Tin nông nghiệp ngày 2 tháng 8 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 2 tháng 8 năm 2019

Nông sản vào EU: Rào cản kỹ thuật hay luật chơi công bằng?

Nguồn tin:  Báo Chính Phủ

Có rất nhiều tiêu chuẩn phải đáp ứng, nhiều khi là bất khả thi, nhưng nhiều chuyên gia đồng tình với quan điểm không nên dùng thuật ngữ “rào cản kỹ thuật” với nghĩa tiêu cực, vì thực tế là đây chính là những tiêu chuẩn kỹ thuật, những “luật chơi” rất công bằng.

Ảnh minh họa

Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) được ký kết vào 30/6/2019, dự kiến có hiệu lực vào đầu năm 2020 được dự báo là cơ hội “vàng” cho các mặt hàng nông, thuỷ sản Việt khi xuất khẩu vào thị trường này.

Theo Bộ Công Thương, EU đang là thị trường xuất khẩu thủy sản đứng thứ 2 của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 17% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản. Bên cạnh đó, từ nhiều năm nay, chỉ số tiêu dùng thủy sản tại thị trường EU tăng cao hơn hẳn so với thịt, do người tiêu dùng có xu hướng chuyển sang ăn thủy sản nhiều hơn trong bữa ăn hằng ngày.

Với EVFTA, thủy sản Việt Nam sẽ có cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh so với các đối thủ chưa có FTA với EU như Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia; thu hút đầu tư nước ngoài, hiện đại hóa công nghệ chế biến và nâng cao chất lượng sản phẩm.

EU cũng cam kết mở cửa rất mạnh cho rau quả Việt Nam bằng việc xóa bỏ ngay 94% trong tổng số 547 dòng thuế rau quả và các chế phẩm từ rau quả khi Hiệp định có hiệu lực. Phần lớn các dòng thuế EU cam kết xóa bỏ ngay hiện đều đang có mức thuế MFN trung bình là trên 10%, cá biệt có những sản phẩm rau quả đang chịu thuế trên 20%.

Như vậy, mức cam kết này của EU sẽ tạo ra lợi thế lớn về giá cho rau quả Việt Nam, đặc biệt trong cạnh tranh nhập khẩu vào EU với các nước có cùng ngành hàng về rau quả chưa có FTA.

EU luôn được nhìn nhận là thị trường xuất khẩu lớn với những yêu cầu, tiêu chuẩn cao, nghiêm ngặt về tiêu chuẩn vệ sinh kiểm dịch động thực vật với nông sản, thực phẩm nhập khẩu từ nước ngoài, như phải tuân thủ nhiều tiêu chuẩn được quy định trong Luật Thực phẩm, Luật Thú y, quy định bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng, quy định về chất độc hại, dư lượng kháng sinh, dư lượng thuốc trừ sâu…

Ngoài ra, thị trường này cũng quan tâm nhiều hơn đến các yếu tố liên quan như mức độ thân thiện môi trường của sản phẩm, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.

Trong khi đó, quá trình sản xuất, đặc biệt là bảo quản sau thu hoạch các sản phẩm nông sản nói chung, mặt hàng rau quả nói riêng của Việt Nam còn nhiều bất cập. Hệ thống sản xuất vẫn tương đối manh mún, khó kiểm soát, chưa đủ điều kiện để đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra.

Về vấn đề này, nhiều chuyên gia đồng tình với quan điểm không nên dùng thuật ngữ “rào cản kỹ thuật” với nghĩa tiêu cực, vì thực tế là đây chính là những tiêu chuẩn kỹ thuật, những “luật chơi” rất công bằng mà các doanh nghiệp Việt Nam hay bất kỳ ở quốc gia nào muốn gia nhập “sân chơi” chung cần phải đáp ứng.

Theo ông Lê Kỳ Anh, chuyên gia Phái đoàn Liên minh châu Âu, trong lĩnh vực nông sản, những tiêu chuẩn kỹ thuật thực ra lại là những cơ hội cho Việt Nam. Trong chương các biện pháp nhằm bảo đảm an toàn thực vật và kiểm dịch động vật (SPS) có nội dung coi EU là thực thể đơn nhất, các yêu cầu về nhập khẩu hàng vào một nước từ một sản phẩm tương tự sẽ không được áp dụng khác đi.

“Như khi Việt Nam cho phép một trái táo Pháp nhập khẩu vào thì trong tương lai một trái táo tương tự từ Ba Lan không phải lặp lại yêu cầu kỹ thuật, do đã được chứng minh tại mặt hàng xuất khẩu đầu tiên. Quy định này đã được áp dụng ở Việt Nam và trong tương lai sẽ được áp dụng cho hàng hoá Việt vào châu Âu”, ông Kỳ Anh nêu ví dụ.

Các biện pháp hạn chế được áp dụng khi bệnh dịch xảy ra cũng sẽ có sự thay đổi đáng kể. Hiện cứ xảy ra bệnh dịch, lệnh cấm sẽ được áp dụng với toàn quốc gia, gây ảnh hưởng rất lớn đến mặt hàng xuất khẩu hai phía. Tuy nhiên, khi EVFTA có hiệu lực, biện pháp này chỉ được áp dụng với vùng bị dịch.

Quy hoạch vùng nguyên liệu là yêu cầu bức thiết

Cùng góc nhìn trên, Đại diện Đại sứ quán Tây Ban Nha cho rằng nếu đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật có phần “khắt khe” của EU, nông sản Việt có thể “tự tin” bước vào bất kỳ thị trường nào khác. Ngay tại thị trường nội địa, khi người tiêu dùng trong nước cũng đang rất hoang mang về chất lượng, độ an toàn của thực phẩm, nếu chuẩn hàng xuất tăng lên, sẽ có ngày càng nhiều nhà sản xuất thay đổi cách làm của mình, đồng thời nâng chất lượng hàng cung cấp trong nước để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng cùng với sức ép cạnh tranh từ các sản phẩm nhập khẩu từ các quốc gia tiên tiến khác.

Còn theo ông Vincent Gothknecht, Giám đốc điều hành Công ty I.Schroeder KG Việt Nam, một trong những doanh nghiệp nhập khẩu nông sản Việt, cung cấp cho chuỗi bán lẻ châu Âu, có tới 80-90% sản phẩm nông sản tại Việt Nam có hàng hoá thay thế ở các thị trường khác như Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ…

“Nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải điểu chỉnh hành vi của mình để phù hợp với yêu cầu trong EVFTA, nâng trách nhiệm tuân thủ môi trường, trách nhiệm xã hội... Đồng thời với đó phải xây dựng được thương hiệu riêng và chú trọng sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng, thay vì xuất khẩu thô nông sản”.

Theo ông Đặng Phúc Nguyên, Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu rau quả sang châu Âu còn khiêm tốn, chưa phản ánh được tiềm năng sản xuất của Việt Nam cũng chính do chúng ta đang “bỏ ngỏ” phân khúc sản phẩm qua chế biến.

Tại thị trường châu Âu, các loại hạt tươi không có thế mạnh bằng hạt chế biến, trong khi nền công nghiệp chế biến nông sản của chúng ta còn yếu và thiếu. Cả nước mới có 150 cơ sở chế biến rau quả, chưa kể, công nghệ bảo quản, chế biến sâu còn chưa đồng bộ. “Chúng ta chưa có bưởi, sầu riêng tách vỏ như Thái Lan-những mặt hàng người tiêu dùng châu Âu ưa thích vì độ tiện lợi, do đòi hỏi kỹ thuật xử lý cao hơn. Vậy thì sao có thể cạnh tranh?”, ông Nguyên đặt vấn đề.

Từ đó, ông Nguyên kỳ vọng EVFTA sẽ khơi thông nguồn đầu tư từ các doanh nghiệp châu Âu vào công nghệ chế biến để nâng tầm rau quả Việt.

Ông Nguyễn Quốc Duẩn, Tổng Giám đốc Công ty TNHH phát triển thương mại quốc tế Song Nam thì cho rằng doanh nghiệp Việt đang trong thế “bị động” với thị trường châu Âu. “Các mặt hàng nông sản chịu chung số phận ‘đi dễ, khó vào’, do EU không kiểm tra chất lượng tại Việt Nam mà sang đến nơi mới hậu kiểm. Khi đó doanh nghiệp mới biết sản phẩm có bảo đảm chất lượng hay không. Nếu kiểm tra tại chỗ thì ít ra có thể tìm nguồn tiêu thụ khác. Nhiều khi chỉ một quả không bảo đảm cũng bị trả về. Chi phí tiêu hủy sản phẩm còn nhiều hơn phí vận chuyển tới nơi, gây tổn thất nặng nề cho doanh nghiệp”.

Theo ông Duẩn, có rất nhiều tiêu chuẩn phải đáp ứng, nhiều khi là bất khả thi với những doanh nghiệp thương mại thu mua nông sản từ nhiều vùng không đồng nhất do nông dân canh tác nhỏ lẻ.

“Cách duy nhất để thay đổi vấn đề này là quy hoạch vùng nguyên liệu. 80-90% nông dân không có những cánh đồng, nông trại lớn, còn các doanh nghiệp không thể về mua hàng ha đất nông nghiệp mà chỉ Nhà nước mới có thể làm được điều đó. Khi đó, người nông dân sẽ có 3 lựa chọn, một là làm theo tiêu chuẩn sạch, hai là bán đất, ba là cho thuê đất để tạo thành vùng nguyên liệu đủ lớn”.

Lúc đó, Việt Nam có thể “nói chuyện”với các nước châu Âu về các tiêu chuẩn cần đáp ứng, nhập phân bón nào, sử dụng thuốc bảo quản ra sao để áp dụng đồng nhất cho cả vùng nguyên liệu. Từ đó cũng dễ dàng áp dụng tiêu chuẩn canh tác, bảo đảm đầu ra đầu vào sản phẩm, đồng thời xây dựng được nhà máy đóng gói theo quy chuẩn. Điều mà hiện tại chưa làm được do các vùng nguyên liệu còn manh mún, nhỏ lẻ, phân tán khắp nơi.

“Có như vậy mới giải quyết được bài toán thúc đẩy xuất khẩu nông sản. Còn nếu không sẽ chẳng có gì thay đổi cả”, ông Duẩn khẳng định.

Thu Lê

Bộ NN-PTNT đề nghị người dân trồng rừng gỗ lớn

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Do các nhà máy đang thiếu nguyên liệu, nhu cầu thị trường xuất khẩu rất lớn, Bộ NN-PTNT vừa có quyết định hướng dẫn người dân chuyển qua trồng các loại cây rừng gỗ lớn.

Sáng 31-7, văn phòng Tổng cục Lâm nghiệp thông tin, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Hà Công Tuấn vừa ký quyết định số 2962 ngày 30-7-2019 về việc ban hành hướng dẫn kỹ thuật trồng rừng thâm canh gỗ lớn và chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang rừng trồng gỗ lớn đối với 2 loài keo tai tượng và keo lai.

Bộ NN-PTNT khuyến cáo người dân nên đầu tư trồng loại rừng cây gỗ lớn

Trồng rừng, đầu tư vào rừng nguyên liệu đang là cơ hội làm giàu của nhiều nông dân hiện nay, khi “đầu ra” rất rộng mở, nhu cầu cao. Tuy nhiên, hầu như hiện nay, các vùng trồng rừng nguyên liệu chỉ tập trung vào trồng hai loài keo lai và keo tai tượng, tuổi cây ngắn (5-7 năm là thu hoạch).

Trong khi hiện nay, các nhà máy chế biến gỗ xuất khẩu đang có nhu cầu cao về nguyên liệu loại lớn để gia tăng giá trị xuất khẩu nhưng lại đang thiếu nguyên liệu.

Vì vậy, ngày 30-7, Bộ NN-PTNT đã ban hành quyết định hướng dẫn kỹ thuật trồng rừng thâm canh gỗ lớn và chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang rừng trồng gỗ lớn đối với loài cây keo lai và keo tai tượng, nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế rừng trồng, góp phần phát triển nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu.

Kỹ thuật này áp dụng đối với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư có hoạt động liên quan đến các chương trình, dự án trồng rừng thâm canh gỗ lớn và chuyển hóa rừng trồng gỗ nhỏ sang rừng trồng gỗ lớn đối với loài cây keo lai và keo tai tượng có sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Đây cũng là một trong những cơ sở để xây dựng dự toán trồng rừng.

Theo báo cáo của Tổng cục Lâm nghiệp, trong tháng 7-2019, giá trị xuất khẩu lâm sản ước đạt hơn 890 triệu USD, đưa kim ngạch xuất khẩu gỗ và lâm sản trong cả 7 tháng năm 2019 lên hơn 6 tỷ USD. Trong đó, riêng xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đạt khoảng 5,657 tỷ USD; xuất siêu lâm sản đạt 4,574 tỷ USD.

VĂN PHÚC

Rệp sáp bột hồng, bệnh khảm lá gây hại gần 680ha sắn

Nguồn tin: Báo Phú Yên

Theo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Phú Yên, hiện thời tiết nắng nóng thuận lợi cho rệp sáp bột hồng, bệnh khảm lá virus phát sinh mạnh gây hại gần 680ha sắn.

Tại huyện Sông Hinh, bệnh khảm lá virus hại 500ha, giai đoạn cây con phát triển thân, lá tại các xã trên địa bàn huyện. Các xã trên địa bàn huyện Sơn Hòa, bệnh khảm lá virus gây hại với diện tích 34,3ha. Huyện Tây Hòa, bệnh gây hại với diện tích 70ha, giai đoạn cây con phát triển thân, lá tại các xã Hòa Mỹ Tây, Hòa Mỹ Đông, Hòa Thịnh, Sơn Thành Tây. Riêng rệp sáp bột hồng gây hại với diện tích 75ha tại các huyện Đồng Xuân, Sông Hinh.

Trong thời gian đến, rệp sáp bột hồng, bệnh khảm lá virus có khả năng phát sinh gây hại mạnh; Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật đề nghị Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật phối hợp với phòng Kinh tế, phòng NN-PTNT các huyện, thị xã, thành phố tăng cường điều tra rà soát diện tích sắn bị bệnh khảm lá virus và rệp sáp bột hồng tại các vùng trồng sắn. Qua đó vận động nông dân tiêu hủy những diện tích sắn bị rệp sáp bột hồng, bệnh khảm gây hại.

TRÂM TRÂN

Trăn trở về ‘cây chủ lực’ cà phê

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

Cà phê được chọn là một trong những loại cây chủ lực của tỉnh Đắk Nông. Những năm qua, tỉnh đã có nhiều nỗ lực để "nâng tầm" cho cây cà phê nhưng thực tế hiệu quả sản xuất, giá trị sản phẩm loại cây này mới chỉ đạt ở mức trung bình thấp và còn nhiều vấn đề đặt ra.

Kỳ 1: Chưa xứng tầm "cây chủ lực"

Sản xuất cà phê trên địa bàn tỉnh đã có sự bùng nổ về số lượng, nhưng chất lượng, giá trị đem lại còn thấp. Ngoài ra, tình hình sản xuất cà phê còn phải đối diện với nhiều thách thức khác nhau.

Dù đầu tư khá lớn, nhưng vườn cà phê của gia đình ông Hoàng Ngọc Tùng, thôn Sadaco, xã Quảng Tín (Đắk R’lấp) chỉ đạt năng suất 3,5 tấn/ha

Dư lượng, thiếu chất

Trong những năm qua, diện tích cà phê của Đắk Nông liên tục tăng. Cụ thể, năm 2010, toàn tỉnh có khoảng 86.538 ha cà phê thì đến năm 2018 đã có hơn 131.000 ha. Cà phê cũng là cây trồng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngành nông nghiệp hiện nay, với khoảng 60%.

Có thể thấy, diện tích cây cà phê hiện nay đã vượt xa so với định hướng của tỉnh cũng như quy hoạch của Bộ Nông nghiệp - PTNT. Theo đó, định hướng quy hoạch của tỉnh, đến năm 2020, toàn tỉnh ổn định diện tích cà phê ở mức 123.000 ha. Thế nhưng, như đã nêu, đến nay diện tích cà phê trên toàn tỉnh đã lên đến hơn 131.000 ha (vượt 8.000 ha). Diện tích mở rộng, đương nhiên sản lượng cà phê của tỉnh cũng vì thế mà tăng lên. Năm 2010, sản lượng cà phê toàn tỉnh là 156.685 tấn. Năm 2018, tổng sản lượng cà phê đã đạt 291.000 tấn.

Dù có sự gia tăng mạnh mẽ cả về diện tích lẫn sản lượng, nhưng ngành cà phê Đắk Nông vẫn phải đối diện với thực tế đáng buồn là thiếu chất lượng. Như đã phân tích ở trên, tổng diện tích cà phê hiện nay là hơn 131.000 ha và tổng sản lượng là 291.000 tấn. Như vậy, tính bình quân thì mỗi ha cà phê hiện nay chỉ đạt sản lượng hơn 2,2 tấn. Đây là một con số quá thấp so với mặt bằng sản xuất cà phê của các tỉnh trong khu vực Tây Nguyên chứ chưa nói đến các nước trên thế giới.

Sản lượng thấp đã đành, giá trị sản phẩm cà phê của Đắk Nông cũng thuộc vào diện "lẹt đẹt". Ở đây xin được đưa ra một thông số để minh chứng cho điều này. Năm 2018, kim ngạch xuất khẩu cà phê trên địa bàn tỉnh đạt 199 triệu USD, với sản lượng xuất khẩu là 1.400 tấn cà phê bột và 250.000 tấn cà phê nhân thô. Có thể thấy, sản lượng cà phê bột (dạng sản phẩm có giá trị cao) xuất khẩu chỉ chiếm một con số rất nhỏ (hơn 0,55%) so với cà phê thô.

Dù được xác định là "cây chủ lực" và đang chiếm tới 60% diện tích trong cơ cấu công nghiệp hiện nay, song giá trị từ ngành cà phê mang lại còn đang ở mức hết sức khiêm tốn.

Cà phê mới trồng của gia đình ông Nguyễn Phiếu, phường Nghĩa Trung (TX Gia Nghĩa) bị chết do cây giống không bảo đảm chất lượng

Nhận diện những thách thức

Hiện nay, việc phát triển bền vững cây cà phê đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức. Vấn đề đầu tiên được các nhà khoa học, các nhà chuyên môn và nông dân hay nói đến là sự suy giảm năng suất do diện tích cà phê già cỗi, gặp sâu bệnh và biến đổi khí hậu.

Thực tế, để khắc phục những vấn đề này, năm 2016, UBND tỉnh đã triển khai thực hiện chương trình tái canh cà phê giai đoạn 2016-2020. Theo đó, đến năm 2020, toàn tỉnh sẽ phấn đấu tái canh hơn 22.099 ha cà phê theo hai hình thức: Trồng mới (hơn 13.369 ha) và ghép cải tạo (hơn 8.729 ha). Đến nay, chương trình tái canh cà phê đã đi qua được hơn 2/3 chặng đường, nhưng theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và PTNT, nhìn chung tiến độ chậm, thiếu đồng bộ. Đến nay, diện tích cà phê được tái canh chỉ có 11.700 ha, chưa bằng 50% so với kế hoạch do chương trình đề ra. Việc tái canh cà phê được thực hiện rải rác, nhỏ lẻ, nên chưa phát huy tốt hiệu quả, mục tiêu theo chương trình.

Những năm gần đây, cây cà phê cũng chịu nhiều tác động từ biến đổi khí hậu. Ngoài hiện tượng mưa trái mùa thì nỗi lo lớn nhất của nông dân là việc thiếu hụt nước tưới vào mùa khô. Hàng năm, có hàng ngàn ha cà phê của nông dân thiếu nước tưới, dẫn đến mất mùa hoặc giảm năng suất trầm trọng. Đỉnh điểm nhất năm 2016, toàn tỉnh có 22.000 ha cà phê bị ảnh hưởng bởi hạn hán, trong đó 20.000 ha bị giảm 30-70% năng suất và 2.000 ha giảm trên 70% năng suất. Trong khi đó, việc quy hoạch cụ thể vùng, diện tích cà phê ở các địa phương để đưa vào quản lý theo quy hoạch, theo chuỗi giá trị còn nhiều hạn chế, nếu không nói bế tắc.

Vườn cà phê của gia đình bà HLang Buôn Giang, thôn Phú Lợi, xã Quảng Phú (Krông Nô) bị ảnh hưởng bởi khô hạn trong tháng 3/2019 nên mất mùa

Hiện nay, công nghiệp chế biến cà phê trên địa bàn tỉnh còn chậm phát triển. Cà phê cũng chưa có thương hiệu cạnh tranh và các hoạt động quảng bá sản phẩm đang còn ít. Thực tế trong thời gian qua, việc bán cà phê nhân thô là đặc điểm chung của hầu hết nông hộ và doanh nghiệp, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh.

Theo ông Lê Quang Dần, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp- PTNT, hiện nay sản phẩm cà phê trên địa bàn tỉnh chủ yếu hái xong, phơi khô, xay tách hạt, bảo quản trong các bao bì thông thường rồi xuất bán cho thương lái. 90% sản lượng cà phê của tỉnh được xuất khẩu theo hình thức nhân thô. Việc áp dụng các phương pháp chế biến ướt và nửa ướt còn ít do chi phí đầu tư máy móc khá cao. Theo thống kê sơ bộ, hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 15 doanh nghiệp đang đầu tư sản xuất sản phẩm cà phê. Phần lớn các doanh nghiệp đều hoạt động ở quy mô vừa và nhỏ. Kế đó là các tiêu chuẩn quốc gia đối với cà phê như TCVN 4193:1993; TCVN 4193:2001; TCVN 4193:2005..., chúng ta cũng chưa áp dụng được nhiều, nên giá trị gia tăng trong mỗi sản phẩm chưa cao. Về vấn đề nhãn hiệu, dù có một số doanh nghiệp bước đầu khẳng định được vị trí, nhưng do sự quảng bá, giới thiệu còn khiêm tốn, nên danh tiếng cà phê Đắk Nông chưa vươn xa được trên thị trường…

Đồng bộ với quy hoạch vùng nguyên liệu, giao thông vận tải, bảo vệ môi trường

Đắk Nông cần đồng bộ với các vấn đề, nhiệm vụ về quy hoạch vùng nguyên liệu, hệ thống giao thông vận tải thuận lợi. Yếu tố bảo vệ môi trường, tài nguyên cũng cần được chú trọng trong sản xuất nông nghiệp. Bởi vì nông dân trong tỉnh hiện nay vẫn còn tư tưởng lạm dụng phân bón hóa học gây thoái hóa đất đai, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, nước tưới chưa đúng cách. Do đó, bảo vệ tài nguyên đất đai, nước, môi trường sinh thái là cốt lõi để nông nghiệp phát triển bền vững. *****

Hỗ trợ nông dân nhiều hơn để tái canh cà phê hiệu quả

Gia đình tôi hiện có 3 ha cà phê, trong đó diện tích bị sâu bệnh, già cỗi, cần tái canh là khá nhiều. Hiện nay, để tái canh được, chúng tôi đều phải mua cây giống ở ngoài, nhưng không thể biết về chất lượng, trồng có bị chết hay không. Theo tôi, ngành Nông nghiệp, địa phương phải siết chặt các nguồn cung cấp giống mới có thể đưa cây trồng chất lượng đến tay người dân được. Chúng tôi cũng mong muốn các ngành chức năng đẩy mạnh chương trình tái canh cà phê và xây dựng, nhân rộng các mô hình sản xuất cà phê đạt hiểu quả cao để nông dân học tập, làm theo. *****

Xây dựng, nghiên cứu các công nghệ tưới nước tiết kiệm phù hợp cho cây cà phê

Những năm qua, vấn đề thiếu nước tưới cho cà phê ngày càng bộc lộ rõ hơn trên địa bàn tỉnh và tôi nghĩ vấn đề này phải được nhìn nhận nghiêm túc hơn. Cây cà phê nhất là thời kỳ phân hóa mầm hoa cần lượng nước lớn. Do đó, nếu thiếu nước tưới thì cũng đồng nghĩa với việc cà phê sẽ mất mùa hoặc sụt giảm sản lượng. Ngoài việc người dân phải chủ động về nước tưới thì có lẽ đã đến lúc các cấp, ngành, các nhà khoa học, doanh nghiệp cùng chung tay thực hiện các giải pháp tốt hơn để đem lại nguồn nước tưới dồi dào, ổn định cho diện tích cà phê.

Bài, ảnh: Hồng Thoan

Long An xây dựng giống lúa chiến lược mang thương hiệu cho tỉnh

Nguồn tin: Báo Long An

Ngành Nông nghiệp Long An tiến hành xây dựng bộ giống chịu mặn MLA1 và 2 giống lúa cao sản LA2, LA5 mang thương hiệu cho tỉnh.

Bộ giống lúa OM được ngành nông nghiệp khuyến cáo cũng là giống chịu mặn tốt

Hiện, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiến hành xây dựng bộ giống chiến lược mang thương hiệu cho tỉnh. Sở đang thực hiện các bước để xin công nhận giống: Bộ giống chịu mặn MLA1 và 2 giống lúa cao sản LA2, LA5.

Bên cạnh đó, trong mỗi vụ sản xuất, tỉnh phối hợp các viện, trường thực hiện công tác khảo nghiệm các loại giống để chọn giống thích nghi với điều kiện sản xuất tại Long An như OM22, Nếp OM406, Hatri 10, Hatri 11.

Việc phát triển và khảo nghiệm các loại giống mới nhằm hạn chế thiệt hại, mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho nông dân trong điều kiện ảnh hưởng biến đổi khí hậu, thời tiết, tình hình hạn, xâm nhập mặn,... thường xuyên xảy ra trên địa bàn tỉnh.

Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn – Nguyễn Chí Thiện cũng cho biết, để thích ứng với điều kiện trên, trong thời gian qua, ngành Nông nghiệp tỉnh khuyến cáo cơ cấu giống phù hợp cho vùng sản xuất bị ảnh hưởng hạn mặn như OM5451, OM6976, OM1352, OM576, OM6162,… và bộ giống lúa thơm đặc sản cho những vùng ít bị ảnh hưởng của hạn mặn như Nàng hoa 9, RVT, ST24,….,

Huỳnh Phong

Huyện Châu Thành (Hậu Giang): Hứa hẹn vụ mùa bưởi tết

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Hiện toàn huyện Châu Thành có 171 ha bưởi Năm Roi, giảm gần 100ha so với năm trước. Qua khảo sát của ngành chuyên môn, thời điểm này, bưởi Năm Roi đang ra hoa, tạo trái, dự kiến sẽ bán vào dịp Tết Nguyên đán 2020 sắp tới.

Nhằm giúp nhà vườn trồng bưởi Năm Roi đạt năng suất và chất lượng cao, ngành nông nghiệp huyện Châu Thành chỉ đạo cho từng tổ kỹ thuật kết hợp với nông dân chuyển giao khoa học kỹ thuật, như: cải tạo đất, xử lý ra hoa, tạo trái, biện pháp phòng trừ sâu hại... Đồng thời, vận động nhà vườn thường xuyên vệ sinh vườn, loại bỏ những trái bị sâu hại mang ra khỏi vườn tiêu hủy, áp dụng bao trái, phun thuốc trừ sâu non.

VĂN XUÂN

Nhiều nhà vườn ở ‘thủ phủ’ nhãn lồng Hưng Yên mất trắng

Nguồn tin: VOV

Mùa nhãn năm 2019, nhiều nhà vườn tại “thủ phủ” nhãn lồng tỉnh Hưng Yên đã mất trắng cả vườn, sản lượng chung tụt giảm quá nửa so với năm trước.

Sản lượng gần bằng 1/3 năm 2018

Vào thời điểm cuối tháng 7 hàng năm, trên dọc những con đường của huyện Khoái Châu - vựa nhãn lồng của tỉnh Hưng Yên, hình ảnh thường bắt gặp là những rặng nhãn sai trĩu quả, thương lái các nơi đổ xô về xem và đặt hàng. Nhưng năm nay, câu chuyện đã khác. Vẫn còn đó những rặng nhãn hàng chục năm tuổi nhưng chỉ lác đác một số cây đậu quả và cũng rất thưa thớt. Mùa nhãn này người dân Hưng Yên mất mùa.

Vườn nhãn rộng hơn 3 mẫu (trên 10.000 m2) của gia đình ông Nguyễn Văn Lập ở thôn An Cảnh, xã Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên) chỉ có ít cây đậu quả và năng xuất cũng không cao. Số nhãn thu hoạch dự tính sẽ chỉ khoảng 2 tấn. Dù giá nhãn năm nay có cao hơn các năm trước nhưng tiền thuê công thợ, tiền phun thuốc… gia đình ông Lập vẫn lỗ.

“Năm ngoái, nhà tôi thu được 30 tấn nhãn, giá nhãn không cao nhưng vẫn được hơn 300 triệu đồng. Năm nay, sản lượng không bằng 1/10 dù giá có cao cũng không bù đắp được chi phí” - ông Lập nói.

Nhiều vườn nhãn lồng ở Hưng Yên không có quả.

Với gần 70 gốc nhãn trên 20 năm tuổi của gia đình ông Nguyễn Văn Du ở xã Đông Kết (Khoái Châu, Hưng Yên) năm nay không đậu quả, mất trắng vườn. Ông Du cho biết, vườn nhãn năm nay khoảng tháng 3 vẫn còn được gần một nửa số lượng cây đậu quả nhưng sau một trận mưa thì rụng hết, vụ nhãn này coi như xong.

Một số ít hộ trồng nhãn ở Hưng Yên năm nay giữ được nhãn, dù sản lượng chỉ bằng 1/3 năm trước nhưng với giá nhãn tăng cao thu nhập sẽ không giảm so với năm 2018.

“Năm ngoái, sản lượng vườn được 20 tấn gia đình thu về được trên 250 triệu đồng, năm nay sản lượng dự tính chỉ còn 7 tấn nhưng giá nhãn cao nên thu nhập của gia đình cũng sẽ không giảm so với năm 2018” - ông Nguyễn Văn Yêm tại xã Hàm Tử nói.

Giá nhãn lồng lên tới trên 100.000 đồng/kg

Sản lượng giảm chỉ còn 1/3 nên năm nay giá nhãn lồng Hưng Yên tăng cao. Một số chủ vườn nhãn dự báo, giá nhãn siêu ngọt (nhãn loại 1, tiêu chuẩn) mua tại vườn năm 2019 sẽ khoảng trên 70.000 - 100.000 đồng/kg, qua các kênh phân phối giá nhãn có thể lên tới 100.000 - 120.000 đồng/kg. Tại thị trường Hà Nội, hiện nhãn chín sớm đang được bán trong các siêu thị, chợ truyền thống, hay các tuyến đường, với mức giá dao động từ 55.000 – 70.000 đồng/kg.

Nhãn mất mùa khiến giá tăng cao.

Ông Nguyễn Thanh Quyết, Phó Trưởng phòng Nông nghiệp, huyện Khoái Châu cho biết, năm 2018 giá nhãn đại trà trung bình đạt từ 12.000 - 15.000 đồng/kg, thì năm nay giá nhãn đầu vụ tại vườn 40.000 - 45.000 đồng/kg, vào chính vụ giá có thể giảm 35.000 - 40.000 đồng/kg nhưng vẫn gấp 3 giá nhãn năm ngoái.

Tình trạng mất trắng vườn là cục bộ ở một số nơi trong huyện Khoái Châu, tính chung toàn huyện dự báo sản lượng nhãn năm 2019 được khoảng 9.000 tấn (năm 2018 là 30.000 tấn). Nhãn lồng năm nay được giá nên giá trị thu từ nhãn năm nay huyện Khoái Châu vẫn gần bằng mức của năm trước.

Nguyên nhân mất mùa nhãn ông Quyết cho biết, do thời tiết có diễn biến bất thường vào Tết Nguyên đán khi cây nhãn bắt đầu phân hoá hoa thì trời nắng nóng, tháng 5 có những đợt nắng nóng… điều này đã khiến nhãn năm nay mất mùa.

“Với người trồng nhãn thì canh tác, chăm sóc cây chỉ chiếm 20% còn lại được hay mất mùa 80% phụ thuộc vào thời tiết. Năm nay diễn biến thời tiết quá bất thường khi đầu hè hoa còn nở, nhãn có những vườn giữ được quả đậu rồi nhưng sau đó lại rụng” - ông Quyết nói.

Toàn tỉnh Hưng Yên có hơn 3.820 ha trồng nhãn (huyện Khoái Châu chiếm khoảng 50%) năm 2018 sản lượng đạt trên 48.000 tấn. Năm nay, dù giá nhãn có cao nhưng sản lượng chỉ còn 1/3. Với một số nhà vườn giữ được nhãn, thu nhập sẽ không tụt giảm nhưng với những nơi bị mất trắng thì năm nay là mùa “nhãn đắng”./.

Hoài Lam/VOV.VN

Tuyên Quang: Người Mông Nà Cào nuôi trâu, bò vỗ béo

Nguồn tin: Báo Tuyên Quang

Nuôi trâu, bò nhốt chuồng đã trở thành phong trào, mở hướng làm giàu, nâng cao thu nhập cho đồng bào dân tộc Mông, thôn Nà Cào, xã Thượng Nông (Na Hang).

Anh Dương Văn Tu, thôn Nà Cào, xã Thượng Nông (Na Hang) chăm sóc đàn trâu nhốt chuồng vỗ béo của gia đình.

Anh Đào Văn Máy, Trưởng thôn Nà Cào cho biết, hơn 20 năm trước đồng bào dân tộc Mông di cư từ huyện Hà Quảng (Cao Bằng) về đây sinh sống. Hiện toàn thôn có 48 hộ với 249 nhân khẩu. Nhờ có phong trào nuôi trâu, bò nhốt chuồng, cuộc sống của người dân từng bước được cải thiện, vươn lên thoát nghèo, tiêu biểu như hộ anh Dương Văn Tu thoát nghèo năm 2018. Anh Tu cho biết, năm 2017, từ nguồn vốn vay của Phòng Giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Na Hang, anh đầu tư mua 2 con bò, 1 con trâu, làm chuồng trại kiên cố và trồng gần 5.000 m2 cỏ voi để nuôi vỗ béo, lứa đầu tiên anh lãi 9 triệu đồng sau 5 tháng chăn nuôi. Đến nay, gia đình anh duy trì nuôi 7 con bò và 2 con trâu.

Gia đình ông Đào Văn Páo trước đây nuôi trâu, bò chủ yếu là thả rông trên đồi rừng, vì vậy, việc chăm sóc, phòng, chống dịch bệnh bị hạn chế, nhất là vào mùa đông do rét đậm, rét hại kéo dài làm trâu, bò chết. 2 năm nay, được sự hướng dẫn kỹ thuật của cán bộ chuyên môn huyện cùng với tìm hiểu qua nhiều phương tiện thông tin đại chúng, gia đình ông Páo quyết định đầu tư làm chuồng trại, trồng 3.000 m2 cỏ voi để nuôi bò nhốt chuồng. Năm 2017, bằng nguồn vốn vay hỗ trợ sản xuất theo chương trình xây dựng nông thôn mới, gia đình ông mua 3 con bò giống, hiện đàn bò phát triển thành 6 con. Với mô hình nuôi bò nhốt chuồng, đầu năm 2019, gia đình ông Páo bán được 3 con bò, trừ chi phí thu lãi trên 20 triệu đồng.

Ông Chẩu Trung Kiên, Phó trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Na Hang cho biết, mô hình nuôi trâu, bò vỗ béo theo hình thức nhốt chuồng ở thôn Nà Cào, xã Thượng Nông đã đem lại hiệu quả kinh tế thiết thực. Thực tế cho thấy, trâu, bò nhốt chuồng sẽ tăng trọng lượng nhanh nhờ chế độ ăn uống tốt, có sức đề kháng cao, ít bị bệnh; chất lượng thịt tốt nên được thương lái ưa chuộng, bán được giá cao ... Tuy nhiên, do giá trâu, bò giống cao, một số hộ khó khăn không có điều kiện đầu tư phát triển. Trong khi đó, nguồn thức ăn khan hiếm, ít bãi chăn thả nên các hộ chủ yếu nuôi nhốt nhỏ lẻ, không có điều kiện thành lập trang trại hoặc chăn nuôi quy mô lớn, do đó chưa phát huy hết thế mạnh của địa phương. Vì vậy, trong thời gian tới, huyện sẽ tích cực huy động nguồn lực để giúp người dân được vay vốn phát triển chăn nuôi đàn gia súc. Đồng thời, thực hiện việc chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật để người dân nâng cao hiệu quả chăn nuôi, nhất là chất lượng con giống, chuyển đổi diện tích đất không chủ động nguồn nước sang trồng cỏ để đảm bảo nguồn thức ăn cho đàn gia súc.

Bài, ảnh: Quốc Việt

Bến Tre: Hội thảo kết nối đầu vào và tiêu thụ sản phẩm tôm nguyên liệu

Nguồn tin: Báo Đồng Khởi

Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Huỳnh Văn Cung và Phó chủ tịch UBND huyện Thạnh Phú Mai Văn Hùng.

Sáng 31-7-2019, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Huỳnh Văn Cung, Phó chủ tịch UBND huyện Thạnh Phú Mai Văn Hùng đồng chủ trì hội thảo kết nối đầu vào và tiêu thụ sản phẩm tôm nguyên liệu cho hợp tác xã trên địa bàn huyện.

Ông Huỳnh Văn Cung cho biết, chuỗi giá trị tôm biển là một trong 2 chuỗi phát triển chậm nhất tỉnh Bến Tre (sau heo). Do đó, thực hiện kế hoạch năm 2019, Chi cục Thủy sản xây dựng hội thảo kết nối đầu ra và tiêu thụ sản phẩm tôm nguyên liệu để đánh giá và tìm hướng tháo gỡ khó khăn trong thời gian qua để hướng đến sản xuất đạt yêu cầu.

Toàn tỉnh hiện có 3 hợp tác xã và 1 tổ hợp tác nuôi thủy sản nhằm tạo điều kiện liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp tiêu thụ nông sản, hình thành chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp.

Dịp này, Tập đoàn thủy sản Minh Phú đã chia sẻ những tiêu chuẩn của tôm nguyên liệu để liên kết thu mua, chế biến xuất khẩu. Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam giới thiệu mô hình nuôi tôm CPF-COmbine Model và định hướng xây dựng liên kết mô hình vùng nuôi tôm chân trắng.

Các hội chăn nuôi có nhiều thắc mắc về chính sách, nguồn điện để hỗ trợ người nuôi tôm; quy trình thu mua của các tập đoàn thủy sản; điều kiện cung cấp con giống của Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam.

Tin, ảnh: Phan Hân

Cần liên kết chặt chẽ trong nuôi cá tra

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Theo báo cáo của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), suốt 4 tháng liên tiếp, từ tháng 3 đến tháng 6 năm nay, giá trị xuất khẩu cá tra giảm 6-17,6% so với cùng kỳ năm 2018. Tính đến hết tháng 6, tổng giá trị xuất khẩu cá tra đạt 961,6 triệu USD, giảm 4,1% so với nửa đầu năm trước.

Mức giá cá xuống đáy chủ yếu rơi vào những trường hợp đào ao tự phát, bán cho thương lái, bị ép giá

VASEP nêu rõ tác động của việc tăng thuế bán phá giá trong đợt xem xét hành chính lần thứ 14 (POR14) đã ảnh hưởng rõ nét hơn tới xuất khẩu cá tra Việt Nam sang thị trường Mỹ. Tháng 4, Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã công bố kết quả cuối cùng của đợt POR14 đối với các lô hàng cá tra Việt Nam nhập khẩu vào Mỹ trong giai đoạn 1/8/2016-31/7/2017. Mức thuế cuối cùng này tăng cao hơn nhiều so với kết quả sơ bộ đã được công bố hồi tháng 9/2018.

Dự báo trong quý III/2019, giá trị xuất khẩu cá tra sang thị trường này cũng khó có thể tăng so với cùng kỳ năm trước.

Thị trường xuất khẩu lớn tiếp theo của cá tra Việt Nam là Trung Quốc, Hong Kong (Trung Quốc) cũng không mấy khả quan, có chiều hướng tăng trưởng chậm hơn nhiều so với các năm trước. Tính đến hết tháng 6, tổng giá trị xuất khẩu cá tra sang thị trường này đạt 254,3 triệu USD, tăng 1,2%, chiếm 26,4% tổng giá trị xuất khẩu cá tra.

Ông Trần Đình Luân, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) nhìn nhận tình hình hiện nay những nơi nào nuôi trồng cá tra có liên kết chặt chẽ, theo dõi thường xuyên thì giá cả vẫn ổn định, người nuôi có lãi. Những nơi dân tự phát đào ao thả cá, không có liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp mới không bán được.

“Thực tế, lượng hàng hóa và chuỗi liên kết cơ bản ổn định, không có gia tăng đột phá về thị trường. Mức giá cá xuống đáy chủ yếu rơi vào những trường hợp đào ao tự phát, bán cho thương lái, bị ép giá. Năm 2018, giá cá tra tăng, diện tích trồng lúa không hiệu quả được người dân chuyển đổi sang đào ao nuôi cá tra khá nhiều”, ông Trần Đình Luân nói.

Theo ông Trần Đình Luân nhận định, hiện nay, định hướng là tiếp tục đẩy mạnh mở rộng thị trường Trung Quốc theo hướng xuất khẩu chính ngạch, tạo cung cầu ổn định lâu dài.

Ngoài ra, xuất khẩu cá tra còn phải mở rộng sang các thị trường khác, đặc biệt là thị trường trong khối Hiệp định Đối tác Toàn diện và Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA).

Đỗ Hương

uôi bò vỗ béo từ phế phẩm nông nghiệp

Nguồn tin: Báo Đồng Nai

Trại vỗ béo bò thịt của gia đình bà Hoàng Thị Sâm và ông Cao Xuân Lâm là mô hình chăn nuôi mới mang lại hiệu quả kinh tế cao ở xã Xuân Hòa (huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai), vùng đất cát gặp khó khăn về nguồn nước trong sản xuất.

Bà Hoàng Thị Sâm giới thiệu trang trại chăn nuôi bò thịt của gia đình. Ảnh: B.NGUYÊN

Điểm nổi bật là trại chăn nuôi này tự sản xuất thức ăn cho đàn bò từ việc tận dụng nguồn nguyên liệu là các phế phẩm nông nghiệp như: cây bắp, cây mì… sau thu hoạch.

* Khởi nghiệp từ gian khó

Năm 1992, gia đình bà Hoàng Thị Sâm từ miền Trung về lập nghiệp ở đất Xuân Hòa. Những ngày đầu khó khăn khi không có vốn, không có đất sản xuất, gia đình bà phải làm thuê, làm mướn để mưu sinh. Bà Sâm kể: “Xuân Hòa là vùng đất khó khăn về nguồn nước sản xuất nên cây trồng có năng suất không cao, lợi nhuận không bằng đầu tư chăn nuôi nên gia đình tôi chọn nuôi bò mẹ sinh sản. Kinh tế gia đình dần khấm khá khi đàn bò mẹ sinh sản không ngừng tăng lên”.

Vài năm trở lại đây, nuôi bò thịt theo kiểu chăn thả gặp khó khăn do không cạnh tranh được với bò ngoại nhập. Gia đình bà Sâm là một trong những hộ tiên phong tại địa phương chuyển đổi mô hình chăn nuôi theo hướng bán công nghiệp.

Từ năm 2018, gia đình bà Sâm đã đầu tư xây dựng lại khu chuồng trại; chuyển từ nuôi bò thả đồng sang nuôi bò nhốt trong phát triển chăn nuôi đại gia súc theo công nghệ, kỹ thuật mới. Nói về hiệu quả của mô hình mua bò đã trưởng thành về vỗ béo bán bò thịt, bà Sâm so sánh: “Nuôi bò vỗ béo bán thịt cho lợi nhuận cao hơn rất nhiều so với cách nuôi chăn thả truyền thống; lại kiểm soát được rủi ro về dịch bệnh”.

* Tự làm thức ăn từ phế phẩm nông nghiệp

Chia sẻ câu chuyện chuyển đổi từ hộ chăn nuôi nhỏ lẻ sang quy mô trang trại theo hướng bán công nghiệp, bà Sâm nói: “Tuy ở Đồng Nai có một số công ty đầu tư nhà xưởng, máy móc hiện đại để sản xuất thức ăn thô ủ men cho bò sữa, bò thịt, nhưng với hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, việc đầu tư máy móc để tự sản xuất thức ăn thô tận dụng từ những phế phẩm nông nghiệp theo kiểu tự cấp, tự túc là điều không đơn giản”.

Để giải bài toán khó đầu tư lớn với đồng vốn eo hẹp, vợ chồng bà tận dụng khu chuồng trại có sẵn để cải tạo lại theo hướng chuồng công nghiệp; tự chế các máy móc trong sản xuất thức ăn chăn nuôi như: máy băm cỏ, trộn thức ăn…

Để luôn chủ động về nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, bà Sâm đã xây dựng một quy trình trồng trọt - chăn nuôi khép kín. Với hơn 3 hécta đất sản xuất, 1 hécta bà Sâm để xây dựng khu chuồng trại và trồng cỏ nuôi bò. Đất còn lại để trồng mì, bắp; nguồn phân thải ra từ chăn nuôi lại đưa ngược ra đồng để cây trồng cho năng suất tốt.

Trung bình chỉ khoảng từ 3,5-4 tháng là trại nuôi có lứa bò thịt xuất bán. Nhờ đó, chỉ gần 2 năm chuyển đổi sang mô hình chăn nuôi mới, trại chăn nuôi của gia đình bà Sâm đã phát triển quy mô tổng đàn lên cả trăm con/lứa. Đầu ra, giá cả sản phẩm luôn ổn định nên trại nuôi bò của gia đình bà Sâm là mô hình sản xuất cho lợi nhuận cao được nhiều hộ chăn nuôi khác tại địa phương học hỏi, ứng dụng.

Bình Nguyên

Hậu Giang: Linh động chuyển đổi vật nuôi sau dịch tả heo châu Phi

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Trong lúc dịch tả heo châu Phi (ASF) bùng phát mạnh, những hộ dân bị thiệt hại đã linh động chuyển sang nuôi các đối tượng khác để tăng hiệu quả kinh tế.

Người dân ở thị xã Ngã Bảy (tỉnh Hậu Giang) tận dụng chuồng heo để nuôi vịt.

Trong khi các cấp chính quyền đang tích cực áp dụng nhiều biện pháp ngăn chặn dịch bệnh thì ở các ổ dịch đã qua 30 ngày người dân bắt đầu chuyển đổi sang đối tượng vật nuôi khác. Đây được xem là hướng phát triển kinh tế mới của nông dân trong thời buổi dịch bệnh hoành hành.

Như đã biết, dịch tả heo châu Phi là bệnh không lây truyền cho các đối tượng vật nuôi khác. Do đó, ngành nông nghiệp đã có định hướng, khuyến cáo người dân thay đổi đối tượng chăn nuôi; tận dụng chuồng heo sẵn có để góp phần duy trì sản xuất. Một số đối tượng nuôi được khuyến cáo là gà, vịt trên đệm lót sinh học; nuôi lươn thương phẩm và các đối tượng thủy sản khác...

Khoảng 1 tháng nay, người dân ở các địa phương đã bắt đầu chuyển đổi với kỳ vọng phát triển kinh tế ổn định giữa “tâm bão ASF”. Hộ ông Phan Văn Việt, ở ấp Vĩnh Hòa, xã Vĩnh Tường, huyện Vị Thủy, bị tiêu hủy 18 con heo do nhiễm dịch tả heo châu Phi khoảng 2 tháng trước đã nhận tiền hỗ trợ. Số tiền trên 50 triệu đồng được dự tính dùng để sửa lại chuồng nuôi ba ba, cua đinh. Trước mắt phải tìm hiểu kỹ thuật và nguồn giống chất lượng mới an tâm tái sản xuất bằng đối tượng vật nuôi mới.

Đó cũng là nỗi lo của người dân khi mới chuyển đổi vật nuôi khác. Nhiều hộ thử nghiệm ban đầu với diện tích chăn nuôi nhỏ để tích lũy kinh nghiệm, hạn chế rủi ro. Ở thị xã Ngã Bảy, một số hộ đã tận dụng chuồng heo để nuôi lươn, vịt. Ông Hồ Văn Quắn, ở ấp Sơn Phú, xã Đại Thành, vừa thả nuôi 4.000 con lươn để có thêm thu nhập. Theo ông Quắn, trước khi chuyển đổi cần nghiên cứu kỹ về đối tượng nuôi, kỹ thuật, các biện pháp phòng, trị bệnh. Còn công chăm sóc và chi phí đầu tư rất nhẹ, do tận dụng chuồng trống sau dịch tả heo châu Phi nên không tốn tiền đầu tư mới.

Ông Quắn than thở: “Sau khi tiêu hủy 143 con heo trong chuồng được 1 tháng, tôi trăn trở suốt, không lẽ bỏ trống chuồng mãi sao? Rồi tiền đâu mà trang trải trong khoảng thời gian chờ hết dịch tả heo châu Phi để tái đàn? Thế là tôi quyết tâm học hỏi kỹ thuật nuôi lươn trong bể. Khi đã nắm vững cách thức và chọn được nơi cung cấp con giống uy tín, tôi về sửa lại nền chuồng heo, xử lý các bước rồi bắt đầu nuôi mới. Hai tuần trước tôi đã thả 4.000 con, đang đặt mua thêm giống, dự kiến sẽ thả nuôi khoảng 20.000 con lươn trong các ô chuồng”. Sau 10 tháng chăm sóc, lươn sẽ đạt chuẩn xuất bán. Đây là bước đệm để ông Quắn vừa học hỏi kỹ thuật, vừa phát triển kinh tế bằng loài mới. Nếu thành công với mô hình nuôi lươn không bùn thì ông sẽ mở rộng thêm diện tích.

Ở những ô chuồng trống, tùy đối tượng chọn nuôi mới mà hộ dân thiết kế lại cho phù hợp. Việc linh động trong chuyển đổi giúp mở ra hướng đi mới cho người chăn nuôi. Dù chưa nhận được tiền hỗ trợ 47 con heo bị tiêu hủy do dịch tả heo châu Phi, nhưng chị Nguyễn Ngọc Giàu, ở ấp Sơn Phú, xã Đại Thành, thị xã Ngã Bảy đã bỏ tiền làm vỉ lưới sắt trên bề mặt chuồng heo để nuôi 400 con vịt xiêm. Được biết chị Giàu sẽ chuyển hẳn sang nuôi loài này và không còn ý định tái đàn heo sau khi hết dịch.

“Đợi đến khi có tiền hỗ trợ, tôi sẽ mua thêm vịt trắng về nuôi tiếp trong chuồng heo. Thay vì trước kia nấu rượu nuôi heo bằng hèm, giờ tôi cũng tận dụng hèm vắt khô rồi trộn chung với thức ăn viên cho vịt ăn. Cách này vừa tiết kiệm chi phí, vừa giúp vịt lớn nhanh. Bây giờ 1kg vịt xiêm bán ra cũng gần 60.000 đồng, lại nhẹ công chăm sóc. Dưới ao, tôi còn tận dụng diện tích mặt nước thả 100kg cá trê bán kiếm thêm thu nhập để chi tiêu trong gia đình”, chị Giàu phấn khởi nói về hướng phát triển chăn nuôi mới.

Ngành nông nghiệp khuyến cáo một số vật nuôi mà người dân có thể quan tâm chuyển đổi trong giai đoạn này là nuôi gà, vịt trên đệm lót sinh học; nuôi lươn thương phẩm và các loài thủy sản khác... Bước đầu chuyển đổi, các hộ dân sẽ được hỗ trợ kỹ thuật, quy trình chăn nuôi từng đối tượng, cách xử lý chuồng trại, các biện pháp phòng bệnh. Đồng thời, cán bộ khuyến nông địa phương sẽ cấp phát tài liệu hướng dẫn, tham quan, học tập các mô hình hiệu quả; hỗ trợ một số nông dân thực hiện mô hình trình diễn…

Ông Võ Xuân Tân, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Hậu Giang, cho biết: Sẽ có một số chính sách được áp dụng khi người dân thực hiện theo khuyến cáo của ngành chức năng. Cụ thể là chính sách xây dựng mô hình khuyến nông (chỉ áp dụng cho một số hộ thực hiện mô hình): Áp dụng theo Nghị định số 83 của Chính phủ về khuyến nông là hỗ trợ tối đa 50% giống và 50% vật tư. Kế hoạch số 942 của UBND tỉnh Hậu Giang thực hiện chính sách hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi nông hộ trên địa bàn tỉnh Hậu Giang năm 2019. Đồng thời, ngành nông nghiệp tỉnh đang xây dựng kế hoạch để khuyến cáo chuyển đổi chăn nuôi trong tình hình hiện nay đối với các đối tượng nêu trên. Bên cạnh đó, cũng sẽ xây dựng kế hoạch khôi phục đàn heo sau khi dịch tả heo châu Phi được khống chế.

Đến ngày 28-7, toàn tỉnh có 626 ổ dịch tả heo châu Phi/246 ấp, khu vực thuộc 62 xã, phường, thị trấn. Tổng số heo chết và tiêu hủy do dịch bệnh là trên 15.500 con. Có 5 đơn vị đã qua 30 ngày không xảy ra ổ dịch mới là phường Lái Hiếu, thị xã Ngã Bảy; xã Trường Long Tây, Tân Hòa và thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A; xã Vĩnh Viễn A, huyện Long Mỹ.

Bài, ảnh: KỲ ANH

Phát triển nuôi cừu theo hướng nâng cao chất lượng đàn, gắn với quy hoạch vùng trồng cỏ

Nguồn tin: Báo Ninh Thuận

Sau khi Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) cấp Giấy chứng nhận Chỉ dẫn địa lý vào tháng 10- 2017, sản phẩm thịt cừu Ninh Thuận đã khẳng định được thương hiệu mạnh trên thị trường cả nước.

Người tiêu dùng ngày càng thích sử dụng thịt cừu Ninh Thuận, khiến cho giá mặt hàng này tăng mạnh. Theo báo cáo của Sở Công Thương, giá cừu hơi hiện nay đạt ngưỡng 115 ngàn đồng/kg, tăng 35 ngàn đồng so với cùng kỳ năm ngoái, đang mở ra cơ hội cho các hộ chăn nuôi tăng đàn. Để phát triển nghề nuôi cừu bền vững, ngành chức năng, các địa phương đang tập trung hỗ trợ nông dân cải tạo chất lượng đàn, gắn với quy hoạch vùng trồng cỏ.

Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), tính đến giữa năm 2019, tổng đàn cừu trên toàn tỉnh khoảng 88.000 con. Chăn nuôi cừu đang ngày càng phát triển theo hướng hình thành các trang trại tập trung gắn với du lịch. Đặc biệt, mô hình liên kết theo chuỗi giá trị đang có xu hướng phát triển mạnh, với một số doanh nghiệp đi đầu trong đầu tư con giống, bao tiêu sản phẩm cho nông dân, tạo sinh kế cho nhiều hộ nghèo. Các hoạt động liên kết chăn nuôi cừu cũng đã mở rộng thị phần thịt cừu ở các tỉnh, thành phố trong cả nước. Chỉ tính riêng Cơ sở kinh doanh dê, cừu Triệu Tín đã đầu tư con giống, thức ăn gia súc cho hàng trăm hộ chăn nuôi mở rộng chuồng trại, tăng đàn, đưa nghề nuôi cừu trở thành ngành sản xuất chính trong nông nghiệp.

Vùng nuôi cừu tập trung ở thôn An Hòa, xã Xuân Hải (Ninh Hải). Ảnh: Anh Tùng

Việc ngành NN&PTNT chủ trương phát triển nuôi cừu theo chuỗi giá trị đã khắc phục được những bất cập về chăn nuôi nhỏ, lẻ thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa người sản xuất và thị trường tiêu thụ. Các mô hình liên kết với doanh nghiệp đang hoạt động có hiệu quả đã giúp các hộ chăn nuôi không phải qua khâu trung gian để bán sản phẩm, lợi nhuận vì thế cao hơn. Nghề nuôi cừu đang phát triển lên tầm cao mới khi gần đây có sự quan tâm, vào cuộc đồng bộ của các cấp, các ngành trong việc hỗ trợ nông dân xây dựng chiến lược, chương trình, kế hoạch để thúc đẩy phát triển ngành nuôi cừu tỉnh theo hướng bền vững. Các chính sách hỗ trợ nông dân nuôi cừu, hỗ trợ triển khai các mô hình chuyển giao khoa học và công nghệ vào chăn nuôi, đăng ký nhãn hiệu, xúc tiến thương mại, kết nối thị trường được thực thi có hiệu quả. Những điểm sáng về hỗ trợ xây dựng các cơ sở giết mổ gia súc tập trung dần khắc phục được tình trạng giết mổ nhỏ lẻ, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, góp phần làm tăng giá trị của sản phẩm thịt cừu.

Thành quả đạt được là vậy, tuy nhiên theo đồng chí Nguyễn Tin, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh, ngành nuôi cừu đang bộc lộ những hạn chế như nông dân ít quan tâm cải tạo đàn, nâng cao chất lượng giống. Năm 2004, tỉnh thực hiện Chương trình lai tạo đàn cừu, qua đó đã nhập 30 con cừu đực giống có nguồn gốc từ Úc về lai tạo với cừu địa phương đã nâng cao được khả năng cho thịt và khả năng sinh trưởng. Cừu lai với ưu điểm không kén thức ăn, được chăn thả ngoài tự nhiên góp phần làm cho chất lượng thịt có sự khác biệt so với thịt cừu ở các tỉnh khác, tạo nên danh tiếng sản phẩm thịt cừu Ninh Thuận. Thế nhưng, do quá trình tiến hóa lâu dài, cùng với tập tục chăn thả ngoài tự nhiên, đàn cừu tự do giao phối, dẫn đến tình trạng trùng huyết, làm cho mức độ tăng trọng của cừu giảm. Để nâng cao chất lượng cừu, trong đợt hạn hán khắc nghiệt vào năm 2015 - 2016, ngành NN&PTNT hướng dẫn nông dân phương pháp cải tạo đàn cừu bằng cách loại bớt những con cừu suy dinh dưỡng, còi cọc, duy trì những con cừu đực, cừu cái mạnh khỏe; đồng thời, tiến hành luân đổi con đực giữa các trang trại để tránh tình trạng trùng huyết. Hướng tới đạt mục tiêu của Đề án Cơ cấu lại ngành Chăn nuôi đến năm 2020, phát triển đàn cừu với quy mô 190.000 con; trong đó, nuôi tập trung 165.000 con, sản lượng thịt 9.000 tấn; đàn cừu lai (cừu Ninh Thuận lai với cừu nhập ngoại của Úc, Ả Rập) từ 50-70%, Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã xây dựng kế hoạch triển khai mô hình cải tạo đàn cừu, chọn hộ chăn nuôi tiêu biểu thực hiện thí điểm, sau đó nhân rộng ra trên địa bàn toàn tỉnh. Trong thực tế, Trung tâm Khuyến nông tỉnh đã thực hiện mô hình cải tạo đàn cừu, chuyển giao các hộ chăn nuôi có được giống tốt. Với giống cừu lai Úc, chỉ cần 7-8 tháng nuôi theo đúng kỹ thuật sẽ xuất chuồng, có trọng lượng bình quân 30 kg/con.

Nhờ vào điều kiện chăn thả thuận lợi, hiện nay nhiều nông dân có xu thế chuyển từ nuôi dê sang nuôi cừu, đây là hướng đi mới có nhiều triển vọng. Để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thịt cừu, ngành chức năng vận động nông dân phát triển mô hình chăn nuôi tập trung có quản lý dịch bệnh, sử dụng thức ăn vi sinh, gắn với quy hoạch vùng trồng cỏ.

Anh Tùng

Nuôi lợn rừng ‘cắp nách’ an toàn dịch bệnh, lãi đều như vắt chanh

Nguồn tin: Nông nghiệp VN

Anh Phan Văn Quynh, chủ hộ chăn nuôi lợn rừng lai “cắp nách" ở xã Hà Tân, Hà Trung (Thanh Hóa) mỗi năm thu nhập 300 triệu đồng, trừ chi phí còn lãi trên 200 triệu.

Tò mò hỏi anh có bí quyết gì chăng? Anh cười, chia sẻ: Tôi "bắt mạch" được thị trường "cầu" lớn gấp nhiều lần so với "cung", hơn nữa lợn rừng là món ăn khoái khẩu của số đông người tiêu dùng, thịt thơm, chủ yếu là nạc, ít mỡ, da dày (nấu chín). Vì thế tôi mạnh dạn bỏ vốn đầu tư nuôi heo rừng lai "cắp nách" (trọng lượng nhỏ nhẹ), dễ bán".

Giống lợn bố (đực giống) và giống lợn mẹ (lợn nái) gốc lai, ban đầu anh Quynh mua về từ cơ sở có uy tín ở Xuân Mai, Hà

Nội và phát triển đàn từ đó đến nay.

Lợn rừng lai “cắp nách” trong gia trại của anh Phan Văn Quynh.

Mỗi năm, gia đình anh Quynh xuất bán lợn thương phẩm ra thị trường tới 140 con heo rừng lai "cắp nách", mỗi con bình quân nặng 25 kg (con nặng nhất 30 - 35 kg) với giá bán ổn định 1 kg lợn hơi là 120.000 đồng (giá thị trường hiện 140.000 đ/kg trở lên).

Thứ khan hiếm, lại là lợn sạch, đảm bảo an toàn thực phẩm, người chăn nuôi có giấy chứng nhận nguồn gốc giống lợn rừng lai. Vậy nên không ai bảo ai, hễ "tăm" được thông tin là khách hàng năm hẹn bảy hẹn rồi cả đàn heo rừng lai "cắp nách" của gia đình anh về theo người mua, chuồng lại trống rỗng chỉ trong chốc lát...

Tại khu đồi rừng thôn Tân Sơn, xã Hà Tân, anh Quynh nhận đấu thầu 1 ha để làm trang trại chăn nuôi gia súc, gia cầm. Anh chọn địa điểm xây dựng chuồng chăn nuôi lợn trên diện tích 300 m2. Vật liệu đơn giản, chỉ là xây tường bằng gạch không nung, sàn bê tông láng nhẵn, độ cao, mái chuồng phù hợp, vừa che nắng che mưa, vừa lấy gió, ánh sáng, thoáng mát...

“Gia đình ông Quynh thật chịu khó, cần mẫn lao động, làm thế chả mấy lúc giàu to! Bỏ vốn chăn nuôi con “đặc sản” này mới 4 năm nay, bây giờ gia đình đã khá giả, trong cái xóm vườn đồi này khối người theo cũng không kịp”, nhiều người nói về anh như vậy!

Học hỏi một vài nơi và chịu khó nghiên cứu tìm tòi, anh áp dụng chế độ chăm sóc đàn lợn khá tốt. Lợn mẹ ăn 2 lần/ngày, thức ăn là cám gạo, bã bia, bánh quy loại thải, trộn lẫn với nhau cho mỗi con ăn 3kg/con, thời gian cho ăn vào lúc 8 giờ sáng và 16 giờ chiều.

Còn lợn con, sau khi đẻ ra bú sữa mẹ khoảng 1,5 tháng, sau đó thả ra vườn đồi được khoanh vùng giới hạn, tận dụng lợi thế môi trường tự nhiên trên một không gian rộng.

Cho lợn con ăn thức ăn phối trộn cũng giống như lợn mẹ, với lượng thức ăn 0,4 kg/con. Khi lợn con nặng chừng 1,5 kg/con thì chuyển sang cho ăn thức ăn gia đình phối trộn, gồm có cám gạo, bã bia, bánh quy loại thải và cho mỗi con ăn mức 2 kg/con/ngày, bổ sung thêm thức ăn bằng rau xanh như cỏ voi, thân cây chuối thái nhỏ, trộn lẫn cho ăn.

Nguồn nước sạch lấy từ giếng khoan đủ để vệ sinh khu vực chuồng trại, cho lợn tắm rửa, uống hàng ngày, nước trộn cùng với thức ăn pha loãng, đảm bảo vệ sinh, sạch sẽ.

Để phòng dịch bệnh cho đàn lợn, mặt sàn, tường, phía trong và ngoài chuồng nuôi, dụng cụ đựng thức ăn, máng cho ăn, nước uống thường xuyên được kiểm tra, quét dọn, rửa sạch trước và sau khi cho lợn ăn; hàng tháng, phun thuốc, rải vôi bột mức vừa đủ để sát khuẩn, khử trùng chuồng trại, giúp cho lợn khỏe, mau lớn và phòng dịch bệnh. Riêng lợn con sau khi đẻ ra 2 - 4 ngày, cho uống thuốc sắt (Vitamin B12) để phòng bệnh phân trắng.

Trên diện tích 300 m2 ao, anh thả nuôi các loại cá chim trắng, trê lai, cá trắm... tận dụng lá chuối, cám thừa của lợn để nuôi cá; đồng thời cấy 1 vụ lúa lấy gạo ăn.

Nhằm hỗ trợ cùng với gia đình, anh thuê 1 lao động thường xuyên làm công việc chăn nuôi và trả tiền công thuê 5 triệu đồng/tháng. Ngoài ra, gia đình anh còn chăn nuôi 150 con gà thịt, 50 gà đẻ lấy trứng để bán, một phần để sử dụng trong gia đình.

Lợi thế đồi rừng cạnh nhà, gia đình anh nhận thầu 8 ha đất cây rừng - cây thông nhựa. Lượng nhựa khai thác mỗi năm khoảng 3.000 kg, nhập nhựa thông thô cho Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ lâm nghiệp với giá 14.000 đồng/kg. Mỗi năm, thuê 2 lao động thời vụ khai thác nhựa thông và trả tiền khoán công với giá 12.000 đồng/kg.

"Mình biết tận dụng thời gian, lợi thế tự nhiên, nhu cầu thị hiếu, thông tin cập nhật, mạnh dạn đầu tư và đem lại hiệu quả. Với các khoản chi phí đầu tư 500 triệu đồng mỗi năm, lợi nhuận thu được trên 200 đồng/năm cũng thỏa đáng", và “nếu không như vậy thì suốt đời nghèo” , anh khiêm tốn chia sẻ.

LÊ NHƯ CƯƠNG

Bắc Ninh: Hiệu quả bước đầu từ mô hình nuôi vịt biển lai

Nguồn tin: Khuyến Nông VN

Mạnh dạn thí điểm các kỹ thuật chăn nuôi mới, đến nay mô hình nuôi vịt biển lai của Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Quế Võ (Bắc Ninh) đã thu được những tín hiệu tích cực. Mô hình này hứa hẹn sẽ mở ra hướng sản xuất kinh tế hiệu quả cho người chăn nuôi nơi đây.

Thực hiện mục tiêu khuyến khích, hỗ trợ nông dân xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp phù hợp, hiệu quả, thời gian qua Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Quế Võ đã triển khai có hiệu quả nhiều mô hình chăn nuôi, trồng trọt. Nuôi vịt biển lai là một trong những mô hình như vậy.

Gia đình anh Nguyễn Văn Long ở thôn Mộ Đạo, xã Mộ Đạo, huyện Quế Võ là một hộ tiên phong trong thực hiện mô hình nuôi vịt biển lai. Anh Long chia sẻ: “Biết đến giống vịt biển, vịt biển lai từ khá lâu qua các phương tiện thông tin song tôi chưa có điều kiện chăn nuôi. Vì vậy, ngay khi Trung tâm dịch vụ Nông nghiệp huyện triển khai, tôi đã mạnh dạn đăng ký tham gia. Đến nay, việc nuôi vịt biển lai có hiệu quả cao hơn rất nhiều so với các giống vịt khác”.

Theo đó, giống và kỹ thuật nuôi do Trung tâm dịch vụ Nông nghiệp huyện cung cấp, hướng dẫn, với giá 15.000 đồng/con mới nở, nông dân được hỗ trợ 50% giá giống, 30% thức ăn và vắc-xin tiêm phòng và hóa chất phòng chống dịch bệnh. Sau thời gian nuôi khoảng hơn 2 tháng, bình quân trọng lượng mỗi con vịt đạt khoảng 2,0 - 2,1 kg/con. Do phù hợp với nhu cầu thị trường nên hiện nay loại vịt biển lai có đầu ra khá ổn định; các thương lái bao mua cả đàn mức giá từ 40.000 - 45.000 đồng/kg.

Cùng với tham gia mô hình nuôi vịt biển lai còn có hộ hộ ông Nguyễn Đăng Khánh ở thôn Mộ Đạo, xã Mộ Đạo với quy mô nuôi 700 con và hộ ông Nguyễn Đức Tưởng ở thôn Đô Đàn, xã Chi Lăng với đàn nuôi 1.000 con. Quá trình triển khai mô hình, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Quế Võ đã cử cán bộ chuyên môn hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, tiêm phòng vắc-xin, xây dựng chuồng trại và hoàn thiện hồ sơ đề nghị hưởng chính sách hỗ trợ của tỉnh Bắc Ninh theo quy định.

Mô hình nuôi vịt biển lai tại huyện Quế Võ (Bắc Ninh) đã mang lại nhiều hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi

Theo ông Nguyễn Đức Tưởng, tham gia mô hình này, điều yên tâm nhất đó là được cán bộ của Trung tâm tận tình hướng dẫn các khâu kỹ thuật từ chuẩn bị thức ăn, chăm sóc, phòng dịch… “Giống vịt biển lai này khá thích nghi với môi trường, dễ nuôi; sức đề kháng cao nên không bị bệnh dịch; thức ăn của vịt biển lai cũng như các giống vịt thông thường nhưng lượng thức ăn tiêu thụ chỉ bằng một nửa, nhờ vậy đã giảm đáng kể chi phí chăn nuôi. Hiệu quả kinh tế cao hơn so với nuôi các giống vịt thông thường nên gia đình tôi sẽ tăng đàn sau khi xuất bán” - ông Tưởng chia sẻ thêm.

Ông Nguyễn Đăng Bình, Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Quế Võ cho biết, vịt biển lai là giống vịt do Trung tâm Nghiên cứu vịt Đại Xuyên (Viện Chăn nuôi Quốc gia) tạo ra, được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận là giống vật nuôi mới; thuộc loại dễ nuôi, sức sống dồi dào, có khả năng thích nghi rộng, chống chịu bệnh tốt, sống được cả ở vùng nước mặn, nước lợ và nước ngọt. Sau khi nghiên cứu, tìm hiểu, đầu năm 2019, Trung tâm đã mạnh dạn đề xuất với UBND huyện cho triển khai thí điểm mô hình nuôi vịt biển lai với quy mô 2.500 con tại 03 hộ nông dân. Kết quả triển khai mô hình cho thấy, giống vịt biển lai có khả năng thích nghi cao với điều kiện thời tiết, khí hậu khu vực trong huyện, dễ nuôi, có thể nuôi ở nhiều địa hình khác nhau, ít bị bệnh dịch, chi phí chăn nuôi thấp hơn so với các giống vịt thông thường. Thị trường tiêu thụ ổn định, nhiều đầu mối sẵn sàng bao mua cả đàn nếu đáp ứng đủ nguồn cung cấp. Vì vậy, Trung tâm sẽ tiếp tục nhân rộng mô hình nuôi vịt biển và vịt biển lai trên địa bàn huyện trong thời gian tới…

Từ những kết quả bước đầu nói trên, Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Quế Võ đã đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, tổ chức Hội nghị tập huấn chuyên đề về kỹ thuật nuôi vịt biển lai và các chính sách hỗ trợ của tỉnh, huyện về vốn vay ưu đãi, con giống, thức ăn, tích tụ ruộng đất, ứng dụng công nghệ cao... từ đó, giúp các hộ dân mạnh dạn đăng ký xây dựng các mô hình nuôi vịt biển lai kết hợp với nuôi các giống thủy cầm truyền thống nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.

Thực tế cho thấy, giống vịt biển lai có thể nuôi theo nhiều phương thức khác nhau: nuôi công nghiệp, bán công nghiệp, chăn thả; nuôi nhốt trên khô không cần nước bơi lội, nuôi nhốt trong vườn cây, vườn đồi, nuôi nhốt kết hợp cá - vịt, cá - lúa - vịt, lúa - vịt. Chất lượng thịt thơm, rắn hơn so với các giống vịt thông thường nên nhu cầu của thị trường đối với vịt biển lai thành phẩm là khá lớn. Thời gian gần đây, nông dân ở nhiều địa phương như Quảng Ninh, Thái Bình, Ninh Bình, Hưng Yên, Nam Định, Hà Nội... đã nuôi và nhân rộng giống vịt này. Trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, mô hình nuôi vịt biển lai tại huyện Quế Võ là mô hình đầu tiên được triển khai. Đây là mô hình rất thiết thực, nếu được nhân rộng sẽ mở ra cơ hội phát triển kinh tế gia đình, tạo sự ổn định trong chăn nuôi, phát huy tiềm năng sẵn có tại địa phương. Tín hiệu tích cực từ mô hình nuôi vịt biển lai ở Quế Võ là hướng đi mới, góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân gắn với phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp phù hợp, hiệu quả./.

Tạ Quang Đạo

Bình Thuận: Hạn giữa mùa mưa: Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc căng thẳng nước sản xuất

Nguồn tin:  Báo Bình Thuận

Không chỉ nông dân ở các nơi trên mà ở một số huyện, thị khác cũng đang mong mưa về, vì vụ hè thu này nhiều nơi đã cắt giảm diện tích hoặc không sản xuất vụ hè thu…

Thu hoạch lúa ở Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Ảnh: N.Lân

Thiếu nước giữa vụ

Cơn mưa chiều 25/7 đã cứu nguy cho nhiều diện tích lúa có các độ tuổi khác nhau trên địa bàn huyện Bắc Bình. Nhưng tốt nhất vẫn là với những trà lúa dưới 70 ngày tuổi, lứa tuổi lúa cần nước nhiều nhất để làm đòng. Như trên hệ thống kênh Sông Lũy - Cà Giây có gần 1.600 ha thì trong đó có hơn 1.100 ha thuộc trà lúa từ 49 – 70 ngày tuổi, còn lại là những trà lúa có từ 70 ngày tuổi trở lên. Còn tại hệ thống Phan Rí - Phan Thiết có 800 ha thì hơn quá nửa diện tích trà lúa ở tuổi dưới 70 ngày… Nhưng từ hôm ấy đến nay, chưa có cơn mưa nào tương tự lặp lại nên nỗi lo thiếu nước khiến nhiều trà lúa bị mất trắng hay không đạt sản lượng sẽ diễn ra lại tiếp tục. Trong khi đó, tại Hàm Thuận Bắc cũng đang diễn ra tình cảnh tương tự nhưng số diện tích lúa có lứa tuổi dưới 50 ngày nhiều khiến khả năng bị mất trắng rất cao. Đây là điều lạ mà mấy năm nay chưa xảy ra, vì lâu nay chưa có vụ hè thu nào thiếu nước giữa vụ, đơn giản vì đây là thời gian đã vào mùa mưa. Nhưng năm nay, theo quan sát của ngành nông nghiệp, từ đầu vụ sản xuất đến nay, nắng nóng kéo dài, lượng mưa thấp so với cùng kỳ và trung bình nhiều năm. Hiện tại nguồn sinh thủy trên các sông suối tự nhiên trên khu vực hầu như chưa có. Do đó lượng nước tưới cho phần diện tích nói trên phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nước thủy điện Đại Ninh. Thế nhưng, trên thượng nguồn này trời cũng không mưa nhiều, nguồn nước tại hồ Đại Ninh ít, vì vậy thủy điện không chạy máy đủ để lượng nước xả xuống hạ du đủ cho tưới sản xuất.

Trước đó, ngày 22/7 Công ty thủy điện Đại Ninh đã có văn bản gửi Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Bình Thuận thông báo: Hiện nay, tình hình thủy văn trên lưu vực hồ thủy điện Đại Ninh vẫn tiếp tục khô hạn, lưu lượng về hồ trong thời gian gần đây rất thấp, bình quân chỉ khoảng 0,4m3/s. Mực nước hồ tại thời điểm 7h ngày 22/7/2019 là 860,107m, trong khi mực nước chết là 860,00m, tương ứng dung tích hữu ích chỉ còn 0,8 triệu m3. Bên cạnh đó, nhà máy còn phải xả nước đảm bảo dòng chảy sinh thái và môi trường hạ du sông Đồng Nai với lưu lượng xả 0,7m3/s. Vì vậy, việc cấp nước cho hạ du Bình Thuận vào các ngày cuối tháng 7 chỉ bảo đảm bình quân ngày khoảng 3 m3/s.

Mong mưa

Theo số liệu từ Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Bình Thuận, hiện tổng diện tích gieo trồng vụ hè thu 2019 của tỉnh hưởng lợi từ nguồn nước thủy điện Đại Ninh là 26.257 ha, trong đó 15.227 ha lúa, 11.030 ha thanh long và được tưới trực tiếp từ nguồn nước thủy điện Đại Ninh 5.079 ha tập trung tại Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc. Điều đáng nói, diện tích được tưới trực tiếp này, ngoài 1.732 ha thanh long, còn có 3.347 ha lúa với tuổi lúa bình quân từ 50 - 70 ngày, thời gian cần nước nhiều để tập trung làm đòng và trổ bông. Nếu với lưu lượng xả 3m3/s, trời lại không mưa nữa thì diện tích trên sẽ bị mất. Mới đây, ngày 26/7, Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Bình Thuận đã có văn bản kiến nghị duy trì lưu lượng chạy máy của nhà máy. Để tránh tình trạng hạn hán, mất mùa xảy ra, Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi kính đề nghị Công ty thủy điện Đại Ninh xem xét duy trì lưu lượng chạy máy từ ngày 29/7/2019 đến 15/8/2019 tối thiểu 6 m3/s. Tổng lượng nước cần tưới là 8,81 triệu m3. Theo phân tích của đại diện công ty, qua số liệu cho thấy trong 10 ngày qua, dòng chảy đến hồ Đại Ninh đạt 9,25m3/s, vì vậy việc đề nghị Công ty thủy Điện Đại Ninh chạy máy đạt 6 m3/s là có thể thực hiện được. Bằng chứng ngày 29/7 rồi, lượng nước xả của thủy điện đạt 7 m3/s.

Nếu lưu lượng nước xả trên được duy trì trong nửa tháng tới thì diện tích khoảng 5.000 ha lúa, thanh long ở các địa phương trên tránh bị mất trắng. Nhưng dù vậy, thời điểm này, không chỉ nông dân ở các nơi trên mà ở một số huyện, thị khác cũng đang mong mưa về, vì vụ hè thu này nhiều nơi đã cắt giảm diện tích hoặc không sản xuất vụ hè thu…

HẢO CHI

Phú Yên: Trang bị kiến thức cho nông dân để tăng thu nhập

Nguồn tin:  Báo Phú Yên

Nông dân tham quan mô hình vỗ béo bò thịt tại xã Hòa Mỹ Tây (huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên) - Ảnh: LÊ TRÂM

Thời gian qua, Sở NN-PTNT tỉnh Phú Yên triển khai công tác tập huấn tại hiện trường, nâng cao hiệu quả đào tạo kiến thức cho nông dân để áp dụng mô hình tạo nguồn thu nhập.

Lớp tập huấn “mắt thấy, tai nghe, tay làm”

Cuối tháng 6/2019 vừa qua, lớp tập huấn hướng dẫn kỹ thuật nuôi trùn quế được tổ chức tại thị trấn Phú Thứ (huyện Tây Hòa) với hơn 30 nông dân ở các xã Hòa Đồng, Hòa Mỹ Đông và thị trấn Phú Thứ. Thời gian tập huấn 3 ngày, Trung tâm Khuyến nông Phú Yên thiết kế chương trình giảng dạy 1 buổi học lý thuyết, 3 buổi thực hành các nội dung kỹ thuật nuôi trùn quế, 1 buổi đi tham quan thực tế mô hình tại xã Hòa Thịnh (huyện Tây Hòa) và 1 buổi thảo luận nhóm.

Cách thiết kế chương trình tập huấn trên đã mang lại hiệu quả thiết thực, học viên không chỉ được học lý thuyết, tự tay thực hành các kỹ thuật học, trực tiếp xem mô hình sản xuất có hiệu quả và trao đổi, thảo luận với nhau để nắm vững kiến thức hơn. Ông Phạm Ngọc Trà ở thị trấn Phú Thứ chia sẻ: Lớp tập huấn này quá hay, nông dân được trực tiếp thực hành kỹ thuật nuôi trùn quế, học lý thuyết xong là đi tham quan mô hình, qua đó ai cũng biết cách làm.

Lớp tập huấn hướng dẫn kỹ thuật ủ chua thức ăn, phối trộn thức ăn hỗn hợp trong chăn nuôi bò được tổ chức tại thị trấn Củng Sơn (huyện Sơn Hòa) với 28 học viên là nông dân tham dự. Để học viên tại lớp tập huấn có thể tự tay thực hành các nội dung học lý thuyết, trung tâm đã đầu tư kinh phí để mua vật tư cần thiết phục vụ các lớp tập huấn như túi ni lông lớn để đựng cỏ ủ chua, máy cắt cỏ, cỏ tươi, bột bắp, cám gạo, rỉ mật, premix khoáng… Lớp học chia thành từng tổ để thực hành các nội dung tập huấn. Kết thúc khóa tập huấn, các sản phẩm do các tổ thực hành sẽ được đem ra trình bày, chấm điểm và cho bò ăn ngay.

Ông Bùi Văn Tính ở huyện Sơn Hòa, nông dân tham gia lớp tập huấn cho hay: Với cách làm này, học viên rất phấn khởi, thích thú vì ngoài việc học lý thuyết còn tự tay thực hành các nội dung đã học, biết ngay cách làm, khác với các lớp tập huấn “lý thuyết chay” như trước đây.

Kỹ sư chăn nuôi Lê Thị Duy Đính, cán bộ Trung tâm Khuyến nông Phú Yên, cho biết: Với phương pháp tập huấn tại hiện trường, chúng tôi vất vả hơn nhưng lại cho hiệu quả rất cao. Bà con nông dân tham gia nhiệt tình, tiếp thu tốt hơn, trao đổi, thảo luận sôi nổi hơn so với các lớp tập huấn trước đây. Cũng nhờ phương pháp tập huấn này mà cán bộ khuyến nông gần gũi với nông dân hơn, có thời gian trao đổi và tư vấn thêm cho nông dân những kiến thức, kỹ thuật họ cần. Học viên tại các địa phương có dịp trao đổi kinh nghiệm sản xuất lẫn nhau.

Nông dân giảng cho nông dân

Để nâng cao hiệu quả công tác giảng dạy các lớp tập huấn tại hiện trường, với tính chất lớp học chủ yếu là thực hành nên ngoài việc cử cán bộ của Trung tâm Khuyến nông Phú Yên giảng phần lý thuyết, trung tâm còn liên hệ với các nông dân sản xuất giỏi, có kinh nghiệm thực tế để hướng dẫn thực hành.

Khi được Trung tâm Khuyến nông Phú Yên mời tham gia giảng dạy tại lớp tập huấn hướng dẫn kỹ thuật nuôi trùn quế, ông Huỳnh Văn Tỷ ở xã Hòa Thịnh (huyện Tây Hòa), là chủ trang trại nuôi trùn quế buổi đầu đứng lớp còn ngại ngùng do chưa quen. Nhưng sau khi gặp gỡ, trao đổi với học viên, ông đã nhiệt tình hướng dẫn các khâu. Thậm chí ông còn cam kết thu mua sản phẩm phân trùn và hàng tuần sẽ đến thăm mô hình do lớp học xây dựng, đến tận nhà để hướng dẫn kỹ thuật nuôi cho các học viên lớp học có nhu cầu. “Tôi là chủ trang trại nuôi trùn quế nắm vững kỹ thuật, nhiều kinh nghiệm do đã trải qua thực tế, thông qua lớp tập huấn, tôi trình bày hết kinh nghiệm của mình, gọi là nông dân hướng dẫn cho nông dân”, ông Tỷ nói.

Trong năm 2019, trung tâm đã xây dựng kế hoạch tổ chức 9 lớp tập huấn tại hiện trường với các chủ đề có liên quan đến sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản và sẽ tiếp tục mở rộng các lớp này trong thời gian tới. Cách tập huấn như trên sẽ được phổ biến chủ đạo trong thời gian tới. Quan điểm của trung tâm là giảm dần các lớp tập huấn mang tính chất lý thuyết, tăng cường các lớp tập huấn mang tính thực hành tại hiện trường.

Ông Trương Văn Tuấn, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Phú Yên

LÊ TRÂM - MINH NHẬT

Sản xuất nông nghiệp hữu cơ: Còn lắm gian nan

Nguồn tin:  Báo Bình Dương

Xuất phát từ nhu cầu của thị trường và sự chủ động của mình, nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại và nông dân trong tỉnh Bình Dương đã và đang theo đuổi mô hình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hữu cơ. Đến nay, đã có nhiều sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh được chứng nhận hữu cơ và đưa ra thị trường. Tuy vậy, để đứng vững trên thị trường, những sản phẩm này vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

Chưa dễ thành công

Ông Trần Thành Có, Chủ nhiệm Hợp tác xã Nhân Đức (huyện Bắc Tân Uyên), cho biết hành trình trồng cây có múi hữu cơ ông đã đeo đuổi từ năm 2011. Sau 2 năm kết nối, tìm hiểu kỹ thuật, dưới sự chỉ dẫn của các chuyên gia Thụy Sĩ, Hà Lan, Nhật Bản đến từ Tổ chức hữu cơ Việt Nam - một tổ chức phi Chính phủ thực hiện chức năng phát triển vàgiám sát quá trình sản xuất để chứng nhận sản phẩm hữu cơ tại Việt Nam, ông bắt đầu sản xuất theo hướng hữu cơ. Tuy nhiên, hành trình của ông rất gian nan khi ông bắt đầu mày mò từ con số 0 và kiên nhẫn thực hiện 270 tiêu chuẩn do các chuyên gia hướng dẫn.

Đưa chúng tôi đến trước một ụ phân ủ hữu cơ cao hơn đầu chiếc xe xúc bên cạnh, ông Có kể với chúng tôi về câu chuyện thu gom mía bỏ không thu hoạch của bà con về xay xát, rồi câu chuyện học chuyên gia nước ngoài ủ phân hữu cơ cho đúng tiêu chuẩn mà họ yêu cầu. Tiếp đó là câu chuyện ông gian nan đi làm cái bể lọc nước, qua bao bận kiểm tra các chuyên gia mới gật đầu đồng ý cho nước tưới tiêu cây cam.

Vườn cam hữu cơ của ông Trần Thành Có, Chủ nhiệm Hợp tác xã Nhân Đức. Ảnh: TIỂU MY

Đến năm 2018, niềm vui vỡ òa đến với ông khi 19 ha cam soàn được Tổ chức hữu cơ Việt Nam công nhận đạt chuẩn hữu cơ và ký hợp đồng phân phối trên hệ thống cửa hàng hữu cơ toàn quốc. Cam của ông hiện bán giá cao gấp 3 lần so với cam vô cơ (30.000 - 40.000/ kg). Hiện nay, vườn cam hữu cơ của ông giảm được 60% chi phí so với cách làm cũ, quan trọng hơn đất không bạc màu, cho ra sản phẩm sạch. Mỗi ha cam, hàng năm mang lại cho ông 750 triệu đồng. Điều đáng mừng là từ năm 2019, ông và các thành viên Hợp tác xã Nhân Đức đều chuyển đổi tất cả diện tích cam sang phương pháp hữu cơ.

Vừa bắt tay vào sản xuất nông n g h i ệ p , anh Ngô Q u a n g Tân, thành viên Hợp tác xã Minh Hòa Phát (huyện Dầu Tiếng) không ngại chọn đường đi khó. Hiện anh đang trồng 1 ha bưởi thử nghiệm bằng hữu cơ. Anh cho biết đang dốc toàn lực đầu tư cho 1 ha bưởi này vì anh muốn được đem sản phẩm hữu cơ ra thị trường. Anh tự mày mò, tìm hiểu quy trình kỹ thuật trồng và dồn hết tâm huyết vào từng gốc bưởi. “Tôi xay đậu nành làm phân ủ bón cho bưởi, tự nghiên cứu làm những thuốc hữu cơ chống lại sâu bọ cho cây bưởi từ tỏi, ớt; một số loại thuốc sinh học phải nhập từ nước ngoài về. Tính sơ, 1 ha bưởi trồng hữu cơ chi phí gấp 3 lần so với trồng vô cơ”, anh Tân chia sẻ.

Quyết tâm là thế, nhưng hiện tại anh Tân vẫn chỉ dám thử nghiệm trên 1 ha đầu tiên. Bưởi đã cho quả ngọt, song điều anh lo lắng nhất là người tiêu dùng c h ư a p h â n biệt đâu là sản p h ẩm hữu cơ. Nếu bán ngang giá với bưởi vô cơ thì người trồng như anh Tân lỗ nặng. Đây cũng là rào cản chung trong hành trình đi đến con đường trồng trọt hữu cơ của nhiều người khi chọn đi theo con đường này.

Cần nỗ lực từ nhiều phía

Ông Phạm Văn Bông, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cho biết bước đầu các sản phẩm đạt chứng nhận hữu cơ có giá bán rất tốt (cao gấp 2 - 3 lần giá bán so với các sản phẩm thông thường trên thị trường) và lượng tiêu thụ ổn định (sản phẩm hiện tại không đáp ứng được nhu cầu của đối tác). Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố thuận lợi, sản xuất nông nghiệp hữu cơ hiện vẫn còn nhiều yếu tố làm cho người sản xuất lo lắng. Trước hết, sản xuất nông nghiệp hữu cơ kỹ thuật sản xuất khó, năng suất sản phẩm thấp; cùng với đó phải bảo đảm nhiều chỉ tiêu phức tạp, quản lý sản xuất nghiêm ngặt, chi phí đánh giá chứng nhận rất cao và trải qua thời gian dài… làm nhiều doanh nghiệp, trang trại tâm huyết với nông nghiệp hữu cơ lo khó thực hiện được.

Bên cạnh đó, cần làm rõ sự khác nhau giữa chứng nhận hữu cơ theo các tiêu chuẩn quốc tế (Mỹ, châu Âu…) với chứng nhận sản phẩm hữu cơ theo tiêu chuẩn Việt Nam về các tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình thủ tục, hướng dẫn giám sát, kinh phí, quản lý sản phẩm sau chứng nhận...

Để phát triển nông nghiệp hữu cơ trong thời gian tới, ông Mai Hùng Dũng, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh, đề nghị các sở, ngành, địa phương vào cuộc quyết liệt. Theo đó, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tăng cường thông tin tuyên truyền về nông nghiệp hữu cơ bằng nhiều hình thức phù hợp, trong đó chú trọng cập nhật các thông tin mới, mô hình mới về nông nghiệp hữu cơ trên địa bàn tỉnh để nhân rộng trong sản xuất trong thời gian tới; rà soát lại quy hoạch xem xét vùng nào phù hợp để phát triển nông nghiệp hữu cơ…

Đối với Sở Khoa học và Công nghê, cần hướng dẫn các tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp hữu cơ xây dựng mã vạch, hỗ trợ xây dựng thương hiệu để phát triển sản phẩm. Đối với Sở Công thương, cần phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xúc tiến thương mại quảng bá các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ đã được cấp giấy chứng nhận trên địa bàn tỉnh.

Về phía UBND các huyện, thị, thành phố, cần phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rà soát quy hoạch, khu vực, vùng phù hợp phát triển nông nghiệp hữu cơ; xác định đúng sản phẩm chủ lực về hữu cơ là lợi thế của địa phương. Đặc biệt, các địa phương cần chủ động và cụ thể hơn trong xây dựng các dự án, mô hình phát triển nông nghiệp hữu cơ tại địa phương như hỗ trợ sản xuất phân bón hữu cơ, giống cây trồng, vật nuôi hữu cơ, phân bón, thức ăn hữu cơ...

“Điều hạnh phúc nhất đối với tôi là ngày càng có nhiều thành viên Hợp tác xã Nhân Đức quyết tâm trồng cam theo hữu cơ, dù sự khởi đầu vô vàn gian nan về kỹ thuật. Phải hiểu và yêu từng gốc cam, gốc bưởi như chính máu thịt của mình thì người trồng mới thành công được”. (Ông Trần Thành Có, Chủ nhiệm Hợp tác xã Nhân Đức)

TIỂU MY

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop