Tin nông nghiệp ngày 18 tháng 11 năm 2020

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 18 tháng 11 năm 2020

Đầu ra gặp khó, nông dân thất thu mùa nhãn

Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Do ảnh hưởng của dịch COVID-19, cùng với tình hình mưa bão phức tạp trong thời gian qua đã khiến cho thị trường tiêu thụ cả trong nước lẫn xuất khẩu bị thu hẹp, giá nhãn vào vụ thu hoạch liên tục giảm mạnh. Nhiều nông dân cho biết, vụ nhãn năm nay thu không đủ chi.

Bà Phạm Thị Hương (ấp Nhân Hòa, xã Xuyên Mộc) cho biết, năm nay năng suất nhãn của gia đình giảm một nửa so với năm ngoái.

NHÃN RỚT GIÁ KỶ LỤC

Hơn 1 tuần qua, nông dân trồng nhãn trên địa bàn huyện Xuyên Mộc (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đứng ngồi không yên vì nhãn liên tục rớt giá, tiêu thụ khó khăn. Ông Trần Bình Dân, ấp Nhân Hòa, xã Xuyên Mộc, huyện Xuyên Mộc cho biết: 10 ngày trở lại đây giá nhãn tiêu da bò liên tục giảm mạnh, chỉ còn 6.000 - 9.000 đồng/kg (tùy loại), thấp hơn so với vụ nhãn năm ngoái 5.000 đồng/kg. Theo ông Dân, với giá bán này, nông dân đang đứng trước nguy cơ thua lỗ rất cao, nhất là đối với những hộ phải đi thuê đất để canh tác. Theo tính toán của ông Dân, tiền thuê đất khoảng 40 triệu đồng/ha, chưa kể chi phí phân bón, chăm sóc và công lao động. Trong khi đó, nếu được đầu tư, chăm sóc tốt, năng suất đạt tối đa, 1ha nhãn có doanh thu 100 triệu đồng, với giá hiện nay, người trồng lỗ không dưới 10 triệu đồng/ha.

“Năm nay giá thấp, chi phí thuê nhân công lại cao hơn năm ngoái 50 ngàn đồng/người nên càng lỗ nặng. Hiện với 2ha nhãn, tôi đang phải thuê 12 nhân công/ngày để thu hoạch, giá thuê cắt là 300.000 đồng/người/ngày; tỉa, đóng gói là 250.000 đồng/người/ngày”, ông Dân nói.

Ngay cạnh vườn nhãn ông Dân, bà Phạm Thị Hương cũng đang tranh thủ cắt nhãn bán. Bà Hương cho biết, gia đình đang trồng khoảng 1ha nhãn tiêu da bò, năm nay sản lượng nhãn chỉ bằng ½ so với năm ngoái. Năng suất giảm mạnh, cộng với giá bán xuống thấp khiến bà lo lắng. Với những hộ có diện tích nhỏ như gia đình bà, năm nay thương lái kén mua hơn, do vậy giá cũng bị đẩy xuống thấp, chỉ còn từ 7.000-7.500 đồng/kg. “Tôi trồng nhãn đã 7-8 năm nay, chưa năm nào giá thấp như năm nay. Với mức giá này, chúng tôi không đủ bù chi phí đầu tư. Không những giá thấp, việc tiêu thụ cũng khó khăn, do hàng ứ đọng, nên thương lái mua chậm và kén chọn hơn mọi năm rất nhiều”, bà Hương cho hay.

Ông Đoàn Như Anh, một thương lái đến từ Đồng Nai cho biết, chưa năm nào giá nhãn lại xuống thấp như hiện nay. Nói về nguyên nhân dẫn tới việc giá bị sụt giảm mạnh so với các năm trước, ông Anh cho hay, nhãn tiêu da bò là loại nhãn chủ yếu tiêu thụ tại thị trường miền Trung. Tuy nhiên, thời gian qua, miền Trung đang chịu ảnh hưởng của mưa bão, lượng mua giảm mạnh, trong khi đó hiện đang là thời điểm vụ mùa, dẫn tới nguồn hàng bị dội chợ do không tiêu thụ kịp. Ngoài ra, năm nay thị trường Campuchia, Trung Quốc… tiêu thụ cũng ít hơn so với các năm trước, lại thêm dịch COVID-19 nên nhãn không xuất khẩu được.

CẦN LIÊN KẾT SẢN XUẤT ĐỂ TRÁNH BỊ ĐỘNG

Trên thực tế, đây không phải là lần đầu tiên trái cây BR-VT rơi vào tình cảnh rớt giá thê thảm. Còn nhớ, đầu năm 2020, bà con nông dân các xã Bông Trang, Bưng Riềng huyện Xuyên Mộc cũng đứng ngồi không yên vì thanh long giảm sâu, chỉ còn 5.000 đồng/kg đối với thanh long ruột đỏ và 2.000- 3.000 đồng/kg đối với thanh long ruột trắng, thậm chí nhiều vườn còn không có người đến thu mua. Đã không ít lần các tổ chức, cá nhân phải đứng ra kêu gọi “giải cứu” nông sản trên địa bàn tỉnh vì không tiêu thụ được.

Ông Nguyễn Chí Đức, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Sở NN-PTNT) cho biết: Thực trạng “được mùa mất giá, được giá mất mùa” vẫn diễn ra thường xuyên là do sản xuất chưa gắn với nhu cầu thị trường; liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ hàng hóa theo chuỗi giá trị sản phẩm còn hạn chế, giá cả bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào thị trường tự do, tiềm ẩn yếu tố bất ổn. Trong khi đó, một bộ phận nông dân của tỉnh vẫn còn nặng tư tưởng tự cung, tự cấp, ít chú trọng đến nâng cao chất lượng cũng như giá trị của các loại sản phẩm, chưa thực sự coi trọng sản xuất theo hướng hàng hóa đối với các mặt hàng nông sản. Để hạn chế tình trạng đó, thời gian qua, Chi cục đã tham mưu cho Sở NN-PTNT xây dựng các vùng chuyên canh tập trung nhằm phát triển theo hướng bền vững. Đồng thời kêu gọi, tìm kiếm các DN, tổ chức trong và ngoài tỉnh để liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản.

“Chi cục sẽ tiếp tục tham mưu cho Sở NN-PTNT xây dựng các cơ chế chính sách phù hợp để thu hút các tổ chức, DN cùng tham gia liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm để bà con nông dân có thu nhập ổn định, yên tâm sản xuất”, ông Đức cho biết thêm.

Bài, ảnh: PHÚC HIẾU

Nông dân lai tạo chanh dây ngọt, bán giá cao

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Đó là ông Nguyễn Hữu Công ở ấp Phụng Sơn, xã Song Phụng, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. Gia đình ông có vườn chanh dây ngọt (còn gọi là chanh leo ngọt), với diện tích hơn 6.000m2, cho sản lượng trái khoảng 12 tấn/năm.

Ông Nguyễn Hữu Công (bên trái) trưng bày, giới thiệu trái chanh dây ngọt tại Hội chợ Nông nghiệp Quốc tế Việt Nam 2020 diễn ra tại TP Cần Thơ từ ngày 11 đến 15-11-2020.

Chanh dây ngọt được gia đình ông Công bán lẻ với giá lên đến 100.000 đồng/kg, còn bán buôn tại vườn ở mức trên dưới 80.000 đồng/kg đối với chanh loại 1, chanh loại 2 giá từ 30.000-40.000 đồng/kg. Mức giá này cao hơn từ 2-3 lần so với các loại chanh dây chua bán trên thị trường. Theo ông Công, từ niềm đam mê nghiên cứu và nhận thấy có nhiều người không thích sử dụng các loại chanh dây cho trái chua nên ông đã tìm cách ghép cây chanh dây với các loại cây khác như nhãn lồng, cây gấc… để tạo ra loại chanh dây cho trái ngọt. Kết quả là loại chanh dây được ông ghép với cây nhãn lồng đã cho trái ngọt, vị thơm, nhiều người khen ngon nên ông đã nhân giống trồng với số lượng lớn để lấy trái tiêu thụ và sản phẩm rất dễ bán. Hiện ông cũng nhân giống chanh dây ngọt này để bán, với giá từ 70.000-100.000 đồng/cây, tùy theo người mua số lượng ít hay nhiều.

Tin, ảnh: KHÁNH TRUNG

Long An: Liên kết sản xuất góp phần nâng cao giá trị và tạo đầu ra cho nông sản

Nguồn tin:  Báo Long An

Hiện nay, mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp góp phần giúp người dân tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao thu nhập.

Thời gian qua, tỉnh Long An cụ thể hóa các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước qua việc khuyến khích liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, phát triển hợp tác xã (HTX), xây dựng cánh đồng lớn,... đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đời sống, trong đó, cụ thể hóa Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp mà các bên đối tác đều được hưởng lợi, trực tiếp là nông dân. Khi tham gia liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước sẽ hỗ trợ xây dựng hệ thống hạ tầng, tập huấn kỹ thuật, vốn cho nông dân, doanh nghiệp; từ đó tăng năng suất và chất lượng nông sản, đời sống của nông dân được nâng lên.

Nông dân và các hợp tác xã cần tăng cường liên kết trong sản xuất để nâng cao giá trị và tạo đầu ra ổn định cho nông sản

HTX Nông nghiệp An Long (xã An Ninh Tây, huyện Đức Hòa) chủ động liên kết với một số đơn vị, doanh nghiệp đầu tư mua sắm trang thiết bị, ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm, tăng thu nhập cho các thành viên lên cao gấp 2-3 lần so với sản xuất riêng lẻ trước đây. Chị Nguyễn Thị Dư - thành viên HTX Nông nghiệp An Long, chia sẻ: "Thời gian tới, HTX tiếp tục đẩy mạnh liên kết sản xuất, chủ động tìm kiếm thị trường, phát triển thêm các dịch vụ để nâng cao thu nhập cho thành viên và một số nông dân các xã lân cận".

Gia đình anh Nguyễn Văn Hòa, ngụ ấp Chánh, xã Tân Mỹ, huyện Đức Hòa, là một trong các hộ tham gia mô hình liên kết sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với HTX Dịch vụ nông nghiệp Rừng Dầu. Khi tham gia mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, anh được cung cấp giống, thuốc bảo vệ thực vật,... và bao tiêu sản phẩm nên an tâm sản xuất.

Giám đốc HTX Rau sạch hữu cơ Khôi Nguyên (xã Lạc Tấn, huyện Tân Trụ) - Nguyễn Việt Thịnh cho biết: "Khi tham gia vào chuỗi liên kết, các thành viên HTX và nông dân được tiêu thụ nông sản với giá cả ổn định, an toàn, ít rủi ro. Ngoài ra, họ còn được doanh nghiệp đầu tư giống, vật tư nông nghiệp để an tâm sản xuất, doanh nghiệp cũng chủ động được nguồn cung sản phẩm, chất lượng được quản lý. Bên cạnh những lợi ích đó, việc phát triển sản xuất nông nghiệp theo chuỗi giá trị còn góp phần quan trọng trong việc giải bài toán về chất lượng nông sản, nâng cao được giá trị gia tăng và phát triển nông nghiệp một cách bền vững trước những biến động của thị trường".

Việc đẩy mạnh liên kết trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm tạo ra những chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn là cần thiết để hướng đến nền sản xuất hàng hóa hiện đại mang lại giá trị tăng cao. Các mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh giúp tăng năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị sản phẩm và từng bước nâng cao thu nhập cho người dân.

Tuy nhiên, một trong những khó khăn trong việc xây dựng và phát triển các chuỗi liên kết trên địa bàn tỉnh là tình trạng sản xuất nông nghiệp phần nhiều còn mang tính nhỏ, lẻ, ít có sự tham gia của nhiều hộ nông dân. Việc tuân thủ theo quy trình kỹ thuật đồng nhất còn gặp khó khăn. Thêm vào đó là tính liên kết giữa người dân và doanh nghiệp chưa chặt chẽ. Nhận thức của một bộ phận nông dân còn hạn chế, chưa thật sự tuân thủ những ràng buộc trách nhiệm với doanh nghiệp, vẫn có tâm lý bán hàng ra ngoài, phá vỡ cam kết khi giá thị trường lên cao,...

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Đinh Thị Phương Khanh cho biết: Để các mô hình sản xuất nông nghiệp, các chuỗi liên kết không bị manh mún, riêng lẻ, thay vì xây dựng các chuỗi giá trị thông thường, các doanh nghiệp, HTX cần chú trọng xây dựng chuỗi giá trị theo hướng chuỗi cung ứng thực phẩm an toàn. Các khâu từ sản xuất ban đầu đến thu gom, chế biến và phân phối tiêu thụ đều phải được kiểm soát theo hợp đồng nhằm tạo sản phẩm an toàn cho sức khỏe người dùng, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng. Các đơn vị, địa phương cần tổ chức đánh giá lại tính hiệu quả của từng mô hình liên kết, các dự án quy mô nhỏ, không hiệu quả hoặc không còn phù hợp thì đưa ra khỏi quy hoạch, từ đó mới bảo đảm tính bền vững trong liên kết.

Thời gian tới, ngành Nông nghiệp tiếp tục tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo các địa phương tập trung thực hiện liên kết trong sản xuất nông nghiệp, hình thành các vùng chuyên canh, sản xuất hàng hóa tập trung; khuyến khích và tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, ưu tiên các doanh nghiệp có tiềm lực, công nghệ cao; đẩy mạnh đổi mới và phát triển các HTX nông nghiệp, phát triển các hình thức hợp tác, liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị; xây dựng các mô hình liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ nông sản cho nông dân và HTX./.

Song Hồng

Làm giàu từ nông nghiệp

Nguồn tin:  Báo Quảng Ninh

Ông Đỗ Tuyển Chung (phường Minh Thành, TX Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh) là gương nông dân sản xuất kinh doanh giỏi từ nhiều năm qua. Từ các mô hình kinh tế nông nghiệp đã mang lại cho gia đình ông Chung nguồn thu trên dưới 500 triệu đồng mỗi năm, giúp ông Chung có điều kiện đầu tư cho con cái học hành, xây nhà lớn, sắm sửa thiết bị hiện đại…

Hiện gia đình ông Đỗ Tuyển Chung đang có hơn 2.000 gốc na bở.

Để có được thành quả như ngày hôm nay là cả quá trình lao động cần mẫn, chí thú, bền bỉ với các mô hình kinh tế nông nghiệp của ông Chung.

Bắt đầu từ những năm 2000, ông Chung đã nổi tiếng với đồi vải sai quả, rồi lần lượt là đồi hồng, đồi na, mô hình nuôi tôm, trang trại chăn nuôi tổng hợp rồi trang trại chăn nuôi gà và cuối cùng hiện nay là mô hình trang trại chăn nuôi lợn. Đối với mô hình nuôi lợn, ông Chung đi lên từ đàn lợn thịt rồi đến lợn nái, lợn giống. Có thời kỳ trang trại lợn nái của ông Chung lên đến trên 200 con, là địa chỉ lợn nái trọng điểm của toàn tỉnh.

Mỗi mô hình kinh tế mà ông Chung làm đều có sự đầu tư về quy trình kỹ thuật, áp dụng khoa học và hơn hết là tình yêu, sự tin tưởng và quyết tâm cao độ, không vội từ bỏ mỗi khi thất bại. Chính bởi vậy nên dù gặp nhiều yếu tố tác động từ thời tiết, môi trường, thị trường... những mô hình kinh tế nông nghiệp của ông Chung vẫn đạt được kết quả.

Đạt được điều này, trước tiên phải kể đến ông Chung là người từng công tác trong ngành nông nghiệp, được đào tạo bài bản, ông hiểu rất rõ khi mô hình nông nghiệp được triển khai đúng, đủ quy trình kỹ thuật, có áp dụng khoa học công nghệ, coi trọng khâu vệ sinh và phòng dịch bệnh thì chắc chắn sẽ mang lại thành quả kinh tế. Bên cạnh đó ông Chung sớm đầu tư về đất đai, hạ tầng sản xuất để có thể mở rộng diện tích trồng cây ăn quả, xây dựng chuồng trại bền vững, khoa học khi có đủ điều kiện.

Ông Chung cũng là người biết kết hợp mô hình chăn nuôi và trồng trọt để tương trợ cho nhau, trong đó tận thu các sản phẩm phụ từ chăn nuôi làm chất dinh dưỡng cho đất trồng cây và dùng sản phẩm cây, quả để làm thức ăn sơ cho đàn gia súc, gia cầm.

Ông Chung cho rằng làm nông nghiệp cũng như kinh doanh, nếu có điều kiện về tư liệu sản xuất là đất đai, vốn liếng thì nhất định không nên “bỏ trứng một giỏ”, thay vào đó đầu tư cùng lúc một số mô hình nuôi, trồng, tốt nhất là những mô hình có thể tương trợ cho nhau...

Có lẽ chính từ tư duy sản xuất này, nên trong đợt ảnh hưởng bởi dịch tả lợn châu Phi năm 2019 khiến ông Chung trắng đàn lợn, nhưng lại vẫn có nguồn thu từ đàn gà, từ vườn na để ông trang trải.

Từ đầu năm đến nay, sau khi đã làm tốt công tác tiêu độc, khử trùng chuồng trại, ông Chung đã mạnh dạn tái đàn lợn. Tính đến thời điểm này ông Chung đã vào đàn ở lứa lợn thứ 4, mỗi lứa lợn ông xuất 200-300 con. Ở thời điểm giá lợn hơi duy trì ở mức cao nhất như trong hơn 10 tháng qua thì đàn lợn đã mang lại doanh thu lớn cho gia đình ông Chung.

Ông Chung phấn khởi cho biết: Giờ lãi từ một con lợn gấp đến 3-5 thời điểm trước đây, đây là điều kiện để gia đình tôi cũng như các hộ chăn nuôi lợn khác không chỉ lấy lại vốn sau đợt dịch tả lợn châu Phi năm trước mà còn có lãi cao để mở rộng quy mô sản xuất.

Có thể thấy từ các mô hình sản xuất nông nghiệp đã giúp gia đình ông Đỗ Tuyển Chung có cuộc sống sung túc, bản thân ông Chung trở thành nông dân thu nhập cao, gương làm kinh tế giỏi, tạo sức lan tỏa để nhiều người học hỏi, làm theo.

Việt Hoa

Vùng Đông Nam tỉnh Gia Lai: Nhà nông chật vật sau mưa lũ

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Cơn bão số 12 kèm mưa lớn cùng với việc xả lũ từ các hồ thủy điện thượng nguồn đã làm nhiều diện tích cây trồng tại thị xã Ayun Pa và huyện Ia Pa (tỉnh Gia Lai) bị chìm trong nước lũ khiến nông dân thiệt hại nặng nề.

Cây trồng trôi theo nước lũ

Mưa lũ làm cánh đồng xã Ia Tul (huyện Ia Pa) giáp sông Ba, khu vực chân cầu Bến Mộng chìm sâu hơn 1 m nước. Là thời điểm gieo trồng cây thuốc lá nhưng nước dâng nhanh trong đêm, khiến người dân không kịp trở tay, toàn bộ bạt phủ trên luống đất, cọc, cây giống đều bị cuốn trôi theo dòng nước dữ.

Bà Nguyễn Thị Hồng (94 Hùng Vương, phường Sông Bờ, thị xã Ayun Pa) thuê 2 ha đất ở đây trồng thuốc lá. Suốt 1 tháng qua, gia đình bà làm đất, gieo hạt, căng bạt ươm cây giống. Nhưng cây giống mới được 10 ngày, đang xanh mặt đất thì nước lũ cuốn trôi hết.

Bà Hồng cho hay: “Toàn bộ vốn liếng đầu tư vào 2 ha này khoảng hơn 10 triệu đồng đã bị trôi theo nước lũ. Giờ phải ươm giống, làm lại từ đầu, cực nhất là phải xới lại đất cho tơi xốp, mất rất nhiều thời gian lại tốn công gấp đôi. Mùa thuốc lá này phải chậm lại mất 1 tháng so với kế hoạch”.

Gia đình bà Nguyễn Thị Hồng (phường Sông Bờ, thị xã Ayun Pa) tập trung làm đất để gieo lại cây thuốc lá cho kịp mùa vụ. Ảnh: Vũ Chi

Tương tự, gia đình anh Nay Khon (buôn Broăi, xã Ia Broăi, huyện Ia Pa) cũng vừa mới làm đất, ươm giống chuẩn bị trồng hơn 2 ha thuốc lá. Anh buồn rầu: “Nhìn đám thuốc lá giống mà nản, bao nhiêu công sức thoáng chốc tiêu tan. Anh em chúng tôi tự động viên nhau, còn người còn của. Hy vọng sắp tới thời tiết thuận lợi hơn để sớm gieo trồng trở lại”.

Trong khi đó, ông Trần Sơn Hội (huyện Vân Canh, tỉnh Bình Định) vừa lên Ia Pa thuê đất để trồng dưa hấu. Toàn bộ đồ đạc, dụng cụ sản xuất, ống nước, bạt… đã chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng thì lũ cuốn trôi hết. “Lũ dâng lên lúc 22 giờ nên vợ chồng tôi không kịp trở tay. Nếu ban ngày, có thể thuê xe công nông chở đồ đạc lên bờ thì đỡ thiệt hại. Chưa bắt tay vào làm nhưng vốn đã bay hơn 30 triệu đồng rồi. Giờ chỉ biết ngồi chờ đất ráo để làm lại mong gỡ gạc phần nào”-ông Hội xót xa.

Thu ép nông sản

Gia đình ông Rơ Châm Mat (tổ 6, phường Sông Bờ, thị xã Ayun Pa) đang khẩn trương thu hoạch 7 sào mì bị ngập nước do lũ vừa rồi. Ông kể, toàn bộ 9 ha mì của người dân trồng ở khu vực này đều bị ngập nước 1 ngày 1 đêm nên dù chưa đến kỳ thu hoạch nhưng bà con buộc phải nhổ đồng loạt để tránh củ bị thối. Đám mì của ông Mat trồng từ tháng 5, tháng 3 sang năm mới đến kỳ thu hoạch nhưng nay phải thu ép.

Ông Mat chia sẻ: “Thu hoạch ép, củ còn nhỏ, chữ bột giảm nên thương lái chỉ mua với giá 1.200-1.400 đồng/kg, mùa mì này kể như lỗ vốn. Cũng diện tích này, năm ngoái gia đình tôi thu gần 35 triệu đồng. Nhổ đám mì này xong, tôi dự định trồng bắp ngọt để kiếm thêm thu nhập, gỡ gạc vốn liếng”.

Gia đình ông Rơ Châm Mat (tổ 6, phường Sông Bờ, thị xã Ayun Pa) thu hoạch diện tích mì bị ngập nước. Ảnh: Vũ Chi

Cũng bị chìm sâu trong nước, 5 sào bắp lai của anh Nay Rô (buôn Hoang 1, xã Ia Sao, thị xã Ayun Pa) đổ rạp, lẫn trong bùn đất, buộc phải thuê nhân công bẻ sớm nửa tháng. Anh cho hay: “Thông thường, bắp lai cho thu hoạch sau 3 tháng. Diện tích này, mình mới trồng được 2 tháng rưỡi nhưng do nước ngập, cây đổ rạp hết nên phải thu ép. Vụ trước, với giá bán 3.000 đồng/kg, tôi thu được 2 triệu đồng/sào. Vụ này, bắp chưa già, lại ngấm bùn nên thương lái chỉ mua 1.500 đồng/kg. Hy vọng chính quyền có chính sách hỗ trợ chúng tôi phần nào để giảm bớt khó khăn”.

Gia đình bà Phan Thị Ngơi (tổ 6, phường Hòa Bình, thị xã Ayun Pa) trong trận lũ vừa rồi bị thiệt hại 5 sào rau la ghim các loại. Thời điểm trước lũ, vườn rau đem về cho gia đình bà 1 triệu đồng/ngày, nhưng mưa lũ vừa rồi đã làm thiệt hại toàn bộ. Mấy ngày nay, gia đình bà phải bỏ công cày xới để chuẩn bị gieo giống lại.

Theo thống kê, cơn bão số 12 đã làm 556,9 ha cây trồng trên địa bàn huyện Ia Pa và 32,23 ha của thị xã Ayun Pa bị thiệt hại. Chính quyền đang thống kê, đánh giá thiệt hại, đề xuất hỗ trợ bà con nông dân sớm ổn định cuộc sống và sản xuất.

Ông Nguyễn Thanh Quang-Trưởng phòng Kinh tế thị xã Ayun Pa, kiêm Phó Trưởng ban Chỉ huy phòng-chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn thị xã-cho biết: Đối với diện tích sản xuất nông nghiệp bị ngập úng, sau khi nước rút, UBND thị xã đã chỉ đạo, hướng dẫn người dân đào rãnh tiêu thoát nước và tiến hành thu hoạch những diện tích có thể thu hoạch được để hạn chế thiệt hại. Đồng thời, đôn đốc các xã, phường rà soát, thống kê, đánh giá thiệt hại để có hướng hỗ trợ kịp thời cho bà con.

VŨ CHI

Đăk Hà (Kon Tum): Nỗi lo mùa thu hái cà phê

Nguồn tin: Báo Kon Tum

Thời điểm hiện tại, vựa cà phê Đăk Hà Kon Tum) đã bắt đầu vào vụ thu hái sản phẩm. Tuy nhiên trái ngược với không khí rộn ràng những ngày vào mùa các năm trước, năm nay, người trồng cà phê trên địa bàn huyện đang bước vào mùa thu hái với nhiều nỗi lo.

Dù trái cà phê chưa đạt tỷ lệ quả chín, song gia đình anh A Đức (thôn Đăk Vét, xã Đăk Pxi) đã phải huy động bà con, anh em đến thu hái cà phê giúp gia đình để chạy lũ. Anh cho biết, những ngày qua, do ảnh hưởng mưa bão, mực nước tại sông Đăk Pxi dâng cao đã làm gần 600 cây cà phê của gia đình bị ngập úng cục bộ và bắt đầu xuất hiện tình trạng trái rụng. Việc thu hái sớm, dù biết là không đạt sản lượng và chất lượng nhưng vẫn là giải pháp duy nhất của gia đình để phòng việc mất trắng nếu tình trạng mưa bão tiếp tục kéo dài và mực nước tại sông Đăk Pxi dâng cao như những ngày mưa lũ vừa qua.

Không chỉ các hộ nông dân có diện tích nằm trên lưu vực các sông suối lớn, nhiều hộ gia đình khác cũng tổ chức hái sớm do thời gian vừa qua, ảnh hưởng của việc thời tiết thất thường, cộng với nhiều cơn bão liên tục trong thời gian ngắn vừa qua đã gây ra hiện tượng rụng trái hàng loạt ở nhiều địa phương. Việc thu hái, dẫu biết rằng chưa đạt năng suất, chất lượng nhưng với quan niệm “xanh nhà hơn già đồng”, thu hái kịp thời vẫn hơn để vốn liếng đầu tư cả năm của gia đình bị mưa lũ cuốn.

Ngoài mất mùa, giảm năng suất, người trồng cà phê Đăk Hà còn nỗi lo về nhân công thu hái cà phê. Ảnh: LH

Bên cạnh nỗi lo về năng suất, sản lượng tụt giảm do ảnh hưởng của thời tiết, một yếu tố khác cũng làm nhiều người trồng cà phê trên địa bàn huyện Đăk Hà lo lắng là nhân công thu hái cà phê vào thời gian cao điểm của mùa vụ.

Ông Nguyễn Quang Tuyên tại thôn 2, xã Hà Mòn cho biết: Nếu như các năm trước, việc luân chuyển, bố trí nguồn lao động dôi dư tại chỗ từ các xã Ngọc Wang, Đăk Ui, Ngọk Réo, Đăk La… tới các vùng chuyên canh cà phê của huyện như Đăk Mar, Hà Mòn, thị trấn Đăk Hà được thực hiện hiệu quả, góp phần giải quyết tốt tình trạng thiếu lao động cục bộ, thì năm nay lại khó thực hiện. Một phần nguyên nhân là lực lượng lao động tại các xã trên không đáp ứng được yêu cầu lao động cùng một lúc, một phần vì hầu hết những lao động này trong quá trình thu hoạch chủ yếu chạy theo số lượng dẫn đến tình trạng bẻ cành, hái dối, không đảm bảo việc giữ vườn cây cho những năm tiếp theo.

Để giải quyết vấn đề thiếu lao động cục bộ vào thời gian cao điểm thu hái cà phê, các chủ lô, rẫy tại huyện Đăk Hà chuyển sang ưu tiên sử dụng lực lượng lao động từ các tỉnh miền Trung như Quảng Ngãi, Quảng Nam… tới địa phương thu hái cà phê. Song lượng lao động này cũng không nhiều như mọi năm.

Ngoài những nỗi lo thường trực vào mùa thu hái, việc chi phí đầu tư vào sản xuất vẫn tăng đều đặn qua các năm, trong khi mức giá cà phê hiện tại trên thị trường không thấy dấu hiệu khả quan. Nhiều người trồng cà phê đang bước vào một vụ mùa thu hái với tâm lý không mấy vui vẻ khi mà lợi nhuận thu được không đáng là bao. Giải pháp được lựa chọn nhiều năm nay là phơi, xay trữ nhân chờ được giá thì mới bán. Điều này đồng nghĩa với việc các khoản chi phí đầu tư từ đầu năm đến khi thu hái phải nằm im gánh lãi.

Được xác định là loại cây công nghiệp chủ lực, có tính chất quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện Đăk Hà, song với những diễn biến tiêu cực của thời tiết, của giá cả thị trường và nhiều yếu tố khác…, thì những nỗi lo thường trực của người nông dân quanh năm gắn bó với cây cà phê suốt nhiều năm trở lại đây chưa biết khi nào mới chấm dứt.

Trọng Nghĩa

Những vụ lúa thất bát vì thời tiết

Nguồn tin: Báo Khánh Hòa

Vụ lúa hè thu và vụ mùa năm nay, cây lúa phải đối diện với nhiều khó khăn về thời tiết nên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất. Nông dân trên toàn tỉnh Khánh Hòa kém vui vì sản xuất lúa hiệu quả không như mong đợi.

Hết hạn hán đến ngập lụt

Theo bà Lương Kim Ngân, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, tổng kết vụ lúa hè thu năm nay, diện tích gieo sạ chỉ bằng 1/3 so với các năm trước. Không những vậy, năng suất lúa cũng chỉ đạt ở mức 57 tạ/ha, giảm cả chục tạ so với trung bình nhiều mùa vụ trước. Cơ quan chuyên môn cho rằng, thời điểm xuống giống vụ lúa hè thu năm nay trùng với quãng thời gian nắng hạn trên địa bàn tỉnh diễn ra gay gắt. Giai đoạn xuống giống (khoảng tháng 5 đến tháng 7) là thời điểm các hồ chứa nước trên toàn tỉnh đã chạm mức đáy. Bởi vậy, nhiều diện tích lúa hè thu không thể xuống giống do không có nước tưới. Đơn cử như tại Ninh Hòa, năm 2019, nông dân địa phương gieo sạ được hơn 8.700ha lúa hè thu; năm nay gieo sạ chưa đầy 3.400ha. Các năm trước, nông dân toàn tỉnh gieo sạ hơn 18.000ha lúa hè thu, nhưng năm 2020 chưa tới 7.000ha, chỉ đạt khoảng 35% so với năm trước. Không chỉ giảm mạnh về diện tích, vụ lúa hè thu năm nay cũng phải chia ra nhiều đợt gieo sạ, do phải phụ thuộc nước tưới. Vì vậy, nhiều khu vực phải gieo trễ, không đúng với lịch thời vụ. Việc kéo dài thời gian gieo sạ, thiếu đồng nhất khiến nông dân tốn nhiều chi phí hơn so với việc xuống giống đồng loạt trong thời gian ngắn.

Cánh đồng lúa xã Vạn Bình, huyện Vạn Ninh chìm sâu trong nước do ảnh hưởng của bão số 12 vừa qua. Ảnh: Mạnh Hùng

Do vụ hè thu muộn hơn so với các năm nên ngay khi thu hoạch xong vụ lúa này, nông dân lại tất bật xuống giống ngay vụ mùa cho kịp thời vụ. Diện tích lúa mùa toàn tỉnh 6.000ha, giảm hơn 1.500ha so với năm trước. Giống chủ lực là ML202, ML48 và TH41. Khác với vụ hè thu, điều kiện về nước tưới cho lúa mùa khá dồi dào. Tuy nhiên, khi cây lúa đang ở độ tuổi bắt đầu ngậm đòng, hàng nghìn héc-ta lại bị ngập chìm trong nước do ảnh hưởng liên tiếp của những cơn bão gần đây. Đơn cử tại huyện Vạn Ninh, bão số 12 đã nhấn chìm 1.700ha lúa mùa trong nước lũ. Khi dòng nước bạc trôi qua, bùn đất bám nhiều trên thân, lá khiến cho cây lúa có dấu hiệu vàng vọt, héo úa, khó phục hồi. Thêm một vụ lúa kém hiệu quả là điều đã được báo trước.

Khó chuyển đổi

Những năm qua, hoạt động chuyển đổi cây trồng phát triển khá mạnh. Dẫu vậy, việc chuyển từ đất lúa sang cây trồng khác không phải là điều dễ dàng. Trước hết, do hạ tầng khu vực trồng lúa khó có thể trồng các cây ngắn ngày khác. Chẳng hạn trồng lúa, hệ thống thủy lợi sẽ điều tiết nước theo đợt với lượng nước lớn, tưới tràn ngập ruộng; trong khi cây trồng khác cần nước mỗi ngày nhưng với lượng ít, tưới thấm đất. Sự khác biệt này khiến cho việc chuyển đổi cây trồng của nông dân khó thực hiện được. Ngoài ra, việc trồng các loại cây ngắn ngày khác hầu như cần sự chăm sóc và bảo vệ mỗi ngày, trong khi nhiều hộ có diện tích ruộng nằm khá xa nơi sinh sống, điều này đang cản trở quá trình chuyển đổi cây lúa sang cây trồng khác.

Theo bà Lương Kim Ngân, Phó Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, năm 2019, tỉnh có kế hoạch chuyển đổi hơn 1.000ha lúa kém hiệu quả, không chủ động nước tưới sang cây trồng hàng năm khác. Tuy nhiên, đến cuối năm chỉ chuyển đổi được hơn 200ha. Kế hoạch năm 2020, toàn tỉnh sẽ chuyển đổi cây trồng cho diện tích hơn 2.700ha, trong đó có gần 930ha lúa kém hiệu quả. Tuy nhiên, do hết khô hạn đến mưa lụt nên đến nay mới chỉ có 194ha lúa được chuyển đổi.

Thiết nghĩ ở một số địa phương như tại thị xã Ninh Hòa - nơi có nhiều chân ruộng tương đối cao, hoạt động chuyển đổi đất lúa sang cây trồng khác cần được thực hiện mang tính chất kiểu mẫu trên một khu vực, một cánh đồng có sự đồng bộ về hạ tầng, tưới tiêu. Chẳng hạn như tại xã Ninh Đông đã có các tổ hợp tác mạnh dạn chuyển đất lúa sang trồng hẹ với hiệu quả gấp 10 lần trồng lúa. Cũng tại Ninh Đông, Ninh Thân, Ninh Trung, Ninh Tây… đã dần dần trở thành “vựa rau” của tỉnh với diện tích ngày càng mở rộng, có sự đầu tư mạnh mẽ về hạ tầng và quy trình trồng theo hướng an toàn, VietGAP. Sự khác biệt giữa trồng rau và lúa không chỉ đến ở hiệu quả kinh tế của cây rau lớn hơn nhiều so với lúa, mà một mùa rau kéo dài phổ biến chưa đầy 1 tháng, trong khi trồng lúa hơn 3 tháng mới cho thu hoạch. Trong điều kiện thời tiết bất thường ngày càng phổ biến, việc chuyển sang trồng các cây càng ngắn ngày sẽ giảm nguy cơ thiệt hại cho nông dân.

Hồng Đăng

Tập trung phòng, chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm

Nguồn tin: Báo Long An

Thời gian gần đây, trên địa bàn tỉnh Long An liên tiếp xảy ra nhiều loại dịch bệnh trên gia súc, gia cầm (GSGC), gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi. Ngành Nông nghiệp tỉnh đang tích cực triển khai quyết liệt các giải pháp để phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ đàn GSGC.

Dịch bệnh liên tiếp xảy ra

Hiện nay, tình hình dịch bệnh trên GSGC ở tỉnh diễn biến rất phức tạp. Theo kết quả giám sát sự lưu hành bệnh cúm gia cầm (CGC) năm 2020 của Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh, tỷ lệ lưu hành của vi-rút cúm A/H5N1 và cúm A/H5N6 là khá cao (5,9% đối với cúm A/H5N1 và 6,4% đối với cúm A/H5N6). Trong đó, tại các huyện: Tân Trụ, Cần Đước, Bến Lức, tỷ lệ lưu hành của 2 chủng cúm này là rất cao (trên 6%).

Từ giữa tháng 10 đến nay, dịch CGC đã liên tiếp xảy ra tại 2 huyện Cần Đước và Tân Trụ. Cụ thể, ngành chức năng đã phát hiện 1 ổ dịch cúm A/H5N6 tại xã Quê Mỹ Thạnh, huyện Tân Trụ; 1 ổ dịch cúm A/H5N6 tại xã Long Định, 1 ổ dịch cúm A/H5N1 tại xã Tân Lân và 1 ổ cúm A/H5N1 tại xã Phước Đông, huyện Cần Đước. Cùng với đó, dịch tả heo châu Phi và bệnh lở mồm long móng trên bò cũng xuất hiện trở lại tại huyện Tân Trụ, gây thiệt hại không nhỏ cho người chăn nuôi.

Phun thuốc sát trùng để vệ sinh, tiêu độc, khử trùng xung quanh khu vực chăn nuôi

Ông Trần Văn Giàu, ngụ xã Long Định, huyện Cần Đước, lo lắng: “Trên địa bàn xã xuất hiện dịch cúm A/H5N1 nên người chăn nuôi rất lo lắng, sợ ảnh hưởng đến đàn GC của mình. Sau khi chính quyền địa phương giải thích, triển khai các biện pháp khống chế dịch, chúng tôi mới an tâm phần nào. Toàn bộ đàn vịt đẻ 2.000 con của tôi đã được Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện hỗ trợ tiêm phòng vắc-xin cúm A/H5N1 miễn phí”.

Phó Chủ tịch UBND xã Long Định - Phan Văn Tưởng cho biết: “Ngay khi xảy ra dịch bệnh, xã tích cực phối hợp ngành chức năng huyện, tỉnh tiêu hủy toàn bộ đàn GC nhiễm bệnh, phun thuốc sát trùng để vệ sinh chuồng trại, tiêu độc, khử trùng trong vùng xảy ra ổ dịch; triển khai công tác tiêm phòng bắt buộc vắc-xin CGC trên địa bàn (hiện nay đã tổ chức tiêm xong). Thời gian tới, UBND xã tiếp tục phối hợp cấp trên theo dõi, báo cáo tình hình thường xuyên để kịp thời xử lý, giảm thiểu thiệt hại cho người dân”.

Theo Giám đốc Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện Cần Đước - Nguyễn Thị Cẩm Vân, hiện nay, huyện đang triển khai quyết liệt các giải pháp để khống chế dịch cúm A/H5N1 và cúm A/H5N6, cố gắng không để dịch lây lan ra diện rộng; đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân an tâm chăn nuôi, chủ động phối hợp ngành chuyên môn nếu có nghi ngờ về dịch bệnh. Toàn huyện hiện có hơn 6.400 con GS và hơn 1,2 triệu con GC. Tính đến thời điểm hiện tại, số GC được tiêu hủy là gần 14.000 con.

Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tân Trụ - Đặng Văn Tây Lo thông tin: “Hiện trên địa bàn huyện có 1 ổ dịch CGC A/H5N6 ở xã Quê Mỹ Thạnh, 1 ổ dịch lở mồm long móng trên bò tại xã Đức Tân và 2 ổ dịch tả heo châu Phi tại xã Tân Bình và thị trấn Tân Trụ. Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện đã phối hợp các ngành liên quan tiêu hủy tổng cộng 25 con heo, 2 con bò và hơn 3.500 con vịt; đồng thời, phối hợp Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện phun xịt thuốc sát trùng để tiêu độc, khử trùng cho toàn huyện và tiêm vắc-xin cho GSGC trong vùng dịch”.

Quyết liệt phòng, chống dịch

Hiện nay, ngành chức năng và các địa phương trên địa bàn tỉnh tập trung tuyên truyền, vận động người chăn nuôi thường xuyên cập nhật kịp thời những thông tin về tình hình dịch bệnh trên GSGC; đồng thời, tăng cường lực lượng kiểm tra, giám sát các hoạt động liên quan đến động vật, tổ chức tiêm phòng vắc-xin theo đợt như kế hoạch đã đề ra. Tuy nhiên, đến thời điểm này, dịch bệnh vẫn chưa được kiểm soát.

Anh Bùi Tấn Đạt, ngụ xã Bình Tịnh, huyện Tân Trụ, cho biết: “Trước tình hình dịch bệnh phức tạp như hiện nay, ngoài tiêm phòng theo lịch, gia đình tôi còn chủ động tiêm phòng thêm một số loại vắc-xin để phòng ngừa các dịch bệnh trên heo như tai xanh, huyết trùng, thương hàn,...Bên cạnh đó, tôi còn trộn thêm kháng sinh, vitamin và các khoáng chất cần thiết vào thức ăn để bảo vệ sức khỏe, tăng cường sức đề kháng cho đàn heo”.

Triển khai tiêm phòng vắc-xin để bảo vệ đàn gia cầm (Ảnh chụp tại xã Tân Lân, huyện Cần Đước)

Mặc dù không nằm trong vùng bị dịch bệnh uy hiếp nhưng công tác phòng, chống dịch bệnh trên GSGC tại huyện Thạnh Hóa vẫn được thực hiện nghiêm túc. Theo Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thạnh Hóa - Nguyễn Kinh Kha, ngoài chương tình tiêm phòng vắc-xin miễn phí (hộ chăn nuôi, đối tượng theo quy định) theo đợt, huyện còn vận động các hộ chăn nuôi tiêm phòng vắc-xin bắt buộc cho đàn GSGC. Nhìn chung, hiện nay, tình hình dịch bệnh trên GSGC tại huyện vẫn đang được kiểm soát tốt, người chăn nuôi ngày càng có ý thức và chủ động hơn trong việc phòng, chống dịch bệnh.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Đinh Thị Phương Khanh thông tin: Trước tình hình dịch bệnh diễn biến nhanh, phức tạp, ngành cùng địa phương (nơi có dịch) tiêu hủy toàn bộ đàn heo nhiễm bệnh theo quy định (chôn hoặc đốt). Đồng thời, ngành khuyến cáo địa phương tăng cường giám sát dịch bệnh, kiểm dịch động vật nhằm phát hiện sớm, xử lý nhanh, triệt để, ngăn chặn dịch lây lan trên diện rộng; thông tin trên các phương tiện truyền thông về tình hình dịch bệnh và các biện pháp triển khai chống dịch, trong đó, tập trung tuyên truyền cho người dân các biện pháp chăn nuôi an toàn sinh học. Khi phát hiện đàn GSGC có biểu hiện bất thường, chết nhanh, chết nhiều,... chủ hộ chăn nuôi phải báo ngay cho cơ quan thú y hoặc chính quyền địa phương; thực hiện tiêu độc, khử trùng chuồng trại tại các xã vùng dịch, vùng bị dịch uy hiếp và vùng đệm.

Song song đó, tỉnh cấp thuốc sát trùng để tiêu độc, khử trùng tại vùng dịch đối với những hộ chăn nuôi GC có quy mô từ 2.000 con trở xuống, những hộ chăn nuôi heo có quy mô 50 con trở xuống và những hộ nuôi trâu, bò có quy mô 20 con trở xuống. Ngoài ra, các cơ sở chăn nuôi, trại chăn nuôi tập trung, cơ sở giết mổ động vật tập trung tự chuẩn bị vật tư, kinh phí, tổ chức thực hiện theo sự giám sát của chính quyền địa phương và cơ quan chuyên môn.

“Với tình hình dịch bệnh phức tạp như hiện nay, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn dịch bệnh trên đàn GSGC, người dân cần phải thường xuyên quan tâm, theo dõi sức khỏe của đàn vật nuôi, thực hiện tốt việc chăn nuôi an toàn sinh học; tăng cường vệ sinh, tiêu độc, khử trùng chuồng trại; chủ động tiêm phòng vắc-xin ngừa cúm A/H5N1, A/H5N6 cho GC và vắc-xin lở mồm long móng cho GS; hạn chế đến mức thấp nhất người và động vật ra, vào khu vực chăn nuôi, thực hiện nghiêm “5 không” (không giấu dịch; không buôn bán, vận chuyển GSGC bệnh, chết; không giết mổ, tiêu thụ GSGC bệnh, chết; không vứt xác GSGC chết ra môi trường; không ăn thịt GSGC bị bệnh hoặc không rõ nguồn gốc)” - bà Đinh Thị Phương Khanh khuyến cáo./.

Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cần Giuộc - Ngô Bảo Quốc: Toàn huyện có hơn 880.000 con GSGC. Từ khi dịch bệnh trên GSGC bùng phát, tỉnh đã hỗ trợ miễn phí thuốc sát trùng cho các hộ chăn nuôi có quy mô tổng đàn dưới 2.000 con GC thuộc các xã Long An, Long Phụng và Đông Thạnh, đây là 3 xã trong vùng bị dịch bệnh uy hiếp. Đến thời điểm hiện tại, tình hình dịch bệnh trên GS,GC ở huyện vẫn đang được kiểm soát tốt”.

Chị Lê Thị Hà, ngụ xã Nhựt Chánh, huyện Bến Lức: Khi nghe thông báo xã Nhựt Chánh nằm trong vùng bị uy hiếp bởi dịch bệnh, gia đình tôi đã thực hiện đúng theo hướng dẫn của cán bộ thú y địa phương, tiêm phòng đầy đủ cho đàn gà. Ngoài ra, tôi còn chú ý vệ sinh chuồng trại bằng các loại hoạt chất như benkocid, virkon, vôi,...”.

Ông Trần Văn Giàu, ngụ xã Tân Lân, huyện Cần Đước: Gia đình tôi luôn có ý thức trong việc phòng, chống dịch bệnh cho đàn GC. Nếu không thực hiện tốt, xảy ra dịch bệnh thì thiệt hại về kinh tế rất lớn. Ngoài việc vệ sinh, tiêu độc, khử trùng và tiêm phòng vắc-xin định kỳ, gia đình tôi còn nhờ cán bộ thú y hướng dẫn cách chủ động phòng, chống dịch bệnh. Hy vọng dịch bệnh sớm được kiểm soát để người dân an tâm chăn nuôi”.

Bùi Tùng

Giá dê và cừu tại Ninh Thuận, Bình Thuận liên tục tăng cao

Nguồn tin: VOV

Hiện nay, thương lái đang thu mua dê thịt ở mức từ 135.000 - 145.000/kg, cừu thịt có giá dao động từ 120.000 - 130.000 đồng/kg.

Gần 1 tháng qua, giá thịt dê, thịt cừu tại hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận liên tục tăng cao, có thời điểm giá dê thịt lên đến hơn 140.000 đồng/kg. Đây là mức giá khiến người chăn nuôi phấn khởi.

Hiện nay, thương lái đang thu mua dê thịt ở mức từ 135.000 - 145.000/kg, cừu thịt có giá dao động từ 120.000 - 130.000 đồng/kg. So với thời điểm cuối năm 2019 giá dê, cừu hiện đã tăng từ 30.000 - 35.000 đồng/kg.

Do giá dê, cừu thịt thương phẩm tăng mạnh nên nhu cầu mua con giống của các hộ chăn nuôi, chủ trang trại để tăng đàn nuôi cũng tăng theo. Hiện dê, cừu giống có giá từ 1850.000 - 190.000 đồng/kg. Nếu điều kiện và nguồn thức ăn ổn định, sau khoảng thời gian từ 6 - 8 tháng nuôi, mỗi con dê, cừu đạt cân nặng từ 20 - 25 kg có thể xuất bán.

Hiện nay, thương lái đang thu mua dê thịt ở mức từ 135.000 - 145.000/kg.

Theo các chủ cơ sở kinh doanh dê, cừu tại hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận, các dịch vụ ăn uống, nhà hàng, quán ăn mở cửa hoạt động trở lại sau đại dịch Covid-19 khiến nhu cầu tiêu thụ thịt dê, cừu tăng cao. Trong khi đó, nguồn cung thịt dê, cừu thương phẩm ở các địa phương đang khan hiếm khiến giá dê, cừu tăng mạnh.

Thịt dê, cừu của hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận đang được tiêu thụ mạnh tại các tỉnh, thành trong cả nước như TP HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu,...

Ngành nông nghiệp cho biết, giá dê, cừu ở mức khá cao giúp người chăn nuôi có được mức lợi nhuận tốt, tạo thêm động lực cho bà con phát triển các mô hình chăn nuôi dê, cừu để phát triển kinh tế.

Để giúp người chăn nuôi tiếp tục đạt hiệu quả kinh tế cao hơn, ngành chức năng đang tăng cường tư vấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật cải tạo đàn dê, cừu gắn với quy hoạch vùng đồng cỏ. Đồng thời, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, hợp tác xã trên địa bàn đẩy mạnh liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị để nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm.

Tại hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận hiện có tổng đàn dê trên 168.000 con, gần 140.000 con cừu. Ở Ninh Thuận và Bình Thuận chăn nuôi dê, cừu chủ yếu theo hình thức chăn thả tự do, kết hợp nuôi nhốt cho ăn thức ăn tự nhiên nên cho chất lượng thịt được người tiêu dùng đánh giá ngon và an toàn.

Riêng sản phẩm dê Ninh Thuận được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp Chứng nhận bảo hộ nhãn hiệu “Dê Ninh Thuận”; sản phẩm thịt cừu được cấp bảo hộ Chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm thịt cừu có xuất xứ từ “Ninh Thuận” nhằm khẳng định chất lượng và uy tín sản phẩm đặc thù của địa phương./.

Đoàn Sỹ/VOV-TP HCM

Người nuôi gà không dễ kiếm lời vụ Tết

Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Vụ Tết luôn là cơ hội tốt nhất trong năm cho người chăn nuôi gà. Tuy nhiên, năm nay, nhiều nông dân tỏ ra e dè với việc mở rộng quy mô chăn nuôi, vì giá gà xuống quá thấp và khó tiêu thụ.

Mặc dù là vụ quan trọng nhất trong năm, song nhiều nông dân e dè trong việc đầu tư nuôi gà vụ Tết Nguyên đán 2021. Trong ảnh: Ông Nguyễn Văn Long, ấp Đức Trung, xã Bình Ba, huyện Châu Đức đang khử trùng chuồng, trại nuôi gà.

Giữa tháng 10 (âm lịch), ông Nguyễn Văn Long, ấp Đức Trung, xã Bình Ba, huyện Châu Đức (tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) chuẩn bị gà giống để mở rộng chăn nuôi, phục vụ thị trường Tết Nguyên đán. Nếu như vụ Tết năm ngoái ông thả nuôi 6.000 con thì năm nay, ông Long chỉ nuôi 2.000 con. “Suốt cả tháng nay, giá gà giảm mạnh, chỉ còn 35-45 ngàn đồng/kg (gà ta), bằng ½ so với năm ngoái mà rất ít người mua. Do đó, hầu hết người chăn nuôi đều không dám mở rộng chăn nuôi”.

Theo ông Long, sở dĩ giá gà giảm là do thời gian qua, nhiều trang trại chuyển từ nuôi heo sang nuôi gà, dẫn đến nguồn cung quá lớn, tiêu thụ chậm. Ông Long cho biết: “Nuôi 1.000 con gà vào thời điểm này, khả năng sẽ lỗ khoảng 15 triệu đồng. Chưa bao giờ tôi thấy cận Tết mà giá xuống thấp như hiện nay. Lứa gà 3.000 con của tôi đã quá thời gian xuất bán 10 ngày, nhưng mới bán được một nửa. Nếu tình hình kéo dài thêm, sẽ thua lỗ nặng”.

Còn ông Nguyễn Minh Lý, ấp 1, xã Tóc Tiên, TX. Phú Mỹ nuôi gà ta thảo dược từ 3 năm nay cho biết: Năm ngoái, ông đầu tư 2.500 con gà thảo dược phục vụ thị trường Tết. Đến giữa tháng Chạp, gà đã được thu mua hết. Năm nay, ban đầu ông Lý dự định nuôi 4.000 con phục vụ Tết Nguyên đán, tuy nhiên diễn biến thị trường có nhiều bất lợi nên ông chỉ nuôi 3.000 con. “Ngoài dịch bệnh ảnh hưởng tới việc tiêu thụ, năm nay giá gà ta cũng đang ở mức thấp, tôi lo sợ việc tăng đàn nhiều sẽ khiến đầu ra khó khăn”, ông Lý thông tin.

Theo đánh giá của ngành nông nghiệp tỉnh, sau dịch tả heo châu Phi, hàng loạt hộ nuôi heo nhỏ lẻ chuyển sang mô hình nuôi gà ta thả vườn, một số hộ nuôi gà lâu năm cũng tăng số lượng nuôi. Việc ồ ạt tăng đàn vào thời điểm đầu năm khiến nguồn cung bị dư thừa. Ông Nguyễn Xuân Trung, Phó Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú Y (Sở NN-PTNT) cho biết, số lượng gia cầm trên địa bàn tỉnh là 6,3 triệu con, trong đó, gà khoảng 3,5 triệu con. Số lượng thịt gà dự kiến xuất chuồng quý IV, phục vụ cho Tết Nguyên đán là 3.600 tấn. Vào dịp cuối năm, để phục vụ thị trường Tết, số lượng nuôi sẽ còn tăng lên, do đó, bà con nông dân cần tính toán kỹ lưỡng nhu cầu để có phương án phù hợp.

Ngành nông nghiệp cũng khuyến cáo, bà con nông dân cần chủ động hơn trong việc liên kết đầu mối tiêu thụ cũng như với các đơn vị cung cấp thức ăn chăn nuôi để bảo đảm tính toán được nguồn cung, ổn định giá cả, tránh tình trạng cung vượt cầu khiến giá tiếp tục giảm sâu, dẫn đến thiệt hại nặng.

Bài, ảnh: KIM HỒNG, PHONG HIẾU

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop