Tin nông nghiệp ngày 23 tháng 03 năm 2021

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 23 tháng 03 năm 2021

Ứng phó hạn, mặn, bảo vệ cây ăn quả

Nguồn tin: Nhân Dân

Nông dân tỉnh Tiền Giang chăm sóc cây sầu riêng.

Hiện nay, các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang trong giai đoạn hạn hán, xâm nhập mặn, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Theo dự báo, trong thời gian tới có nguy cơ hàng chục nghìn héc-ta đất sản xuất nông nghiệp ở khu vực này bị ảnh hưởng bởi hạn, mặn. Vì vậy, các địa phương đã và đang tích cực thực hiện các biện pháp ứng phó nhằm giảm tới mức thấp nhất thiệt hại.

Hạn hán, xâm nhập mặn trong mùa khô 2019-2020, ở tỉnh Tiền Giang có 5.343 ha vườn cây ăn quả bị thiệt hại từ 30 đến 70%, trong đó có 4.500 ha sầu riêng bị ảnh hưởng. Để bảo vệ hơn 81 nghìn héc-ta cây ăn quả trong đợt hạn, mặn năm nay, Tiền Giang đã xây dựng kế hoạch từ rất sớm và triển khai nhiều giải pháp ứng phó. Vì vậy, đến nay hạn, mặn chưa ảnh hưởng nhiều đến các vườn cây. Tại xã Ngũ Hiệp, huyện Cai Lậy có hàng nghìn héc-ta sầu riêng, đây là loại cây trồng rất mẫn cảm với hạn, mặn. Trong hai đợt hạn, mặn lịch sử 2015-2016 và 2019-2020, nhiều diện tích cây ăn quả của xã bị ảnh hưởng trực tiếp. Rút kinh nghiệm từ những đợt hạn, mặn trước, năm nay chính quyền và nhân dân đã chủ động hơn trong việc ứng phó. Chủ tịch UBND xã Ngũ Hiệp Nguyễn Hồng Thương cho biết, ngay từ đầu năm 2021, xã đã xây dựng kế hoạch và phương án ứng phó như: họp dân, lồng ghép vào các tổ truyền thanh của ấp nhằm kịp thời thông báo hạn, mặn cho người dân biết chủ động tích trữ nước ngọt. Mặt khác, địa phương liên tục đo độ mặn để kịp thời đóng các cống ngăn mặn và trữ nước ngọt bảo vệ cây trồng. Ông Huỳnh Văn Út, ấp Hòa An, xã Ngũ Hiệp kể: "Gia đình tôi trồng gần một héc-ta sầu riêng. Hạn, mặn mùa khô 2019-2020, gia đình bỏ ra gần 30 triệu đồng để mua nước ngọt về tưới cho cây trồng. Tuy nhiên, vườn sầu riêng vẫn bị chết gần một phần ba. Đến nay, những cây còn lại dần được phục hồi. Nhằm ứng phó hạn, mặn năm nay, gia đình tôi đã đào ao để chứa nước ngọt. Hy vọng, hạn, mặn không gay gắt cùng với sự chuẩn bị tốt, vườn sầu riêng sẽ không bị ảnh hưởng".

Hiện nay, tỉnh Sóc Trăng có hơn 31.000 ha cây ăn quả như: Nhãn, bưởi, vú sữa… tập trung tại các huyện Kế Sách, Cù Lao Dung, Long Phú... Tuy nhiên, do chủ động các giải pháp ứng phó cho nên đến nay, hạn, mặn chưa ảnh hưởng nhiều đến các diện tích trồng cây ăn quả tại địa phương. Tại xã Trinh Phú (huyện Kế Sách), đang trồng 36 ha vú sữa tím theo quy trình VietGAP đạt chuẩn xuất khẩu. Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp Trinh Phú, Hồ Văn Hội cho biết: "Nhằm bảo vệ những diện tích vú sữa, hợp tác xã cử cán bộ thường xuyên theo dõi độ trong nước khi đưa vào vườn để người dân tưới cho cây. Ngoài ra, hợp tác xã cũng khuyến cáo việc chủ động tích trữ nước ở các kênh mương, ao để bảo đảm nước tưới cho cây trồng khi mặn xâm nhập sâu". Đưa chúng tôi tham quan vườn măng cụt của gia đình không bị ảnh hưởng gì sau các đợt hạn, mặn vừa qua, ông Lâm Thanh Sơn, ấp An Ninh 1 (thị trấn Kế Sách, huyện Kế Sách) cho biết: "Để bảo vệ vườn măng cụt, tôi thường xuyên cập nhật thông tin về hạn, mặn trong các tháng mùa khô nhằm kịp thời ứng phó. Bên cạnh đó, tôi đắp bờ bao để nước mặn không xâm nhập vào vườn cây. Đồng thời, tận dụng nguồn nước ngọt ngoài sông, nước mưa, nước ngọt tích trữ trong kênh mương để tưới cây".

Theo Tổng cục Thủy lợi, xâm nhập mặn mùa khô 2020-2021 ở vùng ĐBSCL diễn ra ở mức cao hơn trung bình nhiều năm, nhưng thấp hơn so với cùng kỳ các mùa khô 2015 - 2016 và 2019 - 2020. Theo dự báo, khả năng trong tháng 3, xâm nhập mặn sẽ xuất hiện sâu cho nên cần đề phòng khả năng có khoảng 40.000 ha cây ăn quả ở các địa phương như: Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long và Sóc Trăng bị ảnh hưởng. Trước tình hình đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khuyến cáo các địa phương và người dân cần chủ động tích trữ nguồn nước ngọt trong các kênh mương, hồ chứa phân tán để bảo đảm nước tưới cho cây trồng. Đồng thời, nâng cấp hệ thống thủy lợi, chủ động nguồn nước cho từng vùng ngọt, lợ và tăng cường khả năng cấp nước ngọt, trữ nước tại chỗ đối với những vùng ven biển; theo dõi và kiểm tra độ mặn tại các cống đầu mối để có kế hoạch đóng mở phù hợp.

Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tiền Giang, Nguyễn Văn Mẫn cho biết: "Qua dự báo, tình hình xâm nhập mặn năm nay sẽ không quá khắc nghiệt như mùa khô 2019-2020 nhưng cao hơn cùng kỳ nhiều năm. Vì vậy, ngành nông nghiệp đã triển khai đắp đập thép trên kênh Nguyễn Tấn Thành và bảy tuyến kênh chủ lực khác để bảo vệ các vườn cây ăn quả. Riêng hai xã cù lao Ngũ Hiệp và Tân Phong (huyện Cai Lậy) đã tập trung gia cố cống, đập, bờ bao để ngăn mặn, trữ ngọt. Đồng thời, cho khoan khẩn cấp 14 giếng để cung cấp bổ sung nguồn nước ngọt tưới cây sầu riêng". Bí thư Huyện ủy Cù Lao Dung (Sóc Trăng) Võ Thanh Quang cho biết, Cù Lao Dung là huyện nằm giữa sông Hậu, giáp với biển, tình trạng thiếu nước ngọt sản xuất, mặn xâm nhập diễn ra thường xuyên hằng năm và gây thiệt hại lớn đối với người dân. Nhằm đối phó hạn, mặn, huyện đã chủ động nạo vét các công trình thủy lợi, củng cố đê bao quanh cù lao. Ngoài ra, huyện cũng thực hiện hai công trình đê bao khép kín giữ ngọt, ngăn mặn vùng cù lao với kinh phí gần 88 tỷ đồng.

Tiến sĩ Võ Hữu Thoại, Phó Viện trưởng Cây ăn quả miền nam khuyến cáo, khi hạn, mặn uy hiếp vùng cây ăn quả, chính quyền địa phương và người dân cần củng cố hệ thống đê bao và bờ bao quanh vườn nhằm ngăn mặn, sử dụng nguồn vật liệu hữu cơ như rơm rạ, cỏ khô… hoặc màng phủ nông nghiệp phủ gốc giữ ẩm; không xử lý ra trái hoặc trồng mới trong thời gian hạn, mặn xâm nhập… Sau khi hạn, mặn đã qua, nhà vườn cần có chế độ chăm sóc đặc biệt để cây phục hồi nhanh, chú ý không bón phân vô cơ mà thay vào đó là bón nhiều phân hữu cơ vi sinh hoặc phân phun qua lá, chế phẩm sinh học cần thiết khác…

Bài và ảnh: PHÚC PHONG SỰ

Trà Vinh đẩy mạnh liên kết, tiêu thụ dừa hữu cơ

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Trà Vinh

Đến nay, tỉnh Trà Vinh đã có 1.294 ha dừa hữu cơ đạt tiêu chuẩn (Châu âu - EU, Mỹ - USDA), trong đó có 260 ha đạt 06 tiêu chuẩn (Châu âu - EU, Mỹ - USDA, Nhật Bản - JAS, Úc - ACO, Thụy Điển - KRAV và GlobalGAP).

Trà Vinh là một trong những tỉnh có diện tích cây dừa khá cao ở vùng đồng bằng sông Cửu Long với 23.698 ha, hơn 6,6 triệu cây dừa và sản lượng trên 256 triệu quả. Đây cũng là một trong những cây trồng chủ lực của tỉnh mang lợi thế trong việc xây dựng một nền nông nghiệp bền vững. Trong những năm qua, nhờ sự phối hợp của các ngành, các cấp, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã nổ lực mời gọi các doanh nghiệp trong, ngoài tỉnh thực hiện xây dựng vùng nguyên liệu và tổ chức liên kết, tiêu thụ ổn định dừa hữu cơ trên địa bàn tỉnh. Khởi đầu từ năm 2017, Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Bến Tre (BETRIMEX) đã xây dựng thành công vùng nguyên liệu dừa hữu cơ đầu tiên trên địa bàn tỉnh đạt chứng nhận Châu Âu (EU), Mỹ (NOP-USDA) với diện tích 327 ha của 348 hộ nông dân tại xã Ðại Phước, huyện Càng Long; đến năm 2018 Công ty Betrimex thực hiện tái chứng nhận vùng nguyên liệu này và tiếp tục xây dựng vùng nguyên liệu dừa hữu cơ đạt chứng nhận Quốc tế tại xã Đại Phúc, huyện Càng Long với diện tích 436 ha, trong đó có 260 ha đạt 06 tiêu chuẩn (Châu âu - EU, Mỹ - USDA, Nhật Bản - JAS, Úc - ACO, Thụy Điển - KRAV và GlobalGAP).

Vườn dừa hữu cơ đạt tiêu chuẩn Châu Âu và Mỹ tại xã Tân Hòa, huyện Tiểu Cần, Trà Vinh

Từ những thành công trên, được sự hỗ trợ của Dự án thích ứng với biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long (Dự án AMD Trà Vinh) và Dự án phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (Dự án SME Trà Vinh), từ năm 2019 đến nay, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiếp tục mời gọi Công ty Cổ phần Chế biến dừa Á Châu (ACP) xây dựng và liên kết tiêu thụ 220,56 ha (202 hộ) dừa hữu cơ đạt tiêu chuẩn Châu Âu (EU), Mỹ (NOP-USDA) tại xã Tân Hòa; kết nối với Công ty Cổ phần Trà Bắc (TRABACO) xây dựng vùng nguyên liệu dừa hữu cơ đạt chứng nhận EU, NOP-USDA với diện tích 310,5 ha (344 hộ) tại xã Tập Ngãi, Tân Hùng, Ngãi Hùng huyện Tiểu Cần.

Thực hiện Quyết định số 885/QĐ-TTg ngày 23/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển nông nghiệp hữu cơ giai đoạn 2020-2030 quy định nhiệm vụ phát triển vùng dừa hữu cơ trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long từ 2.000 ha đến 4.000 ha vào năm 2030. Như vậy, đến nay tỉnh Trà Vinh đã có 1.294 ha dừa hữu cơ đạt chứng nhận Quốc tế.

Dự kiến trong năm 2021, tỉnh Trà Vinh tiếp tục mở rộng thêm khoảng 1.800 ha dừa hữu cơ và ký kết hợp đồng liên kết với Công ty TNHH Chế biến nông sản Thuận Phong (TUFOCO), Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Bến Tre (BETRIMEX); Công ty TNHH Chế biến dừa Lương Quới (LQC). Tất cả diện tích dừa hữu cơ được ký kết hợp đồng tiêu thụ với các doanh nghiệp với mức giá ký kết cao hơn giá dừa thông thường từ 10% - 15%, mang lại nhiều hiệu quả thiết thực cho người trồng dừa.

Ngọc Hà - Văn phòng Sở Nông nghiệp và PTNT

Bến Tre: Đánh giá hiệu quả quản lý sâu đầu đen

Nguồn tin: Báo Đồng Khởi

Tính đến ngày 8-3-2021, theo kết quả điều tra của Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật các huyện cho thấy, diện tích sâu đầu đen gây hại trên địa bàn tỉnh là 146,78ha, xuất hiện rải rác ở các huyện: Bình Đại, Châu Thành, Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc, TP. Bến Tre và Chợ Lách.

Sâu đầu đen nằm ẩn mình dưới lá rất khó diệt.

Các địa phương tổ chức 10 cuộc tập huấn triển khai “Biện pháp quản lý tạm thời sâu đầu đen” tại Bình Đại, Châu Thành, Mỏ Cày Nam và Giồng Trôm. Hàng loạt biện pháp phòng trừ đã được ngành chức năng triển khai như: Tiến hành giựt tàu lá bị gây hại nặng đem tiêu hủy và phun thuốc hóa học gốc Emamectin banezoate cho 2ha vườn dừa nhiễm nặng, đồng thời phối hợp Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời phun thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) gốc sinh học Bacillus thuringiensis bằng máy bay siêu nhẹ không người lái (drone) cho hơn 22ha vườn dừa bị lây lan nhẹ của xã Phú Long, huyện Bình Đại.

Phối hợp với Công ty TNHH Nichino Việt Nam thực hiện khảo nghiệm thuốc BVTV gốc flubendiamide và một số gốc thuốc khác tại xã Phú Long để đánh giá hiệu quả và đưa vào biện pháp quản lý tạm thời. Tổ chức tập huấn cho người, hướng dẫn biện pháp phòng trừ cho nông dân ở xã Hữu Định, huyện Châu Thành có vườn dừa bị sâu đầu đen tấn công như: Khuyến cáo đốn bỏ các cây dừa lão cao, khả năng phục hồi kém và tiến hành các biện pháp phòng trừ để tránh lây lan, đồng thời phát 50 hủ chế phẩm nấm xanh Meta và chất bám dính Neem của Công ty phân bón Điền Trang hỗ trợ. Chi cục Trồng trọt và BVTV vận động Công ty Nichino hỗ trợ nông dân xã Thành Thới B, Mỏ Cày Nam 1kg (20 hủ) thuốc Takumi 20 WG, hướng dẫn và phát tài liệu cho dân tự phun.

Tháng 2-2021, Chi cục Trồng trọt và BVTV đã có kế hoạch phối hợp với 5 công ty thuốc BVTV thực hiện khảo nghiệm nhanh một số loại thuốc BVTV ít độc để đánh giá hiệu quả phòng trừ sâu đầu đen hại dừa và đưa vào “Biện pháp quản lý tạm thời sâu đầu đen”. Các khảo nghiệm sẽ triển khai nhanh trong tháng 3-2021, các công ty hỗ trợ cán bộ kỹ thuật, toàn bộ thuốc và kinh phí khảo nghiệm. Ngoài ra, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ môn BVTV - Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh, Công ty cổ phần nghiên cứu Ứng dụng TTC (SRDC), Công ty cổ phần XNK Bến Tre (Betrimex) phối hợp thực hiện thử nghiệm phòng trừ sâu đầu đen hại dừa như: Kết hợp sử dụng bẫy đèn, phun chế phẩm dầu BFS và thả OKS Trichograma SP do SRDC cung cấp và Bretimex thực hiện.

Theo đánh giá của Chi cục Trồng trọt và BVTV, các ban ngành đoàn thể, chính quyền địa phương và nông dân trồng dừa cơ bản đã nhận biết sự gây hại nguy hiểm của sâu đầu đen đối với cây dừa. Việc phun thuốc bằng máy bay siêu nhẹ tại xã Phú Long chưa phù hợp với cây dừa nên còn khả năng lây lan. Diện tích vườn dừa ở xã Hữu Định đã phun chế phẩm nấm xanh Meta nhưng không hiệu quả nhanh vì đây là thuốc sinh học, từ đó nông dân tự phun thuốc mua ngoài đại lý vẫn không hiệu quả vì không áp dụng đầy đủ các khuyến cáo của ngành chức năng.

Đa số nông dân thực hiện biện pháp phòng trừ chưa tuân thủ quy trình hướng dẫn của cơ quan chuyên môn như: Không cắt tỉa các tàu lá bị gây hại nặng đem tiêu hủy trước khi phun thuốc BVTV hoặc cắt tỉa mà không tiêu hủy nên hiệu quả phòng trừ không cao và vẫn còn khả năng lây lan. Việc thực hiện phòng trừ không đồng loạt, khả năng tái nhiễm cao dẫn đến biện pháp phòng trừ hiệu quả nhưng không kéo dài, cây khó phục hồi.

Sâu đầu đen là đối tượng dịch hại mới xuất hiện ở Việt Nam chưa có quy trình được công nhận để quản lý sâu đầu đen hại dừa, hiện chưa có loại thuốc nào tại Việt Nam đăng ký phòng trị.

Tin, ảnh: Phương Khê

Hành, tỏi chật vật tìm đầu ra

Nguồn tin: Báo Khánh Hòa

Cây hành, tỏi hiện diện trên đất Ninh Hòa (tỉnh Khánh Hòa) đã hơn 20 năm nhưng đến nay, giá cả, đầu ra vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào thương lái. Năm nay, giá tỏi, hành đều xuống thấp khiến người trồng lỗ nặng.

Hành, tỏi đều mất giá

Về thôn 1, xã Ninh Sơn (thị xã Ninh Hòa, Khánh Hòa) những ngày này, người dân đang hối hả nhổ tỏi. Đã qua nửa vụ thu hoạch nhưng không thấy vui.

Người dân phơi khô tỏi.

Lau vội những giọt mồ hôi, bà Cái Thị Đoàn - thôn 1, xã Ninh Sơn cho biết: “Vụ này, tỏi gặp thời tiết mưa lạnh nên bị thối củ, giảm mật độ. Mọi năm, tôi thu được hơn 4 tấn nhưng vụ này chỉ được khoảng 1,2 tấn. Trong khi đó, 3 sào tỏi tôi đầu tư hơn 20 triệu đồng, chưa kể tiền công nhưng với giá bán 17.000 - 19.000 đồng/kg như hiện nay, nếu bán hết cũng không đủ bù chi”. Tiếc ruộng tỏi bị hư hỏng, giảm năng suất sau những ngày vất vả chăm sóc, bà Đoàn đã thuê thêm 4 nhân công nhặt nhạnh những cây còn sót lại. Tuy nhiên, trong câu chuyện với bà, nỗi bận tâm không phải là mất mùa mà là mất giá. Hiện nay, một số người dân bán tháo để có tiền trả công nhưng bán rồi vẫn chưa thấy tiền đâu, có nhà bán cả tháng trời vẫn chưa lấy được nợ.

Cách đó không xa, gia đình ông Nguyễn Lưu Chính cũng đang thu hoạch 6 sào tỏi. Tuy sản lượng khá hơn các hộ trong thôn nhưng giá xuống quá thấp mà không có người mua nên hơn 2 tấn tỏi đã nhổ vẫn còn nằm phơi ngoài ruộng. Thời điểm này năm trước, tỏi thu hoạch tới đâu, thương lái thu mua hết đến đó; còn năm nay giá rẻ mà rất ít người hỏi mua. “Gia đình tôi tính phơi khô chờ được giá mới bán nhưng việc bảo quản tốn công, làm không khéo tỏi sẽ bị tóp. Tuy nhiên, với tình hình dịch bệnh Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp, đầu ra của tỏi khô sau này cũng chưa biết thế nào!”, ông Chính nói.

Tỏi và hành thu hoạch nhưng chưa có người mua.

Xã Ninh Phước cũng là địa phương có diện tích trồng hành, tỏi lớn của thị xã. Ngang qua cánh đồng trồng hành tím, tỏi đã hơn 11 giờ trưa nhưng những nông dân vẫn đang cần mẫn thu hoạch. Còn nhớ, tầm này năm ngoái, khi rảo bước trên cánh đồng này vào vụ thu hoạch, chúng tôi thường bắt gặp những nụ cười tươi rói của người dân, cảnh thương lái thu mua nhộn nhịp. Còn bây giờ, chỉ nghe tiếng thở dài của người trồng hành, tỏi.

Dồn lại đống hành vừa mới cắt, ông Lê Văn Hồng - thôn Ninh Tịnh, xã Ninh Phước cho biết, vụ này, ông hùn vốn với 2 người trong thôn trồng 4,5 sào hành, thu được khoảng 6 tấn nhưng vẫn đang phơi nắng, chưa có người mua. Vừa qua, có thương lái hỏi mua với giá 6.000 đồng/kg, giảm 2/3 giá so với năm ngoái. Với giá ấy, 6 tấn hành bán ra thu được 36 triệu đồng; trong khi đó, chi phí đầu tư hơn 80.000 triệu đồng. “Xong vụ này, tôi tạm nghỉ vài vụ rồi tính tiếp, chứ tiền nợ mua phân bón còn chưa trả… Hơn 20 năm trồng hành, tỏi, chúng tôi mệt mỏi nhất là chuyện đầu ra. Nông dân làm ra sản phẩm nhưng giá do thương lái quyết định. Mùa hành lá (mùa mưa) thì họ đòi củ to mới mua, khi mùa hành củ (mùa nắng) lại đòi lá đẹp. Họ luôn có cớ để ép giá người trồng”, ông Hồng nói.

Năm nay, gia đình ông Phạm Đức Nhã - thôn Ninh Tịnh trồng 1ha tỏi. Gia đình ông đã thu hoạch hơn 2 sào, năng suất khoảng 9 tạ/sào nhưng vẫn chưa bán được. Năm ngoái, thương lái tới tận ruộng thu mua với giá 27.000 - 29.000 đồng/kg tỏi tươi nhưng hiện nay chỉ 14.000 - 16.000 đồng/kg.

Niên vụ 2020 - 2021, tổng diện tích trồng hành, tỏi trên địa bàn thị xã Ninh Hòa 227ha (trong đó, 63ha hành); tập trung chủ yếu ở các xã: Ninh Phước, Ninh Thọ, Ninh Sơn, Ninh An và một ít ở xã Ninh Xuân. Sản lượng thu hoạch ước đạt khoảng 1.700 tấn tỏi, 650 tấn hành. Đến thời điểm này, toàn thị xã thu hoạch ước được 150ha, năng suất bình quân đạt 10 - 12 tấn/ha.

Lo giải cứu

Theo tìm hiểu của chúng tôi, nguyên nhân giá hành, tỏi xuống thấp do chủ yếu tiêu thụ trong nước nhưng thời gian qua, ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 khiến nhu cầu tiêu thụ giảm mạnh; mặt khác, nhiều địa phương trong cả nước đều được mùa hành, tỏi nên thị trường tiêu thụ bị phân tán. Trong khi đó, đầu ra hành, tỏi của Ninh Hòa phụ thuộc hoàn toàn vào thương lái, lại chưa có thương hiệu nên bị ép giá. Ông Nguyễn Trọng Hiếu - Chủ tịch Hội Nông dân xã Ninh Phước chia sẻ: “Hiện nay, tỏi Lý Sơn vẫn có giá 40.000 - 50.000 đồng/kg, còn tỏi Ninh Phước giá chưa bằng một nửa. Trong khi đó, số lượng, chất lượng tỏi Ninh Phước không thua kém tỏi Lý Sơn. Do đó, người dân và chính quyền các xã trồng tỏi kiến nghị các sở, ngành của tỉnh, thị xã sớm triển khai xây dựng thương hiệu cho cây tỏi Ninh Hòa. Chúng tôi tin rằng, khi tỏi Ninh Hòa có thương hiệu, sẽ được nhiều người biết đến, đầu ra ổn định hơn, hạn chế tư thương ép giá”.

Người dân xã Ninh Phước thu hoạch hành.

Trao đổi về vấn đề này, ông Trương Thanh Hòa - Chủ tịch Hội Nông dân thị xã Ninh Hòa cho biết, thị xã đang phối hợp với các sở, ngành liên quan triển khai xây dựng thương hiệu tỏi Ninh Hòa. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện gặp một số khó khăn, vướng mắc nên đang trong quá trình xử lý. Trước mắt, để góp phần giúp nông dân trồng hành, tỏi thu hồi một phần vốn chi trả công thu hoạch, các cơ sở hội trên địa bàn thị xã đã tổ chức 4 địa điểm giải cứu, gồm: Ninh Sim, Ninh Phụng, Ninh Xuân, Ninh Hiệp với giá niêm yết 10.000 đồng/kg hành, 20.000 đồng/kg tỏi. Sau 3 ngày, hội đã tiêu thụ được 7 tấn hành, tỏi tươi cho người dân. Theo kế hoạch, chương trình kéo dài đến ngày 20-3 nhưng trong quá trình triển khai gặp nhiều khó khăn nên ngày 17-3 hội đã tạm dừng việc giải cứu. Sắp tới, hội sẽ phối hợp với địa phương tổ chức họp dân để có phương án giải cứu hành, tỏi phù hợp, hiệu quả hơn.

Nhờ sự vào cuộc kịp thời của các cấp hội nông dân trên địa bàn thị xã nên tình hình khả quan hơn. Sáng 17-3, thông tin từ một số địa phương cho biết, thương lái đã tăng giá thu mua tỏi lên 18.000 đồng/kg, hành 9.000 đồng/kg. Tuy nhiên, sản lượng hành, tỏi trong dân vẫn còn nhiều. Vì vậy, Hội Nông dân thị xã kiến nghị Hội Nông dân tỉnh tiếp tục có giải pháp hỗ trợ nông dân tiêu thụ nông sản. Cùng với việc giải cứu nông sản, về lâu dài, Hội Nông dân thị xã sẽ tiếp tục tuyên truyền, xây dựng kế hoạch vận động người dân hình thành các mô hình liên kết sản xuất hành, tỏi; từ đó định hướng cho bà con sản xuất theo hướng an toàn, nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời, tăng cường mở rộng thị trường thông qua việc tham gia các hội nghị, hội chợ nhằm gắn kết giữa người tiêu dùng và người sản xuất để giảm phụ thuộc hoàn toàn đầu ra vào thương lái như hiện nay.

CẨM VÂN

Trồng bắp ‘né’ hạn: Hiệu quả vượt trội

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai

Cánh đồng xã Lang Minh là vùng trũng của H.Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai). Trước đây, người dân thường trồng 2-3 vụ lúa/năm, nhưng năng suất vụ đông - xuân không cao do thường xuyên thiếu nước.

Nông dân xã Lang Minh, H.Xuân Lộc thu hoạch bắp vụ đông - xuân

Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng để ứng phó với biến đổi khí hậu, mô hình trồng lúa bắp kết hợp được hình thành và đem lại hiệu quả vượt trội với thu nhập lên đến 200 triệu đồng/ha/năm.

Thành công nhờ chuyển đổi cây trồng

Những ngày này, bà con nông dân xã Lang Minh đang bước vào vụ thu hoạch đông - xuân. Đây là vụ bắp lớn nhất trong năm với diện tích lên đến hơn 700ha. Năm nay, bắp trúng mùa, trúng giá nên ai nấy đều phấn khởi.

Ông Nông Văn Quý, ấp Đông Minh, người gắn bó với cánh đồng này hơn 30 năm cho biết, trung bình 1ha bắp cho 10-12 tấn hạt/vụ. Nếu trồng được 2 vụ bắp, thu nhập bình quân khoảng 160-180 triệu đồng, cộng thêm 1 vụ lúa khoảng 30 triệu đồng nữa, trừ công và các chi phí đầu vào còn lời khoảng 160 triệu đồng. Trong khi trước đây trồng lúa đơn thuần, năng suất tối đa chỉ đạt khoảng 6 tấn/vụ/ha. Nếu trồng được 2 vụ thuận lợi, thu nhập khoảng 80 triệu đồng/năm. Có năm, nông dân không thể xuống giống hoặc có xuống giống nhưng không được thu hoạch lúa vì thiếu nước.

“Trồng bắp có lợi hơn nhiều so với trồng lúa, không chỉ tiết kiệm được công chăm bón, chi phí thuốc trừ sâu mà còn né được tình trạng khô hạn vụ đông - xuân. Tuy nhiên, tôi không trồng bắp hoàn toàn mà duy trì 2 vụ bắp 1 vụ lúa vì mùa mưa ngập nước, trồng bắp không hiệu quả. Việc luân phiên cây trồng cũng góp phần cải tạo đất, tăng năng suất cho vụ sau” - ông Quý nói.

Ông Nguyễn Văn Thái, ấp Tân Bình nhớ lại, lúc mới thực hiện chuyển đổi từ cây lúa sang cây bắp để tránh hạn, ai cũng lo lắng. Vụ đầu tiên, cả xã trồng được khoảng 100ha bắp nhưng không liền ruộng, chủ yếu đất ruộng của đảng viên, những người làm công tác xã hội ở xã, ấp. Đến kỳ thu hoạch, năng suất bắp bình quân đạt 9-10 tạ/sào, tính ra lợi hơn lúa. Thế là mô hình 2 vụ lúa 1 vụ bắp/năm, rồi 2 vụ bắp 1 vụ lúa/năm ra đời, kinh tế gia đình ông dần dần khá lên.

Ông Lại Quốc Tặng, Phó chủ tịch UBND xã Lang Minh cho biết, vụ đông - xuân năm nay, nhờ lượng nước từ đập dâng Lang Minh và đập dâng hồ Gia Măng mới đi vào hoạt động năm 2020 nên không xảy ra tình trạng thiếu nước sản xuất như những năm trước. Diện tích gieo trồng cây ngắn ngày toàn xã đạt 730/730ha, trong đó cây bắp chiếm hơn 710ha. Khoảng 50% diện tích trồng bắp bán cây cho các trang trại, HTX làm thức ăn cho gia súc, 50% còn lại trồng bắp lấy hạt bán cho Công ty TNHH TMDV Sản xuất chăn nuôi Thanh Đức, một số doanh nghiệp chăn nuôi gia cầm trên địa bàn, các thương lái trong và ngoài huyện.

Cũng theo ông Tặng, trước đây khi còn sản xuất 2-3 vụ lúa/năm nông dân chủ yếu lấy công làm lời, lợi nhuận không đáng kể. Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng để phòng và chống hạn, mô hình 2 vụ lúa 1 vụ bắp, 2 vụ bắp 1 vụ lúa, thậm chí 3-4 vụ bắp được hình thành và đem lại hiệu quả kinh tế vượt trội. Xã đã thành lập CLB Năng suất bắp cao, Tổ Điều phối thủy lợi. Hằng năm, xã đều có kế hoạch gieo trồng, kế hoạch lấy nước và thông tin cụ thể đến bà con nông dân lịch xuống giống đồng loạt.

Giữ vùng chuyên canh lúa, bắp

Nông dân xã Lang Minh, H.Xuân Lộc thu hoạch bắp vụ đông - xuân

Mặc dù cây bắp đã và đang đem lại hiệu quả thấy rõ, tuy nhiên, tại cánh đồng Lang Minh mỗi năm vẫn có hàng ngàn ha lúa được trồng ở vụ hè - thu (khoảng 400ha) và xen bắp ở các vụ khác trong năm.

Ông Trần Sơn Kim, Chủ tịch UBND xã Lang Minh cho rằng, cây bắp vừa có hiệu quả kinh tế vừa góp phần tiết kiệm nước tưới lại có đầu ra ổn định, tuy nhiên, vì cánh đồng Lang Minh nằm trong vùng quy hoạch trồng lúa nước (bảo vệ nghiêm ngặt, hạn chế chuyển đổi) của tỉnh nên khoảng 400ha vẫn được luân phiên trồng lúa. Xã khuyến cáo người dân trồng các giống lúa có năng suất vào vụ hè - thu vì mùa này mưa nhiều, nước từ các nơi dồn về cánh đồng, không thích hợp trồng các loại cây khác. Một số vùng trũng nông dân vẫn duy trì trồng 2-3 vụ lúa/năm để giữ đất lúa và góp phần đảm bảo an ninh lương thực.

Theo ông Kim, hiện hệ thống tưới, tiêu nước trên cánh đồng Lang Minh cơ bản ổn định. Để giữ vùng quy hoạch đất lúa, xã chỉ cho phép chuyển đổi sang trồng 3-4 vụ bắp/năm hoặc hoa màu (cây ngắn ngày) đối với diện tích đất nền cao, nguồn nước thủy lợi chưa phủ đến và diện tích trồng lúa không hiệu quả. Không cho trồng cây ăn quả, cây lâu năm trên đất lúa.

Chia sẻ thêm về mô hình lúa bắp, ông Kim cho rằng, cây lúa hiệu quả kinh tế thấp hơn nhưng phù hợp với đặc điểm cánh đồng của xã. Cây bắp tuy có hiệu quả kinh tế hơn, nhưng đầu ra chưa bền. “Hiện tại, bắp thu hoạch đến đâu HTX và thương lái địa phương mua đến đó, tuy nhiên giữa người mua và người bán không có bất kỳ hợp đồng, cam kết nào. Giá cả bấp bênh và phụ thuộc hoàn toàn vào thương lái. Tới đây, xã sẽ thành lập chuỗi liên kết cây bắp để người nông dân yên tâm sản xuất. Điều này cũng phù hợp với xu hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn sản xuất với tiêu thụ” - ông Kim cho hay.

Ông Nông Văn Quý, ấp Đông Minh chia sẻ, trăn trở lớn nhất của nông dân hiện nay là đầu ra cho nông sản. “Lúc trước tôi bán bắp cho một thương lái địa phương. Họ tự thu hoạch, tự chở bắp đi cân và đưa biên lai về. Một lần, tôi đề nghị đi theo xe đến điểm cân để kiểm tra, họ ngưng không mua bắp nữa. Nếu có đơn vị đứng ra bao tiêu đầu ra với mức giá ổn định, mua bán minh bạch thì quá tốt” - ông Quý cho hay.

Box: Vụ đông - xuân 2021, xã Lang Minh trồng hơn 700ha bắp. Nhờ thời tiết thuận lợi, hệ thống thủy lợi đảm bảo, năng suất bắp đạt 60-70 tấn/ha (loại trồng lấy cây) và 10-12 tấn/ha (đối với bắp lấy hạt). Sản phẩm đang được bán cho các trang trại chăn nuôi, thương lái với giá bán bình quân 950 ngàn đồng/tấn bắp cây và 7,5 triệu đồng/tấn bắp, sau khi trừ chi phí nông dân thu lời 40-60 triệu đồng/vụ, gấp 2-2,5 lần so với trồng lúa.

Phan Anh

‘Nút thắt’ chi phí Logistics của nông nghiệp

Nguồn tin:  VOV

Phát triển ngành dịch vụ logistics (các dịch vụ kho bãi và giao nhận hàng hóa) trong chế biến và tiêu thụ nông sản sẽ giúp các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam nâng cao giá trị.

Logistics phát triển góp phần khắc phục hạn chế của ngành nông nghiệp, nâng cao chất lượng hàng hóa và giảm đáng kể tổn thất sau thu hoạch. Như vậy, ngoài chú trọng đầu tư hạ tầng, thì các giải pháp để giảm chi phí logistics trong chuỗi giá trị nông nghiệp cũng là vấn đề cần được quan tâm.

Hợp tác xã SunFood, thành phố Đà Lạt chuyên sản xuất và kinh doanh các loại rau củ quả cung cấp cho thị trường nội tỉnh, thành phố Hà Nội, miền Trung và TPHCM. Anh Phạm Ngọc Thạch, Giám đốc Hợp tác xã SunFood, thành phố Đà Lạt cho biết khâu bảo quản sau thu hoạch và logistics vẫn đang là cản trở lớn nhất trong việc nâng cao giá trị nông sản tại hợp tác xã.

“Với rau, sáng là vàng, chiều là rác, tuổi thọ rất thấp. Vấn đề thứ hai, vận chuyển đi các khu vực, họ không làm đúng được với yêu cầu. Rau mà ra Hà Nội nếu đi bằng máy bay chi phí đến 14.000/kg. Rất cao. Đây là hai nút thắt lớn nhất” - anh Phạm Ngọc Thạch nói.

Logistics của nông nghiệp vẫn yếu và thiếu. (Ảnh: KT)

Về những trăn trở này của các hợp tác xã trên địa bàn, ông Nguyễn Văn Sơn, Phó chủ tịch UBND thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng cho biết: “Không thể có một hợp tác xã nào, doanh nghiệp nào vừa sản xuất, đầu ra, bảo quản, vận chuyển đến các địa điểm. Như thế sẽ phân tán nguồn lực và cũng không phải chuyên môn của từng hợp tác xã, doanh nghiệp như vậy. Cần kêu gọi đầu tư cho bảo quản, chế biến và tiêu thụ, như vậy sẽ không chỉ tiêu thụ được ở thị trường trong nước mà còn là quốc tế”.

Theo thông tin từ Bộ NN&PTNT, hiện chuỗi cung ứng lạnh còn thiếu và yếu, các thiết bị đầu tư của các doanh nghiệp logistics thiếu đồng bộ; thiếu kho bãi tại vùng sản xuất, cửa khẩu và ùn tắc giao thông cũng khiến chi phí logistics của Việt Nam còn cao. Đơn cử như ngành thủy sản, chi phí logistics chiếm hơn 12%; đồ gỗ chiếm 23%; rau quả gần 30% và ngành gạo chiếm đến hơn 30% trong giá thành.

Ông Nguyễn Thế Bảo, Giám đốc Hợp tác xã xoài Suối Lớn, tỉnh Đồng Nai nêu thực trạng: “Xuất khẩu số lượng như hiện nay là chưa đạt. Xuất khẩu đi hàng chục nước trên thế giới, tuy nhiên chỉ đi bằng máy bay thôi, mà đi bằng máy bay thì tiền cước vận chuyển cũng lấy hết tiền của doanh nghiệp, nông dân. Chỉ đi bằng tàu biển được thì giá thành rẻ hơn gấp hàng chục lần so với cước phí hàng không”.

Cùng với các dịch vụ logistics, khi hạ tầng giao thông được nâng cấp và xây mới, thì thời gian vận chuyển nông sản sẽ được rút ngắn đáng kể, tạo điều kiện lưu thông thuận lợi cho trên 130 triệu tấn nông sản/năm trong cả nước và hàng chục triệu tấn sản phẩm nông sản được xuất khẩu đi khắp thế giới./.

Phương Chi/VOV1

Chăn nuôi an toàn sinh học, tăng sức đề kháng cho đàn gia cầm

Nguồn tin: Báo Vĩnh Phúc

Trước tình hình dịch cúm gia cầm đang có nguy cơ bùng phát, chăn nuôi an toàn sinh học được cho là giải pháp tối ưu, không chỉ giúp các hộ chăn nuôi phòng chống dịch bệnh, nâng cao chất lượng nông sản, dễ dàng tìm kiếm đầu ra mà còn tích cực góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Mô hình nuôi gà thịt thương phẩm của kỹ sư Tạ Hùng Đậu phát triển tốt nhờ sử dụng thức ăn sinh học thảo dược. Ảnh: Trường Khanh

Chúng tôi về thăm trang trại chăn nuôi gia súc gia cầm ở phường Phúc Thắng (Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc) của kỹ sư Tạ Hùng Đậu, người vừa được tôn vinh “Nhà khoa học của nhà nông” tại chương trình do Trung ương Hội nông dân Việt Nam phối hợp với Bộ NN&PTNT, Bộ KH&CN, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam tổ chức.

Biết đến anh từ thành công với mô hình nuôi lợn bằng thức ăn chăn nuôi an toàn sinh học được Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam cấp bằng Độc quyền giải pháp hữu ích, cho đến nay, anh đang tiếp tục nghiên cứu ứng dụng và hoàn thiện sản phẩm thức ăn sinh học thảo dược cho gà thịt thương phẩm.

Theo kỹ sư Tạ Hùng Đậu, nhu cầu sử dụng các sản phẩm sạch của thị trường ngày càng cao, hơn nữa, trước tình hình dịch bệnh trên đàn gia súc gia cầm luôn rình rập nguy cơ bùng phát, thì việc áp dụng an toàn sinh học là xu hướng tất yếu của ngành chăn nuôi.

Thức ăn sinh học thảo dược anh nghiên cứu hiện có giá thành tương đương hoặc cao hơn không đáng kể so với các loại thức ăn công nghiệp đang phổ biến trên thị trường.

Về chất lượng, qua thử nghiệm cho thấy, gà sử dụng thức ăn sinh học thảo dược cho thịt chắc và ngon hơn so với gà nuôi bằng thức ăn thông thường, từ đó có thể nâng cao giá bán khoảng 15% - 20%.

Mặt khác, thành phần thảo dược làm thức ăn cho gà có thể trồng trên đất đồi, nghèo dinh dưỡng, giúp gia tăng nguồn thu cho người dân vùng đồi núi.

Hiện nay, trang trại của anh Đậu đang nuôi thử nghiệm gần 1.400 gà thịt thương phẩm bằng thức ăn sinh học thảo dược, bước đầu cho thấy, đàn gà sinh trưởng và phát triển tốt; ngoài ra, qua đối chứng, việc nuôi gà bằng thức ăn thảo dược sinh học giúp giảm mùi hôi chăn nuôi đến 40% so với thông thường.

Dự kiến đến tháng 8/2021, dự án Ứng dụng và hoàn thiện sản phẩm thức ăn sinh học thảo dược cho gà thịt thương phẩm của anh Đậu có thể nghiệm thu.

Cũng như thức ăn chăn nuôi thảo dược cho lợn, nếu thành công, quy trình sản xuất thức ăn sinh học thảo dược cho gà sẽ sớm được chuyển giao công nghệ ra thị trường trong thời gian tới.

Hiện nay, mô hình nuôi gà thịt thả vườn theo hướng an toàn sinh học cũng được nhiều hộ chăn nuôi gia cầm áp dụng.

Chị Phạm Thị Thu, xã Hoàng Hoa, huyện Tam Dương- chủ trang trại chăn nuôi với gần 5.000 gà ta lai thả vườn, cung ứng ra thị trường hơn 20 tấn gà thương phẩm mỗi năm- cho biết: "Để có đầu ra ổn định, chất lượng nông sản phải đặt lên hàng đầu.

Bên cạnh việc chọn giống gà tốt, chăn nuôi an toàn sinh học giúp đàn gà tăng sức đề kháng, cho chất lượng thịt ngon hơn, bán được giá, lại góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

Ngoài việc thường xuyên vệ sinh, phun khử trùng, tiêu độc chuồng trại và môi trường xung quanh, tôi còn sử dụng men vi sinh trộn với trấu làm đệm lót sinh học khử mùi hôi trong chuồng gà. Ngoài ra, men vi sinh cũng được bổ sung vào thức ăn và nước uống cho đàn gà".

Theo số liệu thống kê, từ năm 2013 đến nay, tỉnh đã hỗ trợ làm đệm lót sinh học cho hơn 7.500 hộ nuôi gà trên địa bàn.

Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và thú y Lê Xuân Công cho biết: Dịch cúm gia cầm đang có diễn biến phức tạp, từ đầu năm đến nay, cả nước đã xảy ra 40 ổ dịch, buộc tiêu hủy hơn 100.000 con gia cầm; trên địa bàn tỉnh, dịch cúm gia cầm đã xuất hiện tại 7 huyện, thành phố, dẫn đến nguy cơ lây lan và xảy ra trên diện rộng.

Trước tình hình đó, UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở NN&PTNT phối hợp với các sở, ngành, địa phương triển khai các biện pháp phòng chống dịch cho đàn gia cầm, trong đó có việc hướng dẫn người dân áp dụng nghiêm các biện pháp kỹ thuật trong chăn nuôi an toàn sinh học; thường xuyên vệ sinh, phun khử trùng, tiêu độc nhằm tiêu diệt mầm bệnh.

Trên thực tế, để giải bài toán đưa ngành chăn nuôi phát triển bền vững, ngoài chất lượng con giống, vấn đề then chốt là đảm bảo các yếu tố về môi trường và quản lý dịch bệnh.

Do vậy, thời gian qua, bên cạnh các cơ chế, chính sách trong việc hỗ trợ người dân phát triển chăn nuôi tập trung theo hướng trang trại, gia trại, tỉnh còn tích cực chỉ đạo đơn vị chuyên môn phối hợp với các địa phương hướng dẫn, khuyến khích người dân chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học, từng bước hình thành vùng chăn nuôi an toàn sinh học quy mô lớn.

Đây được xem là tiền đề để ngành chăn nuôi tỉnh sớm hình thành thương hiệu, mở rộng thị trường, đáp ứng sức mua trong nước và phục vụ thị trường xuất khẩu trong tương lai.

Hoàng Sơn

Làm giàu từ con nhím

Nguồn tin: Báo Phú Thọ

Thức ăn cho nhím chủ yếu là bí đỏ

Nhím dễ nuôi, ít dịch bệnh, kháng bệnh tốt, yêu cầu chăm sóc đơn giản... Nhận thấy được những ưu điểm đó, gia đình anh Nguyễn Tiến Dũng ở khu 2, xã Gia Điền, huyện Hạ Hòa (tỉnh Phú Thọ) đã mạnh dạn đầu tư chuồng trại nuôi nhím thương phẩm cho hiệu quả kinh tế cao.

Sau khi xuất ngũ, anh Dũng làm ruộng và kinh doanh nhỏ. Đến năm 2008, anh bắt đầu nuôi nhím để nâng cao đời sống kinh tế. Tại thời điểm đó, đây là hướng đi mới ở miền quê thuần nông này. Sau những tìm tòi, học hỏi các mô hình nuôi nhím ở Sơn La, Yên Bái... anh Dũng đã mạnh dạn nuôi và nhân giống thành công số nhím trong trại của mình. Hiện nay, trại nhím của anh rộng hơn 60m2 với 120 con nhím, trong đó 70 con là nhím trưởng thành.

Một trong những ưu điểm lớn nhất của việc nuôi nhím là việc xây chuồng trại đơn giản, chiếm ít diện tích, chỉ cần phân các ô, xây bằng xi măng kiên cố và không ảnh hưởng nhiều đến vệ sinh môi trường như chăn nuôi gia súc, gia cầm. Sau khoảng 1 năm, nhím cái bắt đầu sinh sản, bước sang năm thứ 2 nhím đẻ dày hơn, khoảng 2 năm, nhím cái sẽ đẻ 5 lần. Nếu giống tốt, chăm sóc đầy đủ thì mỗi lần nhím đẻ từ 1-3 con, sau 3 tháng có thể cho xuất chuồng. Nhím trưởng thành đạt trọng lượng từ 8-10kg/con, nhím giống đạt trọng lượng khoảng 2kg là có thể xuất bán ra thị trường. Gia đình anh Dũng bán nhím theo đôi, 1 đôi nhím giống có giá khoảng 3 triệu đồng/đôi, 1 đôi nhím trưởng thành có giá từ 9-10 triệu đồng/đôi. Thịt nhím nạc, ít mỡ, rất thơm ngon nên đầu ra thuận lợi, thu hút được nhiều thương lái từ Lào Cai, Yên Bái... đến tận nơi thu mua. Trung bình gia đình anh thu được từ 100-120 triệu đồng/năm từ nuôi nhím.

Trại nhím của gia đình anh Dũng được xây dựng kiên cố, vệ sinh sạch sẽ

Anh Dũng chia sẻ: “Khi mới nuôi nhím tôi gặp khá nhiều khó khăn vì chưa có nhiều kiến thức về chăm sóc nhím, chưa hiểu về tập quán sinh hoạt của chúng nên tôi chỉ nuôi theo những hiểu biết riêng của mình. Sau khi tìm hiểu qua sách báo, Internet và trong quá trình nuôi, tôi nhận thấy nhím là loài vật dễ nuôi, ăn tạp, thức ăn dễ kiếm, chủ yếu là rau, củ, quả xanh, ngô, bí đỏ... Vốn là động vật hoang dã, chúng có sức đề kháng cao nên ít bị bệnh, tuy nhiên cần hết sức cẩn trọng khi nhím trong giai đoạn sinh sản. Bên cạnh đó, cần chú ý cho nhím ăn đầy đủ thức ăn 1 ngày 3 bữa. Về chuồng trại cần giữ vệ sinh tốt, thông thoáng, thường xuyên quét dọn để đảm bảo vệ sinh, tạo điều kiện cho nhím lớn nhanh, khỏe mạnh cũng như khử những mùi khó chịu, giúp bảo vệ môi trường”.

Anh Dũng cũng sẵn sàng hướng dẫn kỹ thuật nuôi nhím và cung cấp con giống cho những ai có nhu cầu.

Hà Trang

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop