Tin nông nghiệp ngày 17 tháng 8 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 17 tháng 8 năm 2019

Hơn 350 gian hàng tại Hội chợ - Triển lãm ‘Giống và nông nghiệp công nghệ cao’

Nguồn tin:  Sài Gòn Giải Phóng

Ngày 15-8, Hội chợ - Triển lãm “Giống và nông nghiệp công nghệ cao” lần VII năm 2019 đã chính thức khai mạc tại Trung tâm Công nghệ Sinh học TPHCM (quận 12), thu hút hàng trăm lượt khách tham quan.

Khách tham gia gian hàng trưng bày cây giống mới, lai tạo. Ảnh: TRÍ NHÂN

Hội chợ - Triển lãm lần này có 355 gian hàng của 161 đơn vị là doanh nghiệp, hợp tác xã, các trung tâm, các viện nghiên cứu… tham gia trưng bày, giới thiệu sản phẩm.

Các mặt hàng trưng bày tại Hội chợ - Triển lãm lần này gồm: sản phẩm nông sản, các giống cây trồng – vật nuôi mới, năng suất cao; mô hình các thiết bị sấy, trộn, phân loại nông sản; chất cải tạo đất; mô hình trồng rau thủy canh; các chế phẩm sinh học và sản phẩm đã qua chế biến…

Điểm đáng chú ý là một số gian hàng đã trưng bay nhiều các giống cây, giống con có nguồn gốc, năng suất, hướng tới giảm thiểu sử dụng hóa chất độc hại, thuốc trừ sâu, không chất bảo quản… Nhiều chuyên gia từ các đơn vị cũng tư vấn chế độ chăm sóc cây giống, chuyển giao các mô hình, thiết bị nông nghiệp để giúp cho việc nuôi trồng của bà con nông dân có hiệu quả kinh tế cao, bền vững.

Hội chợ - Triển lãm cũng trưng bày nhiều giống vật nuôi năng suất cao, khỏe mạnh. Ảnh: TRÍ NHÂN

Trong khuôn khổ hội chợ, sẽ có các hội thảo chuyên đề. Ngày 16-8, diễn ra hội thảo giới thiệu các giống cây trồng phụ tráng, lai tạo và chuyển giao kỹ thuật gieo ươm cây giống tập trung; Giới thiệu và chuyển giao các giống vật nuôi, các thiết bị khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực chăn nuôi. Ngày 17-8 sẽ có hội thảo giới thiệu và chuyển giao giống thủy sản (cá, tôm càng xanh, lươn…) và các sản phẩm, thiết bị vật tư phục vụ trong lĩnh vực thủy sản.

Hội chợ - Triển lãm diễn ra từ ngày 15-8 đến ngày 19-8-2019, là cơ hội để các đơn vị quảng bá thương hiệu, sản phẩm, trao đổi, học hỏi kinh nghiệm; đồng thời tiếp cận khoa học, công nghệ mới.

TRÍ NHÂN

Ứng phó với biến đổi khí hậu: Đảm bảo sinh kế cho người dân

Nguồn tin:  Báo Phú Yên

Người dân huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên chuyển diện tích trồng mía, sắn sang trồng đậu. Ảnh: ANH NGỌC

Hàng năm, Phú Yên phải hứng chịu nhiều dạng thiên tai do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nhất là bão lũ, nắng hạn, xâm nhập mặn… Trước thực trạng này, UBND tỉnh đã có kế hoạch hành động ứng phó và yêu cầu các địa phương triển khai các giải pháp chuyển đổi cây trồng, vật nuôi thích ứng với biến đổi khí hậu nhằm đảm bảo sinh kế cho người dân một cách bền vững.

Thời tiết ngày càng khắc nghiệt

Theo Sở TN-MT, trong bối cảnh biến đổi khí hậu hiện nay theo kiểu thời tiết điển hình là nền nhiệt độ tăng cao, điều này khiến cho tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn ở tỉnh ta ngày càng nghiêm trọng. Đây là nguyên nhân dẫn đến mất đất sản xuất của người dân, gây khó khăn đối với trồng trọt, chăn nuôi và rất dễ phát sinh các loại bệnh trên cây trồng, vật nuôi.

Theo kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng, nếu nước biển dâng 50cm thì khoảng 0,55% diện tích của Phú Yên có nguy cơ bị ngập và khi mực nước biển dâng lên 1m thì diện tích bị ngập ở tỉnh ta tăng lên 1,08%. Đặc biệt, các địa phương ven biển có nguy cơ ngập cao là huyện Đông Hòa (7,28%) và huyện Tuy An (4,46%).

Theo bà Lê Đào An Xuân, Phó Giám đốc Sở TN-MT, nước biển dâng sẽ làm mất đất sản xuất, đất lâm nghiệp và đất thổ cư cũng bị thu hẹp. Thực tế nhiều năm qua, do mực nước biển tăng cao, một số khu vực ven biển đã ăn sâu vào đất liền vài trăm mét. Tốc độ bình quân bị xâm thực hàng năm từ 10-20m, có nơi như thôn Hòa An, xã Xuân Hòa (TX Sông Cầu) và thôn Long Thủy, xã An Phú (TP Tuy Hòa) bị xâm thực khoảng 25-35m/năm.

“Thực tế đã chứng minh, những năm gần đây trên địa bàn tỉnh đã xảy ra nhiều thiên tai có nguồn gốc từ biến đổi khí hậu. Các hiện tượng này có chiều hướng tăng về cường độ, tần suất và diễn biến khó lường. Những hậu quả từ biến đổi khí hậu đưa đến là rất nghiêm trọng, kéo theo những thiệt hại về kinh tế, đời sống của người dân cũng như môi trường…”, bà Xuân nói.

Còn theo Sở NN-PTNT, tình trạng nước biển dâng và xâm nhập mặn kết hợp với hạn hán trên diện rộng cũng khiến cho sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh càng khó khăn hơn. Theo thống kê năm 2014, Phú Yên có hơn 575ha đất trồng lúa vụ hè thu không có nước để gieo sạ, phải chuyển đổi sang cây trồng khác và đến nay thì diện tích lúa phải chuyển đổi sang cây trồng khác tăng thêm khoảng 400ha.

Hiện toàn tỉnh có khoảng 600ha đất bị nhiễm mặn, tập trung chủ yếu ở các địa phương ven biển. Bên cạnh đó, do nắng hạn kéo dài khiến nguy cơ cháy rừng luôn ở mức cao và các địa phương miền núi, ven biển phải chịu cảnh thiếu nước sinh hoạt. Ông Hồ Hữu Như, Giám đốc Trung tâm Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (Sở NN-PTNT), cho biết: Hiện thời tiết vẫn tiếp tục nắng nóng kéo dài, tính đến cuối tháng 7/2019, đã có hơn 10.000 hộ dân trên địa bàn tỉnh thiếu nước sinh hoạt.

Triển khai giải pháp phù hợp

Trước thực trạng biến đổi khí hậu ngày càng bất lợi, UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch hành động để ứng phó. Theo đó, nội dung quan trọng nhất được xác định là các chính sách hỗ trợ người dân chuyển đổi đất sản xuất bị ảnh hưởng sang trồng các loại cây thích ứng nhằm đảm bảo sinh kế cho người dân.

Ông Phạm Đình Phụng, Phó Chủ tịch UBND huyện Sơn Hòa, cho biết: Huyện Sơn Hòa quyết liệt trong chuyển đổi cây trồng để phù hợp với tình hình biến đổi khí hậu, nhất là tình trạng khô hạn xảy ra ngày càng gay gắt như hiện nay. Tuy nhiên, hiệu quả việc chuyển đổi này chưa được như ý muốn. Khó khăn nhất đang gặp phải là địa phương đã có quy hoạch hẳn hoi nhưng người dân vẫn còn tự phát trong sản xuất. Khi cây sắn xuống giá, nông dân chuyển sang trồng mía và ngược lại khi cây mía rớt giá, nông dân lại trồng sắn, trồng dưa hấu, thậm chí có hộ trồng keo. Hệ lụy dẫn đến là lúc thừa, lúc thiếu và hiệu quả kinh tế rất bấp bênh.

Ông Nguyễn Trọng Tùng, Giám đốc Sở NN-PTNT, cho biết: Những năm qua, tỉnh có nhiều nguồn ngân sách của Trung ương và địa phương để thực hiện các chính sách, dự án hỗ trợ phát triển sản xuất cho người dân. Các mô hình đều hướng tới xây dựng sản phẩm chất lượng cao, phùhợp với điều kiện thời tiết ngày càng khắc nghiệt và có khả năng nhân rộng. Cụ thể như mô hình sản xuất nấm ăn và nấm dược liệu tại xã Hòa Quang Bắc (huyện Phú Hòa); mô hình ứng dụng khoa học công nghệ để trồng và chế biến cây dược liệu cà gai leo tại xã An Mỹ (huyện Tuy An). Đến nay, toàn tỉnh đã xây dựng hơn 20 mô hình cánh đồng mẫu lớn với tổng diện tích trên 2.400ha. Tỉnh đang tập trung đầu tư xây dựng một số sản phẩm nông nghiệp chủ lực, như xây dựng các vùng trồng lúa chất lượng cao. Tại các vùng có điều kiện tự nhiên phù hợp sẽ tập trung phát triển cây dược liệu và cây gia vị gắn với doanh nghiệp chế biến xuất khẩu… Mặc dù ở Phú Yên đã có những mô hình chuyển đổi sản xuất nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu, nhưng sự bất ổn của thị trường và cả sự lúng túng trong việc chuyển đổi ở địa phương khiến cho hiệu quả mang lại chưa thực sự bền vững.

Phú Yên là địa phương có đường bờ biển dài gần 190km, người dân sinh sống nhờ vào các ngành nghề liên quan đến biển như đánh bắt, chế biến, nuôi trồng thủy sản, làm muối… là rất lớn. UBND tỉnh đã có đề xuất đến các nhà khoa học, mới đây nhất là Viện Địa lý nhân văn (thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam) quan tâm nghiên cứu sâu về lĩnh vực kinh tế biển. Vì đây là một trong những nhóm ngành nghề quan trọng ở Phú Yên nhưng thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, biến đổi khí hậu và ảnh hưởng lớn đến sinh kế cũng như nguồn lực phát triển kinh tế của địa phương.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Hữu Thế

ANH NGỌC

Thừa Thiên Huế: Hạn hán gây thiệt hại lớn

Nguồn tin:  Báo Thừa Thiên Huế

Nắng hạn gay gắt, kéo dài khiến nhiều diện tích lúa, rau màu khô hạn, chết cháy, trong khi các hồ chứa khô kiệt nước không có khả năng chống hạn.

Hồ sen ở thị trấn Phong Điền (tỉnh Thừa Thiên Huế) khô kiệt nước

Hơn 5.000 ha lúa, hoa màu mất mùa

Ông Trần Thanh Đại ở xã Phong Mỹ (Phong Điền) nan giải, chưa có năm nào nắng hạn gay gắt lại kéo dài như năm nay. Từ khi bước vào gieo cấy lúa hè thu đã gặp thời tiết nắng nóng, các hồ chứa, khe suối bắt đầu có dấu hiệu cạn nước. Vào lúc cao điểm, ruộng lúa khô hạn cũng là thời điểm các ao hồ khô kiệt nước, không có khả năng cung cấp nước tưới. Hơn 5 sào lúa của gia đình ảnh hưởng nặng, hơn một nửa chết cháy, mất trắng.

Theo ông Hồ Đắc Thọ, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh, nắng nóng gay gắt, kéo dài khiến hơn 5.000 ha lúa, hoa màu vụ hè thu năm nay trên địa bàn tỉnh bị khô hạn, sâu bệnh gây hại, trong đó khoảng 3.500 ha lúa hè thu ở các huyện A Lưới, Phú Lộc, Phong Điền… mất mùa, hàng trăm ha gần như mất trắng. Nắng hạn làm nguồn nước trên các sông xuống thấp, thiếu ô xi, ô nhiễm môi trường khiến hàng trăm tấn cá lồng nuôi trên sông Đại Giang, sông Bồ bị chết.

Ruộng lúa ở Phong Mỹ khô hạn

Ông Nguyễn Minh Đức, Chánh Văn phòng Sở NN&PTNT lý giải, thật ra hạn hán đã diễn ra từ nhiều năm nay, đỉnh điểm là vài năm trở lại đây ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Trước nhu cầu chống hạn, Trung ương và tỉnh đã đầu tư xây dựng hồ chứa Tả Trạch để cung cấp nguồn nước tưới, phục vụ sản xuất, sinh hoạt; ngoài ra các công trình thủy điện bên cạnh sản xuất, kinh doanh còn có nhiệm vụ cung cấp nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp khi cần thiết. Tuy nhiên gần đây do thời tiết nắng hạn gay gắt, kéo dài khiến nguồn nước tại các hồ nhanh chóng cạn kiệt, không đảm bảo phục vụ nhu cầu tưới lúa và hoa màu.

Thuyền đánh cá trên hồ Quao đành phơi nắng

Trong khi nhiều vụ hè thu lao đao vì thiếu nguồn nước tưới, một số vùng không chủ động khâu thủy lợi (khu 3-Phú Lộc, huyện miền núi A Lưới, xã Hương Hòa (Nam Đông), vùng gò đồi Phong Điền... ) khiến nhiều diện tích khô hạn, thường xuyên mất mùa thì các địa phương, ngành nông nghiệp chậm triển khai các biện pháp ứng phó. Giải thích điều này, ông Đức cho rằng, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong điều kiện biến đổi khí hậu (BĐKH) là vấn đề không thể "ngày một ngày hai" mà cần có sự khảo sát, tính toán kỹ nhiều yếu tố như thí điểm mô hình, chọn cây trồng, vật nuôi phù hợp từng vùng đất, giải pháp về hạ tầng, thủy lợi... Đặc biệt việc chuyển đổi các diện tích lúa sang sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi khác cần tính toán kỹ vì ảnh hưởng đến an ninh lương thực tại các địa phương nên mất nhiều thời gian nghiên cứu...

Ứng phó

Theo nhận định của Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường, xu thế khí hậu tại Thừa Thiên Huế những năm gần đây và thời gian đến rất khắc nghiệt và khác biệt giữa các vùng. Từ tháng 5 đến tháng 7 hằng năm là những tháng nóng nhất với nhiệt độ nhiều ngày lên đến 39- 40 độ C. Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 25,1 độ C. Vào mùa hè, các dãy núi gây ra hiệu ứng phơn dẫn đến thời tiết khô nóng gay gắt, kèm theo hạn hán.

Chánh Văn phòng Sở NN&PTNT thông tin, thời gian qua, ngành nông nghiệp cùng các địa phương đã triển khai nhiều mô hình nông nghiệp thích ứng BĐKH. Đáng kể là một số mô hình nông nghiệp công nghệ cao ở Thủy Biều (TP. Huế), Phú Thượng (Phú Vang)... và nhiều mô hình lúa ở vùng đất nhiễm mặn, các loại dưa, khoai lang, ớt... ở vùng đất cao mang lại hiệu quả. Nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản thích ứng BĐKH cũng được ứng dụng mang lại hiệu quả kinh tế khá cao, như nuôi xen ghép tôm, cua, cá ở vùng đầm phá Tam Giang-Cầu Hai, nuôi cá lồng trên các sông và hồ thủy điện, thủy lợi.

Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra hơn 20 vụ cháy rừng quy mô khá lớn, làm thiệt hại hàng trăm ha rừng thông cảnh quan, đặc dụng và keo tràm của các hộ dân.

Hai hồ thủy điện lớn là Hương Điền, Bình Điền ngừng hoạt động sản xuất 3-4 tháng nay, không có nguồn thu nên gặp nhiều khó khăn trong hoàn trả nợ ngân hàng...

Thời gian đến, ngành nông nghiệp tiếp tục phối hợp với các địa phương khảo sát những vùng đất không chủ động nguồn nước tưới, thường xuyên khô hạn trong mùa nắng nóng để có biện pháp chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp, tính toán lại khung lịch thời vụ phù hợp với điều kiện BĐKH.

Tại vùng khu 3 (Phú Lộc) sẽ chuyển đổi một số diện tích trồng lúa thường xuyên khô hạn sang nuôi trồng thủy sản, hoặc các mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm theo mô hình trang trại, gia trại.

Hàng trăm ha trồng lúa tại các vùng ven đầm phá thuộc huyện Quảng Điền thường khô hạn, mất mùa có thể chuyển đổi sang trồng các loại cây chịu hạn như dưa, ớt, khoai lang, rau màu... hoặc đào hồ nuôi các loài thủy sản có giá trị kinh tế. Một số diện tích không chủ động nguồn nước ở huyện A Lưới, Phong Điền, Nam Đông... sẽ chuyển đổi sang trồng các loại rau sạch, mô hình nông nghiệp công nghệ cao thích ứng BĐKH, song vẫn phải tính toán đến việc đảm bảo an ninh lương lực (lúa gạo) cho các địa phương.

Hệ thống đê bao, thủy lợi được đầu tư xây dựng kiên cố, đảm bảo vững chắc trong điều kiện thời tiết, thiên tai khắc nghiệt do BĐKH. Trong số 56 hồ chứa thủy lợi lớn, nhỏ trên địa bàn tỉnh hiện có đến 20 hồ bị xuống cấp trầm trọng, ảnh hưởng đến quá trình tích nước, vận hành điều tiết phục vụ sản xuất nông nghiệp...

UBND tỉnh vừa có quyết định đầu tư gần 12 ngàn tỷ đồng để nâng cấp, sửa chữa, phát triển hệ thống hạ tầng thủy lợi từ nay đến năm 2025. Các công trình được xây dựng kiên cố, bền vừng và an toàn, đảm bảo phục vụ nhu cầu sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt cho người dân trong điều kiện BĐKH.

Bài, ảnh: Hoàng Triều

Đầu nguồn ‘khát lũ’

Nguồn tin:  Báo Đồng Tháp

Ông bà xưa có câu “Tháng 7 nước nhảy khỏi bờ” để nói về mùa nước nổi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Tuy nhiên năm nay dù đã đến trung tuần tháng 7 âm lịch song con nước vẫn biệt tăm, người dân đầu nguồn sống bằng nghề đánh bắt thủy sản “đứng ngồi không yên” ngóng nước về.

Hiện tại, huyện đầu nguồn Hồng Ngự có hơn 9.000ha đất sản xuất lúa đang chờ xả lũ, thế nhưng hiện mức nước tại các tuyến kênh đầu nguồn vẫn còn khá thấp, nước lũ còn chưa “bò” tới mé ruộng, đừng nói chi là tràn đồng.

Mực nước tại các sông đầu nguồn thấp hơn khoảng 1m so với cùng kỳ những năm trước. Ảnh: Lê Thành Trí

Cứ như thông lệ hằng năm, khi làm xong vụ lúa hè thu là bà con vùng đầu nguồn lại chuẩn bị câu lưới đón con nước về. Để chuẩn bị đánh bắt cho mùa nước năm nay, ông Võ Văn Sậy ngụ ấp 2, xã Thường Phước 1, huyện Hồng Ngự chuẩn bị trên 200 chiếc lọp đặt tôm càng xanh. Song, đã rằm tháng 7 âm lịch nhưng lọp tôm của ông Sậy vẫn còn chất đống trong nhà.

“Những năm trước, khoảng rằm tháng 6 âm lịch nước đã tràn đồng, đến đầu tháng 7 thì mực nước lên được khoảng 1,5m. Nước về sớm và nhiều chừng nào thì cá tôm trù phú chừng ấy. Những năm gần đây, nước về muộn và cũng ít hơn, nguồn lợi thủy sản cũng ít đi. Dù vậy nhưng trung bình mỗi ngày gia đình tôi cũng kiếm được vài trăm ngàn từ nghề câu lưới. Còn năm nay coi như thua rồi, rằm tháng 7 nhưng nước trên ruộng vẫn chưa có giọt nào, mực nước dưới các tuyến kênh thì vẫn còn thấp nên cũng chưa thể xuống lọp” - ông Sậy ngậm ngùi nói.

Theo nhiều nông dân vùng đầu nguồn, trong khoảng hơn 30 năm trở lại đây, năm 2019 là năm đầu tiên bà con chứng kiến hiện tượng cả cánh đồng đầu nguồn khô cạn nước vào ngay mùa nước. Với người dân vùng đầu nguồn nói riêng và vùng ĐBSCL nói chung, mùa nước nổi không phải là một hiện tượng thiên nhiên cực đoan mà chính là nguồn sống giúp vùng châu thổ này tái tạo và màu mỡ hơn.

Bà Phạm Thị Nhuộm ở xã Thường Phước 1 lo lắng: “Nước về không chỉ mang lại nhiều cá tôm cho cư dân vùng đầu nguồn mà còn mang theo lượng phù sa dồi dào, giúp ruộng đồng bổ sung chất dinh dưỡng và rửa độc sau 1 năm dài sản xuất. Năm nay dù đã rằm tháng 7 nhưng trên đồng vẫn chưa thấy nước về. Không có phù sa, đất sẽ không thể tái tạo, vụ mùa tới chắc chắn sẽ phải tốn nhiều chi phí sản xuất hơn”.

Ông Phạm Hồng Cường - Phó Chủ tịch UBND xã Thường Phước 1 cho biết, tính đến hết tháng 7, mực nước tại khu vực xã Thường Phước 1 thấp hơn cùng kỳ năm trước khoảng 1,5m. Lũ nhỏ khiến cho việc sản xuất lúa trong vụ đông xuân tới của bà con gặp nhiều khó khăn hơn. Do không mang lại phù sa, dịch bệnh không được cách ly sẽ gây áp lực lớn cho vụ mùa tới. Hiện trên địa bàn xã có trên 300 hộ dân sống bằng nghề câu lưới trong mùa nước nổi, song với tình trạng nước thấp như năm nay thì sẽ gây ra khó khăn rất nhiều cho bà con.

Hiện nay, toàn huyện Hồng Ngự có khoảng 9.000ha đất sản xuất lúa của bà con nông dân đang chờ xả lũ, tập trung tại các xã: Thường Phước 1, Phú Thuận A, Phú Thuận B, Long Khánh... song do mực nước tại các sông hiện nay còn khá thấp nên nước vẫn chưa thể tràn đồng.

Không riêng ở huyện Hồng Ngự, các địa bàn lân cận như TX.Hồng Ngự, huyện Tân Hồng cũng rơi vào tình trạng “khát lũ” tương tự, nhiều cánh đồng cỏ đã lên xanh um nhưng con nước vẫn còn “ì ạch” mãi chưa tràn lên đồng.

Đồng ruộng các huyện đầu nguồn “khát lũ”

Ông Trần Phước Lộc - Trưởng Phòng Kinh tế TX.Hồng Ngự cho biết: “Ngoài việc bị động trong vấn đề xả lũ cho đất lúa nghỉ ngơi thì các mô hình sinh kế trong mùa lũ của địa phương cũng phải chịu cảnh “phá sản”. Nhằm giúp người dân tăng thu nhập, phát triển sinh kế bền vững trong mùa nước nổi năm 2019, địa phương dự kiến triển khai một số mô hình sinh kế như nuôi giữ cá tự nhiên, nuôi tôm càng xanh... song do lũ thấp và về muộn nên các mô hình này gần như không thể triển khai”.

Theo Trung tâm Khí tượng Thủy văn tỉnh Đồng Tháp, trong tháng 7 dương lịch, do mực nước tại khu vực thượng nguồn sông Mê Kong vẫn ở mức rất thấp, nên mực nước các nơi trong tỉnh vẫn chịu ảnh hưởng chính của thủy triều biển Đông và ở mức rất thấp, thấp hơn trung bình nhiều năm từ 0,2 - 1m. Theo dự báo, nhiều khả năng đỉnh lũ năm nay chỉ ở mức báo động 1 và báo động 2, thấp hơn đỉnh lũ năm 2018 và cùng kỳ nhiều năm. Đỉnh lũ cao nhất năm tại khu vực đầu nguồn xuất hiện vào cuối tháng 9 đầu tháng 10 dương lịch.

Từ bao đời nay, người dân vùng đầu nguồn nói riêng và khu vực ĐBSCL nói chung đã thích nghi và quen với cảnh “sống chung với lũ”. Song, tình trạng ngay mùa lũ nhưng đồng bằng lại “khát nước” đã không còn là viễn cảnh mà nó đã và đang tác động tiêu cực đến sản xuất và sinh kế của người dân. Theo các chuyên gia, lũ năm 2019 được dự báo thấp so với cùng kỳ nhiều năm là do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, song nguyên nhân trực tiếp nhất vẫn là do các đập ở đầu nguồn giữ nước để làm thủy điện. Sẽ ra sao khi ĐBSCL thiếu nước, trong khi chờ các nhà khoa học và ngành chức năng tìm hiểu nguyên nhân, giải pháp thì việc cần làm bây giờ là tìm kiếm các mô hình sản xuất phù hợp, nhằm thích ứng với một đồng bằng nhiều khả năng nước ngọt không còn dư dả như xưa.

Mỹ Lý

Nông nghiệp công nghệ cao… lao đao sau lũ

Nguồn tin:  Báo Lâm Đồng

Cánh đồng rau hoang tàn sau cơn lũ

Cả gia sản đổ vào nhà kính

Trong cơn lũ vừa qua, nếu như Lạc Dương (Lâm Đồng) là huyện chịu ảnh hưởng lớn nhất về nông nghiệp thì khu vực sản xuất thuộc vùng hạ lưu suối Đạ Nghịt (xã Lát) lại chịu thiệt hại nặng nề nhất trong huyện. Dòng nước dâng cao cuồn cuộn, đục ngầu đã cuốn phăng không chỉ hoa màu mà cả những nhà kính kiên cố của nông dân.

Nước mắt và đau xót là những thứ còn lại với bà Cao Thị Mai - người dân sản xuất tại đây khi tận mắt chứng kiến tài sản hơn 8 sào bắp cải sắp đến kỳ thu hoạch bị cuốn trôi theo dòng nước. Và nhiều nông dân khác cũng chỉ biết bàng hoàng đứng nhìn nhà kính đổ sập và trôi tuột.

Cơn lũ tràn qua, bùn đất, đá sỏi vùi lấp cả một vùng nông nghiệp từng mỡ màng, xanh mướt và cho nguồn thu lớn. Suối Đạ Nghịt ngày thứ ba sau cơn lũ dữ vẫn chảy cuồn cuộn như xát thêm muối vào nỗi đau của người dân nơi đây. Ngồi thất thần trong căn nhà tiền chế phủ dày bùn đất, vợ chồng ông Nguyễn Xuân Dung (65 tuổi) xót xa: “Khu nhà kính rộng 1,2 ha thì có đến hơn một nửa bị nước lũ cuốn trôi, hư hại hoàn toàn. Phần còn lại nilong bao quanh bị nước xé toang, các trụ sắt xiêu vẹo, nghiêng ngả và để sửa chữa còn tốn kém hơn cả thay mới. Riêng về nhà kính đã thiệt hại ít nhất 1,5 tỷ đồng”.

Người dân sống lâu năm bên con suối Đạ Nghịt và cả những người sản xuất đều khẳng định rằng: “Mưa lớn đến mấy, nước cũng chưa bao giờ tràn bờ suối”. Đó là lý do cách đây hơn 10 năm, ba anh em ông Dung cùng bán hết đất đai tại Phường 8 (TP Đà Lạt) để đầu tư trồng lá mè, rau, hoa trong nhà kính tại nơi này với tổng diện tích lên đến hơn 3 ha.

“Thực tế, gần chục năm qua, chưa bao giờ nước ở suối Đạ Nghịt lại lên cao, lên nhanh kinh hoàng như thế. Lũ về quá nhanh lại xảy ra trong đêm, công nhân cũng chỉ biết hô hào nhau tháo chạy. Đến sáng hôm sau, mọi thứ đã chìm trong dòng nước cuồn cuộn. Đồ đạc còn kê cao chạy lũ chứ rau màu xuống giống rồi thì sao mà nhổ mang theo được. Mất trắng diện tích sản xuất ngoài trời đã đành, cả dàn nhà kính được dựng kiên cố bằng hệ thống cột thép V5 vững chắc cũng bị cuốn phăng” - ông Nguyễn Xuân Duy (em trai ông Dung) thẫn thờ kể lại.

Những người phụ nữ trong gia đình này gần như suy sụp, họ không dám ra nhìn đống ngổn ngang trên mảnh đất của mình. Bởi khu sản xuất công nghệ cao của ba anh em ông Dung cho thu nhập trung bình 150 triệu đồng/tháng nay dây điện, ống tưới ngổn ngang, mái vòm rơi xuống xiêu vẹo, khu vực gần bờ suối chỉ còn trơ cọc sắt, 10 máy mô tơ bơm nước bị cuốn trôi theo dòng nước lũ.

Ông Trần Đình Thể, Phó Chủ tịch UBND xã Lát cho biết: Thiệt hại từ đợt lũ quá nặng nề, người dân có diện tích sản xuất dọc theo suối Đạ Nghịt gần như mất trắng 100% hoa màu. Nhiều diện tích canh tác nhà kính bị lũ cuốn, một số bãi bồi trù phú thuận lợi cho canh tác rau màu bị đất cát, đá sỏi phủ lấp...”. Theo thống kê của huyện Lạc Dương, đợt mưa lũ vừa qua đã tàn phá hơn 200 ha đất sản xuất hoa màu. Trong đó, ngập 73 ha nhà kính và có trên 4 ha nhà kính bị sập và hư hỏng hoàn toàn.

Màu xanh nơi hạ lưu suối Đạ Nghịt đã nhường chỗ cho sắc màu xám bạc. Trên gương mặt những nông dân đầy lo toan, chưa dám nghĩ gì sẽ làm tiếp cho mùa vụ mới trên chính mảnh đất của mình. Nông nghiệp công nghệ cao (NNCNC) đã thực sự “lao đao” sau lũ ở nơi này.

Những vật dụng sản xuất ngổn ngang khi cơn lũ đi qua

Câu chuyện cũ… hậu quả mới

Hiệu quả kinh tế mang lại cho người dân Lâm Đồng nói chung và nông dân khu vực Đà Lạt, Lạc Dương từ việc đẩy mạnh NNCNC, hay cụ thể hơn là sản xuất rau, hoa trong nhà kính là điều đã nhìn thấy được. Nếu nông dân ở những vùng khác chỉ thu nhập mỗi năm khoảng 60 triệu đồng/ha thì ở những khu vực này, con số trung bình lên tới trên 300 triệu đồng/ha, lợi nhuận trên 40% doanh thu. Đặc biệt, có những hộ thu nhập từ 1 đến vài tỷ đồng/ha.

Tuy vậy, hiện nay, tại không ít vùng sản xuất nông nghiệp ở những nơi này, chính người dân cũng thừa nhận rằng: “hạt mưa không thể rơi xuống đất”, bởi nhà kính mọc lên quá nhanh và quá nhiều. Ông Nguyễn Duy Hưng - Phó Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Lạc Dương cho biết, địa phương hội tụ đầy đủ điều kiện để phát triển NNCNC, chính vì vậy, hiện nay xây dựng nhà kính được phát triển một cách tự do và gần như thả nổi tùy vào khả năng của từng hộ gia đình. Việc phát triển này đã và đang mang lại nhiều hệ lụy cho Lạc Dương, trong đó có cơn lũ vừa qua khiến nông dân mất mát tiền tỷ sau lũ.

Còn ông Lại Thế Hưng - Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho rằng: Việc phát triển quá nhanh nhà kính trên địa bàn TP Đà Lạt và các huyện lân cận đã có tác động rất lớn đến cảnh quan cũng như môi trường. Nhà kính đem lại lợi nhuận kinh tế cao cho người dân nên chúng ta không thể cấm người dân khi họ có nhu cầu xây dựng. Việc nhà kính nối nhà kính, không có một khoảng không gian xanh nào cũng đã khiến cho Đà Lạt và vùng phụ cận nóng lên trong mùa nắng và ngập úng nhanh, cục bộ vào mùa mưa…

Thực tế, trận lũ vừa qua đã gây ảnh hưởng nặng đến những khu vực bị san ủi để làm nhà kính. Kết cấu vùng đồi núi bị phá vỡ, dòng chảy, cách thẩm thấu nước đều bị thay đổi. Mưa kéo dài, nước đổ xuống các dòng suối khiến mực nước dâng nhanh, gây thiệt hại cho các khu sản xuất, đặc biệt là vùng ven suối.

Tỉnh Lâm Đồng cũng đã nhìn nhận rõ những vấn đề đặt ra từ phát triển NNCNC nói chung và nhà kính nói riêng. Theo ông Phạm S - Phó Chủ tịch UBND tỉnh: Việc dùng nhà kính để sản xuất nông nghiệp đem lại nhiều lợi ích, đặc biệt là việc ứng dụng nông nghiệp 4.0, tăng năng suất, giảm công lao động và hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, việc phát triển nhanh nhà lưới, nhà kính trong phát triển NNCNC đã và đang gây ra nhiều hệ quả: ngập úng cục bộ, nhiệt độ tăng cao, môi trường ô nhiễm...

Còn tại huyện Lạc Dương, nơi mà phát triển NNCNC được xem là một trong những hướng đi mũi nhọn, địa phương này cũng đã xây dựng quy hoạch phát triển vùng NNCNC và giữ con số ổn định đến năm 2025 có khoảng 1.000 ha nhà kính. Song song với đó là khuyến khích người dân phát triển cây trồng năng suất chất lượng như cà phê đặc sản, dược liệu và sản xuất nông nghiệp hữu cơ ngoài trời. Đó là một trong những giải pháp nhằm hạn chế nhà kính và phát triển NNCNC bền vững mà ngành nông nghiệp huyện Lạc Dương hướng đến.

Vấn đề đặt ra ở đây và những hệ lụy từ nhà kính không còn là câu chuyện mới mà hậu quả trực tiếp liên quan đến nông dân thì luôn mới và ngày càng nặng nề. Những khuyến cáo và định hướng đã được đưa ra, nhưng bản thân nông dân cũng phải có lựa chọn rõ ràng. Từ đó, vấn đề đầu tư sản xuất nông nghiệp, nhất là NNCNC không chỉ đơn thuần là đi theo xu thế và rơi vào tình cảnh mang gia sản ra đánh cược trước sự bất thường của tự nhiên mà một trong những nguyên nhân do biến đổi khí hậu.

Ông Phạm S - Phó Chủ tịch UBND tỉnh: Không đánh đổi việc phát triển kinh tế để ảnh hưởng đến môi trường

Lâm Đồng đã chỉ đạo các ngành liên quan đưa ra các giải pháp để phát triển NNCNC bền vững. Điển hình như nghiên cứu các loại cây trồng nên và không nên dùng nhà kính để người dân theo đó áp dụng. Khuyến khích phát triển một số loại cây trồng ngoài trời đem lại lợi ích kinh tế cao mà vẫn giữ được cảnh quan môi trường. Song song với đó, yêu cầu địa phương tuyên truyền với người dân về việc hạn chế sử dụng nhà kính trồng trọt nếu không cần thiết.

Ông Lại Thế Hưng - Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật: Lựa chọn cây trồng để phát triển và bảo vệ môi trường

Việc chủ trương phát triển những loại cây trồng vẫn mang lại lợi ích kinh tế mà không cần trồng trong nhà kính như atiso, đương quy... sẽ tạo ra các mảng xanh để bảo vệ môi trường, đồng thời giúp người dân không phải tốn nhiều chi phí trong phát triển nông nghiệp.

Ông Nguyễn Xuân Dung: Khắc phục nhưng chưa dám đầu tư lại

Để sản xuất lại, gia đình tôi cũng như nhiều nông hộ nơi này phải dọn sạch hàng chục tấn đất, đá, bùn, vệ sinh lại khu vực sản xuất. Nhưng còn chuyện dựng lại nhà kính hay không là điều chưa dám chắc. Mất mát quá lớn nên chúng tôi không dám một lần nữa vay mượn rồi “đánh cược” cả gia sản lên mảnh đất này. Chúng tôi không còn đủ tự tin vào kinh nghiệm “bắt mạch thời tiết” khi mà quy luật của thiên nhiên, của con nước bây giờ đã không còn như trước.

NHÓM PV

Thị xã Long Mỹ (Hậu Giang): Đề án phục hồi quýt đường Long Trị đạt 50% hiệu quả

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Từ năm 2017 đến nay, thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang đã hỗ trợ 11 nhà vườn ở xã Long Trị thực hiện Đề án “Phục hồi và nâng cao chất lượng cây quýt đường Long Trị trên địa bàn thị xã Long Mỹ”, với 9ha. Qua khảo sát, ngành chuyên môn đánh giá có 50% diện tích đạt được hiệu quả, sinh trưởng tốt và đang trong giai đoạn cho trái chiếng. Những diện tích không đạt theo yêu cầu đề án là do nhà vườn không tuân thủ quy trình chăm sóc của ngành chuyên môn hướng dẫn, trồng xen nhiều loại cây trồng khác dẫn đến cây không đủ dưỡng chất để phát triển.

Nhiều diện tích quýt đường Long Trị được cải tạo sinh trưởng tốt.

Được biết, theo đề án, nông dân được ngành chuyên môn hướng dẫn quy trình kỹ thuật trồng quýt để phòng ngừa bệnh vàng lá thối rễ, cách đắp mô cao hơn mặt nước 4-6 tấc, sử dụng phân hữu cơ và chế phẩm sinh học. Về cây giống, được Trung tâm giống tỉnh Hậu Giang ghép đạt chất lượng cao, sạch bệnh.

Tin, ảnh: HOÀNG NHÂN

Trước thông tin ùn ứ thanh long tại các cửa khẩu: Nông dân Bình Thuận vẫn mua bán bình thường

Nguồn tin: Báo Bình Thuận

Những ngày qua, trên các phương tiện truyền thông, đưa tin, tại cửa khẩu Lào Cai có khoảng 7.000 - 8.000 tấn thanh long đang chờ xuất qua biên giới. Nguyên nhân một phần được cho là do phía Trung Quốc siết chặt kiểm tra nguồn gốc xuất xứ. Vì vậy, nên thanh long xuất khẩu qua biên giới khó khăn hơn so với các năm trước. Điều này khiến không ít hộ trồng thanh long lo lắng.Tuy nhiên theo tìm hiểu thực tế của phóng viên tại một số vùng thanh long tại Hàm Thuận Nam và Hàm Thuận Bắc (tỉnh Bình Thuận), việc mua bán thanh long vẫn diễn ra bình thường.

Hộ ông Lê Tùng - xã Hàm Cường, Hàm Thuận Nam có 3.000 trụ thanh long, vừa mới xuất bán hàng xô với giá 8.000 đồng/kg (mỗi tấn trừ 80 kg). Theo chia sẻ của ông Tùng, hiện nay đang vào chính vụ, nên giá bán này cũng tương đương với những lứa trước, chứ không ảnh hưởng nhiều đến việc mua bán của nông dân. Tuy nhiên, do những ngày qua, ảnh hưởng mưa lũ nên vườn thanh long của gia đình bị ngập một nửa diện tích. Do ngâm nước lâu ngày, số lượng trái bị thối tương đối nhiều, ảnh hưởng đến sản lượng thu hoạch.

Còn hộ ông Lê Tâm, thị trấn Ma Lâm - Hàm Thuận Bắc có 360 trụ thanh long, nhưng chưa đúng lứa xuất. Ông Tâm cho biết, giá hiện tại vài ngày qua được nông dân bán từ 8.000 đồng - 10.000 đồng/kg, riêng hàng dạt 4.000 đồng - 5.000 đồng/kg.

Theo các ngành chức năng, dịp này do đúng thời điểm thanh long đang chín rộ, sản lượng dồi dào, nên số xe vận tải thanh long từ các tỉnh miền Nam (trong đó Bình Thuận chiếm số lớn) đổ về nhiều đột biến, khiến cửa khẩu quá tải. Đối với người trồng thanh long trong tỉnh, song song việc xuất bán cho thương lái, chủ hộ vẫn cắt số lượng ít để bán lẻ tại các khu chợ trên địa bàn TP. Phan Thiết. Ghi nhận của chúng tôi, từ vài ngày nay, để phục vụ nhu cầu cúng đơm trong dịp rằm tháng 7 âm lịch, mặt hàng thanh long được bày bán nhiều. Bà Nguyễn Thị Hà ở xã Hàm Thắng (Hàm Thuận Bắc), người trực tiếp bán thanh long tại chợ Phú Thủy cho biết: Gia đình bà trồng 600 trụ thanh long. Dù ít ngày nữa thanh long mới đủ độ chín, nhưng bà vẫn tranh thủ cắt trước để bán lẻ tại chợ, với giá bán loại nhỏ 8.000 đồng/kg.

Ông Đỗ Văn Bảo - Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh cho biết: Hiện tại đang vào mùa mưa, thanh long chính vụ, tình hình sâu bệnh trên thanh long diễn biến khá phức tạp. Trong đó, diện tích nhiễm bệnh đốm nâu là 3.795 ha, nhiễm thán thư cành, quả trên 1.000 ha… Vì vậy, các địa phương cần tăng cường theo dõi sát diễn biến bệnh trên vườn… Đối với kiến gây hại, khuyến cáo nông dân sử dụng bã nhử để trừ kiến, không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật để phun trừ kiến vì hiệu quả không cao, gây tồn dư lượng thuốc BVTV lên trái. Đối với bệnh thối cành, nông dân không nên tưới nước vào chiều tối, tăng cường phân bón có chứa kali cao, bón bổ sung trung vi lượng để tăng tính chống chịu bệnh…

K.Hằng

Huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang): Gần 100 nông dân tham gia diễn đàn trồng chanh không hạt

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Vừa qua, Trung tâm Khuyến nông tỉnh phối hợp với huyện Phụng Hiệp (tỉnh Hậu Giang) tổ chức diễn đàn “Kỹ thuật trồng và chăm sóc chanh không hạt theo hướng an toàn thực phẩm gắn với truy xuất nguồn gốc”. Tham gia diễn đàn có gần 100 nông dân trồng chanh không hạt trên địa bàn huyện.

Tham gia diễn đàn, nông dân được trang bị những kiến thức mới trong việc trồng, chăm sóc chanh không hạt trên đất phèn theo hướng vệ sinh an toàn thực phẩm và thực hiện nghiêm túc khuyến cáo về thời gian cách ly, thời gian ngừng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trước thu hoạch; kỹ thuật về cắt tỉa cành tạo tán, bón phân; hình thức liên kết bao tiêu sản phẩm; đặc biệt là hướng dẫn cài đặt và sử dụng phần mềm truy xuất nguồn gốc nông sản. Tại diễn đàn cũng ghi nhận nhiều ý kiến của nông dân trong quá trình sản xuất cây chanh không hạt, để ngành nông nghiệp huyện và các đơn vị bao tiêu có hướng hỗ trợ kịp thời.

Theo thống kê, huyện Phụng Hiệp hiện có khoảng 313ha chanh không hạt. Trong đó, 200ha đang cho trái với năng suất 20 tấn/ha. Đặc biệt, trong số này có 90ha được ký kết hợp đồng bao tiêu. Riêng trong năm 2019 này, huyện đã phát triển trồng mới 100ha chanh không hạt gắn với chuỗi liên kết bao tiêu từ Công ty TNHH MTV The Fruit Republic (Hà Lan) có trụ sở tại thành phố Cần Thơ.

DUY KHÁNH

Thu nhập ổn định nhờ chuyển từ đất lúa lên làm vườn

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Hàng trăm gốc cam xoàn đang trĩu quả to tròn, tàng lá phủ rợp cả khu vườn của anh Nguyễn Văn Năng, khu vực Quy Thạnh 2, phường Trung Kiên, quận Thốt Nốt, TP. Cần Thơ là thành quả sau 6 năm chuyển từ đất lúa lên làm vườn. Với 1ha trồng cam xoàn, anh Năng có thu nhập hàng trăm triệu đồng/năm.

Hiện nay, vườn cam xoàn có diện tích 1ha của anh Năng được trồng thẳng tắp, trĩu quả, tàn lá xum xuê. Anh Năng phấn khởi khoe: "Vườn cam mới 6 năm tuổi. Năm 2018, vườn cam cho hơn 10 tấn trái, bán với giá 22.000 đồng/kg, trừ hết chi phí đầu tư, gia đình tôi còn lời gần 150 triệu đồng. Nhờ cây cam xoàn, gia đình tôi có nguồn thu nhập ổn định, đời sống từng bước được cải thiện".

Năm 2013, anh Năng tham quan các mô hình kinh tế hiệu quả ở Đồng Tháp và nhận thấy vườn cam xoàn của nhiều nông dân nơi đây phát triển xanh tốt, trái xum xuê. Qua trao đổi kinh nghiệm, anh nhận thấy cam xoàn là loại cây dễ trồng, có giá trị kinh tế khá cao nên anh đặt mua cây giống về trồng. Anh đã cải tạo 1ha đất ruộng lên vườn để trồng cam. Qua hơn 1 năm chăm sóc, vườn cam xoàn phát triển xanh tốt. Để vườn cam đạt hiệu quả, anh Năng mày mò học hỏi kỹ thuật, rồi tham gia các lớp tập huấn về phòng, trị bệnh trên cây cam... Nhờ kiên trì học hỏi và đúc kết kinh nghiệm từ thực tế sản xuất, anh đã thành công trong việc điều trị, khống chế các loại dịch bệnh trên cây cam xoàn. Sau 3 năm, vườn cam nhà anh luôn tươi tốt, trái nhiều, cho thu nhập cao.

Gần 1 tháng nữa, anh Năng thu hoạch khoảng hơn 10 tấn cam và gia đình có thu nhập trên 200 triệu đồng.

Dẫn chúng tôi tham quan vườn cam xoàn, anh Năng hào hứng giới thiệu: "Cam xoàn có thể cho trái 2 vụ/năm. Hiện tại, vườn cam nhà tôi gần 1 tháng nữa sẽ thu hoạch hơn 10 tấn cam. Nếu giá ở mức 20.000 đồng/kg, gia đình tôi thu nhập trên 200 triệu đồng". Theo anh Năng, ưu điểm của cam xoàn là vỏ mỏng, trái tròn, ít hột, thơm ngon và có vị ngọt thanh so với các loại cam khác nên thị trường rất ổn định. Nhắc đến kỹ thuật trồng giống cam xoàn, anh Năng chia sẻ: "Phải lựa chọn nguồn giống sạch bệnh và chất lượng, sử dụng kết hợp giữa phân hữu cơ và phân hóa học, bờ phải cao và thông thoáng hạn chế ngập úng; để cam cho nhiều trái, phải khắc gốc trước khi ra hoa".

Theo anh Năng, cam xoàn ra hoa nhiều, tỷ lệ đậu trái rất cao. Để cam có trái to, bán được giá cao, anh bón phân, phun thuốc từ lúc cây mới ra hoa, tỉa những cành kém hiệu quả để cây mang lượng trái vừa đủ. Nhờ cần mẫn chăm sóc, vườn cam của anh lúc nào cũng xanh tốt, trái xum xuê. Anh Năng, chia sẻ: "Giống cam này rất dễ trồng, nhẹ công chăm sóc và khả năng kháng bệnh vàng lá gân xanh cao so với các loại cam khác. Nhờ đó, chi phí đầu tư thấp, năng suất cao…". Anh Năng thường xuyên tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật trồng cây có múi để ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào vườn cam của gia đình. Với kinh nghiệm của bản thân anh Năng làm đúng theo các quy trình nên vườn cam cho trái sớm vụ, bán được giá cao.

Trước đây, gia đình anh Năng làm ruộng. Thu nhập không cao, gia đình anh chuyển sang cho thuê đất nhưng cũng chẳng dư dả. Vì vậy, anh Năng quyết định đầu tư làm vườn. Cũng nhờ chuyển đổi cây trồng đúng hướng, cuộc sống gia đình anh ngày càng khấm khá. Hiện tại, ngoài 1ha cam xoàn đang cho thu hoạch, anh Năng tiếp tục chuyển đổi 1ha đất ruộng lên vườn để trồng thanh nhãn Bạc Liêu. Đến nay, vườn nhãn của anh Năng được trồng gần 8 tháng và phát triển xanh tốt...

Bài, ảnh: Khắc Việt

Thu hàng trăm triệu đồng mỗi năm nhờ trồng chanh leo

Nguồn tin: VOV

Chuyển đổi sang trồng chanh leo, nhiều hộ gia đình ở xã Mường Do, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La có doanh thu lên tới hàng trăm triệu đồng mỗi năm.

Xã Mường Do, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La là nơi có diện tích cây chanh leo lớn nhất huyện Phù Yên. Với điều kiện khí hậu, đất đai thuận lợi, cây chanh leo trên đất Mường Do ngày càng phát triển, năng suất cao, đem lại nguồn thu ổn định, cải thiện cuộc sống của người dân nơi đây.

Năm 2017, xã Mường Do, huyện Phù Yên bắt đầu trồng thử nghiệm 30 ha chanh leo, được huyện hỗ trợ 100% tiền giống và một khoản chi phí mua cọc, dựng giàn.

Nông dân Sơn La thu hàng trăm triệu đồng mỗi năm nhờ trồng chanh leo.

Sau gần 3 năm, cây chanh leo đã đem lại hiệu quả vượt trội hơn hẳn so với những cây trồng khác và trở thành cây trồng chủ lực của xã. Đến nay, toàn xã đã có 120 ha cây chanh leo, trong đó 80 ha đã cho thu hoạch. Trong năm 2019, bà con sẽ tiếp tục đầu tư trồng mới thêm khoảng 40 ha.

Ông Lường Văn Vương, Chủ tịch UBND xã Mường Do chia sẻ, cây chanh leo có ưu điểm là chi phí đầu tư thấp, sau 6 tháng trồng đã cho thu hoạch quả, giúp người dân nhanh thu hồi được vốn đầu tư, chỉ trồng một lần nhưng thu hoạch liên tục trong vòng 3 - 4 năm. Riêng lứa thu hoạch đầu tiên của mùa vụ năm nay, toàn xã đã thu trên 60 tấn quả, trị giá gần 500 triệu đồng.

Bản Tường Han, xã Mường Do là bản trồng nhiều chanh leo nhất ở xã, toàn bản hiện có gần 70 hộ trồng trên 55 ha cây chanh leo, trong đó 10 ha mới trồng năm nay.

Ông Lường Văn Sáng - Bí thư chi bộ bản Tường Han là một trong những người tiên phong trồng thử nghiệm cây chanh leo chia sẻ, trước đây, gia đình chủ yếu chỉ trồng ngô và sắn vừa vất vả mà thu nhập lại thấp. Đến năm 2017, được sự hỗ trợ từ huyện, gia đình ông đã đầu tư khoảng 20 triệu đồng để mua giàn dây thép, phân bón, cọc… năm đó, gia đình ông Sáng thu được hơn 30 triệu, cao hơn hẳn so với trồng ngô mà việc chăm sóc lại đỡ vất vả hơn nhiều.

Năm 2018, gia đình ông Sáng đã bỏ hẳn trồng ngô và tập trung vào trồng chanh leo trên diện tích 1 ha, kết quả gia đình đã thu nhập được hơn 160 triệu đồng. Thấy việc trồng chanh leo phát triển ổn định, cho thu nhập cao, đầu năm 2019, gia đình ông Sáng đã bàn bạc, quyết định bỏ vốn đầu tư gần 25 triệu để trồng thêm khoảng 300 gốc chanh leo trên diện tích gần 6.000 m2, lứa đầu tiên của gia đình đã thu gần 8 tấn quả.

Ông Sáng cho biết: "Từ khi được nhà nước tuyên truyền, vận động và hỗ trợ để trồng cây chanh leo cuộc sống của gia đình tôi khá hơn hẳn, không phải vất vả như trước nữa. Cây chanh leo cho thu nhập cao mà việc chăm sóc cũng đỡ vất vả, lại có thị trường tiêu thụ ổn định, có những ngày cao điểm nhất gia đình còn thu được trực tiếp hơn 10 triệu đồng".

Cây chanh leo đang là một trong những cây trồng đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống cho bà con nơi đây, cùng với sự nỗ lực của cấp ủy, chính quyền xã và sự năng động của bà con sẽ giúp cho cây chanh leo ngày được mở rộng và phát triển hơn.

Đắc Thanh/VOV - Tây Bắc

An Giang: Nhãn xuồng Khánh Hòa có mã truy xuất nguồn gốc

Nguồn tin: Báo An Giang

Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Châu Phú (tỉnh An Giang) Lê Trần Minh Hiếu cho biết, Tổ hợp tác nhãn xuồng Khánh Hòa (Châu Phú) đã được Chi cục Trồng trọt và bảo vệ thực vật An Giang cấp giấy chứng nhận là cơ sở “Đủ điều kiện an toàn thực phẩm để sản xuất sản phẩm”.

Nhãn xuồng Khánh Hòa có mã truy xuất nguồn gốc

Theo đó, sản phẩm nhãn xuồng được sản xuất từ Tổ hợp tác nhãn xuồng Khánh Hòa cũng đã được hỗ trợ mã truy xuất nguồn gốc, giúp người tiêu dùng dễ dàng nhận diện sản phẩm. Tổ hợp tác nhãn xuồng Khánh Hòa hiện có 25 hộ dân canh tác nhãn trên địa bàn xã tham gia, với diện tích khoảng 20 ha. Các hộ dân trồng nhãn tham gia tổ hợp tác đều được tập huấn kỹ thuật trồng nhãn và quy trình đảm bảo vệ sinh an toàn sản phẩm.

MỸ LINH

Cà chua, mướp đắng chung giàn

Nguồn tin: Báo Thái Bình

“Cà chua, mướp đắng chung giàn, vừa nhàn, hiệu quả lại cao” - đó là chia sẻ của ông Nguyễn Văn Tấn, chủ nhân của mô hình trồng cà chua chung giàn với mướp đắng ở thôn Tăng Bổng Bắc, xã Tân Lập (Vũ Thư, tỉnh Thái Bình). Mô hình vừa tiết kiệm diện tích, công chăm sóc, giàn lưới lại cho thu nhập cao.

Mô hình trồng cà chua chung giàn mướp đắng của ông Nguyễn Văn Tấn.

Cây cũ, cách trồng mới

Trong khi nhiều nông dân trong xã phát triển kinh tế bằng cách trồng cây dược liệu, hoa, cây cảnh thì ông Tấn lại quyết định trồng cà chua. Để tiết kiệm diện tích, công chăm sóc, phun, tưới, giàn lưới, ông trồng mướp đắng cùng giàn với cà chua. Dù không phải là cây trồng mới nhưng việc trồng chung giàn lại là cách làm mới lạ mà ông Tấn đã dám nghĩ, dám làm. Bởi theo tập quán người dân, cà chua và mướp đắng thường được trồng riêng. Ông Tấn chia sẻ: Trồng cây cảnh lâu ngày mới có thu nhập, trồng cây ăn quả ngắn ngày như: cà chua, mướp đắng sẽ cho thu nhập thường xuyên hơn. Nghĩ thế nên tôi quyết định làm. Trên diện tích 1.000m2 đất cấy lúa ven đê không hiệu quả, tôi dồn điền đổi thửa, trồng trên 2.000 cây cà chua chung với hơn 500 cây mướp đắng. Hai loại cây này thường bị một số sâu bệnh phá hoại giống nhau như: sâu xanh, sâu lá, đẹo quả... nên việc trồng chung giàn sẽ giúp tiết kiệm thời gian phun, tưới, chi phí mua thuốc sâu. Cà chua thường trồng trước vào tháng 2, mướp đắng trồng sau. Khi cà chua ra quả, cây mướp cũng đã vươn cao, có thể che nắng cho cà chua. Vì thế, quả cà chua sẽ ít chịu tác động của nắng nóng, không bị nứt, xấu mã.

Sau khi dành nhiều thời gian nghiên cứu, tìm hiểu tại một số mô hình trồng mướp đắng ở miền Nam và cà chua ở Hưng Yên, năm 2006, ông bắt đầu trồng cà chua chung với mướp đắng. Thời gian đầu, gia đình ông Tấn làm giàn bằng tre, có màng phủ nilon ở dưới gốc nhưng vào mùa mưa bão, cây thường bị dập, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng quả. Bởi vậy, ông quyết định dựng ống tuýp làm khung, trên che lưới bạt để hạn chế tác động của thời tiết.

Thu lãi hàng chục triệu đồng mỗi năm

Sau 70 ngày chăm sóc cà chua đã cho thu hoạch, đối với mướp đắng là khoảng 90 ngày. Bình quân mỗi cây cà chua cho năng suất khoảng 3kg. Với trên 2.000 cây, sản lượng thu về ước đạt trên 6 tấn quả. Thời gian cho thu hoạch kéo dài gần 3 tháng. Riêng hơn 500 cây mướp đắng thời gian thu hoạch dài hơn khoảng 6, 7 tháng. Với giá bán bình quân từ 7.000 - 10.000 đồng, cà chua và mướp đắng cho thu hoạch trên 100 triệu đồng, trừ chi phí gia đình ông thu lãi hơn 80 triệu đồng/năm. Đây là mức thu nhập ổn định cho hai lao động nông thôn ở độ tuổi 60.

Do sản xuất theo hướng nông nghiệp an toàn nên ông áp dụng khoa học kỹ thuật từ lúc ươm hạt đến khi thu hoạch nên cà chua, mướp đắng cho năng suất, chất lượng cao. Sản phẩm thu hoạch đến đâu, thương lái thu mua hết đến đó.

Ông Tấn chia sẻ thêm: Tôi đặt mua hạt giống cà chua, mướp đắng tại tỉnh Đồng Nai. Sau đó về ngâm ủ theo đúng quy trình hướng dẫn trên bao bì. Để hạn chế tác hại của sâu bệnh đối với cây trồng, tôi cho đất nghỉ một tháng sau khi thu hoạch hết trái. Trong thời gian này, tôi tiến hành phơi ải, xử lý vôi bột cho đất hoặc bơm nước ngập rãnh để tiêu hủy hết mầm bệnh trong đất. Tuy nhiên khi trồng cần chú ý chăm sóc ở giai đoạn cây con với mướp đắng, còn cà chua thì tập trung phòng bệnh khi cây ra hoa.

Hệ thống tưới cho cây được ông thiết kế hoàn toàn tự động. Các ống nước được đặt hai bên luống, căn cứ vào thời tiết, từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây để tưới cho phù hợp. Phân bón cho cây chủ yếu bằng phân hữu cơ được mua từ các trang trại nuôi lợn. Sau đó ủ mục trong nhiều tháng mới đem bón. Phòng, trừ sâu bệnh cho cây, ông Tấn sử dụng các loại thuốc sinh học.

Nhận thấy hiệu quả từ mô hình mang lại, gia đình ông duy trì, phát triển cho đến nay. Bên cạnh đó, ông còn đào ao nuôi cá, xây chuồng trại nuôi gà và trồng một số loại cây cho thu nhập khá. Ông cũng đang trồng thử nghiệm thêm mô hình dưa lưới. Nếu thành công, ông sẽ nhân rộng trong thời gian tới.

Là Bí thư Chi bộ thôn lại là bệnh binh, ông Tấn là tấm gương tiêu biểu cho tinh thần ham học hỏi, dám nghĩ, dám làm, dám đi đầu, thử cái mới. Ông được nhận bằng khen của UBND tỉnh và nhiều giấy khen của các cấp hội cựu chiến binh, UBND huyện trong những năm qua.

Hoàng Lanh

Trồng hành tím trong nhà lưới, hướng đi bền vững

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Khi nói đến hành tím, nhiều người nhớ ngay đến hành tím Vĩnh Châu, Sóc Trăng. Bởi chỉ có ở Vĩnh Châu mới có điều kiện, đất đai phù hợp để cây hành tím đạt năng suất, chất lượng cao. Hiện nay Vĩnh Châu đã và đang hướng đến sản xuất hành tím an toàn…

Người dân Vĩnh Châu trồng hành tím từ thế hệ này sang thế hệ khác. Hành tím được xem là cây trồng truyền thống, đặc sản vùng đất này từ xưa nay. Theo người dân nơi đây, trồng hành tím vào mùa nắng năng suất, chất lượng cao, còn mùa mưa ít ai trồng, vì hành tím mưa lớn là ngập úng ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng. Thời gian sản xuất hành thương phẩm chỉ 3 tháng, bình quân năng suất từ 15-20 tấn/ha. Có khi vào thời điểm đầu vụ thu hoạch, giá hành tím tăng lên 10.000-15.000 đồng/kg, đem lại hiệu quả rất cao. Tuy nhiên, có những thời điểm giá hành xuống thấp chỉ 2.000-3.000 đồng/kg người dân lại gặp rất nhiều khó khăn. Có năm tỉnh Sóc Trăng phải kêu gọi các cấp ngành, địa phương trong cả nước "giải cứu" thì mới có thể tiêu thụ hết hành tím của địa phương.

Trước tình hình đó, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Sóc Trăng đã hỗ trợ kỹ thuật cho nông dân có thể trồng hành tím cả trong mùa mưa. Theo đó, nhiều diện tích hành đã được khuyến cáo trồng theo tiêu chuẩn VietGAP, trồng hành trên liếp cao, bờ bao vuông tôm, giúp hành không bị úng nước, thối rễ. Đặc biệt, mô hình trồng hành trong nhà lưới được Chi cục hướng dẫn người dân đã mang lại hiệu quả cao, đang được nhân rộng. Ông Nguyễn Thành Phước, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Sóc Trăng, cho biết: "Hằng năm, Sóc Trăng có hơn 6.000ha trồng hành tím, sản lượng ước đạt trên 120.000 tấn. Đa phần trồng hành tím sớm thì giá cả cao hơn nhưng dễ bị mưa dập, úng, khả năng phát triển của cây không tốt. Còn trồng hành muộn thì sâu bệnh tấn công rất nhiều nên ngành nông nghiệp chọn trồng hành trong nhà lưới, trồng trên bờ bao nuôi tôm để hành phát triển tốt, có hiệu quả hơn. Hiện nay, tỉnh đã hỗ trợ nông dân trồng hành tím theo hướng sinh học trong nhà lưới làm thí điểm với diện tích 30ha".

Mô hình trồng hành tím trong nhà lưới của ông Thạch Soal, ở ấp Âu Thọ B, xã Vĩnh Hải đang phát triển tốt.

Ông Thạch Soal, ở ấp Âu Thọ B, xã Vĩnh Hải, thị xã Vĩnh Châu- hộ trồng hành tím trong nhà lưới, cho biết: "Sau hơn 1 tháng trồng hành giống trong nhà lưới, hành tím của tôi đã phát triển vượt trội hơn so với hành tím trồng bên ngoài. Hành tím trong nhà lưới chỉ sử dụng phân hữu cơ, không có bướm và sâu hại xâm nhập. Còn hành tím ngoài nhà lưới thì phun thuốc, bón phân hóa học liên tục vì sâu bệnh tấn công, không phun thuốc là hành hư, nhất khi trời mưa lớn phải phun thêm thuốc dưỡng. Tôi thấy trồng hành nhà lưới vừa tiết kiệm phân bón, thuốc hóa học, sản phẩm an toàn, chất lượng. Bây giờ có nhà lưới, thu hoạch xong vụ này, tôi sẽ trồng thêm một vụ hành thương phẩm sớm để có lợi nhuận cao".

Anh Thạch Bun Thol, ở ấp Âu Thọ, cũng trồng hánh tím trong nhà lưới, nói: "Tôi thu hoạch hành tím giống trong nhà lưới, bình quân năng suất đạt trên 1 tấn/công, tương đương với hành trồng ở ngoài. Lợi ích của hành trong nhà lưới là ít tốn chi phí, ít sâu bệnh, lại không sử dụng phân bón, thuốc hóa học. Năm nay, do sâu bệnh tấn công nhiều, người trồng hành giống ở ngoài nhà lưới năng suất rất thấp, nên hành giống chắc chắn sẽ được giá cao. Bây giờ, có nhà lưới và giống hành nên tôi sẽ trồng hành thương phẩm sớm để bán được giá cao".

Ông Nguyễn Thành Phước, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Sóc Trăng, cho biết thêm: "Trồng hành trong nhà lưới người dân có thể trồng quanh năm. Vì trồng hành trong nhà lưới vào mùa mưa sẽ giảm được sự ảnh hưởng của nước mưa, mùa nắng hạn sẽ giảm được sự bốc hơi nước. Trồng hành trong nhà lưới giảm được sâu bệnh, nhất là sâu xanh da láng, là đối tượng dịch hại nguy hiểm trong vùng trồng hành. Mặt khác, bà con không phải tồn trữ hành giống lâu, giảm được hao hụt giống. Tuy bà con mới triển khai trồng hành trong nhà lưới và trồng hành trên bờ bao cao ở vùng nuôi tôm nhưng bước đầu đã cho hiệu quả vượt trội. Đây sẽ là một trong những giải pháp giúp người trồng hành Vĩnh Châu tăng thu nhập, cho sản phẩm hành tím sạch, an toàn".

Bài, ảnh: Duy Anh

Đưa cây lúa trở lại đất tôm

Nguồn tin: Báo Cà Mau

Năm 2019, nhiều nông dân huyện Phú Tân (tỉnh Cà Mau) chủ động sản xuất vụ lúa trên đất nuôi tôm. Như vậy, sau nhiều năm vắng bóng, cây lúa đang dần trở lại trên đất nuôi tôm. Đây là tín hiệu cho phát triển sản xuất theo hướng bền vững.

Theo một số nông dân, việc làm được vụ lúa trên đất nuôi tôm là điều không khó, nhưng đòi hỏi nông dân phải quyết tâm, chủ động ngay từ đầu. Đặc biệt là phải cắt vụ tôm nuôi trong lúc rửa mặn thì cải tạo đất mới hiệu quả.

Hiệu quả vượt trội

3 năm nay năm nào ông Võ Văn Kiệt, ấp Phú Thành, xã Phú Mỹ cũng làm lúa trên đất nuôi tôm. Hiệu quả của cây lúa đối với môi trường và sự phát triển của con tôm thì nhiều người thấy rất rõ. Tuy có trúng, có thất nhưng chắc chắn rằng một khi làm được lúa thì tôm nuôi sẽ ổn định và cho năng suất khá.

Ông Kiệt cho biết, năm 2017, năm đầu tiên ông làm lúa trên đất nuôi tôm đã cho hiệu quả vượt trội. Cấy 5 công lúa cho thu hoạch 70 giạ lúa khô. Mục tiêu của ông Kiệt là cấy lúa chỉ để lấy rạ cải thiện môi trường, làm thức ăn cho tôm, nhưng lại thu hoạch được lúa là lợi ích kép. Đáng nói là năm đó ông thả và thu hoạch 3 vụ tôm trúng 80 triệu đồng trên diện tích không đến 1 ha.

Năm 2018, ông Kiệt tiếp tục làm lúa, nhưng không thu hoạch được lúa. Nguyên nhân là do ông làm hơi trễ, thiếu nước ngọt, hơn nữa chỉ một mình ông làm, bà con xung quanh không làm nên lấy nước mặn vào vuông làm thấm mặn qua ruộng lúa đang ngậm đòng đòng của ông Kiệt. Được cái năm đó tôm nuôi cũng phát triển ổn định.

Năm nay, ông Kiệt tiếp tục làm lúa trên đất nuôi tôm. Ngay từ đầu, ông chủ động tháo rửa mặn, gieo mạ trên sân để cấy. Đến thời điểm này, lượng nước trong vuông vừa đủ ngọt, mạ vừa đủ tuổi để cấy.

Gia đình ông Võ Văn Kiệt, ấp Phú Thành, xã Phú Mỹ quyết tâm gieo cấy lúa trên đất nuôi tôm.

Ông Trần Sáng Mãi, ấp Vàm Xáng, xã Phú Mỹ năm rồi cũng làm được gần 10 công lúa. Dù bị ảnh hưởng nước mặn, chim chuột phá hoại, nhưng cuối vụ ông cũng thu hoạch được gần trăm giạ lúa. Thế là năm nay ông Mãi tiếp tục làm lúa. Trước đây, do chạy theo nuôi tôm công nghiệp thâm canh, ông không chú ý làm lúa. Nhưng sau một vài năm hiệu quả không cao, không đủ điều kiện chuyển sang nuôi siêu thâm canh nên ông san ủi đầm trở về nuôi quảng canh cải tiến, diện tích đất còn lại nuôi quảng canh truyền thống kết hợp cấy lúa. Năng suất tuy thấp nhưng tính hiệu quả thì khá do đầu tư ít, quan trọng là tôm nuôi ổn định.

Làm lúa không khó

Để làm lúa được trên đất nuôi tôm là điều không khó đối với nhiều nông dân. Tuy nhiên, nông dân phải quyết tâm xả nước từ những đám mưa đầu tiên. Sau đó, cứ xả dần đến ngọt thì giữ ngọt lại cấy lúa. Mạ thì cũng gieo trên sân, vườn ngay những đám mưa đầu mùa. Khi nước trong vuông ngọt thì mạ cũng đủ tuổi để cấy. Sau khi cây lúa phát triển tiến hành thả tôm đã được thuần hoá hạ độ mặn từ 1-2 %o.

Chi phí để sản xuất 1 công lúa trên đất nuôi tôm ước tính gần 1 triệu đồng (tính cả chi phí thuê mướn). Nếu vụ lúa đạt năng suất khá thì coi như nông dân vừa đủ thu lại vốn. Tuy nhiên, cái lợi lớn nhất chính là hiệu quả con tôm. Một số nông dân thời gian qua sản xuất lúa trên đất nuôi tôm đều xác nhận, cây lúa chính là môi trường sống tuyệt vời cho con tôm. Tôm kháng được bệnh và môi trường nước ít bị ô nhiễm. Rạ lúa còn sinh ra thức ăn cho tôm.

Theo Phó chủ tịch UBND xã Phú Mỹ Nguyễn Đức Thông, năm nay, nhiều bà con có ý thức làm lúa trên đất nuôi tôm. Song, cái khó vẫn là bị xâm nhập mặn vào cuối vụ. Mặc dù địa bàn xã có một phần nằm trong dự án tiểu vùng thuỷ lợi khép kín, song phần lớn bà con thực hiện không đồng loạt, hộ làm hộ không. Hộ nào làm lúa thì tự bao ví theo phần đất của mình để rửa mặn, giữ ngọt. Hộ không làm thì vẫn để mặn nên ảnh hưởng đến hộ lân cận. Hiện nay, việc quy hoạch cũng khó khăn do trong cùng một khu vực nhưng người dân không thực hiện đồng thời. Có hộ thì nuôi tôm thâm canh, hộ nuôi quảng canh, hộ thì lúa - tôm… nên chỉ có cách là tự ai nấy làm.

Như vậy, để sản xuất vụ lúa trên đất nuôi tôm hiệu quả, cùng sự quyết tâm tích cực của nông dân, yếu tố quan trọng là phải đảm bảo về hệ thống thuỷ lợi ngăn mặn, giữ ngọt, chống tràn. Đặc biệt là những nông dân trong cùng một khu vực phải làm đồng loạt. Thiết nghĩ, địa phương nên có sự cương quyết hơn trong việc quy hoạch đồng bộ trong sản xuất theo từng khu vực trên cơ sở ý kiến của đông đảo Nhân dân./.

Quốc Hiệp

Nông dân Ninh Thuận phấn khởi vì hành tím được mùa, được giá

Nguồn tin: VOV

Người trồng hành ở tỉnh Ninh Thuận phấn khởi khi hành tím đạt sản lượng cao, bán được giá, thu nhập cao hơn nhiều so với những năm trước.

Vùng chuyên trồng hành ở huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận những ngày này sôi động vì nhiều nhà vườn đến kỳ thu hoạch hành củ. Gia đình ông Trần Xuân Trung ở thôn Mỹ Tường 2, xã Nhơn Hải, huyện Ninh Hải trồng 2 sào hành lấy củ. Vụ hè này vườn hành của gia đình cho thu hoạch hơn 3 tấn.

Ông Trung bán củ tươi cho thương lái với giá 40.000 đồng/kg, thu về 120 triệu đồng. Trừ chi phí xuống giống, đầu tư phân chuồng, thuốc bảo vệ thực vật, công chăm sóc trong vòng 45 ngày, gia đình lãi hơn 50 triệu đồng.

“Giá vụ này cao, mang lại nguồn thu nhập cho bà con. Mọi năm thường nhất vào mùa Hạ này nó chỉ 30.000 đồng/kg là cao nhất, còn bình thường cũng chỉ có trên 20.000 đồng/kg. Giá năm nay tăng đột biến như vậy thì bà con cũng mừng” - ông Trung phấn khởi nói.

Hành tím Ninh Thuận hiện đang được mua với giá cao.

Theo những người chuyên trồng hành ở huyện Ninh Hải, năm nay nhờ thời tiết thuận lợi, năng suất hành cao hơn mọi năm, từ 1,2 - 1,5 tấn/sào. Vừa được mùa vừa được giá, cây hành đang mang lại nguồn thu nhập ổn định cho bà con nông dân.

Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Ninh Thuận, chất đất ở vùng ven biển Ninh Thuận phù hợp để phát triển cây hành lấy củ. Toàn tỉnh hiện có gần 600 ha hành trồng ở vùng gần biển Phan Rang – Tháp Chàm, Ninh Phước và Ninh Hải, trong đó Ninh Hải là nơi trồng nhiều nhất với hơn 470 ha. Mỗi năm, nông dân canh tác được 5 vụ hành.

Thời gian qua, ngành nông nghiệp Ninh Thuận cũng đã tích cực hỗ trợ nông dân học tập kỹ thuật chăm sóc, công nghệ tưới nước tiết kiệm và phòng trừ sâu bệnh để tăng năng suất, quảng bá, liên kết sản xuất để tăng giá trị loại cây trồng lợi thế này của địa phương.

Việt Quốc/VOV - TPHCM

Giải pháp trước vụ thu hoạch mía

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Để giảm áp lực cho người trồng mía trước khi vào vụ thu hoạch, đồng thời giữ vững diện tích vùng mía nguyên liệu, hiện nhà máy đường và ngành chức năng tỉnh Hậu Giang đang triển khai nhiều giải pháp. Tuy nhiên, vẫn còn những bất cập.

Quan tâm giải quyết gánh nặng về nhân công thu hoạch mía của nhà máy đường được ngành chức năng và nông dân đồng tình cao.

Niên vụ mía 2019-2020, nông dân trên địa bàn tỉnh xuống giống được 7.939ha, ước năng suất bình quân khoảng 95 tấn/ha, sản lượng khoảng 754.205 tấn. Hiện tại, mía trong giai đoạn từ 6-7 tháng tuổi, dự kiến bà con sẽ bắt đầu thu hoạch từ giữa tháng 9 tới và kéo dài đến tháng 2-2020. Tuy nhiên, trước tình hình Công ty Cổ phần Mía đường Cần Thơ (Casuco) tạm ngưng hoạt động 1 trong 2 nhà máy đường trong vụ ép sắp tới, đồng thời việc Công ty TNHH Mía đường cồn Long Mỹ Phát (Lusuco) có tiếp tục sản xuất trong vụ tới hay không thì vẫn còn bỏ ngỏ làm nhiều người trồng mía lo lắng.

Triển khai nhiều cách hỗ trợ

Niên vụ ép 2019-2020 này, Casuco đã triển khai nhiều giải pháp để hỗ trợ nông dân. Trong đó, giải pháp mà Casuco thường xuyên thực hiện trước khi vào vụ sản xuất như hàng năm là tiến hành ký kết hợp đồng bao tiêu mía với bà con tại các vùng mía trên địa bàn tỉnh. Theo đó, giá sàn bảo hiểm mà Casuco ký kết trong vụ mía năm nay là 700 đồng/kg, mía 10 chữ đường tại ruộng. Bên cạnh ký hợp đồng, Casuco còn tiến hành rà soát nhu cầu thuê nhân công thu hoạch mía trong dân để chủ động hợp đồng trước với các tổ nhân công nhằm đáp ứng nhu cầu về nhân công thu hoạch mía cho bà con, nhất là vào thời gian cao điểm đốn mía. Với cách làm này, Casuco đang nhận được sự đồng tình cao của chính quyền địa phương.

Casuco cam kết không để mía lưu bãi tại cầu cảng quá 24 giờ sau khi chở ra nhà máy đường.

Ông Võ Tứ Phương, Trưởng phòng Kinh tế thành phố Vị Thanh, chia sẻ: Giống như nhiều vùng mía khác trong tỉnh, người trồng mía ở thành phố Vị Thanh thường gặp khó khăn về nhân công thu hoạch mía do lao động nông thôn ngày một ít dần. Do đó, mỗi khi vào thời điểm thu hoạch mía rộ thường thiếu nhân công nên đẩy tiền thuê đốn mía tăng cao, từ đó kéo theo giá thành sản xuất tăng nên bà con ít lợi nhuận. Vì vậy, với thông tin năm nay Casuco có kế hoạch hỗ trợ nhân công thu hoạch mía khi bà con có nhu cầu sẽ tạo ra tín hiệu vui cho người trồng mía Vị Thanh nói riêng và của tỉnh nói chung.

Ngoài hỗ trợ nhân công đốn mía thì kể từ vụ sản xuất mía năm nay, Casuco sẽ tự tổ chức phương tiện vận chuyển mía thông qua hình thức đấu thầu vận chuyển và đưa phương tiện xuống nhận mía trực tiếp tại ruộng của bà con chứ không thu mua qua thương lái như đã thực hiện trước đây. Do đó, việc tạm dừng sản xuất tại Xí nghiệp đường Vị Thanh trong vụ ép tới theo lý giải của Casuco sẽ không ảnh hưởng gì đến việc bán mía của bà con. Bởi, chi phí vận chuyển mía xa hay gần thì do Casuco chịu trách nhiệm, từ đó bà con trồng mía có thể an tâm canh tác, nhất là tại vùng mía ở thành phố Vị Thanh.

Cùng với các giải pháp của Casuco, hiện ngành nông nghiệp tỉnh đã tiến hành rà soát lại diện tích mía cụ thể trên địa bàn tỉnh, cũng như nắm lại cơ cấu giống, thời gian xuống giống ở từng vùng, từ đó tiến hành xây dựng kế hoạch về thời gian, diện tích thu hoạch mía cụ thể cho từng địa phương. Mặt khác, chính quyền các xã, phường, thị trấn tại các vùng mía nguyên liệu trên địa bàn tỉnh cũng đang thành lập Ban nguyên liệu mía để phối hợp với công ty mía đường xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình sản xuất và tiêu thụ mía.

Ông Trương Cảnh Tuyên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, cho biết: Tỉnh rất hoan nghênh việc ngành nông nghiệp, các đơn vị liên quan của tỉnh và Casuco chủ động đề ra nhiều giải pháp thiết thực nhằm hỗ trợ người trồng mía trên địa bàn tỉnh trước khi vụ sản xuất bắt đầu và nếu thực hiện tốt thì sẽ giảm nhiều áp lực cho bà con trước tình hình khó khăn chung của ngành mía đường như hiện nay. Bên cạnh đó, để hỗ trợ cho doanh nghiệp mía đường thì tới đây UBND tỉnh sẽ có văn bản kiến nghị Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại nới lỏng tín dụng cho ngành mía đường, đồng thời có mức lãi suất ưu đãi cho doanh nghiệp mía đường để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có nguồn vốn chi trả tiền mía kịp thời cho nông dân. Ngoài ra, UBND tỉnh cũng sẽ chỉ đạo ngành công thương tỉnh tăng cường quản lý, kiểm soát thị trường về mặt hàng đường lậu để nâng giá đường trong nước, từ đó có thể nâng giá thu mua mía cho bà con.

Những bất cập đặt ra

Bên cạnh triển khai quyết liệt nhiều giải pháp trọng tâm để hỗ trợ người trồng mía thì những vấn đề bất cập đã tồn tại và phát sinh mới cũng đặt ra không ít lo lắng cho ngành chức năng và người trồng mía. Theo đó, vấn đề lo lắng nhất là tình hình tiêu thụ mía khi vào vụ thu hoạch vì khả năng trên địa bàn tỉnh chỉ còn có 1 trong 3 nhà máy đường hoạt động trong vụ ép sắp tới đó là Nhà máy đường Phụng Hiệp của Casuco.

Ông Bạch Văn Sơn, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh, phân tích: Đơn vị đã tính toán sơ bộ nếu bỏ diện tích mía mà bà con đã bán mía chục ra (khoảng 2.000ha) thì diện tích mía bán cho nhà máy đường còn lại khoảng 6.000ha, tương đương sản lượng 570.000 tấn. Trong khi tổng công suất ép của Nhà máy đường Phụng Hiệp hiện tại chỉ từ 2.500-3.000 tấn mía cây/ngày đêm thì tính ra Casuco phải mất khoảng 220 ngày (tương đương 7 tháng) mới tiêu thụ hết mía của tỉnh. Đây thật sự là bài toán cần phải tính kỹ lại, bởi thời gian tiêu thụ mía dài ngày sẽ gây nhiều thiệt hại cho nông dân, nhất là tại những ruộng mía quá ngày thu hoạch sẽ bị trổ cờ làm giảm năng suất, chữ đường; đó là chưa kể trường hợp có lũ lớn thì tình hình càng khó khăn hơn.

Giống với sự lo lắng trên, ông Huỳnh Văn Vũ, Phó Chủ tịch UBND huyện Phụng Hiệp, đơn vị có diện tích mía lớn nhất tỉnh (6.531ha), thông tin: Do huyện có diện tích mía nhiều nên từ khi vào vụ thu hoạch từ tháng 9 đến tháng 12 thì bình quân nhu cầu mỗi ngày địa phương phải tiêu thụ 6.000 tấn mía cây mới đảm bảo tiến độ, riêng hai tháng cao điểm là 10 và 11 thì nhu cầu nhiều hơn. Trong khi công suất ép của Nhà máy đường Phụng Hiệp chỉ đáp ứng 50% nhu cầu của địa phương, đó là chưa kể vùng mía thị xã Ngã Bảy. Trường hợp ép mía chậm sẽ dẫn tới trễ mùa vụ xuống giống cho vụ mía sau, đồng thời khi gió bấc về sẽ làm cho cây mía bị trổ cờ, gây thiệt hại cho bà con. Do đó, địa phương đề nghị Casuco có giải pháp hợp lý hơn.

Ngoài băn khoăn về tình hình tiêu thụ mía, ông Lê Hùng Chiến, Trưởng phòng Kinh tế thị xã Ngã Bảy còn đặt ra nhiều lo ngại với những điểm mới trong chính sách thu mua mía của Casuco trong vụ ép sắp tới. Ông Chiến nêu: Trong quy định giao mía giữa nông dân và Casuco thì công ty có nêu là mía nguyên liệu khi giao cho nhà máy đường không còn ngọn non. Vậy khi bà con thu hoạch mía thì phải đốn phần ngọn mía đến đâu là đúng để tránh khiếu nại.

Trước nhiều lo ngại của ngành chức năng, ông Phạm Quang Vinh, Phó tổng Giám đốc Casuco, chia sẻ: Ngoài Nhà máy đường Phụng Hiệp đặt tại Hậu Giang thì Casuco còn có cổ phần tại Nhà máy đường Sóc Trăng và Trà Vinh. Điều đáng mừng là vùng mía tại hai địa phương trên thường thu hoạch sau Hậu Giang nên trường hợp vào những tháng thu hoạch mía rộ, nhu cầu đốn mía nhiều thì Casuco có thể điều tiết thương lái từ Sóc Trăng và Trà Vinh đến mua mía tại Hậu Giang đem về tiêu thụ ở hai nhà máy này. Do đó, ngành chức năng địa phương và bà con trồng mía có thể an tâm vì Casuco cam kết không để xảy ra tình trạng mía quá ngày thu hoạch và đảm bảo mua hết diện tích mía của tỉnh đúng ngày theo hợp đồng đã ký kết, kể cả vùng mía nguyên liệu của Lusuco khi UBND tỉnh giao về cho Casuco trong vụ này. Về hình thức đốn chặt mía như thế nào cho phù hợp thì trước khi vào vụ thu hoạch, Casuco sẽ mở 15 lớp tập huấn cho nông dân về các nội dung liên quan đến vấn đề này. Đồng thời in, phát tờ bướm có hình ảnh minh họa cụ thể về việc đốn mía như thế nào đúng quy chuẩn theo quy định của Bộ NN&PTNT…

Theo lịch thu hoạch dự kiến của ngành nông nghiệp tỉnh thì vùng mía Hậu Giang sẽ bắt đầu vào vụ ép từ tháng 9-2019 và kéo dài đến tháng 2-2020. Trong đó, tháng 9 sẽ thu hoạch khoảng 1.595ha, tháng 10 là 1.968ha, tháng 11 là 2.407ha, tháng 12 là 1.425ha và tập trung chủ yếu ở huyện Phụng Hiệp và thị xã Ngã Bảy; sang tháng 1 và 2-2020 thì vùng mía thành phố Vị Thanh mới vào vụ với tổng diện tích 704ha. Về cơ cấu giống mía của niên vụ 2019-2020, giống ROC 16 chiếm 57,7%; K88-92 chiếm 17,8%; KK3 chiếm 13,2%, còn lại là giống khác chiếm 11,3%.

Bài, ảnh: HỮU PHƯỚC

Hiệu quả sản xuất lúa theo VietGAP

Nguồn tin: Báo Long An

Sản xuất lúa theo tiêu chuẩn VietGAP là hướng đi mới, góp phần bảo vệ sức khỏe người sản xuất và cả người tiêu dùng; bảo vệ môi trường, tăng sức cạnh tranh và nâng cao chất lượng lúa gạo.

Thời gian qua, Dự án Chuyển đổi Nông nghiệp bền vững tại Việt Nam ở tỉnh Long An (Dự án VnSAT Long An) hỗ trợ nhiều cho nông dân trong sản xuất lúa theo VietGAP, Trong đó, phối hợp tổ chức tập huấn đào tạo quy trình sản xuất lúa VietGAP, hướng dẫn ghi chép sổ tay kỹ thuật và đào tạo canh tác theo quy trình sản xuất “3 giảm, 3 tăng” (3G3T) và “1 phải, 5 giảm” (1P5G). Nhờ những hỗ trợ từ Dự án VnSAT, các tổ chức nông dân trong vùng dự án đã thực hành sản xuất lúa theo tiêu chuẩn VietGAP và có được những hiệu quả nhất định, trong đó nổi bật là Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp Gò Gòn, huyện Tân Hưng.

Đây là HTX đầu tiên của tỉnh được cấp giấy chứng nhận VietGAP vào năm 2015 cho 9 thành viên với diện tích 82,5ha. Khi tham gia sản xuất lúa theo tiêu chuẩn VietGAP, thành viên HTX thực hiện một số yêu cầu như sử dụng giống lúa cấp nguyên chủng hoặc xác nhận; bón phân cân đối, hợp lý, tăng cường sử dụng các loại phân bón có nguồn gốc hữu cơ; hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV); thu hoạch đúng thời điểm và bảo đảm thời gian cách ly để tránh tồn lưu hóa chất trong lúa gạo,... Nội dung quy trình sản xuất lúa theo VietGAP bao gồm: Đánh giá và lựa chọn vùng sản xuất, quản lý đất, giống lúa, phân bón (bao gồm chất bón bổ sung), nước tưới, hóa chất (bao gồm thuốc BVTV), thu hoạch và xử lý sau thu hoạch, người lao động, ghi chép, lưu trữ hồ sơ, truy nguyên nguồn gốc và thu hồi sản phẩm, kiểm tra nội bộ, khiếu nại và giải quyết khiếu nại.

Hợp tác xã Gò Gòn là hợp tác xã đầu tiên của tỉnh được chứng nhận VietGAP

Nhờ hạn chế chi phí thuốc BVTV và lượng phân, đồng thời lúa sản xuất ra chất lượng cao nên sản xuất lúa theo VietGAP mang lại hiệu quả kinh tế ổn định cho nông dân. Anh Võ Vũ Linh - thành viên HTX, cho biết: “Tôi tham gia sản xuất lúa theo tiêu chuẩn VietGAP từ vụ Đông Xuân năm 2016 với 14ha. Vụ Đông Xuân vừa qua, năng suất lúa của tôi đạt 7,5 tấn/ha, sản xuất giống lúa Đài Thơm 8. Với giá bán 5.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, gia đình tôi lãi gần 17 triệu đồng/ha.”

Không thể phủ nhận những lợi ích to lớn khi sản xuất lúa theo tiêu chuẩn VietGAP mang lại nhưng vẫn còn khó khăn về đầu ra của sản phẩm. Về vấn đề này, ông Trương Hữu Trí - Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Giám đốc HTX Gò Gòn, cho biết: “Sản xuất theo hướng VietGAP giúp nông dân hình thành kỹ năng sản xuất theo quy trình, có thói quen ghi chép nhật ký sản xuất,... Tuy nhiên, hiện tại, đầu ra của lúa được sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP chưa ổn định, lợi nhuận chưa cao hơn so với công sức đầu tư. Bên cạnh đó, cứ 2 năm lại phải tái chứng nhận VietGAP. Tôi cho rằng, đây là một số rào cản làm cho việc sản xuất lúa theo VietGAP chưa thể mở rộng”.

Dự kiến năm 2019, Ban Quản lý Dự án VnSAT Long An triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ nông dân nâng cao kiến thức, áp dụng sản xuất đạt chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quy định. Đồng thời, kết hợp với cán bộ thực hiện chương trình ứng dụng công nghệ cao của tỉnh, xây dựng 3 mô hình sản xuất lúa theo VietGAP tại 3 HTX: Hưng Phát, Hưng Phú và Tân Đồng Tiến; đào tạo về lý thuyết trong 3 ngày cho nông dân về quy trình kỹ thuật sản xuất lúa theo VietGAP; đồng thời xây dựng các điểm trình diễn,... Định hướng trong thời gian tới, Dự án VnSAT Long An tiếp tục hỗ trợ nông dân về kiến thức canh tác và nhân rộng mô hình sản xuất lúa theo VietGAP; tập trung giải quyết khó khăn cho nông dân sản xuất lúa theo tiêu chuẩn VietGAP, nhất là đầu ra nông sản. Đây là yếu tố quan trọng và là điều kiện tiên quyết để nông dân tham gia sản xuất lúa theo VietGAP. Bên cạnh đó, dự án thực hiện liên kết “4 nhà” chặt chẽ để lúa gạo sản xuất ra được doanh nghiệp bao tiêu, khi đó, nông dân mới yên tâm canh tác, đẩy mạnh chuyển giao khoa học - kỹ thuật, hoàn thiện cơ giới hóa cho các vùng sản xuất, tiến tới mục tiêu một số HTX trong vùng dự án sẽ sản xuất theo quy trình VietGAP.

Sản xuất lúa theo tiêu chuẩn VietGAP không chỉ giúp nông dân giảm chi phí, tăng năng suất mà còn tạo ra nông sản hàng hóa chất lượng cao, đồng đều, an toàn cho người sản xuất và người tiêu dùng, bảo vệ môi trường sinh thái, góp phần đổi mới phương thức sản xuất theo hướng canh tác bền vững và nâng cao chuỗi giá trị cho ngành hàng lúa gạo./.

Đại Việt

Bình Thuận: Ứng dụng mô hình trồng tỏi trắng trên vùng đất cát Hòa Thắng

Nguồn tin: Báo Bình Thuận

Đề tài nghiên cứu ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trồng tỏi trên vùng đất cát ven biển tại xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận vừa được Sở Khoa học & Công nghệ phê duyệt để chọn được 1 - 2 giống tỏi thích hợp khu vực đất cát ven biển này; đồng thời xây dựng quy trình trồng tỏi cho các vùng đất thích ứng trên địa bàn của Bình Thuận. Được biết trước đó, Trung tâm Khuyến nông tỉnh phối hợp Sở Khoa học & Công nghệ đã thực nghiệm mô hình trồng tỏi gia vị tại xã Hòa Thắng từ giống tỏi trắng Phan Rang (Ninh Thuận) và đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), sau thời gian trồng 4 tháng cho năng suất bình quân 50 tạ/ha, lợi nhuận 240 triệu đồng/ha.

Trồng tỏi vùng đất cát ven biển.

Qua kết quả khả quan này, 2 cơ quan chức năng trên có cơ sở triển khai, ứng dụng giống tỏi mới trên vùng đất cát bạc màu xã Hòa Thắng, tạo điều kiện cho người dân địa phương chuyển đổi giống cây trồng phù hợp, nâng cao giá trị nông sản, phát triển kinh tế hộ gia đình.

T.KH

Cần cả ngàn tỷ đồng xử lý dịch tả heo châu Phi

Nguồn tin: Báo Đồng Nai

Tính đến ngày 13-8, toàn tỉnh Đồng Nai có 2.754 hộ chăn nuôi heo tại 371 ấp thuộc 118 xã của 11 huyện, thành phố xuất hiện dịch tả heo châu Phi (ASF) với trên 271 ngàn con heo bị tiêu hủy. Dịch ASF lan nhanh với số lượng heo tiêu hủy tăng rất nhanh khiến các địa phương tại Đồng Nai cần nguồn kinh phí hàng trăm tỷ đồng để hỗ trợ cho người chăn nuôi bị thiệt hại và để xử lý các ổ dịch ASF.

Xử lý ổ heo dịch tại huyện Thống Nhất. Ảnh: Nguyễn Liên

Đồng Nai đang xin cấp bổ sung 800 tỷ đồng từ nguồn dự phòng của Trung ương để chi cho công tác phòng, chống dịch ASF. Công tác ngăn chặn dịch cũng lâm vào cảnh khó chồng khó, cần sự tham gia quyết liệt hơn của cả hệ thống chính trị.

* Khó khăn bủa vây

Gần nửa tháng qua, heo hơi liên tục tăng giá, hiện giá bán tại trại đang dao động từ 40-42 ngàn đồng/kg, tăng gần 10 ngàn đồng/kg so với tháng trước đó. Nguyên nhân heo sốt giá dù thị trường tiêu thụ ở giai đoạn thấp điểm vì đang vào tháng chay (tháng 7 âm lịch), học sinh chưa tựu trường, chủ yếu do nguồn cung thiếu hụt. Dự báo giá heo còn tiếp tục leo thang trong thời gian tới vì heo ngày càng khan hàng.

Hiện tổng đàn heo của Đồng Nai chỉ còn gần 1,9 triệu con, giảm hơn 600 ngàn con so với cách đây 4 tháng khi chưa xuất hiện dịch ASF do người chăn nuôi giảm đàn và lượng heo tiêu hủy tăng đột biến trong thời gian gần đây. Trong đó, tổng đàn nái hiện chỉ còn khoảng 230 ngàn con, giảm cả 100 ngàn con so với hồi đầu năm.

Phó chủ tịch Hiệp hội Chăn nuôi Đồng Nai Nguyễn Kim Đoán nhận xét, trong các tháng 5-6 vừa qua, người dân đổ xô bán heo ra thị trường để chạy dịch. Rất nhiều trại thải ra hàng trăm con nái/ngày do dịch ASF lây lan trên đàn nái rất nhanh. “Đàn nái giảm mạnh, dịch ASF vẫn tiếp tục lan nhanh như hiện nay thì phải tính đến chuyện mất nhiều năm người chăn nuôi mới quay lại tái đàn, đầu tư. Cũng chính vì điều này nên hàng loạt công ty cám, thuốc thú y đã đóng cửa hoặc giảm công suất vì dự báo tổng đàn heo đang và sẽ tiếp tục giảm mạnh” - ông Đoán nói.

Trong vòng hơn 1 tháng trở lại đây, dịch ASF lan nhanh với tổng lượng heo bị tiêu hủy tăng theo cấp số nhân. Trong đó có nguyên nhân do ý thức kém của người chăn nuôi đã tiếp tay cho dịch ASF lây lan. Nguy hại nhất là tình trạng thả chất thải chăn nuôi heo, heo chết ra sông suối, môi trường gây nguy cơ lây lan dịch rất lớn.

Đồ họa thể hiện số lượng các địa phương xuất hiện dịch tả heo châu Phi, tổng số heo bị tiêu hủy và một số địa phương có số lượng heo bị tiêu hủy lớn vì dịch tả heo châu Phi; ước tính nguồn quỹ dự phòng hỗ trợ cho người chăn nuôi bị thiệt hại do dịch tả heo châu Phi trên địa bàn tỉnh. (Thông tin: Bình Nguyên - Đồ họa: Hải Quân)

Phó chủ tịch UBND TP.Biên Hòa Nguyễn Ngọc Liên cho biết: “Dịch ASF đang lan rất nhanh. Thời gian qua, tình trạng heo chết thả trôi theo suối Cầu Quang, từ xã Bắc Sơn (huyện Trảng Bom) về TP.Biên Hòa xảy ra thường xuyên, gây không ít khó khăn cho địa phương trong công tác tiêu hủy, xử lý môi trường và ngăn chặn dịch tả lây lan”.

Dịch ASF xuất hiện tại huyện Thống Nhất chậm hơn địa phương đầu tiên của Đồng Nai bị dịch gần 2 tháng nhưng tốc độ lây lan lại rất nhanh, dịch tấn công mạnh vào các trang trại lớn. Hiện 10/10 xã của huyện Thống Nhất đều xuất hiện ổ dịch với gần 48,4 ngàn con bị tiêu hủy, tăng gấp đôi so với 2 tuần trước đó.

Chia sẻ những khó khăn trong công tác phòng, chống dịch, Phó chủ tịch UBND huyện Thống Nhất Nguyễn Đình Cương lo lắng: “Mật độ chăn nuôi dày đặc cũng có thể là nguyên nhân khiến dịch ASF lan nhanh trên địa bàn. Khó khăn không nhỏ của địa phương là rất khó bắt tận tay và xử lý tình trạng vứt heo chết, heo bệnh ra ngoài môi trường; trong đó nhiều trường hợp thương lái vứt heo chết trong quá trình vận chuyển đi tiêu thụ”.

* Lo vỡ quỹ dự phòng

Theo Giám đốc Sở Nông nghiệp - phát triển nông thôn Huỳnh Thành Vinh, kết quả khảo sát tại các địa phương cho thấy, nhiều trang trại nằm ngay trong vùng dịch ASF vẫn an toàn nhờ thực hiện nghiêm túc giải pháp an toàn sinh học. Cụ thể, họ giăng lưới không để một con ruồi, con muỗi vào trại; cách ly công nhân chăn nuôi ở trong trại theo kiểu “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Nguồn thức ăn cho công nhân trong trại từ rau đến cá, thịt đều được kiểm soát kỹ, thậm chí được nấu chín trước khi đưa vào bên trong. Đặc biệt, xe vận chuyển cám trước khi vào trại đều được sát trùng, tiêu độc rất kỹ; thương lái và xe vận chuyển không được vào trại vì đây cũng là nguyên nhân lớn gây lây lan dịch thời gian qua.

Theo báo cáo của các địa phương, tính đến nay, toàn tỉnh cần khoảng 400 tỷ đồng để hỗ trợ cho người chăn nuôi bị thiệt hại và chi cho công tác xử lý dịch ASF. Trong khi đó, nguồn quỹ phòng, chống thiên tai của các địa phương chỉ có khoảng 130 tỷ đồng nên các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh đều kiến nghị được tháo gỡ khó khăn về nguồn kinh phí.

Huyện Vĩnh Cửu hiện đang đứng đầu về tổng số heo bị tiêu hủy do dịch ASF, Phó chủ tịch UBND huyện Vĩnh Cửu Nguyễn Quang Phương cho biết: “Với 59,3 ngàn con heo bị tiêu hủy, ước tổng số tiền cần hỗ trợ cho người chăn nuôi tính đến cuối tháng 7 đã trên 95 tỷ đồng. Trong khi đó, nguồn quỹ dự phòng của cả cấp xã, cấp huyện chỉ khoảng 15 tỷ đồng nên nguồn chi đang bị âm rất lớn”. Áp lực âm nguồn chi của huyện đang ngày càng lớn vì chỉ trong 2 tuần đầu tháng 8, huyện Vĩnh Cửu đã tăng thêm 4,3 ngàn con heo bị tiêu hủy vì dịch ASF.

Đến nay, huyện Định Quán đã hỗ trợ cho 53 hộ chăn nuôi có đàn heo bị tiêu hủy do dịch ASF với tổng số tiền gần 12 tỷ đồng. Nguồn quỹ dự phòng của các xã, huyện đều đã hết trong khi với số heo đã tiêu hủy, địa phương này cần thêm gần 66,4 tỷ đồng hỗ trợ cho các hộ chăn nuôi. Với tốc độ dịch bệnh lây lan nhanh như hiện nay, Định Quán đang kiến nghị Sở Tài chính hỗ trợ thêm 200 tỷ đồng cho công tác phòng, chống dịch ASF tại địa phương.

Phó chủ tịch UBND tỉnh Võ Văn Chánh chỉ ra: “Tình trạng lây lan dịch ASF rất nhanh và chưa biết điểm dừng, Sở Tài chính nên cân nhắc lại về con số xin cấp bổ sung 800 tỷ đồng từ nguồn dự phòng của Trung ương có thể chưa đáp ứng nhu cầu thực tế của Đồng Nai. Trước mắt, các địa phương cũng cần cố gắng tìm nguồn ứng trước để hỗ trợ kịp thời cho người chăn nuôi bị thiệt hại”.

Theo Phó chủ tịch UBND Võ Văn Chánh, trong việc ngăn chặn dịch ASF, các địa phương phải tập trung vào 2 giải pháp: công tác tiêu độc, khử trùng, đặc biệt là khu vực đầu nguồn các suối, ao hồ để hạn chế dịch lây lan do ô nhiễm nguồn nước từ hoạt động xả thải của các trang trại chăn nuôi. Bên cạnh đó, cần tập trung tuyên truyền để người chăn nuôi thực hiện nghiêm túc các giải pháp an toàn sinh học để bảo vệ trại nuôi. Việc thả heo chết ra suối, môi trường gây nguy cơ lây lan dịch rất lớn. Địa phương nào để xảy ra tình trạng vứt heo chết ra môi trường phải kiểm điểm nghiêm túc; quy rõ trách nhiệm của lãnh đạo xã, huyện về tình trạng này.

Bình Nguyên

Giữ thương hiệu heo sạch Đồng Nai

Nguồn tin: Báo Đồng Nai

Người tiêu dùng đang e ngại dịch tả heo châu Phi (ASF) lan rộng ảnh hưởng đến thị trường tiêu thụ thịt heo. Tuy nhiên, mặt hàng heo sạch, heo an toàn ngày càng được người tiêu dùng ưu tiên lựa chọn.

Heo VietGAHP truy xuất được nguồn gốc được giết mổ. Ảnh: L.Quyên

Để giữ thương hiệu bằng uy tín chất lượng cho “thủ phủ” chăn nuôi heo cả nước, Đồng Nai đã triển khai nhiều chương trình truy xuất nguồn gốc sản phẩm, tăng cường quản lý đàn chăn nuôi, kiểm soát thị trường nhằm đảm bảo nguồn heo cung cấp ra thị trường an toàn, sạch bệnh.

* Heo sạch đắt hàng

Theo Ban Quản lý dự án nâng cao năng lực cạnh tranh ngành chăn nuôi và an toàn thực phẩm (Lifsap) tỉnh Đồng Nai, toàn tỉnh có 33 cơ sở giết mổ Lifsap; đã thiết lập 3 vùng thực hành chăn nuôi an toàn (GAHP), xây dựng được 1 hợp tác xã và 67 tổ hợp tác (GAHP) với tổng số thành viên tham gia đạt 891 hộ. Trong đó, có 49 tổ hợp tác với 654 hộ đã được dự án hỗ trợ đánh giá, cấp chứng nhận VietGAHP. Hiện nhiều cơ sở giết mổ Lifsap đang cung cấp tốt mặt hàng thịt heo an toàn về thị trường TP.Hồ Chí Minh.

Nói về lợi thế của sản phẩm heo truy xuất được nguồn gốc, đảm bảo sạch bệnh an toàn, ông Vũ Văn Tư, Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Trường Giang Phát (phường Long Bình, TP.Biên Hòa) cho biết: “Thịt heo khó tiêu thụ do người tiêu dùng e ngại dịch ASF lan nhanh. Nhưng hoạt động kinh doanh thịt heo an toàn của chúng tôi vẫn tốt, thị trường đầu ra vẫn ổn định. Người tiêu dùng ngày càng quan tâm chọn lựa sản phẩm truy xuất được nguồn gốc, đảm bảo các tiêu chuẩn về an toàn, chất lượng nên những cơ sở kinh doanh trong ngành này có uy tín, có thương hiệu thì không lo về thị trường”.

Theo Chủ tịch Hội Công nghệ cao TP.Hồ Chí Minh Đào Hà Trung: “Chúng tôi đang triển khai song song 2 đề án ứng dụng công nghệ 4.0 để quản lý đàn chăn nuôi và thực hiện truy xuất nguồn gốc thịt heo tại Đồng Nai. Khi xuất hiện dịch ASF, số lượng các cơ sở đăng ký tham gia chương trình truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm thịt heo tăng lên đột biến”.

Ông Trung cho biết thêm, heo an toàn, truy xuất được nguồn gốc tăng trưởng rất tốt xuất phát từ chính nhu cầu thực tế của người tiêu dùng ngày càng quan tâm chọn mua thịt an toàn. Theo đó, từ nhà bán lẻ, thương lái, cơ sở giết mổ đến người chăn nuôi đều chủ động tham gia thực hiện truy xuất nguồn gốc, chứng minh sản phẩm an toàn được kiểm soát từ quy trình chăn nuôi đến vận chuyển, giết mổ và phân phối. Ngoài yếu tố người chăn nuôi chủ động tham gia thì chính quyền Đồng Nai rất quan tâm và quyết liệt triển khai chương trình này cũng góp phần cho kết quả tích cực.

* Đảm bảo heo sạch ra thị trường

Theo số liệu từ Trạm Kiểm dịch động vật Ông Đồn (huyện Xuân Lộc), khoảng 1 tháng gần đây, một lượng lớn heo từ phía Nam được đưa ngược ra cung cấp cho các tỉnh miền Bắc. Những ngày cao điểm, có khoảng 40 xe heo/ngày (từ 6-7 ngàn con); thấp điểm cũng được khoảng 30 xe/ngày (trên 5 ngàn con) qua trạm. Nguyên nhân nguồn heo từ Nam đổ ra Bắc do giá heo ở nhiều tỉnh phía Bắc cao hơn hẳn vì nguồn cung khan hiếm.

Ông Phạm Mạnh Hùng, Trưởng trạm Kiểm dịch động vật Ông Đồn nhận xét: “Nguồn heo xuất đi Bắc chủ yếu từ các công ty chăn nuôi lớn của Đồng Nai. Heo đủ điều kiện qua trạm kiểm dịch phải có đầy đủ các giấy tờ theo quy định, nhất là phải có phiếu xét nghiệm âm tính với dịch ASF và được kiểm tra lâm sàng không có dấu hiệu dịch bệnh. Mục tiêu của việc siết chặt khâu kiểm soát này nhằm đảm bảo nguồn heo sạch bệnh ra thị trường”.

Cùng mục tiêu trên, Chi cục Chăn nuôi - thú y Đồng Nai đã đề ra nhiều giải pháp như: kiên quyết xử lý tổ chức, cá nhân có vi phạm trong việc cấp giấy chứng nhận kiểm dịch với dịch ASF. Tất cả kiểm dịch viên tại 11 trạm thú y trên địa bàn tỉnh đều phải lập bản cam kết thực hiện nghiêm quy định của ngành.

Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi - thú y Đồng Nai Trần Văn Quang cho biết: “Với mục tiêu đảm bảo nguồn heo sạch cung cấp vào thị trường tiêu thụ lớn nhất TP.Hồ Chí Minh, hai địa phương đã tăng cường công tác phối hợp từ lập các chốt kiểm dịch tạm thời đến bắt tay thực hiện việc truy xuất nguồn gốc heo… Việc lấy mẫu xét nghiệm dịch ASF tại các trại cũng được thực hiện thường xuyên để kiểm soát kịp thời tình hình dịch bệnh”.

Lê Quyên

Bình Định: Thúc đẩy chăn nuôi an toàn sinh học

Nguồn tin: Báo Bình Định

Xu hướng đầu tư phát triển chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học ngày càng được nhiều DN, cơ sở chọn, bởi đây là giải pháp tốt nhằm ngăn ngừa dịch bệnh, tăng hiệu quả đầu tư, bảo vệ môi trường.

Chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học đã được nhiều DN, chủ trang trại, gia trại chăn nuôi gia súc, gia cầm áp dụng hiệu quả. Điển hình là Công ty TNHH Giống gia cầm Minh Dư, ở thôn Huỳnh Mai, xã Phước Nghĩa, huyện Tuy Phước. DN này có 2 cơ sở với hàng chục khu chuồng nuôi gà khảo nghiệm, gà cụ kỵ, gà ông bà và các khu ấp trứng, sản xuất con giống. Tất cả đều được xây dựng khép kín, cung cấp thức ăn, nước uống hoàn toàn tự động, có hệ thống làm mát, kiểm soát nhiệt độ, độ ẩm phù hợp với yêu cầu phát triển của mọi lứa tuổi gà. Nhà máy ấp trứng cũng được trang bị đầy đủ máy ấp tự động thế hệ mới và hệ thống kiểm soát nhiệt độ, độ ẩm. Chất thải chăn nuôi được thu gom xử lý bằng chế phẩm sinh học, chuồng trại luôn được vệ sinh, tiêu độc sát trùng sạch sẽ, đảm bảo an toàn.

Trang trại chăn nuôi heo giống của bà Trần Thị Tuyết, ở xã Ân Tường Đông, huyện Hoài Ân luôn chăm sóc vật nuôi chu đáo, đảm bảo an toàn dịch bệnh.

Ông Lê Văn Dư, Giám đốc Công ty TNHH Giống gia cầm Minh Dư, chia sẻ: Không chỉ cậy vào trang thiết bị hiện đại, chúng tôi còn thực hiện nghiêm túc quy trình an toàn sinh học để đảm bảo vật nuôi được chăm sóc tốt và an toàn tối đa. Riêng năm 2018, công ty đã xuất bán 36 triệu con gà giống thương phẩm 1 ngày tuổi chất lượng cao, chiếm tới 20% thị phần giống gà ta của cả nước và là DN cung ứng gà lông màu lớn nhất Việt Nam. Hiện chúng tôi tiếp tục đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ cao để xuất khẩu gia cầm giống và thịt gà ta”.

Ở xã Ân Tường Đông, huyện Hoài Ân, trang trại chăn nuôi heo giống của bà Trần Thị Tuyết cũng rất an toàn và hiệu quả nhờ đầu tư chăn nuôi theo phương pháp an toàn sinh học. Trang trại này nằm dưới chân núi, được bao bọc bởi tường rào kiên cố và những hàng keo lai xanh ngắt. Ngay cổng ra vào trang trại là phòng khử độc sát trùng người và phương tiện. Phía trong là các dãy chuồng nuôi heo chửa, heo đẻ, heo sữa và 2 dãy nhà cách ly, 1 nhà kho chứa thức ăn. Tất cả các dãy chuồng đều có hệ thống máy làm mát và hệ thống xử lý chất thải.

“Việc chăm sóc, bảo vệ đàn heo đều do các bác sĩ thú y và công nhân kỹ thuật đảm nhiệm. Chúng tôi hạn chế tối đa người và phương tiện ra vào trang trại, kể cả chủ nhà. Trang trại luôn trong trạng thái xanh, sạch, mát và đảm bảo an toàn dịch bệnh. Bình quân mỗi tháng, trang trại xuất bán 1.000 con heo giống”, bà Trần Thị Tuyết cho biết.

Không đầu tư và áp dụng công nghệ hiện đại như 2 cơ sở nói trên, ông Nguyễn Văn Nam, ở Đông Bình, xã Nhơn Thọ, TX An Nhơn áp dụng phương pháp chăn nuôi an toàn sinh học theo cách riêng. Chung quanh trang trại rộng 7 ha, ông Nam trồng keo lai, diện tích còn lại ông xây dựng các dãy chuồng để chăn nuôi gia súc gia cầm và đào ao thả cá. Chất thải của vật nuôi được tận dụng để nuôi cá, vừa tránh gây ô nhiễm môi trường, vừa tăng hiệu quả kinh tế. Từ năm 2012 đến nay, bình quân mỗi năm gia đình ông Nam có thu nhập bình quân trên 1,2 tỷ đồng từ trang trại chăn nuôi.

Thực tế cho thấy, nghề chăn nuôi đã mang lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân, góp phần thúc đẩy KT-XH phát triển. Tuy vậy, để giải quyết bài toán xử lý chất thải chăn nuôi - vốn đang là thách thức lớn, việc phát triển chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học là việc nên ưu tiên.

Ông Phan Trọng Hổ, Giám đốc Sở NN&PTNT, cho biết: Đến nay đã có hàng nghìn DN, trang trại, gia trại tổ chức chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học. Một số DN, chủ trang trại có tiềm lực kinh tế tốt đã đầu tư xây dựng các khu chăn nuôi khép kín, áp dụng công nghệ cao trong hầu như toàn bộ khâu chăm sóc, phòng chống dịch bệnh. Những trang trại, gia trại quy mô nhỏ hơn cũng đã xây dựng cơ sở hạ tầng bài bản, có công trình khí sinh học, sử dụng đệm lót sinh học để giải quyết lượng chất thải, nước thải tại chỗ; cách làm này cũng thân thiện với môi trường, rất hiệu quả. Chúng tôi sẽ tiếp tục hỗ trợ người dân áp dụng phương pháp chăn nuôi an toàn sinh học để tăng hiệu quả đầu tư, góp phần giúp các địa phương hoàn thành tiêu chí môi trường trong Chương trình xây dựng nông thôn mới.

PHẠM TIẾN SỸ

Tuyên Quang: Phát triển chăn nuôi đại gia súc: Đường lớn đã mở!

Nguồn tin: Báo Tuyên Quang

Trong khi ngành nông nghiệp khuyến cáo không chủ trương tăng đàn lợn thời điểm này thì việc tìm sinh kế mới cho nông dân được khuyến khích. Trong đó đầu tư phát triển chăn nuôi đại gia súc là hướng mở cho người chăn nuôi và đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Chuỗi liên kết bền chặt

Anh Đặng Văn Cảnh, thôn Tiên Hóa 2, xã Vinh Quang (Chiêm Hóa) vừa chuyển đổi từ nuôi lợn sang chăn nuôi trâu, bò được 2 năm nay. Anh Cảnh chia sẻ, bao nhiêu năm gắn bó với đàn lợn là bấy nhiêu ngày mất ăn mất ngủ, vừa lo dịch bệnh, vừa lo đầu ra. Năm 2017, sau chuyến tham quan mô hình chăn nuôi gia súc ở Hải Dương, anh quyết định từ bỏ đàn lợn và chuyển sang chăn nuôi trâu bò nhốt chuồng vỗ béo. 6.000 m2 đất trồng mía kém hiệu quả, anh Cảnh chuyển đổi sang trồng cỏ voi làm thức ăn chăn nuôi. Từ 2 con đầu tiên, giờ mỗi lứa anh Cảnh nuôi từ 8-10 con trâu, bò các loại. Anh tính toán, mỗi con trâu 1 tháng cho lãi từ 1,5 - 1,7 triệu đồng.

Bà Lê Thị Kim Dung, Giám đốc Hợp tác xã Hợp Tiến, xã Trung Hòa (Chiêm Hóa) chăm sóc đàn bò.

Anh Đặng Văn Cảnh là 1 trong 35 thành viên của Hợp tác xã Tiến Quang, xã Vinh Quang. Hợp tác xã này hiện đang liên kết với Hợp tác xã Nông nghiệp công nghệ cao Tiến Thành thực hiện mô hình liên kết chăn nuôi theo chuỗi. Trong đó, toàn bộ con giống, thức ăn do Hợp tác xã Tiến Thành cung cấp. Các thành viên trong hợp tác xã thực hiện đúng các quy trình chăn nuôi, đảm bảo kỹ thuật để cung cấp sản phẩm.

Giám đốc Hợp tác xã Tiến Quang Lê Văn Thứ cho biết, thành công của mô hình này được minh chứng ở số lượng thành viên không ngừng tăng lên mỗi năm. Nếu như năm đầu tiên khởi động (2017) chỉ có 7 thành viên tham gia, chăn nuôi 9 con trâu, thì sau 2 năm, đã có 35 thành viên tham gia, tổng đàn là 350 con. Nuôi theo chuỗi liên kết này, mỗi tháng, 1 hộ chăn nuôi trong hợp tác xã có thu nhập từ 10 đến 15 triệu đồng, một con số không hề nhỏ với những người nông dân nơi đây.

Ông Hoàng Văn Oanh, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp công nghệ cao Tiến Thành cho biết, ngoài Hợp tác xã Tiến Quang, hiện đơn vị này đang liên kết với 17 hợp tác xã, tổ hợp tác trên địa bàn tỉnh. Để tham gia chuỗi liên kết, hợp tác xã yêu cầu người chăn nuôi trước khi xuất bán, phải nói không với kháng sinh và tất cả các chất cấm trong chăn nuôi. Từ cuối năm 2017 đến hết tháng 7-2019, hợp tác xã đã cung ứng cho các trang trại chăn nuôi 1.732 con trâu, bò các loại, đồng thời thu mua 898 con. Số còn lại hiện đang được các thành viên tiếp tục nuôi vỗ béo.

Tiếp sức kịp thời cho người chăn nuôi

Tổng đàn đại gia súc trên địa bàn tỉnh hiện đạt trên 141 nghìn con, trong đó, tổng đàn trâu là gần 102 nghìn con, đàn bò trên 35,6 nghìn con, còn lại là đàn bò sữa. Mặc dù số lượng đàn trâu có giảm so với 5 năm trước đây (giảm khoảng 8.000 con), nhưng sản lượng thịt hơi lại tăng. Riêng đối với đàn bò tăng mạnh cả về số lượng và sản phẩm. Ông Nguyễn Đại Thành, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho rằng, điều này cho thấy việc chăn nuôi đại gia súc trên địa bàn tỉnh hiện đang chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa và ngày càng được người nông dân chú trọng về chất lượng sản phẩm. Để chủ động nguồn thức ăn, các địa phương cũng đã trồng trên 4.000 ha cỏ voi, VA06, Ghine, ngô… làm thức ăn, với sản lượng tương ứng trên 39,5 nghìn tấn.

Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn kiểm tra đàn gia súc của Hợp tác xã Tiến Quang, xã Vinh Quang (Chiêm Hóa).

Vì giá mua mỗi con giống khá cao (từ 20 - 50 triệu đồng/con), không phải hộ gia đình nào cũng có đủ năng lực kinh tế, nên để hỗ trợ người nông dân, tỉnh đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ phát triển chăn nuôi trâu, bò trên địa bàn. Trong đó,

Nghị quyết số 12 của HĐND tỉnh khuyến khích phát triển sản xuất hàng hóa đối với một số cây trồng vật nuôi, đã có 3.726 hộ vay vốn mua 7.874 con trâu giống, với tổng số tiền trên 184 tỷ đồng; Nghị quyết số 41 của HĐND tỉnh về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, đã có 1 doanh nghiệp được hỗ trợ 1,5 tỷ đồng phát triển chăn nuôi quy mô tập trung gắn với thị trường tiêu thụ; Quyết định số 03 của UBND tỉnh về hỗ trợ phát triển chăn nuôi nông hộ, năm 2019 tỉnh đã có quyết định phân bổ 5 tỷ đồng để hỗ trợ người chăn nuôi…Mới đây, tháng 7-2019, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định 271 phê duyệt đề án phát triển chăn nuôi trâu hàng hóa theo chuỗi liên kết trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2019 - 2025, mục tiêu là phát triển kỹ thuật thụ tinh nhân tạo, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào chăn nuôi gắn với chuỗi liên kết…

Tuy nhiên, theo những người chăn nuôi, hiện nguồn con giống đang khan hiếm dần. Chị Lê Thị Kim Dung, Giám đốc Hợp tác xã Hợp Tiến, xã Trung Hòa (Chiêm Hóa) cho biết, thời điểm thành lập hợp tác xã, đơn vị muốn đầu tư vào chăn nuôi trâu, nhưng vì nguồn cung con giống không có, nên Hợp tác xã chuyển sang chăn nuôi bò. Hợp tác xã hiện có 7 thành viên, nhưng chỉ có chị vào đàn trước, còn lại vẫn đang nghe ngóng, tìm hiểu kỹ thuật chăn nuôi và quan trọng nhất là vấn đề đầu vào - đầu ra.

Ông Hoàng Văn Oanh, Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp công nghệ cao Tiến Thành cho biết, hiện toàn bộ đàn trâu giống của hợp tác xã được nhập từ nước ngoài, tuy nhiên, do số lượng đăng ký lớn, nên nguồn cung không đủ để cung cấp cho các thành viên hợp tác xã. Hiện để đa dạng nguồn cung, đơn vị làm việc với một số doanh nghiệp chăn nuôi bò sữa trong nước để lấy lại bò, bê đực cung cấp cho người chăn nuôi.

Khi chăn nuôi lợn đang gặp khủng hoảng về giá cả, dịch bệnh thì chăn nuôi đại gia súc được khôi phục và nhận được nhiều hỗ trợ kịp thời từ chính quyền. “Đường lớn đã mở”, điều cần làm bây giờ là phải xây dựng được chiến lược quảng bá nhằm khai thác lợi thế của sản phẩm, có như vậy chăn nuôi đại gia súc mới bền vững và dần đi vào chế biến sâu, thay vì xuất khẩu thịt hơi như hiện nay.

Bài, ảnh: Trần Liên

An toàn sinh học: Biện pháp tối ưu cho chăn nuôi lợn

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Ngoại trừ tỉnh Ninh Thuận, còn lại dịch tả lợn châu Phi (DTLCP) đã bao trùm cả nước. Để ngăn chặn sự phát sinh của dịch cũng như đảm bảo nguồn cung cho những tháng cuối năm, biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học (ATSH) vẫn được cho là tối ưu hiện nay.

Đàn lợn 200 con nhà ông Thể được kiểm soát gắt gao để phòng DTLCP - Ảnh: VGP/Đỗ Hương

An toàn giữa vùng dịch

Đến xã Phương Đình, huyện Đan Phượng, TP. Hà Nội những ngày này không còn cái nhộn nhịp của việc chăn nuôi như thường lệ, không còn thương lái ra mua vào bán, không còn xe cám, xe giống ra vào… Tất cả đang chìm trong vùng có DTLCP. Tuy nhiên, giữa yên lặng ấy, ở nhà ông Lê Viết Thể, thôn Địch Trung trong xã Phương Đình lại vẫn tất bật chăn nuôi.

Đàn lợn 200 con của ông nằm ngay trong khu dân cư đông đúc vẫn an toàn. Đúng là chuyện lạ! Đến nhà ông tìm hiểu, ông hồ hởi chỉ trên màn hình camera soi vào từng chuồng thấy rõ đàn lợn mạnh khỏe đang được chăm sóc hết sức cẩn thận.

Không đưa được chúng tôi vào tận chuồng tham quan quy trình chăn nuôi đặc biệt của mình ông Thể áy náy giải thích: “Nhà báo thông cảm, hiện giờ tình hình dịch vẫn căng nên nhà tôi cũng thường chỉ được 1 người ra vào để chăm sóc, lợn cũng sắp đến ngày xuất rồi, nhỡ có chuyện gì xảy ra cũng khó cho nhà tôi…”.

Chúng tôi hoàn toàn đồng tình vì biết việc khép kín quy trình chăn nuôi hiện nay là việc rất cần thiết trong chăn nuôi lợn. Ông Thể vừa chỉ màn hình vừa mô tả việc quây kín chuồng trại mà gia đình ông đang áp dụng. "Chuồng trại được quây kín để tránh chuột, bụi bặm, người lạ tuyệt đối không được vào chuồng trại; định kỳ phun tiêu độc khử trùng chuồng trại hằng tuần; riêng hệ thống nước làm mát cũng được tôi pha thêm thuốc tiêu độc khử trùng phun 24/24 giờ để tăng thêm hàng rào bảo vệ đàn lợn”, ông Lê Viết Thể mô tả.

Vậy nhưng, điều kỳ lạ là, dù chuồng trại ngay sau nhà nhưng tuyệt nhiên chúng tôi không cảm thấy có mùi “đặc trưng” của nghề chăn nuôi lợn. Hỏi bí quyết, ông Thể cho biết ông sử dụng các loại chế phẩm sinh học trong xử lý chất thải chăn nuôi nên khắc phục triệt để tình trạng ô nhiễm mùi hôi.

Bên cạnh đó, để tăng sức khỏe cho đàn lợn, từ đó có khả năng chống chịu sự tấn công của virus, vào các ngày nắng nóng, ông tăng cường các chất điện giải vào thức ăn của lợn; bổ sung các loại vitamin; nguồn nước sử dụng là nước sạch từ nhà máy.

Một trong những chế phẩm gần đây ông dùng phối hợp với thức ăn chăn nuôi là chế phẩm vi sinh probiotic của Bio Spring. Theo bà Lưu Thủy Trâm, Phó Giám đốc Công ty Bio Spring, qua thử nghiệm, chế phẩm vi sinh probiotic của Bio Spring góp phần giảm tỉ lệ tiêu tốn thức ăn từ 5-6%; giảm tỉ lệ chết và làm tăng sức đề kháng, sức khỏe của đàn vật nuôi.

Cũng theo bà Trâm, chi phí bổ sung các chế phẩm vi sinh rất thấp, chỉ 50-60 đồng/kg thức ăn, tính ra trong cả chu kỳ nuôi của một con lợn, chi phí cho chế phẩm vi sinh chỉ 15.000-20.000 đồng.

Ông Nguyễn Xuân Dương (trái) - Quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi đang trò chuyện với ông Thể về các biện pháp chăn nuôi ATSH - Ảnh: VGP/Đỗ Hương

Nhân rộng các mô hình ATSH

Qua thực tế về các chuồng trại thực hiện tốt ATSH, Quyền Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) Nguyễn Xuân Dương cho biết hiện nay chăn nuôi ATSH là biện pháp hiệu quả nhất để chống lại DTLCP và tăng đàn, đảm bảo cho nhu cầu tiêu dùng những tháng cuối năm.

Nhìn nhận về tình hình dịch bệnh, ông Dương đánh giá: “Đến thời điểm này dịch đã dịu bớt đi nhưng diễn biến khá phức tạp. Nếu diễn biến dịch vẫn như hiện nay thì khả năng thiếu thịt vào những tháng cuối năm và tình hình giá lợn có thể tăng. Bộ NN&PTNT đã chỉ đạo tăng chăn nuôi gia cầm, gia súc, thủy sản để bù đắp vào lượng thịt lợn thiếu hụt, sản lượng các sản phẩm này cũng đã tăng được khoảng 7%”.

Hiện nay, một số mô hình chăn nuôi lợn bằng thức ăn lên men sinh học tại Hưng Yên, Hà Nội, Thừa Thiên-Huế cho thấy, mặc dù nằm trong vùng dịch nhưng nhờ sử dụng thức ăn có bổ sung men vi sinh kết hợp chăn nuôi an toàn sinh học, đàn lợn của các hộ thử nghiệm vẫn an toàn, trong khi nhiều hộ đã phải tiêu hủy lợn.

Điển hình như mô hình chăn nuôi lợn hữu cơ của Công ty cổ phần Tập đoàn Quế Lâm sử dụng chế phẩm vi sinh ủ vào thức ăn trong thời gian từ 36-48 giờ trước khi cho ăn và trộn vào đệm lót nền (không rửa chuồng nuôi) đồng thời đưa chế phẩm vào phun trong không gian chuồng nuôi. Kết quả cho thấy, trong khi nhiều hộ chăn nuôi bị nhiễm bệnh và chết thì toàn bộ lợn của 15 hộ chăn nuôi theo mô hình của Quế Lâm không bị nhiễm dịch.

Theo lãnh đạo Cục Chăn nuôi cho biết việc tái đàn thời gian tới cần hết sức thận trọng. “Cần nhân rộng các mô hình ATSH, với những vùng đã có dịch hoặc vừa hết dịch thì chưa nên tái đàn. Chỉ những trang trại đã kiểm soát tốt bằng ATSH mới nên tái đàn nhưng những trang trại này cũng nên bổ sung các chế phẩm vi sinh để tăng kháng cho lợn. Điều này sẽ đạt được 2 mục đích, thứ nhất là ngăn chặn sự phát tán dịch. Thứ hai, dùng chế phẩm này thì không dùng kháng sinh nhưng vẫn sẽ có sản phẩm thịt an toàn, như vậy vừa kiểm soát dịch mà vừa có được thực phẩm an toàn”, ông Dương nhấn mạnh.

Đỗ Hương

Quảng Trị: Chủ tịch Hội Nông dân xã Vĩnh Chấp với thương hiệu gà đồi

Nguồn tin: Báo Quảng Trị

Gắn bó, lập nghiệp trên đồng đất quê hương, hiểu rõ những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp do điều kiện tự nhiên của xã Vĩnh Chấp, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị song với sức trẻ, ý chí vươn lên, anh Lê Đức Quang Huy (sinh năm 1983) quyết tâm phát triển kinh tế vùng gò đồi.

Anh Huy dán tem truy xuất nguồn gốc thương hiệu “Gà đồi Quang Huy” trước khi bán ra thị trường

Đầu năm 2018, nắm bắt nhu cầu thị trường trong việc lựa chọn các loại thực phẩm sạch, an toàn, đặc biệt là thịt gà, anh Huy mạnh dạn tìm hiểu, quyết định quy hoạch diện tích đồi rừng 6 ha hiện đang trồng cây cao su tiểu điền của gia đình để đầu tư xây dựng trang trại gà đồi, hướng đến tạo ra sản phẩm nông nghiệp chủ lực. Để hiện thực hóa ý tưởng của mình, anh Huy theo học lớp Trung cấp Thú y, Khoa Chăn nuôi. Khi đã nắm chắc kiến thức cơ bản kết hợp kinh nghiệm thực tế đúc rút sau hơn 10 năm lập nghiệp theo mô hình trang trại tổng hợp, anh tự tin ứng dụng khoa học công nghệ vào chăn nuôi gà thả đồi. Lứa nuôi thử nghiệm đầu tiên, anh thả nuôi 1.000 con giống gà ri thuần có đặc thù chân nhỏ, chất lượng tốt, nhập từ một trung tâm giống uy tín tại Hà Nội. Gà giống 1 ngày tuổi qua giai đoạn om tại chuồng đạt tiêu chuẩn sẽ đến giai đoạn thả để gà tự tìm thức ăn. Do vậy, nguồn thức ăn chính của gà chủ yếu từ tự nhiên, ngoài ngô, cám, khoáng chất còn có phù du đồi rừng, các loại côn trùng và phụ phẩm nông nghiệp... Nguồn nước cho gà được lấy từ giếng khoan, giếng đào, đảm bảo không nhiễm vi khuẩn, kim loại độc hại. Gà được tiêm phòng đầy đủ theo phác đồ nên hầu như không xảy ra hiện tượng dịch bệnh. Sau 120 ngày chăm sóc đúng quy trình hướng dẫn, kết quả mang lại rất khả quan. Gà tại trang trại của anh Huy phát triển nhanh, đồng đều, trọng lượng bình quân mỗi con đến thời điểm xuất bán đã đạt từ 1,2- 1,5 kg. Anh Huy cho biết: “Chăn nuôi theo hình thức này tuy thời gian cho thu hoạch kéo dài hơn 1,5 tháng so với nuôi theo phương pháp công nghiệp, bán công nghiệp chỉ 75 ngày, nhưng chi phí thấp hơn, quan trọng sản phẩm đạt chất lượng hơn, thịt gà chắc, thơm ngon nên luôn được thị trường ưu tiên lựa chọn, giá cũng cao hơn, từ 100.000 đồng- 120.000 đồng/kg gà làm sẵn”. Từ thành công đó, anh mở rộng diện tích trang trại, số lượng gà giống thả nuôi nâng lên 3 lứa/năm; 1.500 con giống/ lứa. Cùng với trang trại tổng hợp của gia đình, sản phẩm chủ lực gà đồi mang lại cho anh Huy thu nhập gần 500 triệu đồng/năm.

Không chỉ phát triển kinh tế làm giàu cho gia đình, anh Huy còn đặc biệt chú trọng việc xây dựng thương hiệu sản phẩm đặc trưng nhằm kết nối, nâng cao chất lượng nông sản chủ lực của địa phương. Hiện thương hiệu “Gà đồi Quang Huy” đã được đăng kí nhãn hiệu, có tem truy xuất nguồn gốc, tăng sức cạnh tranh, có chỗ đứng và đáp ứng nhu cầu nhiều thị trường lớn như các chợ đầu mối, trung tâm mua sắm, siêu thị... Với thực tế làm kinh tế hộ gia đình, Huy sẵn sàng trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ những người muốn đưa gà đồi vào thử nghiệm sản xuất. Mô hình chăn nuôi gà đồi theo tiêu chuẩn VietGap của anh Huy hiện đang được rất nhiều hộ nông dân trong và ngoài xã đến tìm hiểu, học tập nhân rộng. Linh hoạt, nhạy bén, làm kinh tế giỏi cùng những đóng góp vào sản xuất nông nghiệp địa phương, mặc dù tuổi đời còn trẻ nhưng anh Huy đã được hội viên nông dân tín nhiệm bầu làm Chủ tịch Hội Nông dân xã Vĩnh Chấp nhiệm kì 2018- 2023; nhiều năm liền được công nhận hộ sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp.

Chủ tịch UBND xã Vĩnh Chấp Hoàng Văn Xuân đánh giá: “Từ những mô hình tiêu biểu như trang trại gà đồi của anh Lê Đức Quang Huy đã mở ra hướng đi mới trong phát triển kinh tế cho các hộ gia đình, đặc biệt đối với các địa phương điều kiện tự nhiên không được thuận lợi như xã Vĩnh Chấp. Từ đó tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm nông nghiệp chủ lực có giá trị hàng hoá và chỗ đứng vững chắc trên thị trường, góp phần hưởng ứng hiệu quả chương trình quốc gia “Một xã một sản phẩm” mà Vĩnh Chấp cũng như các địa phương trong huyện đang tích cực thực hiện”.

Nguyễn Trang

Hiếu Giang tổng hợp

 

 

 

 

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop