Tin nông nghiệp ngày 23 tháng 05 năm 2020

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 23 tháng 05 năm 2020

Làm giàu từ cây có múi

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Sau nhiều năm thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ cây có hiệu quả kinh tế thấp sang cây có múi cho sản lượng, giá trị kinh tế cao, trên địa bàn tỉnh Bình Dương đã xuất hiện nhiều mô hình hợp tác xã (HTX), cá nhân làm giàu từ chính mảnh đất trước đây trồng cao su, khoai mì; nếu trước đây thu nhập chỉ ở mức vài chục triệu đồng/ha/năm, nay đã tăng lên hơn 1 tỷ đồng/ha/năm.

Ông Trần Thành Có, Chủ nhiệm HTX Chăn nuôi và trồng trọt Nhân Đức, bên vườn cam ở xã Hiếu Liêm, huyện Bắc Tân Uyên, Bình Dương

Thu nhập cao

Chúng tôi ghé thăm vườn bưởi trĩu quả của anh Lê Minh Sang (39 tuổi, ngụ xã Tân Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) đúng vào dịp thu hoạch bưởi bán cho các siêu thị và xuất sang Trung Quốc. Anh cho biết: “Gia đình có khoảng 10ha đất nông nghiệp, trước đây chủ yếu trồng các giống cây ngắn ngày, doanh thu trên mỗi hécta khoảng 40 triệu đồng/năm, sau khi trừ chi phí đầu tư, thuê mướn nhân công thì thu nhập rất thấp. Từ năm 2015, huyện thành lập HTX Tân Mỹ và gia đình tôi tham gia đầu tiên, sau đó có thêm 20 thành viên khác, nâng tổng diện tích canh tác của HTX lên 61ha với cây trồng chính là bưởi da xanh. Tính trung bình mỗi hécta cho thu hoạch khoảng 40 tấn bưởi/năm, với giá bán hiện tại là 30.000 đồng/kg thì doanh thu mỗi năm đạt khoảng 1,2 tỷ đồng, trong đó chi phí sản xuất là khoảng 200 triệu đồng/ha”.

Ông Lâm Thành Thương có vườn cam thuộc diện lớn nhất tỉnh Bình Dương với hơn 120ha cho lợi nhuận hàng chục tỷ đồng chia sẻ về cách trồng cam cho năng suất cao, ông Thương bộc bạch: “Vùng đất này màu mỡ và thoáng khí, có cao độ tốt, dễ áp dụng phương pháp dùng tấm bạt ni lông phủ lên những liếp cam, tạo khô hạn tạm thời, rồi tưới nước giúp cây ra hoa, kết trái nghịch mùa. Nhờ vậy, nông dân chủ động cho trái bất kỳ thời điểm nào trong năm nên bán được giá cao, không sợ được mùa mất giá”.

Để có được thành quả trên, các hộ dân, hội viên HTX đã vượt qua những khó khăn ban đầu về nguồn vốn và kỹ thuật nhân giống, chăm sóc. Từ chủ trương phát triển nông nghiệp công nghệ cao, tỉnh Bình Dương đã hỗ trợ cho vay tối đa cho mỗi HTX là 7,5 tỷ đồng và mỗi cá nhân là 850 triệu đồng, lãi suất 0,43%/năm giúp các hộ dân mạnh dạn chuyển đổi cây trồng, học cách chăm sóc theo hướng dẫn của kỹ sư trồng trọt, hình thành những vườn bưởi, cam liền khoảnh rộng lớn, xanh tốt. Điển hình như HTX Tân Mỹ hiện nay đã có 17ha bưởi cho thu hoạch đều, doanh thu đạt mức 20 tỷ đồng/năm và sau 5 năm tham gia HTX trồng bưởi, các thành viên đã trả xong khoản vay ngân hàng, có gia đình đã đầu tư mua thêm đất canh tác, sửa sang nhà cửa, mua được xe tải và ô tô.

Gắn với du lịch sinh thái

Từ nhiều năm trước, UBND tỉnh Bình Dương đã chủ trương phát triển nông nghiệp công nghệ cao, áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất với quy trình khép kín, trong đó đặc biệt chú trọng phát triển cây ăn quả, nhất là cây có múi. Diện tích cây ăn trái có múi như cam, bưởi da xanh, quýt và chanh dây không hạt trên địa bàn tỉnh liên tục tăng, hình thành nên những vùng sản xuất tập trung tại các huyện Bắc Tân Uyên, thị xã Tân Uyên, Bàu Bàng, Phú Giáo, Dầu Tiếng. Báo cáo của Sở NN-PTNT tỉnh Bình Dương cho thấy, diện tích cây có múi trên địa bàn tỉnh hiện là gần 3.900ha, chiếm 54,9% diện tích cây ăn quả toàn tỉnh, tăng 3,6% so với năm 2019; sản lượng ước đạt gần 38.000 tấn, tăng 11,7% so với năm 2019. Huyện Bắc Tân Uyên là vùng trồng cây có múi chủ lực (chiếm 62%) và có lợi nhuận cao nhất, từ 800 triệu đến hơn 1 tỷ đồng/ha/năm với nhiều thương hiệu trái cây nổi tiếng như: cam Bắc Tân Uyên, bưởi Bắc Tân Uyên, quýt Bắc Tân Uyên.

Tại những vùng được quy hoạch phát triển cây có múi theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, người dân được khuyến khích tiếp tục đầu tư, nhân rộng mô hình có sự hướng dẫn của Chi cục Trồng trọt bảo vệ thực vật tỉnh Bình Dương, thông qua các lớp tập huấn kỹ thuật canh tác, chăm sóc, giới thiệu địa chỉ cung cấp giống tin cậy, có chứng nhận đạt chuẩn và theo hướng đẩy mạnh việc sản xuất theo chuỗi có sự gắn kết từ sản xuất đến tiêu thụ thông qua việc hình thành các tổ hợp tác, HTX, đặc biệt là các HTX kiểu mới với vai trò liên kết sản xuất đảm bảo truy nguyên nguồn gốc, kết nối các doanh nghiệp thu mua tiêu thụ sản phẩm, tăng niềm tin cho khách hàng, tăng sản lượng và giá trị xuất khẩu.

Hiện nay, cây ăn quả đã được Sở NN-PTNT Bình Dương quy hoạch là nhóm cây trồng ưu tiên phát triển theo hướng tăng diện tích, năng suất, sản lượng; hình thành các vùng sản xuất tập trung có ứng dụng công nghệ cao, suất đầu tư thấp, lợi nhuận cao và bền vững. Theo định hướng đến năm 2025, tỉnh sẽ tiếp tục phát triển tổng diện tích cây ăn quả lên khoảng 10.300ha, trong đó diện tích cây có múi khoảng 4.140ha; phát triển thành vùng chuyên canh cây ăn quả tại các huyện phía Bắc (Bắc Tân Uyên, Phú Giáo, Dầu Tiếng, Bàu Bàng…) và các vùng cây ăn quả đặc sản gắn với du lịch sinh thái ven sông Sài Gòn, sông Đồng Nai và sông Bé.

XUÂN TRUNG

Đổi đời nhờ trồng dâu

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Từ một nông dân nghèo, từng sống cảnh làm thuê với khoản tiền công ít ỏi, nhưng nhờ biết vượt khó nên anh Út Lầu (Nguyễn Văn Lầu), ở ấp Láng Hầm A, thị trấn Rạch Gòi, huyện Châu Thành A (tỉnh Hậu Giang), có được của dư, của để, nhờ biết chuyển đổi cây trồng đúng hướng.

Anh Lầu (bên phải) đang giới thiệu với khách tham quan giống dâu bòn bon trong vườn anh.

Tiếp tôi trong căn nhà khá khang trang, tiện nghi đầy đủ, anh Lầu cho biết căn nhà này được xây từ tiền dành dụm sau những mùa bán dâu trái hàng năm. Anh Lầu tâm sự rằng trước đây gia đình anh thuộc diện hộ nghèo trong xóm. Ruộng đất có đến chục công nhưng thuộc vùng đất trũng, làm gì cũng không đủ ăn. Thời điểm thập niên 90 của thế kỷ trước, để có tiền trang trải cuộc sống gia đình, sau vụ lúa, anh đi làm thuê cho chủ ghe trấu, với khoản tiền công vỏn vẹn 7.000-8.000 đồng/ngày, gia đình không thoát được cảnh nghèo.

Chán cảnh làm thuê, anh bàn với vợ lên liếp lập vườn trồng cây ăn trái. 10 công đất cấy lúa hàng năm, giờ đã là một màu xanh cây cam, cây bưởi. Niềm vui trúng mùa được giá của giống cây trồng này không được bao lâu thì cam tàn, bưởi héo vì bệnh vàng lá gân xanh tấn công, cây không còn khả năng phát triển. Trong khi còn chưa biết phải lựa chọn cây trồng gì cho phù hợp thì trong lần tham quan làng du lịch Mỹ Khánh, thuộc huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ, anh phát hiện khách du lịch đa phần tìm đến vườn dâu để thưởng ngoạn và mua trái để ăn. Rồi anh tự nghĩ “người ta trồng được thì mình cũng trồng được”, vậy là anh tìm đến trại giống cây trồng mua hơn 300 cây dâu với nhiều thứ giống khác nhau như dâu Hạ Châu, dâu bòn bon da vàng, dâu gia bảo, dâu đường… về trồng. Anh Lầu cho biết các giống này thường cho năng suất khoảng hơn 40 tấn/ha/vụ, riêng giống dâu Hạ Châu là một trong nhiều giống cây ăn trái đặc sản được nhiều nhà vườn ở thành phố Cần Thơ chọn lọc và nhân giống. Trước đây, dâu Hạ Châu còn có tên gọi là “dâu miền dưới” do giống dâu này có phẩm chất thơm, ngọt vượt trội hơn so các giống dâu khác. Giống dâu này có thể cho trái 3 vụ/năm, vụ nghịch trái chín vào tháng 5 âm lịch, vụ tiếp theo vào khoảng tháng 8 và vụ cuối thường chín vào tháng 11 âm lịch.

Dâu Hạ Châu thuộc loại cây đơn tính, cây đực và cây cái riêng biệt, điều kiện cơ bản đầu tiên để cây cho trái là có sự thụ phấn từ hoa của cây đực sang nhụy hoa cái. Cho nên khi trồng giống dâu này, nhà vườn phải trồng xen cây đực trong vườn, thông thường tỷ lệ giữa cây đực và cây cái được trồng là 100 cây dâu cái, xen 10 cây dâu đực, nếu cây dâu đực được trồng xen kẽ đều trong vườn thì tỷ lệ đậu trái mới cao. Tuy nhiên từ việc cho phấn, trồng xen cây dâu đực trong vườn dâu là một trở ngại cho nhà vườn, vì phải tốn ít nhất 10% diện tích đất vườn để trồng, nhưng cây dâu đực không hề cho trái, chúng vừa góp phần làm giảm năng suất trên diện tích, giảm thu nhập, lại tốn thêm công chăm sóc từ phía nhà vườn.

Với kinh nghiệm nhiều năm làm vườn, anh Lầu đã mày mò học hỏi, nghiên cứu cải tiến kỹ thuật giúp cây dâu cho trái sai mà không tốn thêm diện tích đất trồng cây dâu đực, theo phương pháp ghép cành dâu đực, cách nhau từ một đến hai cây, ghép một nhánh. Việc ghép nhánh bắt đầu khi cây dâu trồng được 2-3 năm, chọn một nhánh nhỏ cắt ngang, cách phần thân chính khoảng 10cm, khi nhánh được chọn cắt ra đọt mới, chọn một hoặc hai đọt tốt để lại làm cành ghép, còn lại loại bỏ. Khi đọt vừa già thì tiến hành ghép đọt dâu đực vào, nhánh dâu đực được ghép trên thân cây dâu cái sau này có nhiệm vụ thụ phấn cho cây dâu cái được ghép và các cây cái lân cận rất hiệu quả.

Anh Lầu cho rằng dâu Hạ Châu có điểm đặc biệt vượt trội hơn các loại dâu khác là khi chín thì đài hoa vẫn còn bám chặt, vỏ mỏng, ruột có màu trắng ngà đẹp mắt, vị ngọt thanh, thơm, chùm trái dài, mỗi trái có từ 3-4 múi và trông giống trái bòn bon. Dâu Hạ Châu trồng khoảng 4 năm thì bắt đầu ra trái, đạt năng suất từ 50-60kg/cây, cây 10 năm tuổi cho năng suất từ 90-100kg/cây và cũng có cây đạt năng suất từ 150-200kg/cây. Đây là loại cây trồng khá đặc biệt, càng lâu năm cây càng khỏe và cho trái càng nhiều, loại dâu này thường được người dân cho trái quanh năm. Ngoài tiêu thụ thị trường khách du lịch trong nước, trái dâu còn được thương lái thu mua xuất khẩu sang một số nước lân cận như Lào, Campuchia, Thái Lan... Tuy nhiên gần đây, để đa dạng hóa sản phẩm, nông dân lại chuyển sang trồng một giống dâu khác, có năng suất cao, đó là dâu bòn bon. Theo anh Lầu, giống dâu Hạ Châu thường hay bỏ vụ, ít trái nên thu hoạch kém và anh là người đầu tiên trồng ở khu vực này cách đây 6-7 năm. Dâu bòn bon là loại dâu ghép rất dễ chăm sóc, ít sâu bệnh, cây trồng khoảng 3 năm thì cho trái. Để tránh dội chợ, giá thấp, anh xử lý cho dâu ra trái sớm, thông thường cây cho trái vào khoảng tháng chạp, trái chín vào khoảng tháng 4 và chấm dứt mùa vụ cuối tháng 5 âm lịch.

Cây càng lâu năm trái càng sai, khác với dâu Hạ Châu trái dài, có màu vàng nhạt, vị ngọt, trái dâu bòn bon có hình dáng tròn, chín có màu vàng sậm, vị chua ngọt rất hấp dẫn. Thương lái đặt mua dâu bòn bon tại vườn với giá 8.000-12.000 đồng/kg, trừ các chi phí thì anh Lầu còn lợi nhuận khoảng 140-150 triệu đồng/vụ dâu. Anh Lầu thừa nhận, nhờ chuyển đổi giống cây trồng phù hợp nên những năm qua, không chỉ gia đình anh mà còn có nhiều hộ dân trồng dâu khác trong ấp có nguồn thu nhập khá, cuộc sống ngày càng ổn định.

Bài, ảnh: QUANG HẢI

Khánh Hòa: Xây dựng và quản lý nhãn hiệu tập thể Bưởi da xanh Khánh Vĩnh

Nguồn tin: Báo Khánh Hòa

Hội đồng Khoa học và Công nghệ tỉnh vừa nghiệm thu Dự án “Xây dựng và quản lý nhãn hiệu tập thể “Khánh Vĩnh” cho sản phẩm bưởi da xanh được trồng trên địa bàn huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa”. Dự án do cử nhân Lương Nguyễn Nhật Trường - Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Khánh Vĩnh và các cộng sự thực hiện từ tháng 7-2017 đến 7-2019.

Một vườn bưởi da xanh ở Khánh Vĩnh.

Tại buổi nghiệm thu, các thành viên Hội đồng Khoa học và Công nghệ tỉnh đánh giá, dự án đã đạt được các mục tiêu đăng ký xác lập quyền và xây dựng thành công hệ thống các văn bản, quy mô quản lý nhãn hiệu tập thể Bưởi da xanh Khánh Vĩnh... Ngoài ra, dự án cũng xác định được các tiêu chí cần thiết để quản lý và sử dụng nhãn hiệu tập thể; xây dựng hệ thống các quy trình, quy chế tổ chức, phối hợp của các cơ quan tham gia quản lý nhãn hiệu tập thể; quy trình canh tác và nhân giống bưởi da xanh; sử dụng và bảo vệ nhãn hiệu tập thể… Qua đó, góp phần kiểm soát hiệu quả hoạt động quy hoạch trồng, thu hoạch và xúc tiến thương mại cho sản phẩm bưởi da xanh tại Khánh Vĩnh nhằm khai thác, phát triển giá trị nhãn hiệu tập thể có chứa tên địa danh một cách có hiệu quả, nâng cao giá trị kinh tế - xã hội của sản phẩm…

Hiện nay, toàn huyện Khánh Vĩnh có khoảng 503ha bưởi da xanh; tập trung chủ yếu tại các xã: Khánh Hiệp, Sông Cầu, Khánh Phú, Khánh Đông, Khánh Nam.

KHÁNH HÀ

Ninh Hòa (Khánh Hòa): Năng suất mía giảm mạnh

Nguồn tin: Báo Khánh Hòa

Theo UBND thị xã Ninh Hòa (tỉnh Khánh Hòa), niên vụ mía 2019 - 2020 của thị xã tiếp tục gặp nhiều khó khăn. Tính đến hết tháng 4-2020, mía nguyên liệu đã thu hoạch được 8.200ha trong tổng số hơn 10.000ha. Năng suất bình quân đạt 25,1 tấn/ha, giảm 22 tấn/ha so với cùng kỳ. Chữ đường bình quân 10,7ccs. Giá thu mua mía dao động từ 845.000 - 865.000 đồng/tấn/10ccs. Năng suất mía giảm đáng kể do nắng hạn kéo dài làm cho cây mía còi cọc, kém phát triển, tình hình sâu bệnh ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây mía.

Về trồng trọt nói chung, tổng diện tích gieo trồng từ đầu năm đến nay đạt hơn 19.600ha, giảm 13% so với cùng kỳ. Nguyên nhân giảm chủ yếu do từ đầu vụ đến nay hầu như không có mưa, lượng nước dự trữ chỉ đủ phục vụ sản xuất cho một số vùng nhất định. Ngoài ra, do việc đầu tư, sản xuất mía không hiệu quả nên nông dân không tiếp tục tái đầu tư sau khi thu hoạch mía, ảnh hưởng đến diện tích cây hàng năm.

H.Đ

Phát triển cây mắc ca cần chú trọng về cây giống

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

Thời gian qua, giá mắc ca trên thị trường tăng cao, nên nhiều hộ dân trong tỉnh Đắk Nông đã tìm mua cây giống để trồng. Theo các chuyên gia nông nghiệp, quá trình phát triển cây mắc ca, ngoài điều kiện tự nhiên, kỹ thuật chăm sóc, việc chọn cây giống bảo đảm chất lượng là khâu rất quan trọng, quyết định thành công đối với loại cây trồng này.

Nguồn giống quyết định năng suất

Nói đến cây mắc ca ở Đắk Nông, nhiều người sẽ nhắc tới vùng trọng điểm Tuy Đức. Thế nhưng, thống kê của ngành Nông nghiệp cho thấy, ngoài huyện Tuy Đức (gần 900 ha-PV), ở huyện Đắk Song, Đắk Glong, thành phố Gia Nghĩa cũng có thêm một số diện tích cây mắc ca được trồng (hơn 100 ha-PV).

Đại diện Hiệp hội Mắc Ca Việt Nam và các doanh nghiệp tìm hiểu mô hình trồng cây mắc ca ở thành phố Gia Nghĩa

Đáng chú ý, ở thành phố Gia Nghĩa, nơi không được xem là vùng trồng cây mắc ca của tỉnh, có những gia đình đạt thu nhập khá từ cây trồng này. Gia đình bà Đinh Thị Mến, ở tổ dân phố 5, phường Nghĩa Trung, là một ví dụ. Gần 10 năm trước, gia đình bà Mến trồng 60 cây mắc ca xen với hồ tiêu và mít. Bà Mến cho rằng, tuy mắc ca ít, nhưng thu nhập lại cao. “Cả vườn cây mắc ca cho trái đều. Năm nay gia đình dự tính sẽ đạt 200 triệu đồng. Nếu so với cà phê, hồ tiêu, chăm sóc mắc ca khỏe hơn nhiều”, bà Mến phấn khởi cho biết.

Nói về cơ duyên trồng cây mắc ca, bà Mến cho biết, khi cây mắc ca chưa phát triển ở Đắk Nông, nhất là tại Gia Nghĩa, gia đình bà đã tìm hiểu và thử nghiệm trồng. Rút kinh nghiệm từ chăm sóc cây cà phê, hồ tiêu, gia đình bà luôn coi trọng khâu chọn cây giống.

“Thời điểm tôi trồng, giá giống cây mắc ca bán trôi nổi trên thị trường chỉ 50.000 đồng/cây. Tuy nhiên, gia đình vẫn tìm đến cơ sở uy tín để mua với giá 80.000 đồng/cây, chưa tính công vận chuyển”, bà Mến chia sẻ.

Theo bà Mến, qua thời gian trồng cho thấy, kỹ thuật chăm sóc cây mắc ca không khó. Thế nhưng, có không ít hộ luôn thắc mắc, cây này cho trái không đều. “Từ thực tế ở gia đình, tôi cho rằng, để cây mắc ca cho trái đều, ngoài chất đất, khí hậu, việc chọn cây giống là rất quan trọng. Nếu cây giống không bảo đảm chất lượng sẽ rất khó để mắc ca cho trái đều”, bà Mến khẳng định.

Mặc dù vườn cây phát triển đồng đều, nhưng theo ông Điểu B’lao, bon Bu P’răng 2, xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức thì có cây mắc ca cho trái nhiều, cây lại rất ít

Cũng trồng gần 2 ha mắc ca xen hồ tiêu và cà phê, tuy nhiên, theo ông Điểu B’lao, ở bon Bu P’răng 2, xã Quảng Trực (Tuy Đức), vườn cây của gia đình trái không đều. Mặc dù vườn cây mắc ca tốt, cành tán đều, nhưng có cây cho nhiều trái, cây ít, hoặc không có. Với kinh nghiệm gần 10 năm gắn bó với cây mắc ca, ông Điểu B’lao nhận thấy, nguồn giống quyết định nhiều đến năng suất cây trồng này.

Tìm hiểu các mô hình trồng, ươm cây mắc ca giống trên địa bàn tỉnh, ông Võ Duẩn, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội mắc ca Việt Nam cho rằng, ngay ở thành phố Gia Nghĩa, cây mắc ca vẫn cho trái đều. Điều này chứng tỏ Đắk Nông có nhiều vùng trồng được cây mắc ca. Nhưng thực tế năng suất mắc ca thường không đồng đều mà nguyên nhân cơ bản vẫn là do nguồn giống chứ chưa hẳn do các điều kiện tự nhiên. “Bởi vì, qua tìm hiểu, tôi nhận thấy, cây giống ở nhiều nơi bà con trồng chưa đạt chuẩn. Vì vậy, năng suất ở các vườn mắc ca trong cùng một địa bàn, nhưng rất khác nhau”, ông Duẩn phân tích.

Đắk Nông có gần 1.000 ha mắc ca

Đến năm 2019, toàn tỉnh Đắk Nông có gần 1.000 ha cây mắc ca, chủ yếu được trồng ở huyện Tuy Đức. Số ít còn lại trồng ở huyện Đắk Glong và Đắk Song. Với giá trái mắc ca trên thị trường đang tăng cao, thời gian gần đây, nông dân ở huyện Tuy Đức đang đẩy mạnh chuyển đổi sang cây trồng này.

Khan hiếm nguồn giống có chất lượng

Thời gian gần đây, giá trái mắc ca trên thị trường thường trong khoảng 80.000-100.000 đồng/kg và đã mang lại thu nhập cao cho nhiều hộ nông dân. Trong khi giá các loại nông sản chủ lực của tỉnh như: Cà phê, hồ tiêu xuống thấp, cây mắc ca được nhiều người quan tâm trồng. Theo đó, nhiều vườn ươm trong tỉnh cũng đã bán thêm cây giống mắc ca. Tuy nhiên, qua tìm hiểu, những vườn chuyên bán cây mắc ca bảo đảm chất lượng không nhiều. Chính vì vậy, việc tìm mua cây mắc ca bảo đảm chất lượng đối với dân cũng không phải là điều dễ dàng.

Đại diện Hiệp hội Mắc Ca Việt Nam và các doanh nghiệp đánh giá chất lượng cây mắc ca tại vườn ươm cây giống ở thành phố Gia Nghĩa

Gắn bó nhiều năm với cây mắc ca, ông Dương Phú Hùng, quản lý vườn ươm mắc ca Dương Gia Đắk Nông, lưu ý: Trên thị trường có rất nhiều loại cây giống mắc ca và chất lượng rất khác nhau. Không ít nông dân quan tâm chọn giá bán cây giống mà không để ý nhiều về chất lượng. Do đó, nguy cơ mua phải cây mắc ca không đạt chất lượng sẽ rất cao.

“Đơn vị hiện đang ươm 200.000 cây mắc ca, trong đó đủ điều kiện xuất bán 10.000 cây. Tuy nhiên, không phải vì xuất bán nhiều mà giá bán cây mắc ca xuống thấp được. Bởi vì, để có những cây giống đạt chuẩn, đơn vị đã phải đầu tư nhiều vào cơ sở vật chất, đánh giá chất lượng. Còn với những cơ sở ươm cây mắc ca trôi nổi, đương nhiên là họ không tốn nhiều chi phí, vì thế mà giá bán sẽ thấp”, ông Hùng khẳng định.

Liên quan đến cây mắc ca, ông Phạm Tuấn Anh, Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT cho biết, thời gian tới, ngành Nông nghiệp sẽ đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra cơ sở sản xuất, buôn bán cây giống. Ngoài các chương trình theo kế hoạch, đơn vị cũng tính toán thanh, kiểm tra đột xuất các cơ sở ươm, kinh doanh cây mắc ca, từng bước hạn chế tình trạng bán cây giống trôi nổi, kém chất lượng.

Bài, ảnh: Công Tính

Tưới tiên tiến, tiết kiệm nước - ‘Cái khó’ có bó được ‘cái khôn’?

Nguồn tin: Báo Kon Tum

Thời tiết diễn biến cực đoan, hạn hán ngày càng khốc liệt đang gia tăng áp lực lên sản xuất nông nghiệp. Đã đến lúc các cấp, các ngành và chính bà con nông dân cần xem việc áp dụng công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước là một trong những giải pháp căn cơ để giải bài toán thiếu nước, nâng cao hiệu quả sản xuất trong mùa khô hạn.

Lãng phí nước trong… khô hạn

Nắng như đổ lửa xuống vùng đồi. Những vườn cà phê khô khốc, lá xoăn lại, hoa nghẹn nơi đầu cành. Sông hồ cạn kiệt. Trong lòng mỗi người đều như có lửa đốt khi nhìn những vạt cà phê của mình khô cháy.

Nên không thể diễn tả hết sự hưng phấn của bà con nông dân khi nhìn thấy dòng nước trong văn vắt chảy về kênh dẫn cuối thôn Thống Nhất, xã Hà Mòn, huyện Đăk Hà. Sau phút giây vui mừng, anh Lê Văn Hoan cùng hàng chục nông dân hối hả kéo máy, thả ống. Hàng chục đầu bơm thả xuống kênh, thoáng chốc đường ống chạy như mạng nhện, tiếng máy nổ giòn giã reo vui khắp nơi.

Kéo đầu ống thả xuống gốc cà phê, anh Lê Văn Hoan xoa tay hài lòng nhìn dòng nước trắng xóa ào ạt phun ra từ đường ống. Nhưng tôi lại thấy có gì đó không ổn. Không chỉ những bồn gốc cà phê được tưới đẫm, mà nước còn chảy tràn trên mặt đất, cả khu vườn như mặt ao nhão bùn.

"Dường như nước đang được sử dụng một cách lãng phí ngay trong những ngày hạn hán khốc liệt nhất" - tôi phàn nàn. Anh Hoan im lặng khá lâu, rồi mới chậm rãi nói: "Chúng tôi biết. Nhưng muốn thay đổi cũng khó…". Câu nói bỏ lửng của anh làm tôi trăn trở mãi.

Theo khuyến cáo của Viện Khoa học Kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên (WASI), lượng nước tưới hợp lý, đủ để cây cà phê sinh trưởng và phát triển bình thường ở vào khoảng 400 - 520 lít/cây/lần tưới. Tuy nhiên, cũng theo kết quả khảo sát mới nhất của WASI, ở khu vực Tây Nguyên, có trên 50% số hộ tưới trên 520 lít/cây/lần, và có tới 23,2% số hộ sản xuất cà phê tưới 600 - 950 lít/lần.

Như vậy, nếu cho rằng tưới trên 520 lít/cây là thừa nước so với khuyến cáo thì có trên 73% số hộ nông dân Tây Nguyên tưới thừa nước cho cây cà phê. Do vậy đã gây nên tình trạng lãng phí nguồn nước lên đến hàng trăm triệu m3 nước mỗi mùa khô chỉ riêng với cây cà phê - báo cáo của WASI nêu rõ.

Tưới tiết kiệm đang dần được áp dụng ở vùng chuyên canh cà phê Đăk Hà. Ảnh: HL

Những gì tôi được chứng kiến ở Đăk Hà - vùng chuyên canh cà phê lớn nhất tỉnh - cũng cho thấy, diện tích cà phê bị thiếu nước tưới ngày càng nhiều, nhưng bà con nông dân vẫn luôn tưới thừa lượng nước cần thiết.

Một phần vì tâm lý của bà con là đang mùa khô hạn, khi có nước thì tưới nhiều một chút cho… chắc ăn, phần khác là vì đa số bà con vẫn áp dụng phương pháp tưới truyền thống là tưới gốc, tưới tràn, rất khó kiểm soát lượng nước.

Tín hiệu vui cho tưới tiết kiệm

Điều đáng mừng là, thực hiện Kế hoạch hành động phát triển tưới tiên tiến, tiết kiệm cho cây trồng phục vụ cơ cấu ngành thủy lợi (ban hành ngày 19/5/2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), tỉnh Kon Tum đã có những nỗ lực nhất định, đem lại kết quả đáng ghi nhận.

Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đến tháng 5/2020, toàn tỉnh có 6.451 ha cây trồng cạn áp dụng công nghệ tưới nước tiên tiến, tiết kiệm, chủ yếu là cà phê (5.825,91 ha), chanh dây (180,2 ha), rau, đậu các loại (191,43 ha), với hình thức tưới phun mưa (dạng béc) và tưới nhỏ giọt áp dụng công nghệ Israel.

Nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã đã chủ động áp dụng công nghệ tiên tiến để tưới cho các loại cây trồng, như Công ty TNHH MTV cà phê 704 (151ha); Công ty TNHH MTV Cà phê 731(297,8 ha); Công ty Cà phê Đăk Uy (270 ha); Hợp tác xã Pôkô Farms (7,2 ha cà phê); Hợp tác xã Nông nghiệp sản xuất và thương mại Sáu Nhung (32,7 ha cà phê)...

Việc tưới tiết kiệm đã đem lại hiệu quả khá cao trong sản xuất nông nghiệp, cụ thể, như tăng năng suất cây trồng khoảng 10-30%; giảm chi phí công lao động để tưới và chăm sóc khoảng 50-70%; lượng nước tiết kiệm so với tưới truyền thống khoảng 30-50% (tùy từng biện pháp tưới); tăng giá trị sản xuất nông nghiệp/ha khoảng 10-50%.

Một tín hiệu vui nữa là hiện nay, nhiều hộ gia đình nông dân đang có xu hướng áp dụng phương pháp tưới tiết kiệm thay cho phương pháp tưới truyền thống. Điều đó cho thấy nhận thức của bà con về sử dụng nước tiết kiệm bước đầu đã có sự thay đổi.

Cũng giống như một số gia đình khác, năm nay, anh Nguyễn Trung Tiến (tổ dân phố 1, thị trấn Đăk Hà, huyện Đăk Hà) quyết định đầu tư hệ thống béc phun tự động để tưới cà phê chứ không tưới tràn như năm ngoái.

Tưới nước bằng béc phun có thể tiết kiệm tới 30% lượng nước, giảm 40% lượng điện tiêu thụ so với tưới tràn; giúp đất bề mặt trong bồn gốc cà phê luôn tơi xốp, thoáng khí cho rễ, giúp cây hấp thụ phân bón nhanh hơn - anh Tiến đánh giá.

Nhưng để những tín hiệu vui ấy trở thành một sự thay đổi mang tính toàn diện, phía trước là cả một hành trình dài.

Không để “cái khó bó cái khôn”

Có thể khẳng định, việc áp dụng biện pháp tưới tiên tiến, tiết kiệm bước đầu đã mang lại hiệu quả, có nhiều ưu điểm nổi trội so với tưới truyền thống. Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm trên địa bàn tỉnh còn rất hạn chế so với tiềm năng.

Nguyên nhân là do thiếu quy hoạch gắn với phát triển tưới tiết kiệm nước; cơ chế, chính sách hỗ trợ cho người dân, tổ chức kinh tế- xã hội để thúc đẩy ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tưới tiết kiệm chưa hoàn thiện, đồng bộ, chưa tạo động lực; kiến thức của người dân về khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp còn nhiều hạn chế; việc tổ chức thực hiện ở địa phương còn thụ động, chưa triển khai áp dụng được các chính sách hỗ trợ.

Để ứng dụng rộng rãi công nghệ tưới tiết kiệm nước cần có cơ chế, chính sách hỗ trợ người dân về nguồn vốn. Ảnh: HL

Tuy nhiên, vấn đề khó khăn nhất là chi phí đầu tư cao. Theo giá thị trường hiện nay, để áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm theo phương pháp phun mưa tận gốc phải mất gần 100 triệu đồng/ha; tưới bằng béc phun thì chi phí cũng cao hơn nhiều so với tưới truyền thống (tưới tràn, tưới gốc).

Vì vậy, dù biết rằng tưới tiết kiệm đem lại nhiều lợi ích nhưng “cái khó bó cái khôn”, không nhiều người dân dám đầu tư, nhất là khi cà phê cho thu hoạch bấp bênh - anh Nguyễn Trung Tiến cho hay.

Nhiều người cho rằng, để “cái khó” không “bó” được “cái khôn”, các ngành chức năng cần tăng cường công tác tuyên truyền, vận động người dân đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tưới tiên tiến, tưới tiết kiệm; tổ chức tập huấn chuyển giao kỹ thuật công nghệ tưới tiên tiến, tưới tiết kiệm nhằm nâng cao nhận thức của người dân để tích cực tham gia áp dụng mô hình, góp phần nâng cao năng suất cây trồng và tăng thu nhập…

Đặc biệt, tỉnh cần có cơ chế, chính sách tháo gỡ khó khăn về nguồn vốn đầu tư. Theo ông Nguyễn Tri Sáu - Giám đốc Hợp tác xã Nông nghiệp sản xuất và thương mại Sáu Nhung cho rằng, đây là "nút thắt" mang tính quyết định.

Là một trong những đơn vị đầu tiên của huyện Đăk Hà mạnh dạn đầu tư lắp đặt hệ thống tưới phun mưa tận gốc từ 3 năm trước, bình quân mỗi năm, Hợp tác xã Sáu Nhung có thể tiết kiệm được hơn 30% về lượng nước tưới, chi phí phân bón, nhân công. Nhưng để thực hiện được mô hình này, Hợp tác xã cũng phải có sự hỗ trợ tới 50% chi phí đầu tư từ dự án VnSAT.

"Bà con đều hiểu được tính ưu việt của tưới tiên tiến, tiết kiệm nước, nhưng hiểu là một chuyện, áp dụng lại là chuyện khác, đòi hỏi phải có vốn"- ông Nguyễn Trí Sáu phân tích.

Và bây giờ tôi mới hiểu hết câu nói bỏ lửng của anh Lê Văn Hoan. Rõ ràng người dân cần một "cú hích" để thay đổi cách làm ăn cũ, để đến mùa tưới, những rẫy cà phê không còn cảnh nước chảy tràn khắp nơi, như mặt ao nhão bùn.

Hồng Lam

Giá heo hơi cao kỷ lục do bị ‘làm giá’

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

So với cách nay 1 tuần, giá heo hơi tại nhiều địa phương vùng ĐBSCL tăng thêm 3.000-5.000 đồng/kg và đang ở mức cao kỷ lục trong nhiều năm qua.

Heo được nuôi tại một trại chăn nuôi heo ở huyện Cờ Đỏ, TP Cần Thơ. Ảnh: KHÁNH TRUNG

Ngày 20-5, giá heo hơi ở TP Cần Thơ và nhiều tỉnh ở ĐBSCL như Hậu Giang, Vĩnh Long, Bến Tre... tăng lên 93.000-96.000 đồng/kg. Giá heo hơi tăng cao do nguồn cung heo hơi tại nhiều địa phương giảm mạnh sau dịch tả heo châu Phi. Những tháng qua, dù nông dân tại nhiều địa phương có nỗ lực tái đàn heo nhưng vẫn còn chậm do gặp khó về vốn và thiếu hụt về nguồn con giống; giá heo giống đã tăng gấp 3 lần so với trước.

Theo doanh nghiệp và tiểu thương kinh doanh thịt heo, giá heo hơi tăng còn do có sự “làm giá” từ một số đơn vị, doanh nghiệp chăn nuôi heo đang nắm giữ một lượng lớn heo hơi. Gần đây, có tình trạng giá chào bán heo hơi tại một số doanh nghiệp chăn nuôi đang cao hơn giá bán tại nông hộ chăn nuôi nhỏ lẻ từ 2.000-3.000 đồng/kg. Đơn cử, giá bán heo hơi tại một số doanh nghiệp chăn nuôi ở Cần Thơ hiện là 96.000 đồng/kg, trong khi giá bán heo tại hộ chăn nuôi nhỏ chỉ ở mức 94.000 đồng/kg trở lại. Tuy nhiên, lượng heo hơi tại các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ không còn nhiều.

Nhiều doanh nghiệp chăn nuôi lớn đã cam kết với các cơ quan chức năng về việc kéo giảm giá heo hơi xuống còn 70.000 đồng/kg từ ngày 1-4-2020. Tuy nhiên, giá heo hơi chẳng những không giảm mà còn tăng mạnh. Tiểu thương kinh doanh thịt heo rất khó tiếp cận nguồn heo giá thấp của các doanh nghiệp đã cam kết kéo giảm giá heo hơi, thậm chí doanh nghiệp chăn nuôi tham gia giết mổ heo rồi cung ứng thịt heo ra thị trường.

KHÁNH TRUNG

Thu nhập khá từ nuôi dê

Nguồn tin: Báo Bình Phước

Nuôi dê nhốt chuồng tận dụng thức ăn từ lá trụ tiêu sống đang mang lại hiệu quả kinh tế ổn định cho nông dân trên địa bàn tỉnh Bình Phước trong thời điểm giá nông sản bấp bênh. Khi “vàng đen” lên ngôi thì nuôi dê chỉ là thu nhập phụ để cải thiện đời sống nhưng vài năm trở lại đây, khi tiêu, điều, cà phê... rớt giá thì dê lại là nguồn thu nhập chính của nhiều nhà nông. Những nhà nông này luôn nhớ lời Bác dạy, phải “cần, kiệm” và tích cực tăng gia sản xuất, sáng tạo trong lao động sản xuất để vươn lên làm giàu, không cam chịu đói nghèo.

NỞ RỘ NUÔI DÊ

Trước đây, nuôi dê chỉ mang tính nhỏ lẻ ở vài hộ nhằm tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống. Từ hiệu quả thực tế mang lại, nhiều người bắt đầu học hỏi và nuôi dê. Là một trong những người đầu tiên nuôi dê tại xã Thiện Hưng (Bù Đốp), năm 2000, ông Nguyễn Chí Tiến về quê Ninh Bình thấy nuôi dê khá phát triển. Qua tìm hiểu thấy dê là vật nuôi dễ tính, ít bệnh và ít tốn công nên ông đem 2 cặp về nuôi thử. Do thích nghi với khí hậu Bình Phước nên dê sinh sản rất nhanh, chỉ 2 cặp giống ban đầu, sau 3 năm nuôi gia đình ông đã có đàn dê gần 40 con. Từ đó, nhiều hộ dân học hỏi và lấy giống về nuôi đã trở thành phong trào nuôi dê tại địa phương này. Ông Tiến chia sẻ: “Gia đình tôi nuôi dê được vài năm thì có một số hộ xung quanh học hỏi rồi lấy giống về nuôi thử. Sau đó, nuôi dê nở rộ thành phong trào, hiện nay số hộ nuôi dê rất nhiều”.

Gia đình ông Nguyễn Chí Tiến ở xã Thiện Hưng, huyện Bù Đốp có thu nhập ổn định nhờ duy trì đàn dê

Phó chủ tịch Hội Nông dân huyện Bù Đốp Trần Bá Hải cho biết: Ở Bù Đốp thời gian gần đây nuôi dê phát triển rộng khắp. Hiện nay, địa bàn huyện có một Chi hội nghề nghiệp trồng tiêu kết hợp nuôi dê theo hướng bền vững, 11 tổ hợp tác chăn nuôi dê.

Nuôi dê phát triển rộng khắp trên địa bàn tỉnh, các thương lái thu mua với giá tương đối cao và ổn định. Trong khi nông sản như cà phê, tiêu, điều... rớt giá, đàn dê lại trở thành nguồn thu nhập chính của nhiều hộ. Điển hình như gia đình ông Phạm Văn Lý (xã Thiện Hưng, huyện Bù Đốp) có 6 ha trụ tiêu sống kết hợp nuôi dê nhốt chuồng đã nhiều năm nay. Hộ ông luôn duy trì đàn từ 50-60 con, mỗi năm thu không dưới 200 triệu đồng. Ông Lý chia sẻ: “Trước đây, giá tiêu còn ở mức cao thì nuôi dê chỉ là phụ để cải thiện đời sống. Khi hồ tiêu mất giá thì dê lại trở thành nguồn thu nhập chính của gia đình tôi. Trong khi đó, diện tích tiêu nhiều nhưng giá thấp, tiền công, vốn đầu tư nhiều nên người trồng không có lời, thậm chí lỗ”.

NGUỒN THU CHỦ LỰC THỜI NÔNG SẢN MẤT GIÁ

Tại ấp Thanh Hải, xã Thanh Lương (Bình Long) có 250 hộ dân thì có đến 70% hộ nuôi dê nhốt chuồng kết hợp trồng tiêu. Hộ nuôi nhiều từ 50-60 con, ít cũng từ 10-15 con. Trong 3 năm trở lại đây, nông dân ấp Thanh Hải luôn gặp nhiều khó khăn vì giá tiêu thấp. Do đó, chăn nuôi dê đã giúp họ giải quyết được nhiều khó khăn, từ nguồn phân bón đến thu nhập để trang trải cuộc sống.

Ông Nguyễn Tuấn Thiện, Phó giám đốc Hợp tác xã nuôi dê Thanh Phú (Bình Long) cho biết: “Từ 2 năm trước, khi giá tiêu giảm mạnh, hầu hết người nuôi dê đã bắt đầu tăng đàn. Số tiêu bị chết, tiêu kém phát triển hoặc không đủ nước tưới được người dân phá bỏ dùng để trồng cỏ nuôi dê. Dù đang trong mùa dịch nhưng giá dê vẫn giữ ổn định từ 80-100 ngàn đồng/kg. Vì vậy, nuôi dê đang là nguồn thu nhập chính của nhiều gia đình khi tiêu mất giá”.

Nuôi dê nhốt chuồng đầu tư ít vốn và công chăm sóc, nguồn thức ăn đa dạng, dễ kiếm như: lá nọc tiêu sống, thân cây chuối, trồng cỏ, cỏ tự nhiên... Vì thế, thời gian qua nhiều nơi đã chọn nuôi dê làm điểm tựa xóa đói, giảm nghèo và đạt hiệu quả tốt.

Gia đình chị Nguyễn Thị Hoa (xã Thiện Hưng, huyện Bù Đốp) thu nhập chỉ dựa vào vườn tiêu vỏn vẹn 500 trụ. Nhờ sự hỗ trợ từ Tổ hợp tác chăn nuôi dê của xã, đầu năm 2017, chị Hoa được vay 7 triệu đồng để mua dê giống. Đến nay, chuồng dê có 30 con, cho thu nhập ổn định. Nhờ vậy, gia đình chị đã vươn lên thoát nghèo.

Phó chủ tịch Hội Nông dân xã Thiện Hưng Phạm Đình Thoại cho hay: Nuôi dê không cần đầu tư nhiều vốn, trong khi lợi nhuận cao và khá ổn định. Vì vậy, thời gian qua địa phương đã triển khai mô hình này cho các hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số với nhiều hình thức như: các hội, đoàn thể hỗ trợ vay vốn xây dựng chuồng trại; hỗ trợ dê giống; hộ nào nhiều dê cho hộ chưa có mượn con giống, sau 1 năm sẽ trả lại dê mẹ. Đến nay, Thiện Hưng đã có gần 1.000 hộ nuôi dê, số hộ thoát nghèo từ nuôi dê cũng không ngừng tăng. Từ một xã thuộc diện khó khăn nhất huyện Bù Đốp, đến nay tỷ lệ hộ nghèo tại địa phương chỉ còn dưới 3% trên tổng hộ dân toàn xã.

Văn Đoàn

Huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang): Hiệu quả kép từ mô hình kè sinh thái

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Với mô hình không tốn quá nhiều chi phí, sau 3 năm, các tuyến kè sinh thái được trồng thí điểm tại huyện Phụng Hiệp (tỉnh Hậu Giang) bước đầu phát huy hiệu quả.

Một đoạn kè sinh thái ở thị trấn Búng Tàu, huyện Phụng Hiệp.

Kè sinh thái không phát huy hiệu quả nhanh như kè bê tông mà phải đợi đến hơn một năm, khi cây lớn mới bám đất, ngăn sóng đánh. Xây dựng kè đơn giản, chỉ cần một dãy rào, có tấm lưới chắn để giữ đất nền, sau đó trồng tràm hoặc bần. Ông Trần Văn Đại, ở thị trấn Búng Tàu, huyện Phụng Hiệp, cho biết trước đây do lưu lượng tàu thuyền khá lớn nên hai bên bờ kênh xáng Búng Tàu liên tiếp xảy ra các điểm sạt lở. Qua tuyên truyền từ các cấp chính quyền địa phương, ông cùng người dân trong xóm đã tiên phong thí điểm làm kè sinh thái. Sau 3 năm chăm sóc, những cây tràm, cây bần ngày càng lớn và lấn ra sông khoảng 6m. Hơn 20m chiều dài kè đã phát huy tác dụng khi hạn chế sạt lở bờ sông và tạo mỹ quan xanh, đẹp.

Theo thống kê của ngành chuyên môn, trong hai năm thực hiện Chiến dịch giao thông - thủy lợi và trồng cây gần đây, toàn huyện đã thực hiện khoảng 20.000m kè sinh thái chống sạt lở. Chi phí đầu tư mô hình này tốn khoảng 150.000 đồng/m.

Tin, ảnh: BÁ ĐĨNH

Nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học

Nguồn tin: Báo Sóc Trăng

Sóc Trăng được đánh giá là tỉnh có hệ sinh thái đa dạng và phong phú. Nhiều khu vực như: rừng ngập mặn Cù Lao Dung, bãi biển Mỏ Ó, rừng tràm Mỹ Phước… đang có những giá trị đa dạng sinh học (ĐDSH) phong phú với các loài động vật, thực vật quý cần được bảo tồn.

ĐDSH là khái niệm chỉ sự phong phú của các sinh vật sống trong tự nhiên trên trái đất, từ các sinh vật nhỏ bé đến các loại động vật, thực vật và hệ sinh thái mà ở đó chúng có mặt. Tại Sóc Trăng, nhiều khu vực được nghiên cứu cho thấy đa dạng nhiều loài động thực vật quý hiếm, có giá trị cao. Tiêu biểu như rừng tràm Mỹ Phước (Mỹ Tú) có tất cả 127 loài thực vật, 8 loài thú, 70 loài chim, 15 loài lưỡng cư và bò sát, 25 loài cá, 81 loài côn trùng... trong đó có nhiều loài quý hiếm như: cốc đế, cầy hương, cầy giông tây nguyên, mèo cá và rái cá thường. Rừng tràm Mỹ Phước có 4 sinh cảnh là rừng tràm, rừng dừa nước, lung (nước ngọt) và rừng đặc dụng. Đặc biệt, Mỹ Phước là nơi duy nhất ở đồng bằng sông Cửu Long có sinh cảnh giao thoa giữa rừng tràm và rừng dừa nước.

Không chỉ ở Mỹ Tú, các khu vực khác trên địa bàn tỉnh cũng được ngành chức năng khảo sát nghiên cứu về sự ĐDSH. Theo đó, rừng ngập mặn ở huyện Cù Lao Dung và bãi bồi ven biển huyện Trần Đề được đánh giá là nơi có hệ sinh thái đa dạng, là nơi cư trú của nhiều loại thủy sản, hải sản và các động vật quý hiếm sinh sống dưới tán rừng. Hệ sinh thái ở 2 khu vực này mang lại các giá trị và dịch vụ to lớn cho đời sống của người dân, là vườn ươm và phát triển của nhiều loài thủy hải sản, tạo cảnh quan cho du lịch và tham quan học tập, là tấm lá chắn phòng hộ vùng ven biển.

Với vai trò quan trọng như trên, những năm qua công tác bảo tồn, phát triển bền vững ĐDSH được các cấp, các ngành của tỉnh quan tâm thực hiện. Tỉnh cũng đã thực hiện những dự án, mô hình quan trọng, trong đó các khu vực ĐDSH nêu trên cũng được nghiên cứu và thực hiện Dự án “Thành lập Khu Bảo tồn loài - sinh cảnh rừng tràm Mỹ Phước”; Dự án “Thành lập Khu Dự trữ thiên nhiên rừng ngập mặn Cù Lao Dung”.

Rừng phòng hộ ở Cù Lao Dung là nơi trú ngụ của nhiều loài sinh vật quý hiếm. Ảnh: Thiện Hải

Theo Sở Tài nguyên và Môi trường, Dự án “Thành lập Khu Bảo tồn loài - sinh cảnh rừng tràm Mỹ Phước” là dự án nhằm bảo tồn hệ sinh thái rừng đặc trưng (giao thoa giữa tràm và dừa nước) và bảo tồn các loài quý hiếm, góp phần ứng phó biến đổi khí hậu. Ngoài ra, dự án còn hoạch định chiến lược phát triển du lịch, giáo dục bảo tồn ĐDSH và truyền thống lịch sử của dân tộc. Từ đó, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương theo hướng bền vững. Riêng Dự án “Thành lập Khu Dự trữ thiên nhiên rừng ngập mặn Cù Lao Dung” nhằm bảo tồn, quản lý và phát triển bền vững hệ sinh thái đất ngập nước tại khu rừng ngập mặn và bãi bồi ven biển của tỉnh. Khu vực dự án nghiên cứu thuộc địa bàn các xã: An Thạnh 3, An Thạnh Nam (Cù Lao Dung) và xã Trung Bình (Trần Đề) với diện tích hơn 25.000ha.

Sau thời gian triển khai thực hiện và lấy ý kiến đóng góp của các sở, ngành và địa phương liên quan, hiện nay, các dự án trên đang được Sở Tài nguyên và Môi trường hoàn thiện hồ sơ, làm các bước tiếp theo để trình Bộ Tài nguyên và Môi trường. Với tiềm năng, lợi thế của tỉnh đã được nghiên cứu đánh giá, có thể thấy rằng, sự ĐDSH không chỉ mang đến cho con người nguồn tài nguyên để tiêu dùng, không chỉ có giá trị về kinh tế mà còn cả những giá trị về tinh thần. Chính vì thế, việc bảo tồn tính ĐDSH không phải là nhiệm vụ của riêng các nhà quản lý, các nhà khoa học mà cần phải có sự chung tay đóng góp của cả cộng đồng.

Thiện Hải

Kỳ lạ trăn 2 đầu

Nguồn tin: Báo Cà Mau

Sau hơn 5 năm nuôi, 1 con trăn mẹ đẻ ra 48 con trăn con, trong đó có 1 con trăn 2 đầu rất hiếm gặp.

Ông Phạm Văn Thọ, khóm 3, phường 8, Tp. Cà Mau chủ nhân của con trăn này cho biết. Sau gần 2 tháng ấp trứng, chiều ngày 18/5 con trăn nhà ông nở ra được 48 con trăn con. Đặc biệt, trong đó có một con trăn 2 đầu nhưng có 1 thân rất hiếm gặp.

Hiện con trăn 2 đầu được hơn 1 ngày tuổi, dài khoảng 30 cm, trong lượng khoảng 150 gram

Theo ghi nhận của phóng viên con trăn này dài khoảng 30 cm, trọng lượng khoảng 150 gram, phần 2 đầu của con trăn mọc ra từ giữa thân trở về trước, còn giữa thân trở về sau có chung bộ phận sinh dục.

Theo chủ nhân của con trăn cho biết: “Từ trước đến nay đã hơn 20 năm nuôi trăn thịt và trăn đẻ nhưng tôi chưa thấy con trăn nào như vậy”.

Được biết, hiện nay phong trào nuôi trăn đang phát triển rộng khắp các vùng nông thôn trong tỉnh, có lúc hưng thịnh trăn được xem là đối tượng nuôi giảm nghèo. Bởi trăn dễ nuôi, ít bệnh tật, lại tận dụng được các loại chim, chuột phá hoại mùa màng để làm thức ăn cho chúng, nên quá trình nuôi rất ít chi phí./.

Trung Đỉnh

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop