Sản xuất hiệu quả từ phương pháp hữu cơ vi sinh
Nguồn tin: Báo Bình Dương
Với phương pháp dùng bắp nghiền, ủ bã đậu nành với nấm Trichoderma để tạo ra dòng phân hữu cơ hữu hiệu, giúp cây trồng tuổi thọ cao và cho ra trái đạt chất lượng, anh Vũ Mạnh Cường, ngụ ấp 4, xã Lạc An, huyện Bắc Tân Uyên (tỉnh Bình Dương) là người duy nhất ở xã mạnh dạn ứng dụng cách làm này, thu nhập của gia đình hàng năm đạt từ 600 - 800 triệu đồng.
Phương pháp ủ bã đậu nành với nấm Trichoderma bón cho cây giúp vườn cam của gia đình anh Cường luôn xanh tốt, kéo dài tuổi thọ và cho ra trái đạt chất lượng ca
Chúng tôi đến thăm vườn cam sành của anh Cường chỉ còn gần một tháng là vào mùa thu hoạch. Đã trải qua 4 mùa thu hoạch, tuổi đời cây đến nay tròn 7 năm nhưng vẫn khỏe khoắn, tràn đầy sức sống. Anh Cường cho biết có được điều này là nhờ phương pháp bón phân hữu cơ được chế biến từ bắp nghiền và bã đậu nành ủ với nấm Trichoderma. Phương pháp này giúp cải tạo đất, bảo vệ và hỗ trợ bộ rễ phát triển mạnh giúp vườn cam của anh kéo dài tuổi thọ, đồng thời bảo đảm được vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm. Vườn cây của gia đình không gặp phải lo ngại về sâu bệnh bởi vì phương pháp này làm ức chế, tiêu diệt nấm bệnh, không dẫn dụ côn trùng có hại và khử sạch mùi hôi.
Theo anh Cường, thành phần đạm trong bã đậu nành chiếm tỷ lệ lớn, ngoài ra còn rất nhiều chất khoáng, chất xơ, béo... là nguyên liệu rất tốt để chế biến thành phân bón hữu cơ vi sinh, giúp trái cây thơm ngon, nhiều chất dinh dưỡng. Anh dựa theo phương pháp dùng bã đậu nành làm thành phần chủ lực, xử lý thành phân hữu cơ hữu hiệu dạng bột để bón cho vườn cam. Hiệu quả năng suất mỗi vụ thu hoạch từ 50 - 55 tấn/ha. Thời gian đầu, thị trường đầu ra chưa thuận lợi, nhưng dần dần chất lượng và vị cam thơm ngon đã thu hút khách hàng, trở thành mối hàng quen thuộc của thương lái. Giá bán thay đổi tùy thời điểm, cao từ 20.000 - 22.000 đồng/kg, thấp từ 11.000 - 17.000 đồng/kg.
Việc mạnh dạn áp dụng cách làm hay cho cây trồng không những giúp vườn cây của anh cho ra năng suất tốt, nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống gia đình mà còn giúp tạo việc làm cho lao động địa phương. Do diện tích canh tác không quá lớn nên lao động anh thường thuê theo công nhật. Lương mỗi một lao động từ 200.000 - 250.000 đồng/ngày.
Thành công lớn nhất của anh Cường chính là việc nắm bắt thị trường kịp thời, nhận ra xu hướng, nhu cầu “sống xanh” đang ngày càng tăng, nhất là các mặt hàng đồ ăn, thức uống. Việc ứng dụng phương pháp sạch, an toàn, hiệu quả trong sản xuất không chỉ bảo vệ môi trường, sức khỏe cho chính gia đình mà còn góp phần bảo vệ sức khỏe cộng đồng, từ đó nâng cao uy tín, thương hiệu sản phẩm đối với khách hàng. “Tôi luôn sẵn sàng chia sẻ phương pháp sản xuất của mình cho bà con với mong muốn cùng nhau phát triển, tạo ra vườn cây có năng suất, giá trị cao”, anh Cường cho biết thêm.
TIẾN HẠNH
Tìm đường ‘xuất ngoại’ cho bưởi đặc sản
Nguồn tin: Báo Phú Thọ
Nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào trồng, chăm sóc cây bưởi; chất lượng các loại bưởi không ngừng nâng cao, được người tiêu dùng ưa chuộng.
Từ nhiều năm qua, tỉnh Phú Thọ xác định cây bưởi là một trong những cây trồng chủ lực. Trong định hướng phát triển chiến lược, tỉnh đã và đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp để đưa sản phẩm bưởi Đất Tổ đáp ứng đủ các tiêu chuẩn xuất khẩu. Khẳng định giá trị sản phẩm Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT): Tổng diện tích trồng bưởi toàn tỉnh hiện đạt khoảng 4,9 nghìn ha, trong đó, diện tích bưởi đặc sản Đoan Hùng đạt gần 1,5 nghìn ha, bưởi Diễn đạt 3,2 nghìn ha, còn lại là các loại bưởi khác như Xuân Vân, Da Xanh, bưởi Đỏ... Sản lượng bưởi ước hàng năm đạt 39,2 nghìn tấn, trong đó bưởi đặc sản Đoan Hùng đạt 15 nghìn tấn (với 1,2 nghìn ha cho sản phẩm, năng suất 122 tạ/ha), bưởi Diễn đạt 22 nghìn tấn (với 1,9 nghìn ha cho sản phẩm, năng suất 114 tạ/ha), các loại bưởi khác được trồng cũng cho chất lượng khá tốt. Toàn tỉnh hiện có khoảng 1,7 nghìn ha bưởi thực hiện sản xuất theo hướng GAP, hữu cơ với sản lượng 20 nghìn tấn.
Trong các loại bưởi đang được trồng trên địa bàn tỉnh hiện nay, bưởi Đoan Hùng là đặc sản nổi tiếng không chỉ riêng ở Phú Thọ mà còn ở trên cả nước. Bưởi Đoan Hùng khi chín quả có màu vàng sáng, tép nhỏ, vỏ héo, mềm, đặc trưng mọng nước, ngọt và mát; có thể bảo quản được vài tháng đến nửa năm, ngay cả khi vỏ đã héo khô, khi bổ ra ăn vẫn ngọt, thơm mát, vẫn giữ nguyên hương vị. Huyện Đoan Hùng hiện có 23 vùng trồng bưởi đặc sản tập trung tại 18 xã vùng thượng huyện. Với chính sách hỗ trợ của tỉnh, người trồng bưởi ở Đoan Hùng đã trồng được 530ha bưởi theo hướng GAP, hữu cơ, sản lượng 6,6 nghìn tấn (trong đó Bằng Luân 4,6 nghìn tấn, Chí Đám 2 nghìn tấn).
Đặc biệt, hai giống bưởi quý Chí Đám và Bằng Luân đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học & Công nghệ) cấp văn bằng Bảo hộ chỉ dẫn địa lý; sản phẩm bưởi quả Chí Đám, Bằng Luân đạt sản phẩm OCOP 3 sao cấp tỉnh. Những năm gần đây, nhiều hộ gia đình đã mạnh dạn đầu tư, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào trồng, chăm sóc cây bưởi; chất lượng các loại bưởi không ngừng nâng cao, được người tiêu dùng ưa chuộng. Từ đó, thu nhập trung bình của người trồng bưởi được cải thiện, đạt bình quân 300 - 500 triệu đồng/ha/năm, đặc biệt có những diện tích đạt trên 1 tỷ đồng/ha/năm. Đưa hương vị bưởi đặc sản Đất Tổ vươn xa Tại buổi làm việc với đoàn công tác của Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh và Thứ trưởng Bộ Ngoại giao - Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Nhật Bản Vũ Hồng Nam với tỉnh Phú Thọ vừa qua, đồng chí Bùi Văn Quang - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh đã nhấn mạnh: Trong lĩnh vực nông nghiệp, tỉnh tập trung phát triển 3 cây trồng chủ lực là chè, bưởi và cây gỗ lớn. Đối với sản phẩm bưởi, thời gian qua, tỉnh đã chú trọng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quy trình trồng, chăm sóc, bảo quản. Nhờ đó, chất lượng các loại bưởi không ngừng được nâng cao. Đồng chí Bùi Văn Quang mong muốn thời gian tới, Bộ NN&PTNT, Bộ Ngoại giao quan tâm, hỗ trợ tỉnh đẩy nhanh các quy trình để có thể xuất khẩu được sản phẩm bưởi quả sang thị trường Nhật Bản.
Đưa hương vị bưởi Đất Tổ vươn xa là mong muốn của các cấp ủy, chính quyền địa phương và của người trồng bưởi Phú Thọ. Vì thế, những năm qua, tỉnh đã quan tâm, xây dựng các chương trình, quy hoạch, kế hoạch, chính sách hỗ trợ để phát triển. Từ năm 2016 đến nay, trên 20 tỷ đồng được huy động hỗ trợ cho phát triển cây bưởi đặc sản Đoan Hùng, bưởi Diễn trên địa bàn tỉnh. So với các cây trồng khác, 1 ha bưởi cho thu nhập cao gấp 6 lần trồng lúa, gấp 20 lần cây lâm nghiệp, gấp 5 lần cây chè…
Tuy nhiên, như đánh giá của Sở NN&PTNT, để sản phẩm bưởi của tỉnh ta sớm “xuất ngoại” thì hiện vẫn còn rất nhiều rào cản cần sớm tháo gỡ. Đó là vốn đầu tư cho sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ cao của người dân còn hạn chế; các nguồn vốn tín dụng và các nguồn vốn chính sách chưa thực sự tạo được thuận lợi cho người làm nông nghiệp tiếp cận. Trong khi đó, chuỗi liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm hiện vẫn còn ít, chưa bền vững; khâu tổ chức, quản lý sản xuất, tiêu thụ chưa có doanh nghiệp đứng ra làm đầu mối liên kết để tiêu thụ và xuất khẩu…
Hướng tới xuất khẩu bưởi quả sang thị trường Nhật Bản, UBND tỉnh đã đề nghị Bộ NN&PTNT giúp tỉnh đưa cây bưởi Phú Thọ vào Chương trình xúc tiến thương mại xuất khẩu nông sản (hoa quả) của Bộ; hỗ trợ tổng điều tra sinh vật gây hại trên bưởi trong vùng; làm việc với Nhật Bản để đàm phán, thống nhất biện pháp xử lý đối tượng dịch hại; phối hợp tổ chức tập huấn sâu rộng cho cán bộ, người dân, doanh nghiệp… về các yêu cầu cũng như biện pháp kỹ thuật, trồng, chăm sóc, sơ chế, chế biến; hỗ trợ cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói xuất khẩu; giới thiệu doanh nghiệp tham gia đầu tư sản xuất và thu mua, xuất khẩu sản phẩm bưởi với Nhật Bản.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh khẳng định: Bộ NN&PTNT sẽ tiếp tục chỉ đạo Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc phối hợp chặt chẽ với tỉnh trong kiểm soát chất lượng các giống cây trồng; hỗ trợ tỉnh về khoa học kỹ thuật để nâng cao chất lượng các sản phẩm nông nghiệp, đáp ứng tiêu chuẩn thị trường xuất khẩu.
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Nhật Bản Vũ Hồng Nam cũng cam kết trên cương vị của mình sẽ hỗ trợ tối đa cho tỉnh Phú Thọ trong việc đẩy nhanh tiến trình kết nối, hướng tới xuất khẩu sản phẩm bưởi quả của tỉnh sang thị trường Nhật Bản; đồng thời tiếp tục hỗ trợ tỉnh trong tìm kiếm, kết nối các nhà đầu tư tìm hiểu cơ hội đầu tư, sản xuất kinh doanh tại Phú Thọ.
Ngọc Tuấn
Châu Thành (Long An): Phấn đấu đạt 5.500ha thanh long ứng dụng công nghệ cao
Nguồn tin: Báo Long An
Thực hiện Đề án sản xuất thanh long theo hướng phát triển bền vững giai đoạn 2020-2025, tính đến tháng 3/2021, toàn huyện Châu Thành, tỉnh Long An có khoảng 9.100ha thanh long, trong đó thanh long ruột trắng khoảng 1.000ha, thanh long ruột đỏ khoảng 8.100ha, diện tích đang cho trái khoảng 8.500ha, sản lượng đạt 297.500 tấn.
Huyện Châu Thành phấn đấu đạt 5.500ha thanh long ứng dụng công nghệ cao vào năm 2025
Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Châu Thành - Võ Văn Vấn cho biết, thời gian qua, huyện thực hiện nhân rộng các mô hình ƯDCNC gắn với tái cơ cấu ngành Nông nghiệp nhằm nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững trong sản xuất thanh long. Kết quả đến nay, toàn huyện có trên 3.000ha thanh long ứng dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất với trên 5.000 hộ tham gia. Mục tiêu của Châu Thành đến năm 2025, toàn huyện sẽ có 5.500ha thanh long ƯDCNC và xây dựng thành công vùng trồng 300ha thanh long đạt tiêu chuẩn GlobalGAP.
Thời gian qua, huyện Châu Thành phối hợp Sở Khoa học và Công nghệ xây dựng chỉ dẫn địa lý cho thanh long Châu Thành Long An; đồng thời, hướng dẫn các hợp tác xã lập hồ sơ đề nghị Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp chỉ dẫn địa lý cho từng hợp tác xã. Ngoài ra, huyện có 13/15 hợp tác xã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp mã vạch và 5/15 hợp tác xã được cấp nhãn hàng hóa trái thanh long. Hiện tại, trái thanh long trồng trên đất Châu Thành có ƯDCNC được xuất khẩu qua 39 quốc gia và vùng lãnh thổ.
“Để thực hiện mục tiêu đề ra, thời gian tới, ngành Nông nghiệp huyện tiếp tục tập trung triển khai các buổi tập huấn để nâng cao nhận thức; đồng thời, thay đổi tập quán canh tác, sản xuất của người dân, giúp người dân hiểu hơn về lợi ích của nông nghiệp ƯDCNC. Mặt khác, ngành tiếp tục xây dựng các mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ thanh long theo hướng VietGAP, hữu cơ. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng trái thanh long, tìm kiếm đầu ra bền vững và tăng thu nhập cho người dân” - ông Vấn cho biết thêm./.
Minh Tuệ
Ia Grai: Nông dân trồng điều lo mất mùa
Nguồn tin: Báo Gia Lai
Đã vào giữa niên vụ thu hoạch 2020-2021 nhưng hàng ngàn nông dân ở huyện Ia Grai (tỉnh Gia Lai) đứng ngồi không yên khi cây điều ra nhiều hoa nhưng ít đậu quả. Nỗi lo mất mùa đang hiện hữu ở huyện vùng biên này.
Cây điều ít đậu quả dù rất nhiều hoa. Ảnh: Hoành Sơn
Huyện Ia Grai có diện tích trồng điều lớn nhất nhì tỉnh với hơn 5.700 ha, trong đó, 5 xã trồng nhiều là Ia Chía, Ia O (cùng 1.200 ha), Ia Khai, Ia Tô (cùng 1.000 ha) và Ia Krai (600 ha). Phù hợp với khí hậu và thổ nhưỡng của vùng, những năm qua, cây điều phát triển tốt, cho hiệu quả kinh tế cao, góp phần giúp người dân nâng cao thu nhập. Tuy vậy, niên vụ thu hoạch 2020-2021, hàng ngàn nông dân trồng điều đang lo lắng bởi điều ra ít quả.
Ông Nguyễn Chí Nguyên-Chủ tịch Hội Nông dân xã Ia Tô đưa chúng tôi đến nhà một số hộ dân tìm hiểu việc thu hoạch điều. Dọc hai bên những con đường giao thông của xã này cơ man là cây điều nhưng hiếm gặp cảnh người dân thu hoạch.
Dẫn chúng tôi ra thăm vườn điều của gia đình, anh Rơ Châm Tâm (làng De Lung 1, xã Ia Tô) buồn rầu nói: “Nhà tôi trồng 150 cây điều, vụ năm ngoái thu được hơn 1 tấn, bán được 30 triệu đồng. Những năm trước, tầm này là đã thu được khoảng 1,5 tạ nhưng năm nay thì chưa được cân nào. Hoa nở rất nhiều nhưng quả đậu rất ít. Chúng tôi đang lo thiếu tiền trả nợ đầu tư”.
Cùng tâm trạng, chị Rơ Mal H’Uih (làng De Lung 2) chia sẻ: “Gia đình tôi trồng xen 170 cây điều trong vườn nhà. Thông thường, từ trước Tết Nguyên đán là tôi bắt đầu đi nhặt điều rồi. Vậy mà năm nay, giờ vẫn chưa có điều để nhặt. Nhiều hộ dân trong xã cũng vậy. Trước Tết, vườn điều nhà tôi ra hoa nhiều lắm nhưng sau đó rụng hết. Quả non cũng bị thối cuống rồi rụng đầy trên mặt đất. Hiện vườn điều đang ra lứa hoa mới nhưng quả đậu ít lắm, mất mùa là cái chắc. Cứ nghĩ năm ngoái điều mất mùa, mất giá thì năm nay được mùa để còn có tiền trang trải cuộc sống, ngờ đâu gặp tình cảnh này”.
Vườn điều của gia đình chị Rơ Mal H’Uih (làng De Lung 2, xã Ia Tô, huyện Ia Grai) đang ra đợt hoa mới. Ảnh: Hoành Sơn
Ông Trịnh Việt Hùng-Chủ tịch UBND xã Ia Tô-cho hay: “Những năm trước, điều được giá cao nên người dân mở rộng diện tích trồng và có thu nhập ổn định. Còn năm nay thì khả năng mất mùa rất cao. Nguyên nhân là do giáp Tết Nguyên đán, khi cây điều đang ra hoa thì trên địa bàn có nhiều cơn mưa và sương muối khiến hoa bị rụng, không đậu quả. Hiện nay, giá hạt điều ở mức 26 ngàn đồng/kg nhưng rất ít hộ dân có để bán”.
Ở các xã có diện tích điều lớn như Ia O, Ia Chía, Ia Khai và Ia Krai, nông dân cũng đang đứng ngồi không yên trước nguy cơ mất mùa. Bà Nguyễn Mai Lương-Chủ tịch UBND xã Ia Khai-thông tin: “Từ Tết Nguyên đán đến nay, tại xã ghi nhận 5 cơn mưa cùng nhiều đợt nóng lạnh thất thường khiến thời gian rụng hoa, tạo quả của cây điều lâu, khi quả to bằng ngón tay cũng bị rụng hết. Hiện nay, toàn bộ diện tích điều ở xã đang ra đợt hoa mới. Các hộ phản ánh là nguy cơ mất mùa điều năm nay rất cao”.
Ông Phan Đình Thắm-Trưởng phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Ia Grai-cho biết: “Mọi năm, vào trung tuần tháng 3 thì người dân đã thu hoạch điều rộ, nhưng năm nay chỉ đang thu bói. Qua kiểm tra, chúng tôi nhận thấy năng suất điều của huyện trong vụ năm nay giảm khoảng 20-30%, thậm chí có nhiều vườn giảm 40-50%”.
HOÀNH SƠN
Cần Giuộc (Long An): Hướng đến sản xuất rau ứng dụng công nghệ cao
Nguồn tin: Báo Long An
Thời gian qua, sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (ƯDCNC) trên địa bàn huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An mang lại hiệu quả, giúp nông dân thay đổi tập quán sản xuất cũ.
Cần Giuộc là một trong những địa phương có diện tích rau ƯDCNC đứng đầu toàn tỉnh với 1.030ha. Ông Trương Ngọc Thàng (ấp Phước Thuận, xã Phước Lâm) đầu tư vốn trồng 1.000m2 cải trong nhà lưới, lắp đặt hệ thống tưới tự động. Cải trồng trong nhà lưới ít sâu, bệnh, giảm số lần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, giảm công lao động; năng suất, chất lượng sản phẩm được nâng lên. Nhờ ƯDCNC vào trồng rau, kinh tế gia đình ông ngày càng phát triển.
Mô hình trồng rau trong nhà lưới của ông Trương Ngọc Thàng
Để mở rộng diện tích rau ƯDCNC, hàng năm, huyện phối hợp các ngành chức năng tổ chức trình diễn, xây dựng mô hình điểm về trồng rau trong nhà lưới, sử dụng hệ thống tưới tự động, sử dụng phân hữu cơ vi sinh,... Đến nay, toàn huyện có 112,6ha rau trồng trong nhà lưới, 303,6ha có hệ thống tưới tự động, 1.030ha rau sử dụng phân hữu cơ. Nông dân mạnh dạn chuyển đổi từ cây trồng hiệu quả thấp sang trồng rau ƯDCNC, qua đó giảm công lao động, tạo ra sản phẩm an toàn, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so với sản xuất theo phương pháp truyền thống khoảng 50 triệu đồng/ha/năm.
Nhằm tạo đầu ra ổn định cho sản phẩm, huyện kịp thời tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các tổ hợp tác, hợp tác xã (HTX) hoạt động hiệu quả. Hỗ trợ HTX, doanh nghiệp xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm và đăng ký chứng nhận sản xuất theo quy trình VietGAP. Nghiên cứu, ứng dụng rộng rãi các quy trình, kỹ thuật tiên tiến về giống cây trồng chất lượng cao. Hiện toàn huyện có 28 HTX, 1 liên hiệp HTX và 95 tổ liên kết sản xuất, trong đó có 7/16 HTX rau được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP, 3 HTX được cấp chứng nhận sản xuất rau theo chuỗi an toàn. Các HTX còn lại đều có giấy chứng nhận đủ điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm. Ngoài ra, huyện tập trung quy hoạch phát triển vùng trồng rau ƯDCNC, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, hệ thống thủy lợi, hệ thống điện, trạm bơm.
Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cần Giuộc - Ngô Bảo Quốc cho biết: Năm 2021, huyện phấn đấu có 1.128ha sản xuất nông nghiệp ƯDCNC; có thêm ít nhất 2 HTX, tổ hợp tác được công nhận đạt chuẩn VietGAP. Huyện sẽ tổ chức 5 điểm trình diễn mô hình ứng dụng phân hữu cơ vi sinh công nghệ mới, công nghệ nano; xây dựng thêm 5ha tưới nước tự động, tiết kiệm nước, 100ha ứng dụng phân hữu cơ vi sinh, 3 điểm trình diễn mô hình nhà lưới trồng rau tại các xã: Mỹ Lộc, Phước Lâm và Thuận Thành, với mức hỗ trợ từ 40% đến 50% vật tư. Đồng thời, tuyên truyền, vận động người dân, doanh nghiệp hỗ trợ nông dân xây dựng thêm 10ha nhà lưới. Bên cạnh đó, các ngành chức năng huyện tăng cường chuyển giao khoa học - kỹ thuật, hỗ trợ vốn vay ưu đãi; vận động các công ty kinh doanh liên kết tổ chức thu mua nông sản sạch, rau an toàn xuất khẩu ra nước ngoài song song với việc giới thiệu sản phẩm rau an toàn nhằm tăng khả năng tiêu thụ ra các tỉnh, thành lân cận và cung cấp rau an toàn cho TP.HCM.
Phát triển nông nghiêp ƯDCNC gắn với tái cơ cấu nông nghiệp hiện là hướng đi đúng của huyện, giúp nâng cao thu nhập, đời sống người dân./.
Phương Cảnh - Thất Huy
Trên 1.000 hộ nông dân Bình Định tham gia trồng rau an toàn
Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng, 15/3/2021
Ngày cập nhật: 18/3/2021
Ngày 13-3, ông Kiều Văn Cang, Phó Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Bình Định, cho biết, sau nhiều năm triển khai dự án rau an toàn do Chính phủ New Zealand tài trợ, đến nay Bình Định đã lập được 40 nhóm cùng sở thích về sản xuất rau an toàn với hơn 1.000 hộ nông dân tham gia sản xuất trên 80ha.
Trong đó, có 20 nhóm cùng sở thích được thành lập từ các hợp tác xã nông nghiệp tại Phước Hiệp (huyện Tuy Phước), Thuận Nghĩa (huyện Tây Sơn) và Nhơn Thọ (thị xã An Nhơn).
Để duy trì, phát triển 40 nhóm cùng sở thích trên, Bình Định đã chi ra 6,5 tỷ đồng đầu tư hạ tầng, hỗ trợ các hộ vay vốn xây dựng khu sản xuất rau. Ngoài ra, Sở NN-PTNT Bình Định mở thêm 40 lớp để đào tạo, hỗ trợ kiến thức trồng rau an toàn cho nông dân.
Qua triển khai năm đầu tiên (2020), các nhóm cùng sở thích đã lấy thương hiệu “Lá Lành” sản xuất được 300 tấn rau an toàn cung cấp cho các siêu thị, khu du lịch, khu công nghiệp, chợ trung tâm huyện ở Bình Định và một số tỉnh ở khu vực Nam Trung bộ.
Thông qua mô hình trên, sản lượng rau, củ, quả của người nông dân tham gia bán ra các thị trường tăng 10%-15%, giảm thiểu được nhiều rủi ro từ yếu tố thị trường; thu nhập của người dân tăng khoảng 10% so với trước; người tiêu thụ cũng được sử dụng các loại rau sạch, an toàn với giá thành hợp lý…
NGỌC OAI
Trên 1.000 hộ nông dân Bình Định tham gia trồng rau an toàn
Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng
Ngày 13-3, ông Kiều Văn Cang, Phó Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Bình Định, cho biết, sau nhiều năm triển khai dự án rau an toàn do Chính phủ New Zealand tài trợ, đến nay Bình Định đã lập được 40 nhóm cùng sở thích về sản xuất rau an toàn với hơn 1.000 hộ nông dân tham gia sản xuất trên 80ha.
Trong đó, có 20 nhóm cùng sở thích được thành lập từ các hợp tác xã nông nghiệp tại Phước Hiệp (huyện Tuy Phước), Thuận Nghĩa (huyện Tây Sơn) và Nhơn Thọ (thị xã An Nhơn).
Để duy trì, phát triển 40 nhóm cùng sở thích trên, Bình Định đã chi ra 6,5 tỷ đồng đầu tư hạ tầng, hỗ trợ các hộ vay vốn xây dựng khu sản xuất rau. Ngoài ra, Sở NN-PTNT Bình Định mở thêm 40 lớp để đào tạo, hỗ trợ kiến thức trồng rau an toàn cho nông dân.
Qua triển khai năm đầu tiên (2020), các nhóm cùng sở thích đã lấy thương hiệu “Lá Lành” sản xuất được 300 tấn rau an toàn cung cấp cho các siêu thị, khu du lịch, khu công nghiệp, chợ trung tâm huyện ở Bình Định và một số tỉnh ở khu vực Nam Trung bộ.
Thông qua mô hình trên, sản lượng rau, củ, quả của người nông dân tham gia bán ra các thị trường tăng 10%-15%, giảm thiểu được nhiều rủi ro từ yếu tố thị trường; thu nhập của người dân tăng khoảng 10% so với trước; người tiêu thụ cũng được sử dụng các loại rau sạch, an toàn với giá thành hợp lý…
NGỌC OAI
Vĩnh Phúc: Toàn tỉnh có hơn 1.100 trang trại sản xuất nông nghiệp theo tiêu chí quy định của Bộ NN&PTNT
Nguồn tin: Báo Báo Vĩnh Phúc
Toàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện có hơn 1.100 trang trại sản xuất nông nghiệp theo tiêu chí quy định của Bộ NN&PTNT; 28 trang trại được chứng nhận VietGAP. Nhiều vùng chăn nuôi trọng điểm của tỉnh như:
Với hệ thống chuồng trại thoáng mát, nhiều ánh sáng và xử lý mùi bằng công nghệ vi sinh EM của Nhật Bản, hơn 500 con lợn của gia đình anh Mạc Tuấn Hải, xã Bàn Giản, huyện Lập Thạch phát triển khỏe mạnh.
Vùng chăn nuôi bò sữa ở các xã: Vĩnh Thịnh, An Tường (huyện Vĩnh Tường) quy mô 15-20 con/trang trại, thu nhập gần 600 triệu đồng/năm; vùng chăn nuôi lợn ở các xã: Quang Sơn, Ngọc Mỹ, Bắc Bình, Hợp Lý (huyện Lập Thạch), Lãng Công, Đồng Quế (huyện Sông Lô), Nguyệt Đức, Yên Phương (huyện Yên Lạc), Minh Quang, Kim Long, Bồ Lý, Đạo Trù ( huyện Tam Đảo).
Vùng chăn nuôi gia cầm ở các xã: Hoàng Hoa, Hướng Đạo (Tam Dương) quy mô 4-5 vạn gà/trang trại cho thu nhập cao…
Qua đó, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, thúc đẩy sản xuất theo hướng hàng hóa tập trung quy mô lớn, đảm bảo an toàn thực phẩm, nâng cao giá trị gia tăng, phát triển bền vững.
Thời gian tới, tỉnh tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế trang trại theo hướng tổ chức sản xuất hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao; ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất theo chuỗi liên kết; chỉ đạo các tổ chức tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi để mở rộng quy mô phát triển kinh tế…
Tin, ảnh: Mai Liên
Huyện Lương Sơn (Hòa Bình): Liên kết phát triển chăn nuôi dê theo hướng hàng hóa
Nguồn tin: Báo Hòa Bình
Từ chỗ chăn nuôi manh mún, tự phát, đến nay, các hộ nuôi dê tại huyện Lương Sơn (Hòa Bình) đã liên kết với nhau phát triển theo hướng hàng hóa. Dê núi Lương Sơn khẳng định uy tín, chất lượng, được người tiêu dùng tin tưởng lựa chọn. Thịt dê núi Lương Sơn có mặt tại nhiều siêu thị, cửa hàng thực phẩm sạch ở Hà Nội, Quảng Ninh, Hải Phòng, Bắc Ninh…
Hợp tác xã nông nghiệp Hòa Bình, xã Thanh Sơn (Lương Sơn) nuôi dê theo tiêu chuẩn VietGAP, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Phát huy lợi thế địa hình núi đá, nguồn thức ăn dồi dào, người dân trên địa bàn huyện đã phát triển nghề nuôi dê. Dê được nuôi tập trung ở một số xã: Liên Sơn, Cao Dương, Thanh Sơn… Để hỗ trợ các hộ nuôi dê, Phòng NN&PTNT huyện thường xuyên tổ chức lớp tập huấn trang bị kiến thức về phòng các loại bệnh thường gặp ở dê như: thủy đậu, lở mồm long móng, tụ huyết trùng, hoại tử đường ruột, nhiệt thán. Hướng dẫn hộ nuôi cách làm chuồng, vệ sinh phòng bệnh. Nhờ vậy, dê sinh trưởng, phát triển tốt, tổng đàn dê của huyện duy trì khoảng 8.500 con. Trung bình mỗi hộ nuôi vài chục con trở lên. Năm 2019, huyện xây dựng thành công nhãn hiệu tập thể "Dê núi Lương Sơn”. Năm 2020, thịt dê núi Lương Sơn tiếp tục khẳng định là sản phẩm ưu việt khi được UBND tỉnh công nhận là sản phẩm OCOP 3 sao cấp tỉnh.
Từ lâu, người dân xã Thanh Sơn tận dụng địa hình và nguồn thức ăn tự nhiên để nuôi dê. Năm 2017, một số hộ dân trong xã bắt đầu phát triển quy mô đàn dê, thực hiện liên kết với nhau để thành lập HTX nông nghiệp Hòa Bình với 6 thành viên. Tháng 7/2019, sản phẩm dê núi của HTX là sản phẩm dê thịt đầu tiên của tỉnh được cấp chứng nhận VietGAP. Các thành viên của HTX nghiêm chỉnh thực hiện quy trình chăn nuôi dê theo tiêu chuẩn VietGAP. Địa điểm chăn nuôi được bố trí khoa học, gồm: Khu nuôi dê giống, khu dê con, kho thức ăn, khu nuôi cách ly và khu xử lý nước thải. Hiện, diện tích khu chăn nuôi của HTX là 1.200 m2; diện tích đồi núi, khu vực chăn thả rộng 120 ha; tổng đàn dê khoảng 900 con.
Anh Nguyễn Mạnh Linh, Giám đốc HTX nông nghiệp Hòa Bình cho biết: Dê của HTX được nuôi theo tiêu chuẩn VietGAP, không sử dụng thuốc kháng sinh, thức ăn chủ yếu là lá cây tự nhiên trên rừng nên thịt săn chắc, thơm ngon. Thịt dê núi Lương Sơn có hương vị đậm đà, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm; được đăng ký nhãn hiệu, logo, mã số mã vạch, tem truy xuất nguồn gốc; mẫu mã, bao bì hấp dẫn. Năm 2020, thịt dê núi Lương Sơn đạt tiêu chuẩn OCOP 3 sao cấp tỉnh. Thị trường tiêu thụ chủ lực của HTX là các nhà hàng trong tỉnh và các tỉnh, thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Ninh Bình, Quảng Ninh, Bắc Ninh… Đặc biệt, HTX đã ký được hợp đồng tiêu thụ tại chuỗi cửa hàng thực phẩm sạch Eco Food, HG Hifood… Trung bình HTX cung cấp ra thị trường từ 4 - 4,8 tấn/năm. Giá bán bình quân đối với dê hơi là 170.000 đồng/kg; đối với thịt dê đóng gói hút chân không, cấp đông lạnh dao động từ 500 - 600.000 đồng/kg.
Đồng chí Nguyễn Quốc Tiến, Phó trưởng Phòng NN&PTNT huyện cho biết: Với ưu điểm tốn ít vốn, dễ nuôi, thị trường tiêu thụ tương đối ổn định, nuôi dê mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân. Thời gian tới, huyện thực hiện quy hoạch vùng chăn nuôi dê, tập trung phát triển ở các xã vùng Nam của huyện. Khuyến khích các hộ nuôi liên kết theo chuỗi giá trị, đảm bảo từ khâu cung ứng giống, thức ăn, chăm sóc tới tiêu thụ sản phẩm; phát triển nuôi dê theo tiêu chuẩn VietGAP, đáp ứng yêu cầu chất lượng; nâng cao chất lượng đàn dê giống để mở rộng quy mô tổng đàn.
Thu Thủy
Hàm Thuận Bắc (Bình Thuận): Nuôi heo cỏ địa phương an toàn dịch bệnh
Nguồn tin: Báo Bình Thuận
Trước tình hình đàn heo cỏ của huyện bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh, Trung tâm Kỹ thuật và Dịch vụ nông nghiệp huyện Hàm Thuận Bắc (tỉnh Bình Thuận) đã xây dựng mô hình “Chăn nuôi heo cỏ địa phương an toàn dịch bệnh” quy mô 30 con tại 3 xã miền núi Đông Tiến, Đông Giang, La Dạ với mục đích tái đàn heo cỏ của địa phương…
Heo cỏ địa phương ở Hàm Thuận Bắc.
Bảo tồn nguồn giống
Heo cỏ địa phương là giống heo bản địa được nuôi từ rất lâu tại địa bàn các xã miền núi của huyện Hàm Thuận Bắc. Giống heo này có ưu điểm dễ nuôi, ít công chăm sóc, thích nghi tốt với địa phương, chất lượng thịt thơm ngon rất được thị trường ưa chuộng. Tuy nhiên, lâu nay tập quán chăn nuôi của đồng bào vẫn chưa thật sự an toàn, luôn bị dịch bệnh đe dọa.
Nắm bắt được điều này, từ tháng 6/2020 đến nay, Trung tâm Kỹ thuật và Dịch vụ nông nghiệp Hàm Thuận Bắc và UBND các xã Đông Tiến, Đông Giang, La Dạ, Hội Nông dân xã tổ chức chọn hộ, chọn điểm tham gia mô hình. Sau khi bàn bạc, đã thống nhất chọn 11 hộ với tổng số 30 con heo, trong đó có hộ ông K’ Văn Von, thôn 1, bà K’ Thị Lâm, thôn 2, xã Đông Tiến…
Theo đó, địa phương phổ biến chính sách hỗ trợ về giống và vật tư cho các hộ tham gia mô hình (100% về giống và vật tư). Trước khi giao heo, trung tâm và UBND xã tổ chức tập huấn về kỹ thuật “Chăn nuôi heo cỏ địa phương an toàn dịch bệnh” cho các hộ tham gia mô hình và các hộ có chăn nuôi của 3 xã miền núi.
Kết quả theo dõi cho thấy, ở giai đoạn sau 1 tháng nuôi, heo sinh trưởng phát triển bình thường. Các hộ tuân thủ quy trình kỹ thuật, vệ sinh chuồng trại sạch sẽ và cung cấp đầy đủ thức ăn, nước uống cho heo. Trọng lượng bình quân 13 kg/con, nhiều con đạt 15-16 kg/con, tỷ lệ sống 100%. Giai đoạn sau 7 tháng nuôi, heo sinh trưởng và phát triển tốt; trọng lượng bình quân 35 kg/con.
Giữa tháng 3/2021, Trung tâm Kỹ thuật và Dịch vụ nông nghiệp Hàm Thuận Bắc đã tổ chức hội thảo đánh giá hiệu quả mô hình này. Theo đánh giá, qua 7 tháng theo dõi, tổng chi phí cho 1 con heo gần 4 triệu đồng, với giá bán 150.000 đồng/kg, lãi bình quân 1,3 triệu đồng/con.
Bà Võ Thị Kim Linh - Phó Giám đốc phụ trách Trung tâm Kỹ thuật và Dịch vụ nông nghiệp Hàm Thuận Bắc cho biết: Mô hình với mục tiêu là tái đàn heo địa phương nên hiệu quả mô hình còn mang ý nghĩa góp phần bảo tồn giống. Hiện tại đàn heo đang trong thời kỳ sinh sản. Dự tính mỗi con sinh sản trung bình khoảng 6-7 heo con/lứa.
Chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học
Theo bà Linh, để đạt hiệu quả cao trong chăn nuôi cũng như tạo ra sản phẩm sạch, an toàn bán ra thị trường, người chăn nuôi heo phải chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học, các hộ chăn nuôi khi mua heo giống phải rõ nguồn gốc, từ những cơ sở giống tốt. Mặt khác, chuồng nuôi đúng quy cách và bảo đảm mật độ nuôi, diện tích hợp lý, chuồng phải sạch sẽ, thoáng, mát về mùa hè và ấm về mùa đông. Khu vực chăn nuôi phải cách xa nhà, có hàng rào ngăn cách với các khu vực khác, không chăn thả tự do. Vệ sinh chuồng trại hàng ngày, định kỳ tiêu độc, khử trùng chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi và khu vực chăn nuôi, phun thuốc sát trùng 1 – 2 lần/tuần…
Từ mô hình chăn nuôi heo cỏ địa phương an toàn dịch bệnh đạt hiệu quả, địa phương cần tiếp tục nhân rộng mô hình cho đoàn viên, hội viên, nông dân chăn nuôi heo theo hướng an toàn dịch bệnh, áp dụng đúng quy trình kỹ thuật, chủ động ngừa bệnh bằng các loại vắc xin, hạn chế dịch bệnh xảy ra, nhằm đảm bảo sức khỏe cho đàn heo và cho người chăn nuôi tạo ra sản phẩm chất lượng an toàn cho người tiêu dùng…
Giống heo cỏ địa phương có chất lượng thịt ngon, dễ nuôi, thích nghi với điều kiện nuôi ở địa phương và được thị trường tiêu thụ mạnh.
KIỀU HẰNG
Hiếu Giang tổng hợp