Tin nông nghiệp ngày 20 tháng 7 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 20 tháng 7 năm 2019

Dê tăng giá, người chăn nuôi vẫn chưa vội bán

Nguồn tin: Báo Sóc Trăng

Hiện nay, bà con chăn nuôi dê rất phấn khởi khi giá dê thịt liên tục tăng cao, lên đến 120.000 đồng/kg. Vì vậy, không ít hộ nuôi dê chưa vội bán mà chờ giá tăng cao hơn nữa.

Hộ bà Võ Thị Huệ ở ấp Huỳnh Công Đê, xã Ngọc Đông (Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng) có kinh nghiệm chăn nuôi dê lâu năm cho biết: “Khoảng sau Tết Nguyên đán, dê đực bán được giá 70.000 đồng/kg, dê cái giá 50.000 đồng/kg. Thế nhưng, hiện nay thương lái đến tìm mua dê đực với giá 120.000 đồng/kg, dê cái giá 100.000 đồng/kg. Cách đây khoảng 1 tháng, tôi vừa xuất bán gần chục con dê giống Bách Thảo, được giá 120.000 đồng/kg. Hiện tổng đàn dê của gia đình còn khoảng hơn 20 con. Mấy ngày nay có nhiều người tìm đến mua nhưng gia đình vẫn chưa muốn bán vì giờ đang mùa mưa, thức ăn cho dê dồi dào nên đợi dê nuôi đạt trọng lượng, bán vẫn chưa muộn”.

Bà Võ Thị Huệ ở ấp Huỳnh Công Đê, xã Ngọc Đông (Mỹ Xuyên) “neo” đàn dê lại chờ bán với giá cao hơn nữa.

Còn ông Nguyễn Thành Công ở ấp Cổ Cò, xã Ngọc Tố (Mỹ Xuyên) cho biết: “Tôi vừa mới xuất bán hơn 10 con dê, trung bình mỗi con nặng khoảng 30kg, bán được giá 120.000 đồng/kg, tăng từ 40.000 đồng đến 50.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm ngoái”. Nhận thấy nuôi dê không tốn nhiều chi phí, ít bị bệnh và cho thu nhập ổn định, năm 2012, gia đình ông Công quyết định nuôi dê nhốt chuồng, ban đầu chỉ nuôi 4 con. Sau thời gian nuôi, có thời điểm tổng đàn dê của gia đình phát triển lên đến gần 100 con, trung bình mỗi năm thu về được từ 60 triệu đồng đến 70 triệu đồng từ việc bán dê giống và dê thương phẩm.

Dẫn chúng tôi ra tham quan mô hình chăn nuôi dê nhốt chuồng của gia đình, ông Công chia sẻ: “Nuôi dê tốn nhiều công nhưng chi phí đầu tư không cao, do thức ăn của dê chủ yếu là các loại lá cây, cỏ. Dê con từ khi tách mẹ để nuôi khoảng 6 tháng là có thể xuất bán, nếu nuôi tốt thì mỗi con dê có thể đạt trọng lượng từ 30kg đến 40kg/con. Tuy nhiên, dê sinh sản nhanh, trung bình 1 năm rưỡi có thể cho 2 lứa, mỗi lứa từ 2 con đến 3 con, nếu so sánh với các vật nuôi khác như bò, heo thì chăn nuôi dê đạt hiệu quả hơn”. Cũng theo ông Công, mấy ngày qua, có nhiều người tìm đến mua dê nhưng ông vẫn chưa bán, vì nghe nói có nơi lái tìm mua với giá rất cao.

Xã Ngọc Tố là địa phương phát triển chăn nuôi dê nhiều nhất của huyện Mỹ Xuyên, với tổng đàn hiện nay khoảng 925 con. Chủ tịch Hội Nông dân xã Ngọc Tố Lâm Trọng Tuấn cho biết: “Năm 2012, địa phương bắt đầu phát triển mô hình chăn nuôi dê và được bà con đánh giá mô hình đạt hiệu quả cao. Nuôi dê chỉ tốn chi phí con giống ban đầu, thức ăn chủ yếu từ cây cỏ tự nhiên, rất dễ nuôi. Bà con chủ động được nguồn thức ăn trong mùa khô và chuyển sang hình thức nuôi dê nhốt chuồng nên dê nuôi rất an toàn, ít dịch bệnh. Hiện nay, dê được thu mua với giá cao nên bà con chăn nuôi rất phấn khởi vì thu được lãi lớn”.

Hiện nay, nhiều hộ chăn nuôi chạy theo thị trường, khi thấy hút hàng thì đầu tư, đến khi giá rớt thì lại bán đổ bán tháo, hậu quả là lỗ nặng. Vì vậy, người chăn nuôi dê cần chủ động nguồn thức ăn dự trữ vào mùa khô, nuôi dê đến khi đủ trọng lượng mới bán, như vậy không lo bị ép giá. Bên cạnh đó, bà con chăn nuôi cũng cần thận trọng khi muốn tăng đàn để không rơi vào “bẫy” cung vượt cầu mà hậu quả vẫn là người chăn nuôi phải gánh chịu.

Tuyết Xuân

Khánh Hòa: Ngày 17 và 18-8: Diễn ra Lễ hội trái cây Khánh Sơn

Nguồn tin: Báo Khánh Hòa

Sáng 18-7, UBND huyện Khánh Sơn tổ chức họp báo về Lễ hội trái cây Khánh Sơn lần thứ I năm 2019. Theo đó lễ hội sẽ diễn ra trong 2 ngày 17 và 18-8, tại Quảng trưởng 20-11 thị trấn Tô Hạp (huyện Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa). Đây là hoạt động nhằm giới thiệu, quảng bá thế mạnh nông nghiệp của địa phương; giúp nông dân kết nối, mở rộng thị trường, trao đổi kinh nghiệm trong sản xuất nông nghiệp; đồng thời giới thiệu hình ảnh, con người, thiên nhiên Khánh Sơn.

Lãnh đạo huyện Khánh Sơn chủ trì buổi họp báo.

Ông Nguyễn Văn Nhuận – Chủ tịch UBND huyện Khánh Sơn cho biết, các hoạt động chính của lễ hội gồm: Lễ hội trái cây và tái hiện Lễ hội ăn mừng lúa mới của người Raglai; hội thi trái cây ngon; các trò chơi dân gian; tổ chức giải việt dã Sức trẻ Khánh Sơn. Lễ hội lần này còn có các hoạt động như: hội thảo xây dựng nền nông nghiệp sạch phát triển bền vững; hội thi Già làng khéo tay; trưng bày trái cây nghệ thuật; liên hoan ẩm thực Khánh Sơn… Ngoài ra, trong khuôn viên tổ chức lễ hội còn bố trí 20 gian hàng để trưng bày các loại trái cây đặc sản của huyện Khánh Sơn như: sầu riêng, măng cụt, bưởi da xanh, mít nghệ, mía tím…

Tại buổi họp báo, UBND huyện Khánh Sơn đã làm rõ thêm một số vấn đề mà các cơ quan báo chí đặt ra liên quan đến việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên địa bàn và hiệu quả mang lại cho nông dân; việc xác định sản phẩm nông nghiệp chủ lực gắn với sản xuất sạch, tiêu thụ sản phẩm nông sản của địa phương…

Được biết, Khánh Sơn hiện là vùng cây ăn trái lớn nhất khu vực Nam Trung Bộ. Trên địa bàn hiện có 962ha sầu riêng – đây là loại trái cây được bình chọn Thương hiệu Vàng nông nghiệp năm 2019. Ngoài ra trên địa bàn còn có 319ha bưởi da xanh, 66ha quýt, 32ha măng cụt, 166ha chôm chôm, 300ha mía tím, 942ha cuối. Hiện, một số sản phẩm nông nghiệp Khánh Sơn đã được tiêu thụ thông qua nhiều siêu thị trên địa bàn tỉnh.

BÍCH LA – GIANG ĐÌNH

Phát triển mô hình trồng nấm ăn theo hướng công nghệ cao

Nguồn tin: Báo An Giang

Việt Nam có nhiều điều kiện để phát triển nghề trồng nấm, nhưng với cách làm như hiện nay, sản lượng và chất lượng không cao, lệ thuộc nhiều vào các yếu tố khách quan, gây khó khăn cho việc tiêu thụ tại thị trường trong nước cũng như xuất khẩu. Vì vậy, nông dân cần hướng đến việc sản xuất sạch theo hướng công nghệ cao và theo quy mô công nghiệp để cây nấm có vị trí xứng đáng trong nền kinh tế.

An Giang là một trong những địa phương đứng đầu cả nước về sản xuất lúa, gạo với sản lượng hàng năm khoảng 4 triệu tấn, chiếm 9% tổng sản lượng lúa cả nước. Mỗi năm, phụ phẩm từ cây lúa khoảng 800.000 tấn trấu cùng khoảng 2 triệu tấn rơm. Trước đây, do chưa được quy hoạch cụ thể, nhận thức đúng về những lợi ích kinh tế - xã hội và môi trường trong công tác quản lý nên lượng rơm thải ra kênh, rạch hoặc đem đốt, gây ra các ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đất, nước, không khí và làm lãng phí nghiêm trọng nguồn tài nguyên này. Những năm gần đây, người dân có sự chuyển biến căn bản về nhận thức trong việc sử dụng rơm, rạ; nhiều mô hình sử dụng rơm ở địa phương như: trồng nấm rơm, ủ rơm làm thức ăn gia súc, phủ rơm trồng hoa màu… ngày càng phát huy hiệu quả tích cực.

Các mô hình trồng nấm góp phần tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động nông thôn

Năm 2014, diện tích trồng nấm toàn tỉnh đạt khoảng 300ha, đến nay duy trì khoảng 400ha. Với kinh nghiệm sản xuất không ngừng cải tiến qua từng năm đã giúp sản lượng nấm tăng từ 3.000 tấn (năm 2014) lên 4.200 tấn (năm 2018), năng suất trung bình đạt 10 tấn/ha. Đặc biệt, thực hiện Nghị quyết số 09 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tỉnh An Giang giai đoạn 2012-2020, tầm nhìn đến năm 2030, Trung tâm Khuyến nông đã triển khai thử nghiệm, chuyển giao kỹ thuật nhiều mô hình trồng nấm rơm ứng dụng công nghệ cao, trong đó có mô hình trồng nấm rơm trong nhà. Mô hình này đã giúp nông dân kiểm soát được điều kiện ngoại cảnh (nhiệt độ, ánh sáng...), tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho nấm rơm sinh trưởng và phát triển, năng suất cao hơn cách làm truyền thống từ 30-40%.

Thời gian gần đây, nhiều tiến bộ mới trong việc trồng nấm đã được triển khai, như mô hình trồng nấm rơm bằng nguyên liệu compost (gồm rơm ủ chín và các chất dinh dưỡng hữu cơ cần thiết cho nấm phát triển). Rơm compost được xử lý bằng phương pháp công nghiệp hấp tiệt trùng nên sạch mầm bệnh, hạn chế sự nhiễm tạp và có thể rút ngắn thời gian sản xuất do không cần thực hiện khâu ủ rơm, đảo rơm. Hay mô hình “Trồng nấm rơm trong nhà bằng nguyên liệu rơm phối trộn với 30% nguyên liệu bông vải”. Đặc biệt, do trồng trong nhà nên có thể kiểm soát được nhiệt độ, ẩm độ, nền xi-măng nên thuận lợi trong việc vệ sinh khử trùng… Nguyên liệu bông vải giữ ẩm tốt, giúp tơ nấm phát triển và cho thu hoạch sớm hơn so với trồng hoàn toàn bằng rơm. Đây là mô hình hiệu quả, giúp bà con nông dân có thêm sự lựa chọn trong việc sử dụng phụ phẩm nông nghiệp làm nguyên liệu trồng nấm rơm, nhất là trong mùa khô.

Sau 6 năm triển khai mô hình trồng nấm rơm trong nhà, anh Nguyễn Thanh Tùng (ấp Trung Bình II, xã Vĩnh Trạch, Thoại Sơn) cho rằng, so với trồng bằng phương pháp truyền thống, trồng nấm rơm trong nhà cho năng suất cao hơn khoảng 40%, tiết kiệm được nguyên liệu khoảng 30%. “Toàn bộ mô hình được áp dụng hệ thống tưới phun bằng máy, có kiểm soát nhiệt độ, độ ẩm bằng thiết bị điện tử để đảm bảo điều kiện tốt nhất cho nấm phát triển. Thời gian cách ly giữa 2 vụ ngắn hơn 10-15 ngày so với cách làm cũ, nên có thể trồng quanh năm, không phụ thuộc vào tình hình thời tiết và sâu bệnh; chất lượng nấm từ đó tốt hơn, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm” - anh Tùng chia sẻ.

Thực tế trên cho thấy, việc phát triển các mô hình trồng nấm ăn theo hướng công nghệ cao thời gian qua có nhiều thuận lợi do được các sở, ngành, địa phương quan tâm, phát triển; tận dụng được nguồn nguyên liệu rơm dồi dào, lực lượng lao động tham gia sản xuất. Tuy nhiên, việc triển khai vẫn còn gặp những khó khăn nhất định, chủ yếu do nguồn nguyên liệu (rơm) chưa đáp ứng nhu cầu về chất lượng, cũng như số lượng (vào những thời điểm tập trung). Công nghệ chọn tạo, nuôi cấy giống chưa được hiện đại, chất lượng phôi chưa ổn định, các cơ sở sản xuất phôi còn nhỏ lẻ… Ngoài ra, kinh nghiệm sản xuất của người dân chưa cao, do đó ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và sản lượng cây nấm, đồng thời chi phí đầu tư xây dựng hạ tầng theo hướng công nghệ cao khá lớn nên nông dân gặp khó trong việc huy động nguồn vốn, quy mô sản xuất mang tính nhỏ lẻ, thị trường chưa ổn định…

Để phát triển nghề trồng nấm ăn, đặc biệt là theo hướng công nghệ cao, thời gian tới, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tiếp tục tuyên truyền, tập huấn kỹ thuật mới cho người dân. Thí điểm các mô hình trồng nấm ăn theo hướng công nghệ cao ở nhiều địa phương để nông dân dễ dàng tiếp cận. Bên cạnh đó, tiến hành mời gọi các doanh nghiệp liên kết tham gia chuỗi sản xuất, chế biến và tiêu thụ nấm ăn. Tiếp tục hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nguồn vốn để phát triển các mô hình trồng nấm ăn trong tỉnh…

Bài, ảnh: ĐỨC TOÀN

Yên Bái: Trạm Tấu phát huy hiệu quả kinh tế từ cây sơn tra

Nguồn tin: Báo Yên Bái

Từ một loại cây tự nhiên trước đây không được quan tâm, đến nay người dân Trạm Tấu, Yên Bái đã không chỉ giữ những diện tích tự mọc trồng nhỏ lẻ, manh mún mà trồng tập trung, sản xuất theo hướng hàng hóa. Nhiều hộ dân đã biết sơ chế, chế biến sản phẩm quả sơn tra thành những mặt hàng có giá trị kinh tế cao như rượu sơn tra, mứt sơn tra, ô mai sơn tra …

Như nhiều hộ dân khác, trước đây cuộc sống của gia đình anh Thào A Chinh ở thôn Suối Giao, xã Xà Hồ, huyện Trạm Tấu gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng 3 năm trở lại đây, nhờ 6ha cây sơn tra mà gia đình anh đã thoát nghèo. Có thu nhập ổn định từ cây sơn tra mang lại, anh Chinh đã tập trung chăm sóc, phân bón và học hỏi kinh nghiệm để tăng năng suất quả.

Đến nay, thôn Suối Giao, xã Xà Hồ có 66 hộ thì cả 66 hộ đều trồng sơn tra, với tổng diện tích 125ha, trong đó gần 60 ha đã cho thu hoạch.

Thôn Suối Giao có 66 hộ thì cả 66 hộ đều trồng sơn tra với tổng diện tích 125ha, trong đó gần 60 ha đã cho thu hoạch. Bán quả sơn tra, bình quân mỗi hộ trong thôn hàng năm thu về từ 15 đến 20 triệu đồng.

Cây sơn tra được Đảng bộ xã Xà Hồ xác định là cây chủ lực trong xóa đói giảm nghèo, chỉ sau cây lúa. Cùng với số diện tích cây tự nhiên có từ trước, từ năm 2011 đến nay, xã đã vận động nhân dân trồng được trên 702 ha sơn tra, trong đó 260 ha đã cho quả. 1ha cây sơn tra mỗi năm cho hơn 1 tấn quả, với giá bán trên thị trường trung bình từ 15- 25 ngàn đồng/kg thì mỗi ha sơn tra cũng thu về trên 30 triệu đồng/năm. Đây là một khoản thu không hề nhỏ đối với đồng bào dân tộc vùng cao Trạm Tấu.

Nhận thấy cây sơn tra ngày càng khẳng định được giá trị trên thị trường, trong thời gian qua, huyện Trạm Tấu đã tích cực tuyên truyền vận động nhân dân các xã có điều kiện thổ nhưỡng hợp với loại cây này mở rộng diện tích. Đến nay, toàn huyện đã có trên 3.700 ha sơn tra, với gần 1.000 ha đã cho thu hoạch, trong đó 300 ha cho quả thường xuyên.

Huyện Trạm Tấu đang tập trung rà soát diện tích đất, phấn đấu đến năm 2020 tổng diện tích cây sơn tra đạt trên 4.500 ha, hàng năm cung cấp ra thị trường khoảng 2.000 - 3.000 tấn quả, nâng mức thu nhập từ diện tích rừng phòng hộ có trồng sơn tra lên 80 triệu đồng/ha.

Rõ ràng, cùng với cây lúa, cây ngô, cây sơn tra đang đóng góp tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng xóa đói, giảm nghèo bền vững cho đồng bào vùng cao Trạm Tấu.

Văn Tuấn – Hoài Văn

Cảnh báo việc ùn ùn trồng mít Thái xuất sang Trung Quốc

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Sở NN-PTNT các tỉnh ĐBSCL lo lắng, giá mít Thái luôn biến động, khi thì tăng rất cao nhưng cũng có lúc giảm thê thảm xuống mức chỉ vài ngàn đồng/kg. Do đó, ngành nông nghiệp khuyến cáo nông dân cẩn trọng việc phá bỏ đất lúa, đất mía và một số cây khác… ào ạt chuyển sang trồng mít Thái.

Chiều 17-7, Bộ NN-PTNT cho biết, những tháng đầu năm 2019, việc sản xuất các loại cây ăn trái tương đối thuận lợi do giá tốt, đặc biệt các loại cây chủ lực được rải vụ thu hoạch mang lại hiệu quả cao như thanh long, xoài, chôm chôm, nhãn, sầu riêng.

Mít thái được thương lái tăng cường thu mua để xuất khẩu sang Trung Quốc. Vì vậy những tháng đầu năm 2019, giá mít Thái nhảy lên mức 35.000 - 45.000 đồng/kg, cá biệt có thời điểm lên cơn sốt giá 50.000 - 60.000 đồng/kg, giúp nông dân thu về lợi nhuận từ 400- 600 triệu đồng/ha/năm.

Giá mít Thái ở ĐBSCL lên xuống bất thường, không ổn định

Do đó, nông dân tại các tỉnh liên tục mở rộng trồng mít Thái. Thống kê năm 2018, diện tích mít của cả nước khoảng 26.174 ha, năng suất 16,5 tấn/ha, sản lượng 307.534 tấn; trong đó vùng ĐBSCL có diện tích lớn nhất với 10.105 ha. Riêng 6 tháng đầu năm 2019, nông dân các tỉnh ĐBSCL tiếp tục trồng mới 1.141 ha mít Thái.

Dù mít Thái cho lợi nhuận cao, nhưng cần thấy rằng cây mít chưa được các tỉnh xác định là cây ăn quả chủ lực, do đó việc đầu tư, hỗ trợ sản xuất chưa có, phần lớn nông dân trồng tự phát, chưa có quy trình sản xuất cụ thể cho các loại hình trồng xen, trồng thuần và chuyển đổi từ đất lúa.

Qua khảo sát của Cục Trồng trọt cho thấy, việc chuyển đổi sang trồng mít rải rác trên nhiều địa phương, không theo vùng trồng tập trung, diện tích lớn, sẽ dẫn đến nhiều rủi ro trong mùa lũ, ngập úng, thiệt hại do hệ thống đê bao chưa hoàn thiện.

Tình hình sâu bệnh xuất hiện gây hại diễn biến phức tạp như ruồi đục trái, sâu đục thân, bệnh thối trái, xơ đen, nấm hồng; nhu cầu trồng lớn trong khi nguồn cung cấp cây giống sạch bệnh, quản lý chất lượng nguồn gốc cây giống còn nhiều khó khăn. Đặc biệt, tiêu thụ mít Thái chủ yếu phụ thuộc vào Trung Quốc nên dễ rủi ro khi thị trường biến động…

Nhiều nơi ở ĐBSCL, nông dân liên tục mở rộng diện tích trồng mít Thái, bất chấp khuyến cáo của ngành chức năng

Sở NN-PTNT các tỉnh ĐBSCL lo lắng, giá mít Thái luôn biến động, khi thì tăng rất cao nhưng cũng có lúc giảm thê thảm xuống mức chỉ vài ngàn đồng/kg. Do đó, ngành nông nghiệp khuyến cáo nông dân cẩn trọng việc phá bỏ đất lúa, đất mía và một số cây khác… ào ạt chuyển sang trồng mít Thái.

Trao đổi với phóng viên Báo SGGP vào chiều 17-7, ông Trần Hồng Đức, Phó Phòng NN-PTNT huyện Châu Thành (Hậu Giang) cho biết: “Từ đầu năm đến nay nông dân trong huyện trồng mới khoảng 500ha mít Thái, nâng tổng diện tích mít Thái lên gần 3.000 ha; thuộc dạng cao nhất ở Hậu Giang. Hiện nay, thương lái thu mua mít Thái loại 1 giá khoảng 30.000 đồng/kg, loại 2 khoảng 15.000 đồng/kg… Song, giá cả thường thay đổi không ổn định lâu, bởi phần lớn phụ thuộc vào tình hình xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Chính điều này nên ngành chức năng băn khoăn và khuyến cáo nông dân không vội vàng tăng diện tích quá nhanh…”.

NGUYỄN THANH

Mùa nhãn xuồng cơm vàng, được mùa - trúng giá

Nguồn tin: Báo Sóc Trăng

Ngoài hành tím thì nhãn xuồng cơm vàng từ lâu đã trở thành “thương hiệu” và cây trồng chủ lực của TX. Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Hiện nông dân địa phương đang bước vào thời điểm thu hoạch rộ. Năm nay, do thời tiết khá thuận lợi nên chất lượng nhãn ngon cũng như mẫu mã nhãn đẹp, giá bán cao, ổn định, nông dân phấn khởi.

Theo thống kê của ngành chuyên môn, hiện nay, TX. Vĩnh Châu có trên 301ha cây ăn trái, trong đó nhãn xuồng chiếm 209ha, diện tích còn lại là một số loại cây ăn trái khác như: thanh long ruột đỏ, mãng cầu ta… Nhãn xuồng cơm vàng tập trung chủ yếu ở phường Vĩnh Phước, Phường 1 và một số ít ở xã Vĩnh Tân, Lai Hòa. Trao đổi với chúng tôi, Trưởng Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật TX. Vĩnh Châu Thạch Thu Hiền cho biết: “Những năm gần đây, chúng tôi đang triển khai quy hoạch lại vùng trồng nhãn xuồng nhằm phát triển giống cây trồng chủ lực của địa phương, gắn với định hướng tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Hiện nay, chúng tôi đã thành lập được hợp tác xã và tổ hợp tác trồng nhãn xuồng để phát triển nhãn theo hướng an toàn, bền vững. Bên cạnh đó, chúng tôi phối hợp với ngành chuyên môn tổ chức các buổi tọa đàm để phổ biến kỹ thuật trồng nhãn xuồng cho bà con. Từ đó, nhiều nông dân đã áp dụng vào sản xuất để nâng cao giá trị, làm giàu từ cây nhãn xuồng cơm vàng”.

Anh Lý Chí Hào phấn khởi vì lợi nhuận khá nhờ nhãn xuồng cơm vàng được giá.

Cũng theo đồng chí Hiền, vụ nhãn năm ngoái do thời tiết bất lợi nên ảnh hưởng đến sản lượng, vào thời điểm nhãn rộ, giá rớt xuống chỉ còn khoảng 28.000 đồng/kg, sản lượng cũng thấp, chỉ đạt từ 500kg đến 800kg/công. Một số nhà vườn đã áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật cho nhãn ra trái sớm, bán đầu vụ nên giá cao. Năm nay, thời tiết thuận lợi, nhãn xuồng ra trái rải rác, nông dân thu hoạch nhiều đợt nên giá nhãn không chỉ cao hơn năm ngoái mà còn giữ ở mức ổn định. Tại vườn, bà con vẫn bán với mức giá trên 40.000 đồng/kg, thậm chí đầu vụ, giá bán dao động từ 55.000 đồng đến 60.000 đồng/kg, sản lượng cũng ước đạt hơn 1,2 tấn/công.

Nhờ thích nghi với vùng đất giồng cát ở địa phương nên nhãn sinh trưởng tốt, trái ngọt, thơm, cơm dày. Chất lượng vượt trội nên nhãn xuồng cơm vàng của TX. Vĩnh Châu ngày càng được thị trường ưa chuộng, thương lái ở nhiều nơi tìm về mua. Trước giá trị kinh tế của cây nhãn xuồng cơm vàng, hiện nhà vườn đang mở rộng diện tích trồng nhãn xuồng cơm vàng thay cho giống nhãn thường của địa phương. Trước đây, anh Lý Chí Hào, ở khóm Biển Trên đã từng trồng rất nhiều giống nhãn nhưng hơn 10 năm nay anh chuyển sang trồng nhãn xuồng cơm vàng và thấy giống nhãn này tương đối phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng tại địa phương. Hơn 2 công nhãn xuồng của gia đình anh Hào đang bước vào thu hoạch rộ, giá bán tại vườn ở mức ổn định 40.000 đồng/kg. Anh Hào chân tình bộc bạch: “Nếu so với năm trước thì thời điểm này giá nhãn cao hơn nhiều so với vụ trước, thu nhập khá hơn năm rồi. Đang thu hoạch rộ nhưng giá nhãn vẫn giữ ở mức ổn định chứ không rớt giá như năm ngoái. Kể ra, vụ trước nhãn còn bị thiệt hại phân nửa do thời tiết bất lợi, mưa nhiều, khiến nhãn thối và rụng”.

Rời vườn nhãn của gia đình anh Hào, chúng tôi đến thăm vườn nhãn xuồng cơm vàng 2ha của gia đình chú Lữ Nhỏ, cũng ở khóm Biển Trên, với trên 200 gốc nhãn xuồng cơm vàng 8 năm tuổi đang cho trái trĩu cành. Do áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật vào chăm sóc nên nhãn của gia đình chú Lữ Nhỏ chín sớm lại cho trái to, mẫu mã đẹp nên bán đầu vụ giá cao. “Rút kinh nghiệm từ vụ nhãn trước, ngoài phụ thuộc thời tiết thì năm nay tôi tưới nước sớm, nhãn ra bông cho trái sớm nên đến thời điểm này vườn nhãn của gia đình thu hoạch sắp xong vụ. Chủ yếu bán đầu vụ với giá 56.000 đồng/kg, về sau giá nhãn còn 40.000 đồng/kg, gia đình cũng có khoản thu nhập khá. Sau khi thu hoạch xong, tôi tiến hành tạo tán, tỉa cành, cắt bỏ những nhánh nhỏ để dưỡng sức cho cây vụ sau. Theo tôi, lợi nhuận từ trồng nhãn khá cao, tuy nhiên hiện nay người nông dân vẫn còn phải phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất và chất lượng của cây nhãn. Chính vì vậy, để mùa nhãn đạt hiệu quả thì người nông dân trồng nhãn nên áp dụng kỹ thuật trồng, chăm sóc và các biện pháp phòng trừ sâu bệnh do ngành chức năng hướng dẫn, có như thế mùa nhãn mới đạt hiệu quả kinh tế cao” - chú Lữ Nhỏ phấn khởi chia sẻ.

Vụ nhãn xuồng năm nay được giá bán ở mức cao, ổn định. Đây là tín hiệu tích cực từ thị trường tiêu thụ do thương hiệu nhãn xuồng cơm vàng của TX. Vĩnh Châu ngày càng được khẳng định, góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng phù hợp, phát huy lợi thế của địa phương, tăng thu nhập cho nông dân.

K. Thoa

Cây mít lạ cho quả có cùi ngọt, thơm mùi sầu riêng

Nguồn tin: Nông Nghiệp VN

Chủ nhân của cây mít đó là ông Lê Văn Bình (SN 1966 ở xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì, Hà Nội).

Theo ông Bình, năm 2017 ông sang Hưng Yên chơi và mua 3 cây mít với giá 200 nghìn đồng/cây về trồng. Sau hơn 1 năm chăm sóc, cả 3 cây đều bói quả. Mỗi cây cho từ 10 - 15 quả. Tuy nhiên cây còn yếu nên ông hái bỏ quả non, chỉ để 3-4 quả/cây để phát triển tốt.

Cây mít cho quả có chất lượng độc đáo của ông Bình.

Theo quan sát của chúng tôi, cây mít cao khoảng 2m, đường kính thân cây khoảng 15cm. Ông Bình cho biết, quả mít khi chín có gai không nhọn, mắt to và thưa, da màu vàng nhạt. Bổ ra thấy ít mủ, múi màu vàng óng, cùi dày, vị ngọt bùi và ăn giòn. Xơ trong quả ít, ăn ngọt hơn cả múi. Đặc biệt ăn được cả cùi, khi ăn có mùi na ná giống sầu riêng".

Hỏi về cách chăm sóc, ông Bình chia sẻ, gia đình ông chỉ bón phân NPK, 3 - 4 tháng bón một lần, mỗi lần bón 200 - 300 gram/cây.

Năm nay là vụ thứ 2, những cây mít của gia đình ông cho thu hoạch, mỗi cây ông chỉ để lại 4 quả. Toàn bộ mít chín gia đình ông để ăn và biếu. “Nhiều người đến hỏi mua mít chín nhưng tôi không bán. Tuy nhiên, tôi sẵn sàng bổ mít mời họ nếm thử để họ cảm nhận. Tất cả đều tấm tắc khen ngon”, ông Bình cười nói.

MAI CHIẾN

Thu tiền tỷ từ vườn sầu riêng

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Dù mới bước vào giai đoạn thu bói nhưng vườn sầu riêng rộng 6 ha tại làng Bàng (xã Bình Giáo, huyện Chư Prông, Gia Lai) của ông Nguyễn Đỗ Nhung đã mang lại mức thu nhập hơn 2 tỷ đồng/vụ.

Tạm gác công việc kinh doanh hải sản ở Bà Rịa-Vũng Tàu, năm 2011, ông Nhung quyết định một thân một mình lên Gia Lai mua đất để đầu tư trồng hồ tiêu. Thế nhưng sau 3 năm xuống giống, hơn 5.000 trụ hồ tiêu cứ héo rũ rồi chết dần khiến ông không khỏi rầu rĩ. Khi áp dụng mọi phương pháp chữa trị cho cây tiêu đều bất thành, ông Nhung nảy ra ý định trồng xen cây ăn quả vào vườn hồ tiêu. “Mới đầu, tôi chỉ trồng khoảng 250 gốc sầu riêng Ri-6 Vĩnh Long, năm sau lại thêm 250 cây nữa, rồi cứ thế mở rộng lên đến 6 ha. Hiện cả vườn có khoảng 900 cây sầu riêng, trong đó có 500 cây Ri-6, còn lại là giống sầu riêng Thái Lan. Tính tổng vốn đầu tư cả về đất đai, diện tích hồ tiêu trước đây lẫn sầu riêng bây giờ, tôi phải mất hơn 10 tỷ đồng. Tuy nhiên, bù lại sầu riêng cho thu nhập tương đối cao và ổn định”-ông Nhung cho hay.

Ông Nhung phấn khởi bên vườn sầu riêng trĩu quả. Ảnh: M.T

Đưa chúng tôi tham quan vườn sầu riêng trĩu quả, ông Nhung chia sẻ, sầu riêng là loại cây khó trồng, kén đất, đòi hỏi vốn đầu tư khá lớn và tốn nhiều công chăm sóc trong một thời gian dài. Sầu riêng ưa ẩm nhưng không chịu được ngập nước, vì thế cần phải cung cấp lượng nước tưới cho cây vào mùa khô và hạn chế ngập úng vào mùa mưa. Theo đó, ông đã đầu tư hệ thống tưới béc phun mưa cục bộ tận từng gốc cây. Ngoài ra, việc bón phân lại tùy thuộc vào nhu cầu dinh dưỡng của cây theo từng giai đoạn phát triển. Ông Nhung thường sử dụng phân bón hữu cơ, phân vi sinh nhằm giúp cây phát triển bền vững, đất được cải tạo tốt hơn, từ đó nâng cao năng suất, chất lượng cũng như giá trị của sầu riêng thương phẩm. Theo kinh nghiệm của ông Nhung, khó nhất là chăm sóc cây sầu riêng lúc ra quả, vì nếu không am hiểu kỹ thuật chăm sóc thì sẽ dẫn đến tình trạng rụng quả, khó đạt năng suất cao. Do đó, để “quán xuyến” hết khu vườn, ông Nhung đã thuê thêm 2 lao động thường xuyên với mức lương 6 triệu đồng/tháng.

Hiện tại, vườn sầu riêng của ông Nhung đang có hơn 400 cây cho quả bói sau 6 năm “cắm rễ”; phần lớn là Ri-6 và một ít sầu riêng Thái Lan. Trung bình mỗi cây cho thu bói 1,2-1,5 tạ và năng suất sẽ tăng dần khoảng 20-30% khi bước vào giai đoạn kinh doanh. “Đến thời điểm này, tôi mới thu hoạch được khoảng 35 tấn quả, dự kiến đến cuối vụ sẽ đạt 50-60 tấn. Sầu riêng của tôi được thương lái thu mua trực tiếp tại vườn với giá 50.000 đồng/kg, ước sẽ mang về thu nhập cho gia đình hơn 2 tỷ đồng”-ông Nhung phấn khởi chia sẻ.

Vui mừng là thế, song ông Nhung cũng canh cánh nỗi lo trong lòng. Bởi theo ông, sầu riêng được giá là do thị trường Trung Quốc đang khá ưa chuộng. Chính việc phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc khiến nông dân Việt Nam không ít lần lao đao. “Hiện nay, Trung Quốc không nhập khẩu sầu riêng Ri-6 nữa mà chỉ nhập sầu riêng Thái nên việc bán buôn cũng không mấy thuận lợi, chủ yếu bỏ sỉ tại các chợ đầu mối. Tôi đang lo thời gian đến, sầu riêng lại cùng chung “số phận” với các loại nông sản khác của nước ta trước đây. Khi ấy, người trồng sầu riêng sẽ thành sầu chung một nỗi”-ông Nhung trăn trở.

Ông Rơ Lan Gien-Chủ tịch UBND xã Bình Giáo-cho biết: Trên địa bàn xã hiện có gần 20 ha sầu riêng, chủ yếu là 2 giống Ri-6 và Monthong Thái Lan cơm vàng, hạt lép. Phần lớn diện tích này được người dân trồng xen canh 3 năm trở lại đây trong các vườn cà phê già cỗi hoặc hồ tiêu bị chết. Riêng vườn sầu riêng của ông Nguyễn Đỗ Nhung là mô hình đầu tiên và duy nhất ở xã trồng theo kiểu thâm canh và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Đây được xem là một điển hình để người dân trong xã tiếp cận và học tập theo.

Cũng theo ông Gien, sầu riêng là một trong những cây trồng có hiệu quả kinh tế cao, tuy nhiên cái khó là bị phụ thuộc nhiều vào thương lái Trung Quốc. Vì vậy, xã cũng thường xuyên khuyến cáo người dân chỉ nên trồng sầu riêng xen vào diện tích các cây trồng kém hiệu quả chứ không nên trồng ồ ạt trên diện tích lớn để tránh cung vượt cầu, khó khăn về đầu ra.

MỘC TRÀ-HOÀNH SƠN

Nắng nóng kéo dài ở Nghệ An làm thiếu hụt thức ăn chăn nuôi

Nguồn tin: Báo Nhân Dân

Vừa qua tại Nghệ An, do nắng hạn kéo dài đã làm nhiều diện tích ngô, cỏ... bị khô cháy, khiến nguồn thức ăn cho đàn trâu, bò lên đến hơn 800 nghìn con của tỉnh bị thiếu hụt khá nghiêm trọng.

Nhiều diện tích ngô ở Nghệ An bị khô cháy.

Nắng nóng, hạn hán nghiêm trọng kéo dài ở Nghệ An gần hai tháng nay đã khiến nhiều địa phương trong tỉnh xảy ra tình trạng thiếu nước uống và “đồng khô, cỏ cháy”, khiến người chăn nuôi đang gặp nhiều khó khăn để duy trì và phát triển đàn gia súc. Bà Trần Thị Hồng ở xóm Tân Tiến, xã Giang Sơn Đông, huyện Đô Lương cho biết: Gia đình bà cùng các hộ chăn nuôi trong xóm đã phải đưa đàn trâu bò đến đập nước cách nhà hơn 1 km để uống nước.

Theo báo cáo của ngành Nông nghiệp các địa phương trong tỉnh Nghệ An: Không chỉ thiếu nước sinh hoạt cho người và gia súc mà nắng hạn đã làm khô hỏng hàng nghìn héc-ta ngô, cỏ voi… trồng để làm thức ăn dự trữ cho đàn trâu bò, khiến người chăn nuôi điêu đứng.

Đối với những hộ chăn nuôi đàn gia súc theo hình thức trang trại, đã phải đầu tư các kho ủ chua cỏ voi đánh tơi, cây ngô… để tích trữ thức ăn cho đàn gia súc nhưng với thời gian hạn hán kéo dài như thế này cũng đáng lo ngại. Ông Nguyễn Công Trung ở thị trấn Lạt (Tân Kỳ) cho biết: Gia đình đầu tư nuôi 50- 60 con bò thịt cùng kho ủ chua thức ăn lên đến hàng chục m3 nhưng đến nay đã vơi đi hơn ¾ kho. Nếu thời tiết nắng nóng tiếp tục kéo dài khoảng 15 ngày nữa sẽ sử dụng hết kho thức ăn dự trữ, cùng với đồng cỏ khô héo hết thì chúng tôi chỉ còn cách xuất bán non đàn bò.

Không chỉ có gia đình ông Trung mà gần 20 hộ chăn nuôi trâu bò giống ngoại vỗ béo theo hình thức trang trại, quy mô lớn cùng hơn 100 gia trại có chăn nuôi bò ở huyện miền núi Tân Kỳ này cũng đang đứng ngồi không yên, khi lâm vào cảnh khan hiếm thức ăn cho đàn gia súc vì gần như toàn bộ 1.500 ha ngô vụ hè và khoảng 500/1.000 ha diện tích trồng cỏ đã bị khô hỏng phần lớn.

Không chỉ ở các trang trại, gia trại, nhiều hộ chăn nuôi khác với quy mô nhỏ ở địa bàn các huyện miền núi hay những địa phương có truyền thống nuôi bò vỗ béo như huyện Hưng Nguyên, Anh Sơn… nguồn thức ăn dự trữ phục vụ trâu, bò hầu như không còn nhiều. Họ đang tính toán và đánh cược với thời tiết trong những ngày tới cũng như phương án buộc phải bán “non” đàn bò để gỡ vốn.

Đối với những hộ chăn nuôi đơn lẻ, một vài con trâu bò, khi nguồn thức ăn tự nhiên cũng như thức ăn dự trữ đang cạn kiệt dần buộc họ phải cho gia súc ăn thêm cám ngô, gạo hòa nước. Tuy nhiên, đây chỉ là giải pháp tình thế, nếu áp dụng dài ngày sẽ không ổn, bởi chi phí mua cám ngô, gạo khá cao.

Theo dự báo của Trung tâm Khí tượng Thủy văn quốc gia, trong tháng 7, thời tiết ở khu vực Nghệ An vẫn tiếp tục nắng nóng, vì thế nguy cơ thiếu nước uống, thiếu thức ăn thô cho đàn gia súc hơn 800 nghìn con ở địa phương đáng báo động. Dịch tả lợn châu Phi vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt cộng với đàn trâu bò đang thiếu nguồn thức ăn do hạn hán… một năm gặp khó với ngành chăn nuôi Nghệ An.

THÀNH CHÂU

Quảng Bình: Tăng bò lai, giảm bò cóc

Nguồn tin: Nông Nghiệp VN

Ông Mai Văn Minh, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT Quảng Bình nhìn nhận, trong 3 năm qua lĩnh vực chăn nuôi của tỉnh không những phát triển về số lượng mà chất lượng cũng được nâng cao.

Nuôi bò lai ở Tuyên Hóa.

“Tỷ trọng ngành chăn nuôi chiếm ngày càng cao trong tổng giá trị sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, việc cải tạo chất lượng đàn bò góp phần làm tăng tỷ lệ bò lai đạt hơn 49%, tạo được sự chuyển hướng tích cực trong chăn nuôi, ông Minh cho hay.

Khuyến khích bò lai

Theo ông Mai Văn Minh, ngành nông nghiệp Quảng Bình xác định chăn nuôi là mảng kinh tế quan trọng nên đã thực hiện nhiều giải pháp để tăng tỷ trọng và nâng cao giá trị. Cùng với việc triển khai “Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp”, Quảng Bình ban hành thêm các chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nhất là chăn nuôi bò thịt chất lượng cao. Tỉnh ưu tiên về đất, đầu tư về hạ tầng và tạo các điều kiện khác để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào chăn nuôi công nghiệp.

Hiện Quảng Bình có trên 2.500 ha diện tích trồng ngô, cỏ làm thức ăn chăn nuôi và ngày càng được mở rộng do sự tham gia của một số dự án chăn nuôi bò quy mô lớn. Thêm nữa, diện tích trồng cao su, rừng keo lớn... cũng là điều kiện tận dụng vùng chăn thả bò. Từ đó, đã hình thành các tổ hợp tác chăn nuôi bò lai sinh sản và nuôi bò vỗ béo với gần hàng nghìn hộ tham gia ở thị trấn nông trường Việt Trung (huyện Bố Trạch), huyện Tuyên Hóa, Lệ Thủy….

Với nhiều chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư, từ năm 2016 đến nay, Quảng Bình đã có các dự án chăn nuôi bò thịt quy mô lớn sử dụng giống nhập ngoại và quy trình nuôi khép kín như dự án chăn nuôi bò thịt công nghệ cao.

Điển hình như Công ty TNHH Chăn nuôi Hòa Phát Quảng Bình với quy mô 29.000 con; dự án chăn nuôi bò sinh sản và bò thịt của Công ty Quảng Bình Milk với quy mô 10.000 con, Công ty Lê Dũng Linh liên doanh với một doanh nghiệt Nhật Bản nuôi bò Kobe…

Không chỉ doanh nghiệp mà nhiều hộ dân cũng đầu tư trang trại nuôi hàng trăm con bò thịt, liên kết nuôi vỗ béo bò hoặc chuyển dần từ nuôi bò giống địa phương sang bò lai. Đây được xem là bước đột phá trong phát triển chăn nuôi của nông dân Quảng Bình sau rất nhiều năm gắn bó, quen thuộc với giống bò cóc địa phương.

Đến tháng 6/2019, Quảng Bình có tổng đàn bò trên 98.200 con (giảm 5,5% so với năm trước). Tuy nhiên đây là con số vui, vì số tổng đàn giảm nhưng tỷ lệ bò lai lại tăng lên 5% trên tổng đàn.

“Bà con nông dân đã biết giảm số lượng bò địa phương để tăng đàn bò lai. Đây là tín hiệu đáng mừng”, ông Trần Công Tám, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi - Thú y tỉnh cho hay.

Ông Ngô Sáu (huyện Quảng Ninh) trước đây có đàn bò cóc trên 30 con. Từ năm ngoái đến nay, ông bán dần vì tính toán nuôi không có lãi. “Bán được mấy trăm triệu, tui đầu tư mua chục bò lai để nuôi vì thu nhập gấp nhiều lần”, ông Sáu bộc bạch.

Ông Trần Công Tám, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi - thú y Quảng Bình: “Chúng tôi chú trọng đến chất lượng đàn bò. Trong đó, tỷ lệ bò lai Zebu và các giống chuyên thịt tăng rõ rệt. Các giống bò năng suất thịt cao như Brahman trắng, Drought Master, BBB (Blanc Blue Belgium) được đưa vào sản xuất cho bê lai thích nghi và tăng trưởng tốt. Công tác thụ tinh nhân tạo bò được xã hội hóa và duy trì tại các địa phương. Tính đến cuối tháng 5/2019, đã thực hiện thụ tinh gần 4.000 bò lai".

Trong các địa phương, huyện Tuyên Hóa đang dẫn đầu về tỷ lệ bò lai. Tổng đàn bò ở Tuyên Hóa có gần 19.000 con, trong đó đàn bò lai chiếm hơn 65%. Ông Nguyễn Tri Phương, Trưởng phòng NN-PTNT huyện cho hay, huyện thực hiện nhiều biện pháp để cải tạo chất lượng đàn bò thay thế dần giống bò cóc.

“Huyện ban hành các chính sách hỗ trợ hộ gia đình chăn nuôi bò lai 50% máu ngoại và tổng đàn thường xuyên có từ 5 con trở lên với mức 300 nghìn đồng/con; hỗ trợ trang trại chăn nuôi 30 triệu đồng/trang trại/năm”, ông Phương nói.

Thu nhập cao

Chúng tôi đến thăm gia đình ông Trần Nhường (ở thị trấn Đồng Lê, huyện Tuyên Hóa). Gia đình ông đã nuôi bò cóc hàng chục năm qua. Tuy nhiên, thu nhập không được nhiều. Được dự các lớp tập huấn về bò lai và về chính sách cải tạo chất lượng cao nên ông quyết định chuyển hướng.

Năm 2014, gia đình ông mua hai con bò cái lai Sind về nuôi. Ông còn được Trạm Khuyến nông huyện tư vấn kỹ thuật và phối giống cho bò bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo. Sau đó, ông Nhường có 2 con bê lai và xuất bán mỗi con hơn 15 triệu đồng.

Ông Nhường so sánh: “Nếu với bê cóc giống địa phương thì chỉ bán được từ 5 - 6 triệu đồng. Trong khi đó, bê lai mang lại hiệu quả cao gấp đôi”.

Từ cặp bò lai ban đầu, đến nay, đàn bò lai của ông Nhường có trên chục con. Mỗi năm, chỉ với việc xuất bán bê lai cũng cho gia đình thu nhập trên 200 triệu đồng. Từ mô hình của ông Nhường, hàng chục hộ khác cũng học theo, chuyển từ nuôi bò cóc sang bò lai.

Đàn bò lai được nuôi ở vùng biển.

Tại các địa phương vùng biển, phong trào bò lai thay thế giống bò địa phương cũng được đẩy mạnh. Chỉ tính riêng 3 xã biển của huyện Lệ Thủy cũng đã có tổng đàn bò lai gần 3.000 con.

Ông Ngô Thởi có đàn bò 20 con chăn thả trong đồng cỏ tự nhiên. Ông cho biết: “Nhà tôi chuyển từ bò địa phương sang bò lai đã được gần 3 năm nay. Thực tế giá bán bê lai hay bò lai lấy thịt đều tăng hơn 2 lần bò cóc. Trong khi đó chi phí cho chăn nuôi cũng gần ngang nhau, thậm chí chăm bò lai còn dễ hơn. Mỗi năm, gia đình cũng có thu nhập trên 300 triệu đồng”.

TÂM PHÙNG

Ninh Bình: Một số biện pháp chống nắng, nóng cho đàn vật nuôi

Nguồn tin: Báo Ninh Bình

Hiện nay, thời tiết nắng nóng tăng cao, số ngày nắng nóng kéo dài, vật nuôi giảm khả năng thu nhận thức ăn, uống nhiều nước, sức đề kháng giảm và dễ mắc bệnh. Để hạn chế ảnh hưởng bất lợi do nắng nóng gây ra, người chăn nuôi cần thực hiện một số biện pháp sau.

Thực hiện chống nóng chuồng nuôi, có hệ thống cửa sổ và quạt thông gió để lưu thông không khí khi cần thiết, trồng nhiều cây bóng mát xung quanh chuồng nuôi, trồng cây dây leo trực tiếp lên mái chuồng (bìm bìm, chanh leo, mướp...) hoặc sử dụng rơm, rạ, bèo tây, các loại lá cây để tạo lớp che phủ dầy lên mái chuồng.

Vào thời điểm nắng nóng cao độ trong ngày cần phun nước trực tiếp lên mái chuồng. Khi dùng nước để phun chống nóng, người nuôi cần quan tâm đến việc tăng cường thông gió và thoát nước để tránh bị tăng cao ẩm độ trong chuồng nuôi.

Trong điều kiện chăn nuôi trên nền đệm lót sinh học cần bố trí tối thiểu 1/3 diện tích mặt nền chuồng nuôi không sử dụng đệm để gia súc, gia cầm tránh nóng, vì nhiệt độ trên bề mặt đệm lót luôn cao hơn so với nhiệt độ chuồng nuôi 2-3oC.

Đối với gà nuôi trên nền đệm lót sinh học cần giảm độ dầy chất đệm lót xuống còn 1/2 so với ngày thường, làm sàn đậu cho gà cách bề mặt chất đệm lót 50cm.

Đối với chăn nuôi lợn, có thể phun nước trực tiếp vào chuồng nuôi, tuy nhiên người chăn nuôi lưu ý, cần chủ động nguồn nước độc lập để sử dụng cho chăn nuôi, xử lý nguồn nước bằng Chlorin trước khi sử dụng cho lợn uống, rửa chuồng nuôi.

Tuyệt đối không lấy nước từ sông ngòi, kênh mương để sử dụng trực tiếp nhằm phòng tránh sự lây lan của dịch tả lợn châu Phi. Trường hợp chăn nuôi với số lượng lớn, mật độ cao cần tăng thêm ô chuồng, giãn mật độ nuôi, tăng thêm số lượng máng ăn, máng uống, tăng cường quạt thông gió để giảm thiểu các khí CO2, NH3... Nên đặt quạt để quạt theo hướng gió thổi, độ cao của quạt ở ngang tầm lưng của gia súc, không treo quạt thổi thẳng từ trần nhà xuống.

Lợn con theo mẹ cần giữ chuồng trại khô ráo, tuyệt đối không làm ướt nền chuồng.

Với trâu bò, cần tắm chải 2 lần trong ngày bằng nước mát để giảm nhiệt độ cơ thể. Chăn thả vào thời gian sáng sớm và buổi chiều mát. Nên buộc trâu bò ở những bãi cây che bóng mát. Không để gia súc làm việc nặng hay làm việc quá lâu trong điều kiện thời tiết nắng nóng.

Hạn chế vận chuyển khi trời đang nắng nóng, nếu phải vận chuyển đi xa thì cần có dụng cụ chuyên dụng và mật độ hợp lý, đồng thời thường xuyên dừng nghỉ cho gia cầm ăn và uống nước.

Đối với chuồng kín thường xuyên kiểm tra nhiệt độ chuồng nuôi, tránh trường hợp mất điện, cần cải tạo cho thông thoáng hoặc đặt quạt hút gió để tăng cường đối lưu không khí, giảm nhiệt độ và khí độc trong chuồng.

Điều chỉnh chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng hợp lý, bổ sung vào nước uống B.Comlex, các chất điện giải, Vitamin C, MultiVitamin hoặc nước muối (pha với lượng 10 - 15g/lít nước). Đảm bảo thường xuyên có đủ nước sạch, nước mát cho gia súc, gia cầm uống, tăng thêm số lượng máng uống (từ 20% trở lên), tránh nước rơi ra nền chuồng dễ sinh mầm bệnh.

Điều chỉnh hợp lý khẩu phần ăn, tăng cường thức ăn xanh như rau cỏ tươi, củ quả... giảm bớt lượng thức ăn tinh bột, giàu năng lượng. Thực hiện chế độ chuyển bữa ăn (thức ăn tinh, thức ăn hỗn hợp chuyển sang cho ăn vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát hoặc có thể cho ăn vào ban đêm, không nên cho ăn no vào buổi trưa khi nhiệt độ môi trường tăng cao).

Làm tốt công tác vệ sinh thú y, tăng cường vệ sinh, dọn dẹp sạch sẽ chuồng nuôi nhằm giảm nhiệt độ sinh ra từ phân và chất thải. Vệ sinh sạch sẽ máng ăn, máng uống, đặc biệt không để thức ăn dư thừa trong máng dễ gây ôi thiu. Đảm bảo nền chuồng sạch, khô ráo, cống rãnh không đọng phân, nước thải nhằm hạn chế phát sinh ruồi, muỗi và các sinh vật gây bệnh khác.

Định kỳ phun thuốc sát trùng để diệt ve, mòng, ruồi, muỗi, bọ mạt... là những tác nhân truyền và gây bệnh trong mùa hè (dùng các loại thuốc sát trùng thông dụng như Virkon, Hanamid, HanIod, Hantox, formalin ...). Khép kín quy trình phòng bệnh bằng các loại vắcxin cho vật nuôi theo hướng dẫn của cơ quan thú y. Thường xuyên kiểm tra và phát hiện sớm các gia súc ốm, bị bệnh để cách ly, báo thú y đến điều trị, xử lý kịp thời tránh để bệnh lây lan.

Sau mỗi đợt nắng nóng kéo dài nên sử dụng thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao, bổ sung các chất bổ trợ, vitamin tránh mệt mỏi kéo dài cho gia súc, gia cầm, nhằm tăng cao sức đề kháng, tăng khả năng chống chịu bệnh tật, ổn định hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi.

Nguyễn Thị Dịu - Trung tâm Khuyến nông tỉnh

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop