàn huyện, dựa trên nền tảng tinh thần tự nguyện và nhu cầu của người dân, gắn với từng sản phẩm, ngành hàng đặc trưng của địa phương, đến nay đã có 12 Hội quán được thành lập khắp các xã, thị trấn.

Các hoạt động hỗ trợ thúc đẩy khởi nghiệp tiếp tục được địa phương triển khai thực hiện gắn với chương trình mỗi xã 1 sản phẩm (OCOP) mang lại hiệu quả thiết thực. Đến nay, huyện Châu Thành có 35 sản phẩm của 8 doanh nghiệp, cơ sở và Hợp tác xã tham gia và được UBND tỉnh công nhận sản phẩm đạt từ 3 đến 4 sao, đặc biệt có 3 sản phẩm có tiềm năng được UBND tỉnh chọn tham gia đánh giá xếp hạng cấp Trung ương.

Dũng Chinh

Phập phồng... bưởi da xanh

Nguồn tin: Báo Khánh Hòa

Giữa thủ phủ bưởi da xanh Khánh Vĩnh (Khánh Hòa), những vườn bưởi sai trĩu cành chẳng có người hái, bưởi rụng dưới gốc cũng không ai thiết nhặt. Giá bưởi xuống thấp chưa từng có.

Giá thấp chưa từng có

Chúng tôi ghé vườn bưởi của gia đình ông Nguyễn Phước Lộc (thôn Suối Sâu, xã Khánh Đông), nghe ông than thở: “Hiện nay, giá bưởi có 15.000 đồng/kg. Từ ngày trồng bưởi đến nay, đây là giá thấp kỷ lục. Trước Tết bán 25.000 đồng/kg đã thấy quá thấp, giờ giá xuống đáy cũng không ai tới hái”. Câu chuyện buồn về giá bưởi liên tục bị ngắt quãng bởi những cái lắc đầu ngao ngán của chủ nhà. Chưa bao giờ giá bưởi xuống thấp đến vậy, chưa bằng nửa giá của năm trước. Hiện nay, giá bưởi da xanh loại 1 trung bình chỉ 20.000 đồng/kg; loại 2 và 3 chỉ 10.000 - 15.000 đồng/kg. Trong khi ở thời điểm đầu tháng 12-2019, giá bưởi da xanh ở mức 35.000 - 45.000 đồng/kg. Các nhà vườn cho biết, giá bưởi da xanh rớt mạnh là do nguồn cung tăng trong khi lượng tiêu thụ lại giảm.

Bưởi chín rụng do quá ngày thu hoạch.

Giá thấp đã đành, điều người nông dân lo ngại nhất chính là rẻ nhưng không có ai mua. Nhìn mấy đứa bé dùng quả bưởi thay banh đá qua đá lại, ông Lộc than thở: “Từ Tết đến giờ, bưởi ứ đọng, quá lứa, chín rụng đầy gốc. Ban đầu còn nhặt vào ăn hay cho bà con lối xóm; dần dần bưởi chín rụng ngày một nhiều, chẳng buồn nhặt. Trước đây, mỗi ngày gia đình tôi cắt cả chục tấn bưởi, nay cả tuần thương lái mới cắt vài tạ. Với 3ha bưởi, gia đình còn tồn khoảng 5 tấn bưởi không bán được. Nếu chục ngày nữa không có ai mua cũng sẽ phải hái để giữ sức cho cây”.

Việc bưởi da xanh giảm giá quá sâu gây thiệt hại nặng cho các nhà vườn. Ông Dương Văn Thuyền (thôn Suối Cá, xã Khánh Trung) cho biết: “Gia đình tôi trồng 15ha bưởi; đến nay, 1/2 diện tích đã cho thu hoạch. Giá bưởi liên tục giảm khiến gia đình thiệt hại hàng trăm triệu đồng. Giá đã giảm mà đầu mối thu mua lại quá ít nên rẻ cũng không bán được. Nếu tình hình này kéo dài thì nhà vườn gặp rất nhiều khó khăn”.

Bưởi VietGAP thua thiệt

Giữa lúc giá giảm sâu, các hộ trồng bưởi VietGAP càng thêm thua thiệt. Đơn cử Hợp tác xã cây ăn quả Khánh Đông có 23 thành viên với 65ha bưởi được trồng theo chuẩn VietGAP. Để có bưởi đúng chuẩn trái cây an toàn, nông dân phải thực hiện đúng nguyên tắc, trình tự chuẩn VietGAP từ khâu sản xuất, thu hoạch, xử lý sau thu hoạch. Chi phí sản xuất theo chuẩn VietGAP cao hơn so với bình thường nên giá bưởi VietGAP cũng cao hơn là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, khi thị trường biến động, người trồng bưởi mới thấm thía sự khó khăn trong sản xuất nông nghiệp sạch, nhất là khâu tiêu thụ. Ông Nguyễn Văn Ngọc - Giám đốc Hợp tác xã cây ăn quả Khánh Đông buồn bã nói: “Bưởi của hợp tác xã đạt chuẩn VietGAP, là sản phẩm OCOP 3 sao; chi phí đầu tư mỗi năm 150 - 180 triệu đồng/ha, gấp 1,5 - 2 lần so với sản xuất bình thường. Thương lái đi dạo khắp các nhà vườn khen bưởi VietGAP quả đẹp, ngon, sạch nhưng họ chỉ mua ngang giá bưởi thường. Hiện nay, nhà vườn nào cũng đang tồn sản lượng rất lớn, thương lái có nhiều lựa chọn, mình không bán thì thiệt hại càng nặng”.

Bưởi VietGAP và OCOP cũng không thể tiêu thụ được.

Theo ông Nguyễn Ngọc Việt - Chi cục trưởng Chi cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản, không riêng người trồng bưởi VietGAP tại Khánh Vĩnh, nông dân sản xuất các sản phẩm nông nghiệp sạch khác trong tỉnh cũng gặp nhiều khó khăn. Thách thức lớn nhất khiến sản xuất nông sản theo chuẩn VietGAP lép vế so với sản xuất truyền thống là sản xuất theo chuẩn VietGAP đòi hỏi kỹ thuật khắt khe, chi phí đầu tư cao nhưng lại khó cạnh tranh về giá so với sản xuất bình thường. Đây là rào cản đối với sản xuất nông nghiệp theo chuẩn VietGAP.

Phá vỡ quy hoạch

Mấy năm trước, nhìn nhiều vùng đất tại huyện Khánh Vĩnh được phủ xanh cây bưởi da xanh, ai cũng cảm thấy một tín hiệu lạc quan. Giống cây đem về từ miền Tây đã cho quả ngọt trên vùng đất miền núi khô cằn. Nhưng giờ đây, với diện tích bưởi da xanh vượt quá xa so với quy hoạch, vấn đề đầu ra lại là bài toán nan giải.

Ông Lương Nguyễn Nhật Trường - Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Khánh Vĩnh lo lắng: “Huyện chỉ quy hoạch 300ha bưởi da xanh. Hiện nay, tổng diện tích đã đẩy lên 600ha và vẫn chưa có tín hiệu dừng lại khi phong trào mua đất rẫy làm vườn tiếp tục nóng. Huyện đã nhiều lần tuyên truyền về việc phá vỡ quy hoạch và nguy cơ khó khăn đầu ra của cây bưởi da xanh nhưng diện tích vẫn tiếp tục tăng lên hàng năm. Riêng năm 2020, diện tích bưởi da xanh tăng thêm 50ha. Nếu cứ tự phát như vậy sẽ không thể tiêu thụ hết được”.

Với 200ha đang cho thu hoạch, sản lượng bưởi Khánh Vĩnh đạt 1.400 tấn/năm. Từ Tết Nguyên đán đến nay, bưởi không tiêu thụ được nên mới đây Ban Thường vụ Hội Nông dân tỉnh đã tổ chức chương trình “Hỗ trợ tiêu thụ bưởi da xanh, chia sẻ khó khăn với nông dân huyện Khánh Vĩnh” tại Trụ sở Hội Nông dân tỉnh (số 2 Ngô Quyền, TP. Nha Trang) và trụ sở Trung tâm Hỗ trợ nông dân và Giáo dục nghề nghiệp (số 6, Tô Vĩnh Diện, Nha Trang). Mục tiêu sẽ giúp nông dân bán khoảng 20 tấn bưởi.

Cách đây chừng 5 năm, cây bưởi được UBND huyện Khánh Vĩnh chọn làm cây trồng chủ lực. Tuy nhiên, khi diện tích trồng tăng chóng mặt, vượt xa sự tính toán của chính quyền địa phương thì chuyện “được mùa mất giá” đã hiển hiện. Đáng ngại hơn, trong 600ha bưởi, mới chỉ có 200ha cho thu hoạch đã gặp khó; ít năm tới, cả 600ha có quả thì sản lượng bưởi sẽ rất lớn. Ông Nguyễn Văn Ngọc lo lắng: “Mới 200ha mà đợt này cả trăm tấn bưởi không thể tiêu thụ được. Vậy khi 600ha cho thu hoạch thì bưởi nhiều cỡ nào, chưa nói đến việc hàng năm diện tích trồng mới tiếp tục tăng; không khéo lúc đó lại đi chặt bưởi trồng cây khác”.

Trên đường rời Khánh Vĩnh, đi qua những vạt bưởi xanh tốt, hương bưởi đầu mùa dịu nhẹ không xua được cảm giác âu lo. Có lẽ, đã đến lúc Khánh Vĩnh cần dừng ngay việc phát triển diện tích bưởi. Thay vào đó là tập trung vào việc tăng chất lượng, đẩy mạnh quảng bá thương hiệu bưởi da xanh. Về lâu dài, cần nghiên cứu kết hợp 3 nhà (doanh nghiệp, khoa học và nông dân) để ứng dụng công nghệ sau thu hoạch tạo nên sản phẩm chất lượng và tìm đầu ra ổn định cho người trồng bưởi. Chỉ có vậy hoa bưởi mới tiếp tục “ngan ngát hương thơm”.

Đình Lâm - Bích La

Đắk Lắk: Khoai tây 'bén duyên' với đất Ea Drơng

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Từ chỗ lo ngại khi đưa một giống cây hoàn toàn mới, lại là loại cây ưa xứ lạnh vào trồng, đến nay nhiều nông dân ở xã Ea Drơng (huyện Cư M’gar, tỉnh Báo Đắk Lắk) đã gắn bó với cây khoai tây bởi hiệu quả kinh tế đem lại cao.

5 năm trước, nông dân ở Ea Drơng liên kết với Công ty TNHH thực phẩm Pepsico Việt Nam chi nhánh Lâm Đồng đưa cây khoai tây về trồng thử nghiệm. Phía công ty cung cấp giống, kỹ thuật và ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm đầu ra cho nông dân. Trước đó, để thực hiện mô hình, công ty cử người đi khảo sát đặc điểm khí hậu, chất đất, nguồn nước tưới phù hợp với cây khoai tây. Khi triển khai, công ty cung ứng trước cây giống, tập huấn kỹ thuật, cử kỹ sư nông nghiệp bám sát ruộng để hướng dẫn nông hộ thực hiện chăm sóc, phun thuốc phòng trừ sâu bệnh đúng kỹ thuật theo từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây trồng. Từ 5 - 6 ha trồng thí điểm, hiện xã Ea Drơng có 30 hộ dân liên kết với công ty trồng 200 ha khoai tây. Hộ trồng nhiều nhất lên đến 16 ha, hộ ít nhất là 2 ha. Hầu hết diện tích trồng khoai tây được nông dân thuê lại đất của Chi nhánh Công ty Cổ phần cao su Đắk Lắk - Nông trường Phú Xuân.

Nông dân xã Ea Drơng thu hoạch khoai tây.

Anh Bùi Anh Dũng (ở buôn Tar) là một trong những hộ đầu tiên mạnh dạn thuê đất để trồng khoai tây ở xã Ea Drơng. Anh Dũng cho biết, một lần có người bạn từ TP. Đà Lạt sang chơi, gợi ý mô hình trồng khoai tây, thế là anh tìm hiểu với hy vọng tìm hướng phát triển kinh tế cho gia đình. Sau khi sang tỉnh Lâm Đồng tham dự hội thảo, tham quan thực tế mô hình, trở về địa phương anh Dũng “đánh liều” thuê 9 ha đất trồng thử. Chính anh Dũng cũng không ngờ, hiệu quả cây khoai tây mang lại hơn cả mong đợi. Nhờ chăm sóc tốt, đúng kỹ thuật nên khoai tây cho năng suất đạt 30 tấn/ha. Mấy năm nay, doanh nghiệp thu mua với giá ổn định trên 8.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, trung bình mỗi vụ anh thu về hơn 500 triệu đồng.

Theo nhiều nông dân xã Ea Drơng, cây khoai tây trồng ở đây có khả năng sinh trưởng khỏe, cho nhiều củ, to đều, năng suất đạt khá. Mỗi héc-ta trồng khoai tây thường có chi phí đầu tư khoảng 120 - 130 triệu đồng, trong đó bao gồm cả chi phí đầu tư hệ thống tưới nhỏ giọt cho cây trồng.

Hộ anh Lê Văn Tuấn (ở thôn An Phú) cũng trồng khoai tây với diện tích 2 ha. Năm đầu tiên trồng loại cây trồng mới do chưa nắm hết kỹ thuật và chưa có kinh nghiệm chăm sóc nên năng suất chỉ đạt 28 tấn/ha. Anh Tuấn khẳng định, trồng khoai tây lợi nhuận thu về cao gấp nhiều lần so với trồng lúa, hơn nữa việc thu hoạch cũng rất nhẹ nhàng nhờ hỗ trợ của cơ khí hóa. Máy móc sẽ đào củ lên, còn lại thì thuê nhân công đi nhặt củ. Trên diện tích 2 ha trồng khoai tây, sau khi trừ hết chi phí, anh thu về hơn 100 triệu đồng.

Một công đoạn thu hoạch khoai tây của nông dân xã Ea Drơng.

Vào đầu tháng 10 dương lịch hằng năm, nông dân xã Ea Drơng bắt dầu xuống giống khoai tây. Sau khoảng 3,5 tháng chăm sóc, cây khoai tây cho thu hoạch, năng suất thường đạt từ 28 - 30 tấn/ha. Trồng khoai tây không quá khó, nhưng quan trọng là phải chú trọng chăm cây trong đoạn từ 2 - 3 tháng tuổi để hạn chế sâu bệnh giúp cây phát triển tốt, cho năng suất cao. Bệnh sương mai và trùng tuyến củ là bệnh thường gặp trên cây khoai tây và đã có hướng điều trị, ngăn ngừa kịp thời.

Ông Nguyễn Tiến Trường, Phó Chủ tịch UBND xã Ea Drơng cho hay, giữa lúc thời tiết khắc nghiệt, giá cả nhiều loại nông sản chủ lực liên tục rớt giá thì loại cây trồng này giúp nông dân có thêm lựa chọn phát triển kinh tế. Người dân thu hoạch đến đâu được doanh nghiệp thu mua ngay đến đó, bao tiêu sản phẩm. Vụ năm nay, khoai tây trồng ở địa phương được doanh nghiệp thu mua với giá 8.800 đồng/kg. Là cây trồng ngắn ngày nhưng cho thu nhập đáng kể, không ít hộ có trong tay từ vài chục đến vài trăm triệu đồng sau một vụ trồng khoai tây, bà con nông dân ở xã Ea Drơng phấn khởi, yên tâm sản xuất.

Đỗ Lan

Trồng ớt đem lại hiệu quả kinh tế cao

Nguồn tin: Báo Thái Nguyên

Đại diện HTX Nông sản sạch La Hiên trao đổi kỹ thuật chăm sóc cây ớt thương phẩm với bà con nông dân xã La Hiên.

Mới được mở rộng diện tích trồng từ khoảng 2 năm gần đây, nhưng cây ớt đã bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân ở xã La Hiên (Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên) và một số địa phương lân cận.

Năm 2020, chị Lê Thị Lê, xóm Cây Bòng, xã La Hiên trồng 3 sào ớt, đạt sản lượng hơn 3 tấn quả/năm. Với giá bán trung bình khoảng 30.000 đồng/kg, chị Lê thu về xấp xỉ 100 triệu đồng từ cây ớt. Sau khi trừ chi phí, chị còn lợi nhuận khoảng hơn 60 triệu đồng. Chị Lê cho biết: So với trồng lúa thì trồng ớt cho hiệu quả vượt trội hơn hẳn. Trong khi cây ớt khá dễ trồng và có thể thích nghi với nhiều điều kiện khác nhau, chỉ cần đất tơi xốp và đủ dinh dưỡng là được.

Từ năm 2019, anh Hoàng Đức Thiện, xóm Long Giàn, xã Khe Mo (Đồng Hỷ) trồng hơn 4 sào ớt. Mỗi năm anh Thiện thu hoạch khoảng 4 tấn ớt tươi, thu về 80-90 triệu đồng lợi nhuận. Anh chia sẻ: Hiện tại, ớt chín thương phẩm bán được với giá 10 nghìn đồng/kg là đã có lãi nên đầu tư trồng ớt là hướng đi hiệu quả đối với gia đình tôi.

Được biết, ớt vốn là loại cây trồng không phổ biến ở Võ Nhai và một số xã lân cận. Cây ớt chỉ được người dân trồng rải rác với diện tích nhỏ, chủ yếu phục vụ nhu cầu của gia đình. Tuy nhiên, nhận thấy đây là loại cây phù hợp với điều kiện địa phương, khoảng 2 năm gần đây, nông dân ở một số xã trên địa bàn huyện Võ Nhai và một phần diện tích xã Văn Hán, Khe Mo (Đồng Hỷ) đã mơ rộng diện tích trồng ớt thương phẩm.

Theo bà con, cây ớt có đặc điểm là cây ngắn ngày, có thể trồng xen với cây ăn quả và không đòi hỏi nhiều công chăm sóc nên phù hợp với điều kiện canh tác của người dân trên địa bàn. Thông thường, bà con sẽ xuống giống cây vào khoảng tháng 9 đến tháng 11 hằng năm. Cây ớt sau 2 tháng trồng bắt đầu cho thu hoạch từ 3 đến 4 đợt trong khoảng 3 tháng, chất lượng quả cao nhất với trọng lượng lý tưởng có thể lên đến 4kg mỗi cây. Trung bình, mỗi sào trồng ớt sẽ cho thu hoạch trên 1 tấn quả/năm, đạt lợi nhuận khoảng 20 triệu đồng.

Để đáp ứng nhu cầu sản xuất và thị trường, nhiều cơ sở thu mua ớt cũng đã được thành lập trên địa bàn huyện Võ Nhai. Trong đó, Hợp tác xã (HTX) Nông sản sạch La Hiên hiện là đầu mối lớn nhất trên địa bàn. HTX hiện đang hợp tác với hơn 60 hộ nông dân trồng trên 7ha ớt thương phẩm, chủ yếu tập trung ở các xã: La Hiên, Cúc Đường, Nghinh Tường, Thượng Nung, Vũ Chấn và một diện tích nhỏ thuộc xã Văn Hán (Đồng Hỷ). Trong đó, riêng xã La Hiên phát triển được khoảng 3ha với hơn 20 hộ trồng. Tham gia mô hình hợp tác này, các hộ dân sẽ được HTX hỗ trợ về giống, phân bón và hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc ớt. Đồng thời, HTX cũng đứng ra bao tiêu toàn bộ sản phẩm đầu ra cho bà con theo giá thị trường.

Chị Dương Thùy Lương, Giám đốc HTX cho biết: Sau gần 2 năm triển khai, chúng tôi nhận thấy đây là hướng đi hiệu quả đem lại thu nhập cao cho HTX và các hộ nông dân liên kết. Theo tính toán, lợi nhuận từ trồng ớt cao hơn từ 6-8 lần so với trồng lúa. Thời gian tới, HTX dự kiến sẽ tiếp tục mở rộng diện tích hợp tác với bà con để mở rộng diện tích trồng ớt thương phẩm. Bên cạnh đó, chúng tôi đang hướng tới đầu tư sản xuất, chế biến các sản phẩm từ ớt thay vì chỉ kinh doanh quả tươi nhằm gia tăng lợi nhuận và hỗ trợ bà con nông dân tiêu thụ sản phẩm ổn định cả về giá thành và sản lượng.

Hoàng Hà

Đậu phộng vụ Đông Xuân trúng mùa, được giá

Nguồn tin: Báo Long An

Hiện nay, nhiều nông dân trên địa bàn huyện Đức Hòa, tỉnh Long An bắt đầu thu hoạch đậu phộng vụ Đông Xuân 2020-2021. Vụ này, nông dân phấn khởi vì đậu phộng trúng mùa, được giá.

Nông dân Đức Hòa thu hoạch đậu phộng

Vụ đậu phộng Đông Xuân 2020-2021, toàn huyện xuống giống hơn 200ha, nhiều nhất là ở các xã: Lộc Giang, An Ninh Tây, An Ninh Đông, Tân Mỹ, Đức Lập Hạ, Hòa Khánh Đông,... Ông Trần Văn Lô, ngụ ấp Chánh, xã Đức Lập Hạ, trồng 1,8ha đậu phộng, trong đó có 0,8ha thu hoạch xong, còn lại 0,6ha sẽ thu hoạch trong tháng 02 Âm lịch. Ông Lô cho biết, vụ này, thương lái thu mua với giá cao hơn cùng kỳ từ 2.000-3.000 đồng/kg. Những ngày trước, giá bán đậu phộng dao động khoảng 25.000 đồng/kg nhưng hiện nay, do bước vào thu hoạch rộ nên giá giảm nhẹ, còn 24.500-24.800 đồng/kg đậu phộng phơi khô. Vụ đậu phộng này, trừ chi phí, ông Lô lãi khoảng 30 triệu đồng/ha.

Thời tiết thuận lợi, cây đậu phộng phát triển tốt nên năng suất đạt cao, trung bình từ 3,2-3,5 tấn/ha đậu phộng khô. Một số ruộng đậu trúng mùa, năng suất đạt 4 tấn/ha.

Đậu phộng vào mùa thu hoạch cũng tạo việc làm cho không ít nhân công tại địa phương. Hiện nay, người nhổ đậu phộng được trả công khoảng 300 ngàn đồng/ngày; nhân công lặt đậu được trả 60 ngàn đồng/bao. Anh Nguyễn Quốc Việt, ngụ ấp Đức Hạnh 1, xã Đức Lập Hạ, chia sẻ, từ đầu vụ đến nay, anh phụ nhổ hơn 10ha đậu phộng nên cũng có thu nhập. Dự kiến từ 5-10 ngày nữa sẽ kết thúc đợt thu hoạch này.

Nhiều năm gần đây, diện tích trồng đậu phộng của huyện Đức Hòa giảm. Nhiều nông dân không còn mặn mà với cây trồng này vì chăm sóc vất vả, thiếu nhân công trong khâu thu hoạch. Tuy nhiên, đậu phộng vẫn được xem là cây trồng truyền thống của địa phương bởi ngoài thu nhập từ việc bán đậu phộng, nông dân còn tận dụng được nguồn phế phẩm như dây đậu để làm thức ăn trong chăn nuôi. Vì vậy, việc duy trì diện tích trồng đậu phộng của địa phương cần nhiều máy móc, thiết bị phục vụ cơ giới hóa để giảm lượng nhân công và những chính sách hỗ trợ về giá để giúp nông dân an tâm sản xuất./.

Mai Nhã

Vĩnh Long: Khoai lang tím Nhật giá 750.000 đ/tạ, nông dân lời cao

Nguồn tin: Báo Vĩnh Long

Nông dân Lê Thanh Phong ở ấp Hưng Lợi (xã Tân Hưng- Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long) cho biết, từ cuối tháng Chạp năm 2020 đến nay, khoai tím Nhật có giá khoảng 750.000 đ/tạ, năng suất bình quân 3,5 tấn/công, cho thu nhập khoảng 40 triệu đồng/công. Với chi phí đầu tư khoảng 16 triệu đồng/công đất nhà và 19- 20 triệu đồng/công đất thuê thì với mức giá hiện nay, nông dân có lời nhiều.

Theo Phòng Nông nghiệp- PTNT Bình Tân, hiện còn khoảng hơn 3.000ha khoai lang trên ruộng chưa thu hoạch. Trước Tết Nguyên đán 2021, có thời điểm khoai tím Nhật rớt giá mạnh, còn 200.000 đ/tạ do tiêu thụ gặp khó. Từ sau tết đến nay, tiêu thụ tăng trở lại nên giá khá cao. Cùng với đó, các loại khoai tiêu thụ nội địa như khoai đỏ hiện có giá 450.000 đ/tạ, khoai sữa 550.000 đ/tạ, khoai trắng 600.000 đ/tạ…

Cũng theo Phòng Nông nghiệp- PTNT Bình Tân, do điều kiện thổ nhưỡng thuận lợi nên khoai lang được trồng quanh năm, tập trung nhiều ở các xã Thành Trung, Tân Thành, Tân Hưng... Nông dân trồng nhiều nhất là khoai tím Nhật (chiếm 80% diện tích xuống giống).

Tin, ảnh: TUYẾT XUÂN

Với hơn 800 ha, hồ tiêu vẫn được xem là một trong những cây trồng chủ lực của nông dân huyện Ðức Linh

Nguồn tin: Báo Bình Thuận

Thăng trầm “vị cay” của tiêu

Với hơn 800 ha, hồ tiêu vẫn được xem là một trong những cây trồng chủ lực của nông dân huyện Ðức Linh (tỉnh Bình Thuận). Thế nhưng, những năm qua giá tiêu xuống thấp cộng với tình trạng bệnh “chết nhanh, chết chậm” ở cây tiêu đã khiến nhiều nông hộ trồng tiêu điêu đứng. Ðâu là giải pháp để vượt qua những khó khăn nhưng vẫn giữ được “hương vị cay” của tiêu không chỉ là trăn trở của người trồng tiêu mà của cả ngành chức năng.

Xa rồi “vàng đen”

5 năm trở về trước, khi nhắc đến các xã Đức Hạnh, Đức Tín, Đông Hà, Trà Tân… của huyện Đức Linh người ta thường nhớ ngay đến vùng trồng tiêu nổi tiếng của tỉnh. Thời điểm này, nhờ cây tiêu mà cuộc sống của người dân nơi đây trở nên sung túc, cây tiêu vì thế mà cũng trở thành cây trồng chủ lực của địa phương.

Những lão nông trên vùng đất này kể lại, cây tiêu có mặt ở Đức Linh trên 30 năm, do phù hợp với thổ nhưỡng của đất núi, nên tiêu Đức Linh có vị thơm và cay nồng, được người tiêu dùng ưa chuộng.

Ông Đỗ Xanh ở thôn 4, xã Đức Hạnh, bắt đầu trồng tiêu từ năm 1995, ban đầu ông chỉ trồng hơn 2 sào, nay vườn tiêu của gia đình ông lên đến 1 ha. Ông Xanh bồi hồi nhớ lại: “Nhiều năm gắn bó với cây tiêu, gia đình ông từng trải qua những giai đoạn thăng trầm của nó. Từ năm 2016 trở về trước, giá tiêu rất cao, có khi lên đến 220.000 đồng/kg. Năng suất thời điểm đó cũng ổn định, bình quân 4 tấn/ha. Khi ấy chúng tôi gọi cây tiêu là “vàng đen”, nhờ nó mà cuộc sống của gia đình tôi ổn định, 3 người con được học đại học. Các con vừa ra trường thì tiêu cũng rớt giá, rồi xuất hiện bệnh “chết nhanh chết chậm”, giờ làm tiêu điêu đứng lắm”. Có dịp trở lại vùng trồng tiêu của Đức Linh vào cuối vụ thu hoạch, điều dễ nhận thấy là những vườn tiêu xanh tốt một thời nay đã không còn, lác đác chỉ còn vài vườn do người nông dân vẫn bám trụ. “Hơn 90% diện tích của bà con trồng tiêu ở xã Đức Hạnh bị chết do bệnh “chết nhanh chết chậm”. Ai còn yêu nghề, thì sẽ trồng lại và chăm sóc nhưng đa phần bà con bỏ mặc hoặc đầu tư cầm chừng. Ngoài ra thì có không ít hộ dân đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng”, ông Nguyễn Trọng Linh – Chủ tịch Hội Nông dân xã Đức Hạnh chia sẻ.

Ông Trương Quang Đến – Trưởng phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Đức Linh cho biết: Tiêu là một trong những loại cây trồng khó tính, rất dễ phát sinh dịch bệnh, nhất là bệnh “chết nhanh, chết chậm”. Những năm trước, huyện có gần 2.000 ha tiêu, thế nhưng đến nay chỉ còn khoảng 800 ha. Ngoài yếu tố do biến đổi khí hậu, mưa, nắng trái mùa, dị thường tác động đến năng suất cây tiêu, còn có yếu tố con người. Giá tiêu giảm sâu, trong khi giá vật tư nông nghiệp, thuê nhân công thu hái, chăm sóc không giảm. Chính điều này đã khiến nông dân thiếu đầu tư chăm sóc và đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến năng suất cũng như diện tích của vườn tiêu giảm mạnh.

Vẫn nặng lòng với cây tiêu

Hơn 20 năm gắn bó với nghề trồng tiêu, hiện gia đình ông Đỗ Dương ở xã Đức Hạnh, huyện Đức Linh, đang có 2 ha tiêu. 3 năm trở lại đây, hộ ông đã chuyển sang trồng tiêu hữu cơ, sử dụng hệ thống tưới phun tự động nên các vườn tiêu xanh tốt và cho năng suất trung bình từ 3, 5 – 4 tấn/ha. Ông Dương cho biết: “Trong giai đoạn hiện nay, muốn bền vững thì phải sản xuất theo xu thế thị trường. Thị trường thế giới hiện nay luôn có nhu cầu sử dụng tiêu sạch; làm được điều này thì mình không lo đầu ra cho sản phẩm và giá thị trường”.

Cũng là người gắn bó lâu năm với cây tiêu, gia đình ông Nguyễn Nam Sơn ở xã Đông Hà vẫn tiếp tục kiên trì với cây tiêu. Ông Sơn cho biết, sau nhiều năm thay vườn tiêu đã già cỗi thành vườn tiêu mới, vườn tiêu 1,5 ha của gia đình ông đang vào giai đoạn thu hoạch. Mặt khác, để lấy ngắn nuôi dài, ông trồng xen kẽ các loại cây ăn trái như thơm, chuối, mãng cầu, bưởi… mỗi tháng cũng mang về cho gia đình khoảng trên dưới 10 triệu đồng.

“Dù cây tiêu không còn được giá như trước nhưng chúng tôi cũng không muốn chuyển đổi sang cây khác vì đã gắn bó với cây tiêu từ nhiều năm nay, đã hiểu và biết cách chăm sóc” - ông Sơn chia sẻ.

Cũng theo Trưởng phòng Nông nghiệp & PTNT huyện Đức Linh: Những nông hộ đang giữ cây tiêu là những người đã có nhiều năm gắn bó cũng như kinh nghiệm trong việc chăm sóc, trồng tiêu. Do đó họ luôn hy vọng giá thành cây tiêu sẽ quay trở lại, hiện nay giá tiêu đang nằm ở mức 70.000 đồng/kg, so với những loại cây trồng khác, hiệu quả cây tiêu mang lại vẫn cao. Trên cơ sở định hướng của ngành nông nghiệp, thời gian gần đây, nhiều nông hộ ở Đức Linh đã chuyển sang tái canh vườn tiêu theo hướng an toàn sinh học. Cây hồ tiêu được chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật, hạn chế thuốc bảo vệ thực vật. Đặc biệt, nhờ sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh nên vườn tiêu luôn xanh tốt, cho năng suất ổn định…

Thanh Nhàn

Lâm Đồng: Cà chua NT8 năng suất cao ở Đơn Dương

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Sau 80 ngày trồng khảo nghiệm nguồn giống cà chua NT8 do Trung tâm Nghiên cứu Khoai tây, Rau và Hoa (Viện Khoa học kỹ thuật miền Nam) chọn tạo, nhiều hộ nông dân ở vùng rau Đơn Dương (tỉnh Lâm Đồng) đã thu hoạch đạt năng suất cao hơn gấp đôi so với các giống cà chua thông thường.

Cà chua giống NT8 đạt năng suất 75-80 tấn/ha ở thị trấn Thạnh Mỹ, huyện Đơn Dương

Tại khu vườn 1.000 m2 diện tích cà chua NT8 ngoài trời đang bước vào thời điểm thu hoạch sau 80 ngày xuống giống trồng, chăm sóc theo kỹ thuật hướng dẫn của Trung tâm Nghiên cứu Khoai tây, Rau và Hoa, chủ vườn là ông Nguyễn Công Du cho biết năng suất đạt mỗi cây từ 3 - 4 kg quả. Với mật độ trồng 2.700 cây/1.000 m2, ông Du ước tính thu hoạch sản lượng khoảng 8 tấn, tăng hơn 4 tấn so với giống cà chua thông thường trồng đối chứng trên diện tích 1.000 m2 tọa lạc trên cùng thửa đất thuộc thôn Suối Thông B, thị trấn Thạnh Mỹ, huyện Đơn Dương. Chưa kể nguồn giống hạt cà chua NT8 đầu tư giá mua thấp hơn 50% so với nguồn giống cà chua ghép thông thường trên thị trường.

“Qua sản xuất trong vòng 60 ngày sau khi trồng giống cà chua ghép thông thường, kiểm tra thường thấy xuất hiện các loại bệnh virus gây héo rũ vàng lá, quả chín sớm. Trong khi đó, giống cà chua NT8 gieo trồng bằng hạt vẫn sinh trưởng cành lá tốt tươi, quả chắc cứng, chứng tỏ khả năng đề kháng mạnh mẽ đối với các loại bệnh gây hại...”, chủ vườn Nguyễn Công Du chia sẻ.

Được biết, trước khi trồng cà chua NT8 trên diện tích 1.000 m2 ở thôn Suối Thông B, thị trấn Thạnh Mỹ, huyện Đơn Dương vừa nêu, ông Nguyễn Công Du trồng rau bắp cải ngoài trời. Nếu tính đơn giá cà chua ở thời điểm đạt mức 10.000 đồng/kg trong năm 2020 thì lợi nhuận tăng khoảng 3 - 4 lần so với trồng cây bắp cải. Hơn nữa việc trồng cà chua NT8 luân canh với rau bắp cải đã góp phần đáng kể phục hồi vi sinh vật có ít trong đất, không chỉ đảm bảo dinh dưỡng cho cây trồng mà còn ngăn chặn và phòng trừ hiệu quả nấm bệnh, côn trùng phát sinh trong các mùa mưa, nắng trong năm.

Sau khi tham quan, tìm hiểu mô hình trồng cà chua NT8 của hộ ông Nguyễn Công Du đạt năng suất và chất lượng cao nói trên, ông Nguyễn Duy Phước ở cùng địa bàn thôn Suối Thông B, thị trấn Thạnh Mỹ, huyện Đơn Dương bày tỏ dự định: “Trong tháng 3/2021, hộ gia đình chúng tôi thu hoạch xong 4.000 m2 diện tích xà lách trong nhà lưới sẽ chuyển sang trồng toàn bộ giống cà chua thực sinh NT8 ngoài trời, tổng số 12.000 cây...”.

Theo ông Lê Công Thôn, một nhà nông sản xuất cà chua kinh nghiệm lâu năm ở thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng đánh giá, giống cà chua NT8 của Trung tâm Nghiên cứu Khoai tây, Rau và Hoa đã thể hiện đặc tính thích nghi với khí hậu, thổ nhưỡng ở huyện Đơn Dương nói riêng, ở Đà Lạt và vùng phụ cận nói chung. Kết quả thu hoạch cà chua NT8 bên cạnh đạt năng suất vượt trội còn đậu quả hình dạng căng tròn, khi chín có màu sắc tươi đỏ, bắt mắt người tiêu dùng...

Đáng kể với ông Nguyễn Hồng Phong, chủ Doanh nghiệp Phong Thúy ở thị trấn Liên Nghĩa, Đức Trọng cho rằng, giống cà chua NT8 trồng khảo nghiệm thành công ở Đà Lạt, Đơn Dương và các vùng phụ cận đạt kết quả cao về năng suất, kích thước quả chín khá đồng đều, quả cứng, ít hao hụt khi vận chuyển tiêu thụ đường dài, triển vọng cạnh tranh tích cực trên thị trường. Đặc biệt, khi phổ biến rộng rãi đến nông dân Đà Lạt và các vùng phụ cận trồng trên những cánh đồng lớn, giống cà chua NT8 sẽ góp phần giúp ngành nông nghiệp cả nước chủ động nguồn giống nội địa chất lượng cao, giá thành thấp, xuất đầu tư “phổ thông” cho nhiều vùng nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng và của cả nước.

Trao đổi với phóng viên, Thạc sỹ Nguyễn Thế Nhuận, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Khoai tây, Rau và Hoa cho biết, trên địa bàn huyện Đơn Dương đã nhân rộng có kết quả 4 ha cà chua NT8. Riêng Đà Lạt và Đức Trọng, mỗi địa bàn cũng đã trồng khảo nghiệm thành công 1.000 m2 NT8 với năng suất trung bình 75-80 tấn/ha. Nguồn giống cà chua NT8 của Trung tâm Nghiên cứu Khoai tây, Rau và Hoa nghiên cứu, chọn tạo, sản xuất hạt giống từ năm 2016 và đưa ra khảo nghiệm từ năm 2018 đến nay. Mục tiêu của Trung tâm này là chuyển giao khoa học kỹ thuật giúp nông dân Đà Lạt và các vùng phụ cận nhân rộng ngày càng nhiều diện tích cà chua giống NT8 cạnh tranh tích cực trên thị trường.

VĂN VIỆT

Câu chuyện 'Ngôi làng thần kỳ' và thông điệp cho phát triển nông sản

Nguồn tin:  Báo Chính Phủ

Từ câu chuyện "Ngôi làng thần kỳ" tại Nhật Bản, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan đưa ra thông điệp: Phát triển sản phẩm nông nghiệp phải dựa trên niềm tin của người tiêu dùng. Muốn có được sản phẩm giá trị cao và phát triển bền vững, chính quyền các địa phương cần đẩy mạnh hơn nữa vai trò kết nối giữa người sản xuất với doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan (đứng giữa) cùng lãnh đạo Sở NN&PTNT Hà Nội và huyện Mê Linh thăm cánh đồng xã Tráng Việt - Ảnh: VGP/Đỗ Hương

Thông điệp được đưa ra sau buổi thực địa và làm việc của Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan cùng Sở NN&PTNT Hà Nội và UBND xã Tráng Việt, huyện Mê Linh (Hà Nội).

Không có nông nhàn

Những ngày qua, người ta bắt gặp câu chuyện về củ cải Tráng Việt (Mê Linh, Hà Nội) bị rớt giá, có lúc phải đổ bỏ. Nghe được câu chuyện này, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan đã đích thân xuống xem xét tình hình sản xuất thực tế tại địa phương này.

Từng là một xã nghèo thuộc huyện Mê Linh, đến nay Tráng Việt đã trở thành vựa rau của cả Hà Nội với thu nhập trung bình 60-70 triệu đồng/người/ năm.

Theo ông Đàm Văn Thìn, Phó Chủ tịch xã Tráng Việt, việc cơ giới hóa công tác làm đất, tưới tiêu đã giúp tăng năng suất, chất lượng của rau xã. Người dân được giải phóng sức lao động nên chỉ cần tập trung thu hoạch, chế biến. Khâu chế biến không quá nặng nhọc đã tận dụng được tối đa lực lượng lao động trên địa bàn. "Nhiều cụ ở tuổi 75-80 vẫn có thể ngồi sơ chế rau cho các hợp tác xã (HTX), với mức lương 20.000–25.000 đồng/giờ, giúp cải thiện đời sống. Ở Tráng Việt không có nông nhàn”, ông Thìn nói.

Vụ gối vụ đã giúp đời sống người dân khấm khá lên. Nhiều hộ đã trở thành đầu mối mua rau của toàn xã. Rau cứ trồng được 25 đến 30 ngày sẽ được thu mua tại ruộng, sau thu mua người trồng rau được trả công chăm sóc tiếp đến khi thu hoạch. Điều này cũng khiến người trồng trọt an tâm phần nào trước rủi ro “lật kèo” từ thương lái.

Rau xã Tráng Việt đang cung cấp cho toàn bộ TP. Hà Nội - Ảnh: VGP/Đỗ Hương

Tuy vậy, ông Thìn cũng chia sẻ: “Nhiều khi cũng có 'tai nạn' trong sản xuất. Như cuối năm 2020 vừa qua có một diện tích rau 'hát ngồng' (không phát triển được đến khi thu hoạch) làm chúng tôi rất lo lắng. Tìm hiểu ra thì do thời tiết thuận lợi, rau lên tốt, nhiều bà con tiếc giống, đáng nhẽ ngâm giống rồi gieo trồng luôn mới đúng kỹ thuật thì lại đem một lượng trữ ở tủ lạnh rồi sau đó mang ra dùng dần mới bị như vậy”.

Mới đây nhiều nơi thông tin về rau củ bị đổ bỏ tại Tráng Việt do rớt giá, nhưng thực tế không có việc đó. “Bởi lượng rau củ sấy khô hiện đang có giá từ 80.000-100.000 đồng/kg nên các sản phẩm dùng được vẫn giữ để sấy khô, coi như một loại tài sản tích lũy trong nhà. Rau củ được chở ra đồng là dạng phế phẩm ủ làm màu mỡ cho đất chứ không phải đổ bỏ”, ông Thìn giải thích.

Lắng nghe câu chuyện tại cánh đồng Tráng Việt, Thứ trưởng Lê Minh Hoan đặt câu hỏi :“Ai là người đang thu mua cho bà con? Giờ có người mua giá nhích lên chút bà con có bán không?”. Ông cũng chia sẻ với chính quyền địa phương: “Đó là điều doanh nghiệp (DN) ngại nhất khi vào thu mua nông sản. Bà con phải giữ chữ tín và san sẻ rủi ro với thương lái thì việc thu mua mới bền vững được”.

Đưa niềm tin và cảm xúc vào sản phẩm

Sau buổi thực địa trên cánh đồng xã Tráng Việt, Thứ trưởng Lê Minh Hoan đã làm việc với Sở NN&PTNT Hà Nội cùng với lãnh đạo huyện Mê Linh, xã Tráng Việt. Tại buổi làm việc, Thứ trưởng Lê Minh Hoan chia sẻ câu chuyện về “ Ngôi làng thần kỳ” Kawakami (tỉnh Nagano, Nhật Bản).

Những năm 1960 -1970 Kawakami là ngôi làng hẻo lánh và có khí hậu lạnh, đất cằn cỗi, nằm trong số những làng nghèo nhất Nhật Bản. Sau chiến tranh, người Mỹ đến nước Nhật khá đông. Khi đó nhu cầu về xà lách cho người Mỹ ở Nhật tăng lên mà xà lách ưa lạnh rất thích hợp trồng tại Kawakami. Nhiều năm sau đó, nhu cầu này cũng ngày một phát triển để chế biến các món ăn phương Tây trên đất Nhật. Xà lách của Kawakami trồng bao nhiêu hết bấy nhiêu.

Đứng trước cơ hội rộng mở đó, vị trưởng làng không chỉ đốc thúc bà con sản xuất mà đứng lên kêu gọi và nhận được sự đồng thuận về việc sản xuất theo một tiêu chuẩn chung. Làng cũng có hẳn một kênh truyền hình cập nhật thời tiết, mùa vụ, giá cả thị trường để bà con tham khảo.

Thực tế việc sản xuất của làng Kawakami chỉ diễn ra trong 4 tháng, những tháng còn lại trong năm thời tiết quá lạnh không thể canh tác được gì. Tuy nhiên, ở những năm 2014, thu nhập bình quân của dân làng này đã ở mức 200.000 USD/năm, vươn lên thành một trong những ngôi làng có thu nhập cao nhất nước Nhật.

Từ câu chuyện của "Ngôi làng thần kỳ", Thứ trưởng Lê Minh Hoan nói: “Sản phẩm tốt dĩ nhiên ai cũng cần. Nhưng bây giờ muốn nâng cao giá trị của rau củ, chúng ta phải tích hợp nhiều giá trị vào đó. Sản phẩm phải có thêm giá trị thương hiệu và văn hóa của địa phương. Mà thương hiệu, văn hóa đó phải được xây dựng trên niềm tin của người tiêu dùng”. Niềm tin về sản phẩm an toàn, niềm tin về sản xuất đúng khoa học, buôn bán biết giữ chữ tín và chia sẻ chính là cơ sở để đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng ngày một nhiều hơn. Khi họ tin, yêu sản phẩm thì giá trị sẽ được nhân lên nhiều lần. Lúc đó truyền thông cũng sẽ mang tính xây dựng và kết nối hơn, đưa sản phẩm đến người tiêu dùng.

Thứ trưởng Lê Minh Hoan cũng gợi mở các hướng phát triển du lịch nông nghiệp tại Tráng Việt: “Tráng Việt không quá xa nội thành Hà Nội, nếu có những trang trại mang tính tích hợp để trải nghiệm cho trẻ em ở đô thị sẽ rất tốt. Học sinh thành phố sẽ có thực tế về nông nghiệp và các thực phẩm các em dùng hằng ngày. Xã ngay gần đền Hai Bà Trưng, nếu chúng ta biết gắn sự tích oai hùng này với định hướng sản xuất, xây dựng thương hiệu như “Rau Hai Bà” thì các dịch vụ sẽ được kích hoạt ngay trong sản xuất nông nghiệp hiện nay của địa phương. Tráng Việt đã có những bước đi rất ngoạn mục trong phát triển sản xuất nông nghiệp, nhưng chắc chắn dư địa để nâng cao giá trị cho sản phẩm của địa phương vẫn còn rất lớn”.

Đỗ Hương

Ninh Thuận: Về Phước Thái tìm hiểu nghề nuôi trâu

Nguồn tin: Báo Ninh Thuận

Đến xã Phước Thái (Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận) tìm hiểu nghề nuôi trâu, chúng tôi biết thêm một số thông tin thú vị, hết sức ngạc nhiên không ít về trâu. Trước hết là về giá trị kinh tế, lâu nay vẫn tưởng do thịt trâu ít người ăn nên giá bán rẻ, nhưng trái ngược hẳn, thực tế thịt trâu còn mắc hơn thịt bò và đã có một số người giàu lên nhờ nuôi trâu.

Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) huyện Ninh Phước, trong tổng đàn trâu gần 1.100 con của toàn huyện, có trên 50% là trâu nuôi ở xã Phước Thái. Đàn trâu của xã Phước Thái tập trung nuôi ở 2 thôn Hoài Ni và Hoài Trung, với tổng số 565 con, riêng Hoài Ni có gần 300 con. Ông Quảng Thanh, Bí thư Chi bộ thôn Hoài Ni, cho biết: “Trâu địa phương chủ yếu nuôi ở vùng đồng bào dân tộc Chăm, ngoài 2 thôn trên, ở Như Bình có 2-3 hộ nuôi; các thôn Chất Thường, Phước Đồng thuộc xã Phước Hậu lân cận cũng có nuôi nhưng ít, trung bình mỗi thôn có 3-4 hộ nuôi (4-5 con/hộ)”. Cũng theo ông Thanh, mấy năm trước vì dịch bệnh, có hộ bị chết hết cả đàn trâu nuôi, nhưng hai năm vừa rồi, nhờ không có dịch bệnh lở mồm, long móng nên đàn trâu phát triển tốt”. Thấy tình hình nuôi trâu khả quan, trước Tết, ở Hoài Ni có hộ vay thêm vốn ngân hàng để tăng đàn trâu lên 14-15 con. Đặc biệt có nhiều hộ nuôi từ 40-60 con trâu, nổi bật là các hộ: Trượng Thanh Tùng, Đậu Bắn và Hán Thu Tâm.

Anh Hán Văn Thường, Tổ trưởng một tổ tự quản thôn Hoài Ni, nuôi 27 con trâu cho biết: “Một con trâu nái được nuôi từ khi mới sinh cho đến khi trưởng thành, sinh sản là mất 3 năm. Trâu đực nuôi thịt chỉ cần hơn 2 năm có thể bán khoảng hơn 20 triệu đồng/con”. Thông thường trâu nặng khoảng 250 kg, xẻ thịt sẽ thu khoảng 80 kg thịt, tùy thời điểm, giá thịt trâu dao động 250.000-300.000 đồng/kg và luôn cao hơn thịt bò khoảng 50.000 đồng. Theo anh Thường, trâu dễ nuôi hơn bò, chỉ cần đồng có nước và nhiều cỏ là được, nhưng vì thường ngâm mình trong nước, trâu dễ bị dịch bệnh hơn và thời gian nuôi lớn cũng dài hơn so với bò nuôi vỗ béo. Bên cạnh trâu nuôi thịt, ở Hoài Trung còn có hộ anh Mai Văn Chu nuôi cặp trâu kéo, giá mỗi con trâu loại này trên 50 triệu đồng. Theo nhiều người nuôi trâu địa phương, đây được coi là cặp trâu nặng ký nhất xã, cũng là cặp duy nhất còn thuê dùng kéo xe bị lún, chở lúa ra khỏi các vùng ruộng sình thay cho phương tiện cơ giới và làm dịch vụ trạc ruộng (san phẳng ruộng). Dắt cặp trâu ra ngâm dưới nước kênh Nam, đoạn gần thôn Tà Dương, anh Chu cho biết đã nuôi chúng được 7-8 năm và nhận định chúng vẫn còn tiếp tục tăng trưởng.

Đàn trâu nuôi từ núi lùa về thôn Hoài Ni

Là xã có địa hình đa dạng, vừa đồng bằng, vừa trung du và miền núi, Phước Thái có diện tích tự nhiên gần 11.890 ha. Do điều kiện thích hợp, có nhiều đồng cỏ tự nhiên và dựa vào nguồn nước kênh Nam, từ xa xưa trâu được người dân địa phương chọn nuôi cùng gia súc khác. Theo anh Hán Văn Thường, ngay từ hồi nhỏ còn ở với cha mẹ, anh đã làm quen với nghề nuôi trâu và nay vẫn duy trì đàn trâu như một tập quán lưu truyền. Ngoài ý nghĩa để dành vốn, anh coi nuôi trâu là để nhớ về những kỷ niệm tuổi thơ, những lần cắt cỏ, chăn dắt, cưỡi trâu và đùa giỡn với trâu trên dòng kênh Nam trong xanh. Hiện nay do đồng cỏ thu hẹp vì nhường đất làm đường, thủy lợi, điện mặt trời, thỉnh thoảng người nuôi ở Hoài Ni, Hoài Trung phải cho trâu “chạy đồng” ở Như Bình hoặc Hậu Sanh (Phước Hữu) để kiếm cỏ. Bên cạnh chăn thả ở đồng, còn có nhiều bầy trâu khác được thả rong tự do trên đồi núi xa, nếu vùng có nước thì 2-3 ngày chủ trâu đi thăm một lần, nếu mùa khô ít nước thì ngày nào cũng phải đi thăm chừng. Gần đây khô hạn thường xảy ra, gây thiếu nước nên trâu thả nuôi trên núi phải lùa về đồng, về nhà.

Chị Hán Thị Chiêm, thôn Hoài Ni, chia sẻ: “Mùa này không mưa nên trên núi khan hiếm cỏ, để cung cấp thức ăn cho 25 con trâu của gia đình nuôi, tôi phải mua rơm về cho ăn”. Giá mỗi cuộn rơm (8-10 kg) là 40.000 đồng, 25 con ăn trung bình 10 cuộn/ngày, như vậy mỗi ngày chị phải tốn 400.000 đồng tiền rơm cho đàn trâu. Chị Chiêm hy vọng 3 tháng tới thu hoạch lúa trên 5 ha ruộng nhà sẽ có đồng cỏ, có rơm trữ lại đủ cho đàn trâu ăn. Theo tìm hiểu của chúng tôi, so với bò, do có vóc dáng vạm vỡ, to khỏe nên trâu ăn nhiều cỏ hơn và vì vậy việc nuôi tốn kém hơn. Về tiêu thụ cũng khác bò, trâu xẻ thịt chỉ bán quanh quẩn trong địa phương, thường nhất vào các dịp lễ, tết hoặc cưới hỏi, có nhà khi tổ chức đám cưới đặt mua 60-70 kg thịt. Ngoài thân mình và đùi, các bộ phận còn lại cũng được bán lấy thịt, như đầu trâu có giá 500.000 đồng (đầu bò chỉ 200.000 đồng) và da trâu mỗi bộ 400.000 đồng (người mua làm thực phẩm khô); cặp sừng trâu (không thịt) cũng bán được 100.000 đồng (các tư thương đem lên Đắc Lắc tiêu thụ).

Theo ông Quảng Thanh, trước kia người thành thị ít ăn thịt trâu, nhưng bây giờ đang quen dần thực phẩm bổ dưỡng này, theo đó nhu cầu tiêu thụ tăng dần. Với điều kiện đất đai rộng, có nhiều đồi núi thuận tiện để duy trì và phát triển đàn trâu, nếu có thị trường tiêu thụ ổn định, Phước Thái nói chung và Hoài Ni, Hoài Trung nói riêng sẽ tận dụng cơ hội, mở ra triển vọng mới cho nghề nuôi trâu truyền thống.

Bạch Thương

Bình Định: Nuôi bò thịt chất lượng cao ở Hoài Ân

Nguồn tin: Báo Bình Định

Hiện nay mô hình nuôi bò lai chất lượng cao đang được các hộ chăn nuôi ở huyện Hoài Ân (tỉnh Bình Định) hưởng ứng tích cực và ngày càng nhân rộng, điều này không chỉ tăng hiệu quả kinh tế mà còn góp phần xây dựng thương hiệu bò thịt chất lượng cao của huyện trong thời gian tới.

Gia đình chị Đinh Thị Điều, ở thôn Ân Thiện, xã Ân Phong nuôi bò nhiều năm nhưng hiệu quả kinh tế không cao, đầu năm 2020 chị chuyển sang nuôi bò BBB với số lượng 17con. Chị Điều cho biết, so với giống bò cỏ trước đây, công chăm sóc, thức ăn của loại bò này là như nhau, nhưng bò BBB phát triển nhanh hơn đặc biệt là giá bán cao hơn hẳn.

Nhận thấy việc nuôi bò lai chất lượng cao mang lại thu nhập ổn định, gia đình chị Nguyễn Thị Sự đã chuyển qua nuôi 25 con bò BBB từ năm 2017, hàng năm, gia đình chị xuất bán khoảng 3 lượt, thu lãi gần 300 triệu đồng.

Ngoài giống bò BBB thì các giống bò như Red Angus hay Brahman cũng đem lại hiệu quả kinh tế cao. Bên cạnh đó, để có nguồn thức ăn đầy đủ dinh dưỡng và dồi dào, các địa phương trên địa bàn huyện cũng đã tạo điều kiện để các hộ chuyển một số diện tích trồng lúa không hiệu quả sang trồng cỏ voi.

Theo Trung tâm dịch vụ Nông nghiệp huyện, từ năm 2015, các chương trình phối giống bò cho nhiều nông hộ, trang trại đã được triển khai. Tốc độ tăng từ 5-7%/ năm, đến nay trong tổng đàn bò hơn 22.000 con, đã có trên 83% là bò lai.

Ông Nguyễn Thanh Vương - Giám đốc Trung tâm dịch vụ Nông nghiệp huyện cho biết: Trong những năm tới, trung tâm tiếp tục thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, trong đó có chương trình lai tạo đàn bò chất lượng cao. Chúng tôi phối hợp với trung tâm giống, trung tâm khuyến nông của tỉnh triển khai các mô hình bò vỗ béo chất lượng cao trên địa bàn huyện và tập huấn cho lực lượng thú y viên trên địa bàn để giúp cho bà con lai tạo đàn bò. Đồng thời định hướng việc quy hoạch đồng cỏ để tạo điều kiện cho đàn bò phát triển một cách tốt nhất.

Kế hoạch trong năm 2021, Trung tâm dịch vụ nông nghiệp huyện tiếp tục hỗ trợ phối giống bò cho người chăn nuôi với số lượng 11.500 con, trong đó nhóm bò thịt chất lượng cao là 7.700 con, với tổng kinh phí hơn 1 tỷ đồng.

PHAN TUẤN (thực hiện)

Chăn nuôi theo chuỗi liên kết có là giải pháp khả thi?

Nguồn tin: VOV

Trước tình trạng chăn nuôi bấp bênh cả về đầu vào lẫn đầu ra, việc nuôi gia công cho doanh nghiệp lớn là một cách lựa chọn được xem là tối ưu.

Từ trước Tết Nguyên đán đến nay, thức ăn chăn nuôi đã 3 lần tăng giá và hiện đang cao hơn đến 30% so với thời điểm này năm ngoái. Đây là mức tăng cao nhất trong 8 năm trở lại đây. Trong khi giá thức ăn chăn nuôi tăng cao, giá gà công nghiệp lại giảm sâu, chỉ còn 23.000 đồng/kg, thấp hơn cả giá 1 kg rau xanh. Nếu tình hình không được cải thiện thì nhiều hộ chăn nuôi sẽ bị lỗ nặng và sẽ có nhiều trại gà "treo chuồng".

Anh Nguyễn Văn Phúc, chủ trại chăn nuôi ở xã Cây Gáo, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai có 120.000 con gà công nghiệp lông trắng. Giá thức ăn cho gà sau 3 lần nhích lên đã tăng từ 9.000 đồng/kg lên hơn 11.500 đồng/kg. Với mức tăng này, mỗi tháng trại gà của anh Phúc phải bỏ ra thêm hơn 900 triệu đồng tiền thức ăn cho gà.

Trong khi đó, giá gà công nghiệp lại giảm mạnh, từ mức 33.000 đồng/kg xuống còn 23.000 đồng/kg như hiện nay. Với giá gà này, người chăn nuôi lỗ 7.000 đồng/kg và lứa gà đang xuất chuồng của anh Phúc lỗ khoảng 1,8 tỷ đồng. Nếu tình trạng này kéo dài, 9 dãy chuồng nuôi gà công nghiệp của trang trại anh Phúc đành bỏ trống.

Công nhân trang trại gà anh Phúc đang chăm sóc gà.

“Tôi hi vọng giá thức ăn gia súc cũng như các yếu tố đầu vào cấu thành giá thành chăn nuôi không tăng. Cùng với đó, giá đầu ra của con gà cần khởi sắc hơn, phải đạt ở mức từ 30.000 – 31.000 đồng/kg để phù hợp với giá thức ăn, giúp người dân duy trì quá trình chăn nuôi. Với mức chênh lệch giá như hiện nay, trang trại đang lỗ nặng và nếu tình hình này kéo dài thêm 1-2 lứa gà nữa tôi sẽ ngưng nuôi", anh Phúc chia sẻ.

Theo một số doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi, giá thức ăn tăng ngất ngưởng là do nguồn nguyên liệu nhập khẩu tăng cao lên đến 80%. Sau mấy đợt tăng giá, hiện nay, giá nguyên liệu thức ăn chăn nuôi đã tăng đạt đỉnh nên có thể giá thức ăn chăn nuôi sẽ không có khả năng tăng tiếp trong thời gian tới. Nhưng để giảm được giá thức ăn chăn nuôi thì rất khó, phải cần có thời gian vì một số doanh nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi hiện nay đã nhập những lô nguyên liệu giá cao.

Ông Phạm Đức Bình, Phó Chủ tịch Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam cho rằng, chỉ cần giá thức ăn giữ được ở mức như hiện nay đã là điều đáng mừng, nhưng không có giữ được ở mức này hay không khó có thể biết trước. “Tôi nghĩ vì sự cạnh tranh, các doanh nghiệp thức ăn gia súc phải chấp nhận thua lỗ hoặc huề vốn để vượt qua khó khăn. Hiện giá nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi của thế giới đã qua đỉnh, giá thức ăn của Việt Nam cũng phải dừng lại, vì sự cạnh tranh chắc cũng không có doanh nghiệp nào dám tăng giá nữa”, ông Bình nhận định.

Các loại thức ăn gia súc đồng loạt tăng giá, nhưng giá gà thương phẩm giảm mạnh khiến nhiều người nuôi gà lỗ nặng đã phải “treo” chuồng, giãn thời gian nuôi hoặc chuyển sang nuôi gia công cho các doanh nghiệp nước ngoài để đỡ lo lắng về giá cả đầu ra, đầu vào. Bởi khi nuôi gia công, người chăn nuôi chỉ cần nuôi đạt năng suất, tỷ lệ hao hụt thấp thì sẽ có lợi nhuận.

Ông Lê Văn Quyết, Phó Chủ tịch hiệp Hội Chăn nuôi Đông Nam bộ cho biết, qua các đợt tăng già thức ăn vừa rồi, nhiều trại chăn nuôi đã phải "treo" chuồng. Chính vì thế hiện nay, chăn nuôi theo chuỗi liên kết, tức là nuôi gia công trở thành mô hình chăn nuôi tiên tiến và bền vững. “Chúng ta đưa người chăn nuôi vào chuỗi liên kết thì đầu vào và đầu ra đã cố định, lợi nhuận nhuận bao nhiêu người nuôi cũng biết trước, nếu chăn nuôi năng suất tốt thì lợi nhuận sẽ tốt”, ông Quyết cho biết.

Trước tình trạng chăn nuôi bấp bênh cả về đầu vào lẫn đầu ra, việc nuôi gia công cho doanh nghiệp lớn là một cách lựa chọn được xem là tối ưu nhất của người chăn nuôi hiện nay./.

Lệ Hằng/VOV-TPHCM

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop