Tin nông nghiệp ngày 23 tháng 3 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 23 tháng 3 năm 2019

Trồng nấm cho thu lãi lớn

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Sau 5 năm đặt chân đến thôn Châu Giang (xã Hneng, huyện Đak Đoa, Gia Lai), ông Nguyễn Trọng Hiệp đã gầy dựng được 6 trại nấm quy mô lớn, đều đặn hàng năm cho lợi nhuận hơn 600 triệu đồng.

Ông Hiệp cho biết, gia đình ông có kinh nghiệm hơn 20 năm trong nghề trồng nấm. Nghề này rất phù hợp với những vùng có thời tiết mát mẻ. Vì vậy, năm 2014, sau chuyến lên Gia Lai thăm người quen, ông đã quyết định chọn mảnh đất này làm nơi phát triển nghề trồng nấm vì điều kiện thời tiết khá lý tưởng. “Gia đình tôi gắn bó với nghề trồng nấm từ năm 1997. Lúc đó, quy mô các trại nấm của gia đình ở Đồng Nai lớn hơn đây rất nhiều. Nhưng do thị trường cạnh tranh gay gắt nên xét về hiệu quả kinh tế thì không bằng bây giờ”-ông Hiệp nói.

Ông Hiệp kiểm tra trại nấm của gia đình. Ảnh: V.T

Dẫn chúng tôi tham quan các trại nấm, ông Hiệp cho biết, trên diện tích 5 ha đất sản xuất của gia đình, ngoài trồng cao su và cà phê, ông dành khoảng 12.000 m2 xây dựng 6 trại nấm, khu vực nhà lò, khu vực vào bịch và ủ nấm. Tổng kinh phí đầu tư cho mô hình trồng nấm là 1 tỷ đồng. Trong 6 trại nấm, ông trồng 4 loại nấm gồm: nấm mèo (mộc nhĩ), nấm sò (cả trắng và xám), nấm rơm, nấm bào ngư với tổng cộng khoảng 120 ngàn bịch.

Do có diện tích sản xuất lớn nên mỗi trại nấm được ông Hiệp xây dựng với khoảng cách nhất định để đảm bảo độ thoáng, tránh lây lan bệnh trên cây nấm. “Nấm rất dễ nhiễm bệnh nên khu vực trồng phải đặt cách xa khu dân cư và khu chăn nuôi gia súc để tránh các loại vi khuẩn xâm nhập. Trồng nấm đòi hỏi kỹ thuật và kinh nghiệm. Một số hộ trong vùng cũng đến học hỏi kinh nghiệm rồi về xây trại trồng nấm nhưng sau một thời gian phải ngậm ngùi bán trại vì nấm bị nhiễm bệnh, thu hoạch không đạt, hiệu quả kinh tế không cao”-ông Hiệp cho hay.

Cũng theo ông Hiệp, nhu cầu tiêu thụ nấm sạch trên địa bàn tỉnh rất lớn. Do đó, ngay từ khi bắt đầu sản xuất, ông đã chọn hướng trồng nấm theo quy trình sinh học để cho ra các sản phẩm sạch, đảm bảo an toàn sức khỏe người tiêu dùng. Đồng thời, để tạo nguồn hàng ổn định và liên tục cho thương lái, trại nấm của ông sản xuất kiểu gối đầu từng đợt. Ông cho biết: “Mỗi lần thu hoạch xong, tôi phải làm vệ sinh sạch sẽ phần miệng bịch, rồi dùng nắp đậy bịt đầu bịch lại để hãm sự sinh trưởng của các tai nấm. Nếu không làm vậy, nấm sẽ tiếp tục ra đến khi hết chu kỳ của một bịch phôi nấm, mà cây nấm lại không to, năng suất thấp. Do đó, quá trình nuôi phôi, thu hoạch phụ thuộc phần lớn vào kinh nghiệm cũng như kỹ thuật của người trồng”.

Với các loại nấm bào ngư, nấm sò, từ lúc treo bịch đến khi thu hoạch xong khoảng 5 tháng. Sau khi thu hoạch, các bịch nấm được gỡ xuống để khử trùng trại rồi tiếp tục quay vòng sản xuất. Để tận dụng nguyên liệu là các bịch nấm đã thu hoạch xong, ông Hiệp tiếp tục ủ làm nấm rơm. “So với các loại nấm khác, nấm rơm có chi phí đầu tư thấp nhưng giá bán lại cao hơn rất nhiều. Hiện tại, giá nấm rơm tôi bán khoảng 120 ngàn đồng/kg. Thị trường tiêu thụ loại này rất mạnh nên gần như cung không đủ cầu”-ông Hiệp cho hay. Được biết, toàn bộ lượng nấm thu hoạch, ông Hiệp xuất bán tại trại cho thương lái để đem đi tiêu thụ ở các chợ trên địa bàn tỉnh. Cứ quay vòng 1 năm 2 vụ (5 tháng/vụ), trung bình mỗi năm, 6 trại nấm của ông Hiệp cho thu hoạch khoảng 40 tấn nấm tươi các loại, sau khi trừ hết chi phí còn lãi hơn 600 triệu đồng.

Nói về trại nấm của ông Hiệp, ông Vũ Văn Lượng-Trưởng thôn Châu Giang-nhận xét: Bên cạnh việc đem lại nguồn thu lớn hàng năm cho gia đình, trại nấm của ông Hiệp còn tạo việc làm cho hàng chục lao động ở địa phương, trong đó có 5 lao động thường xuyên với mức lương 6-8 triệu đồng/người/tháng. Đây là một trong những mô hình sản xuất mang lại hiệu quả cao để người dân trên địa bàn học hỏi làm theo, từ đó phát triển kinh tế gia đình.

VŨ THẢO

Bình Phước: Người trồng cà phê ở Thọ Sơn khó khăn chồng chất vì khô hạn

Nguồn tin: Báo Bình Phước

Đang là thời kỳ cao điểm của mùa khô ở Bình Phước, nhưng một số nơi trong tỉnh đã xuất hiện những cơn mưa lớn. Những cơn mưa này quý hơn vàng đối với nhà nông. Nhờ đó nhiều diện tích cây trồng được cứu sống.

Tuy nhiên, tại xã Thọ Sơn, huyện Bù Đăng đã gần 4 tháng nay chưa có trận mưa nào. Trời khô nắng làm sụt các mạch nước ngầm gây ra khô hạn, nhiều vườn cà phê của người dân rũ lá, khô cành vì thiếu nước.

Gia đình ông Điểu Mrang, bà Thị Priêng ở thôn Sơn Thọ, xã Thọ Sơn trồng 2 ha cà phê xen trong vườn điều. Những năm trước, vườn cà phê là nguồn thu nhập chính của gia đình. Tuy nhiên, từ cuối năm 2018 đến nay, Thọ Sơn không có mưa, nắng nóng kéo dài đã gây ra tình trạng khô hạn khiến vườn cà phê của gia đình ông Điểu Mrang và nhiều hộ khác bị rũ lá, khô cành, nhiều cây sắp chết. Cây điều đang vào mùa thu hoạch nhưng cũng lác đác trái, mỗi héc ta chỉ thu được 200-300kg hạt tươi.

Vườn cà phê của gia đình ông Điểu Mrang đang khô cành, cháy lá vì khô hạn kéo dài

Hiện nay, cây cà phê trong giai đoạn ra bông đậu trái nhưng vì không đủ nước tưới nên khô bông, trái non cũng bị khô. Ông Điểu Mrang cho biết: “Từ đầu mùa khô đến nay, gia đình tôi tưới vườn cà phê được 2 lần. Lần tưới thứ hai, tôi kết hợp bón phân hóa học để dưỡng cây, dưỡng hoa trong mùa khô. Nhưng vì không đủ nước tưới nên đến giờ phân không tan hết, cây không hấp thụ được”. Để có nước tưới vườn cà phê, gia đình ông đã chi trên 30 triệu đồng mua 1 máy bơm và 250m ống nhựa mềm phi 60 để hút nước từ suối Đặk Gân về tưới. Tuy nhiên, nhiều hộ ở đầu nguồn đã đắp ngăn dòng chảy để tích nước nên phía hạ lưu của con suối đã khô cạn. Ông Điểu Mrang cho hay: “Khoảng nửa tháng nữa không có nước thì vườn cà phê không chỉ bị mất trắng mà còn nguy cơ chết hết cây. Bởi trong vườn đã có nhiều cây bị khô lá, khô cành, có cây bắt đầu rũ lá. Nếu bây giờ có mưa thì chắc chắn cũng bị mất mùa vì hoa và trái đã khô héo, cây phải có thời gian phục hồi”.

Cụ Điểu Ten năm nay 80 tuổi ở thôn Sơn Thọ, xã Thọ Sơn gắn bó với cây cà phê gần chục năm qua than thở: “Gần 10 năm trở lại đây, tôi chưa thấy năm nào ở Thọ Sơn khô hạn, thiếu nước như năm nay”. Nhà cụ có 4 ha cà phê trồng xen trong vườn điều hơn 6 năm tuổi. Như mọi năm, thời điểm này cà phê đã bung hoa trắng xóa. Nhưng năm nay, nắng nóng kéo dài, con suối Đặk Gân đã cạn kiệt. Vườn cà phê nhà cụ Ten đã bị khô cành. Để cứu vườn cà phê, mới đây cụ Ten vay 40 triệu đồng khoan giếng lấy nước vừa tưới cà phê vừa dùng trong sinh hoạt nhưng cũng không đủ nước.

Ông Nguyễn Trường Sơn, cán bộ bảo vệ thực vật UBND xã cho biết, Thọ Sơn có diện tích cà phê lớn ở Bù Đăng với tổng 1.288 ha cà phê đang thu hoạch. Theo chu kỳ phát triển của cây thì đây là thời điểm ra bông kết trái. Cây cà phê tuy có khả năng chịu hạn cao hơn nhiều loại cây trồng khác nhưng vào thời điểm ra hoa kết trái thì việc cung cấp nước tưới cho cây là rất cần thiết. Vì vậy, sau khi thu hoạch vào dịp cuối năm, người trồng cà phê phải dọn vườn, tỉa cành để tưới nước và bón phân. Bình quân mỗi mùa khô, tùy thuộc nguồn nước thiếu hay đủ để nông hộ tưới từ 2-3 lần, mỗi lần cách nhau nửa tháng. Lần tưới thứ hai có kết hợp bón phân để dưỡng sức, tạo trái cho cây. Tuy nhiên, do thời tiết diễn biến phức tạp, khô hạn kéo dài đã làm cho những hộ trồng cà phê ở Thọ Sơn thêm khốn đốn, vì mất mùa đã hiện hữu.

Gia Nghi

Tưới tiết kiệm nước: Giải pháp ứng phó với hạn hán ở Gia Lai

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Do ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu nên sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Gia Lai gặp không ít khó khăn, nhất là tình trạng thiếu nước tưới cho cây trồng. Trước thực tế này, nhiều hộ nông dân đã mạnh dạn đầu tư ứng dụng công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước vào sản xuất, góp phần hạn chế thiệt hại do thiên tai gây ra.

Gia Lai là tỉnh có diện tích cây công nghiệp dài ngày khá lớn, trong đó, cà phê xấp xỉ 95.000 ha, cao su khoảng 100.000 ha, hồ tiêu khoảng 16.000 ha, chưa kể diện tích lúa nước và hoa màu. Vì vậy, việc đảm bảo nguồn nước tưới cho cây trồng là hết sức quan trọng. Tuy nhiên, những năm gần đây, do biến đổi khí hậu cùng những diễn biến bất thường của thời tiết, việc khai thác nguồn nước ngầm quá mức đã tác động rất lớn đến sản xuất nông nghiệp.

Gia đình anh Rơ Ma Tíu (làng Dơk Lah, xã Ia Dơk, huyện Đức Cơ) lắp đặt hệ thống tưới tiết kiệm nước cho cây hồ tiêu. Ảnh: L.N

Để giải quyết bài toán này, vài năm trở lại đây, các cơ quan chuyên môn của tỉnh đã nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tưới nước tiên tiến từ các nước có nền nông nghiệp phát triển giúp nông dân áp dụng vào sản xuất nhằm giảm chi phí, tăng lợi nhuận trên một đơn vị diện tích. Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và PTNT, đến nay, toàn tỉnh đã có 23.571 ha cây trồng áp dụng công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước. Trong đó, cây hồ tiêu 2.925,6 ha, cà phê 10.452,3 ha, cây ăn quả 2.499,8 ha, rau màu 3.407,2 ha, mía 2.805,4 ha và các loại cây trồng khác 1.474,4 ha…

Ưu điểm của công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước là có thể áp dụng trên mọi địa hình. Bên cạnh đó, với công nghệ này, lượng nước phân phối cho cây trồng sẽ đồng đều; phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hòa tan trong nước theo hệ thống tưới được đưa đến tận gốc cây, không lo xói mòn bộ rễ. Ông Lê Thành Trung (thôn 12, xã An Phú, TP. Pleiku) cho biết: “Nhiều năm nay, gia đình tôi chuyên trồng rau, hoa để cung cấp cho thị trường. Sau khi tìm hiểu, gia đình đã mạnh dạn đầu tư lắp đặt hệ thống tưới phun mưa cho cây trồng. Chỉ cần một người bật cầu dao điện thì nước sẽ phun đều đến cây rau, hoa trong vườn. Phân bón và thuốc bảo vệ thực vật cũng hòa tan trong nước theo hệ thống tưới đến từng gốc cây giúp cây sinh trưởng, phát triển đồng đều. Tôi thấy lợi ích từ việc áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước là rất lớn”.

Ông Trịnh Quốc Việt-Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh-cho biết: “Trước diễn biến ngày càng khó lường của thời tiết, những năm gần đây, cơ quan chuyên môn đã xây dựng các mô hình ứng dụng công nghệ tưới tiên tiến, tiết kiệm nước trên cây trồng nhằm tạo giải pháp tối ưu trong phát triển nông nghiệp. Trong đó, tưới nhỏ giọt và tưới phun mưa tại gốc đang được nhiều nông dân áp dụng phổ biến. Lợi ích của việc sử dụng công nghệ tưới này là tiết kiệm được 20-30% lượng nước và rải đều thường xuyên chứ không phải tưới tập trung, khắc phục được tính thời vụ. Bên cạnh đó, công nghệ này còn giúp tiết kiệm công lao động. Đặc biệt, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật được đưa qua hệ thống tưới đến thẳng bộ rễ của cây giúp tăng hiệu quả sử dụng, giảm độc hại cho con người”.

Cũng theo ông Việt, trên địa bàn tỉnh có 2 dự án về tưới tiết kiệm nước là dự án EDE “Sử dụng nước tưới hợp lý để nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành sản xuất cà phê Gia Lai giai đoạn 2017-2019” triển khai tại 25 xã của 3 huyện Chư Sê, Chư Pah và Ia Grai. Mục đích chủ yếu của dự án này là tuyên truyền nông dân không cần tưới 600 lít nước/gốc cà phê. Nếu áp dụng hệ thống tưới tiết kiệm, chỉ cần khoảng 300 lít nước/gốc nhưng hiệu quả kinh tế mang lại sẽ cao hơn. Bên cạnh đó, dự án IDE “Phát triển thị trường công nghệ tưới tiết kiệm nhằm giúp nông dân Gia Lai tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu và nâng cao thu nhập” đang được triển khai tại 4 địa phương gồm Đak Pơ, Kông Chro, Kbang và An Khê. Đến nay, đã có 121 hộ đăng ký thực hiện mô hình ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước trên cây rau, hoa với diện tích mỗi hộ là 1 sào và đang bắt đầu triển khai thực hiện. Mục tiêu của dự án là giúp 2.500 hộ nông dân áp dụng công nghệ này tăng thu nhập thêm 8 triệu đồng/hộ/năm.

Trong thời điểm hiện nay, hạn hán đang trở thành nỗi lo của nhiều hộ nông dân trên địa bàn tỉnh. Nếu đầu tư hệ thống tưới tiên tiến, tiết kiệm nước thì nông dân sẽ đạt hiệu quả kinh tế cao hơn và giảm thiểu rủi ro do hạn hán gây ra.

NGUYỄN DIỆP

Gần 600 nông hộ tiêu thụ khoai tây theo địa chỉ

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Ông Nguyễn Phúc Trai, Giám đốc Công ty TNHH Thực phẩm PepsiCo Việt Nam cho biết, hiện doanh nghiệp đang liên kết với gần 600 gia đình tại các địa phương của Lâm Đồng để trồng khoai tây.

Thu hoạch khoai tây

Theo đó, từ năm 2008, chương trình trồng khoai tây liên kết giữa PepsiCo Việt Nam với người dân ở Lâm Đồng đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của nhà nông. Những năm qua, Công ty TNHH Thực phẩm PepsiCo Việt Nam đã không ngừng mở rộng liên kết với nhà nông, kể từ khi ra mắt với 60 nông hộ, đến nay tổng số hộ liên kết, hợp tác sản xuất với doanh nghiệp lên 580 nông hộ với diện tích canh tác khoảng 600 ha.

Tham gia chương trình liên kết người dân được hỗ trợ về nguồn giống, vật tư và được hỗ trợ kỹ thuật xuyên suốt quá trình trồng. Nhờ áp dụng quy chuẩn sản xuất khép kín, đồng bộ nên năng suất tại các vườn khoai tây liên kết luôn tăng theo từng năm, bình quân tăng từ 8,3 tấn/ha năm 2008 lên 25 tấn/ha năm 2018.

Ông Phạm Văn Trị (thôn Suối Thông C, xã Đạ Ròn, huyện Đơn Dương) cho biết: “Khi tham gia liên kết, chúng tôi phải đảm bảo được các tiêu chuẩn sản xuất do phía đối tác đưa ra để thu về các sản phẩm đạt chuẩn về hàm lượng chất khô (tinh bột), chất xanh, kích thước, độ đường, hình thức bên ngoài… nhờ áp dụng nghiêm ngặt cam kết sản xuất, đến nay năng suất vườn khoai tây của gia đình tôi đạt gần 30 tấn/ha năm 2018. Diện tích liên kết từ 0,5 ha thử nghiệm đã tăng lên 6 ha”.

Theo ông Nguyễn Phúc Trai cho biết thêm, hiện nay, toàn bộ 600 ha trồng khoai tây liên kết được hỗ trợ hệ thống tưới nhỏ giọt, giúp tiết kiệm 3.700 m3/ha/vụ. Tham gia chương trình liên kết trồng khoai tây bền vững, ngoài hỗ trợ cây giống, vật tư, người nông dân sẽ được bao tiêu toàn bộ sản phẩm với giá từ 8.000 - 9.000 đồng/kg và được chia sẻ rủi ro khi mùa vụ gặp thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh gây ra.

Văn Báu

Hưng Yên: Những vườn nhãn sai hoa ở xã Nhật Tân

Nguồn tin: Báo Hưng Yên

Do ảnh hưởng của thời tiết, năm nay nhiều vườn nhãn trên địa bàn huyện Tiên Lữ (tỉnh Hưng Yên) tỷ lệ ra hoa thấp. Nhưng khi đến Hợp tác xã (HTX) cây ăn quả xã Nhật Tân, những vườn nhãn sai hoa với tỷ lệ ra hoa lên tới 80% tổng diện tích đã khiến chúng tôi không khỏi ngạc nhiên và phấn khởi cùng với các xã viên nơi đây.

Vườn nhãn sai hoa của thành viên HTX cây ăn quả xã Nhật Tân

HTX cây ăn quả xã Nhật Tân mới được thành lập năm 2018, nhưng đã tập hợp những nông dân, chủ vườn giàu kinh nghiệm, tâm huyết với các loại cây ăn quả, cây đặc sản ở địa phương. Với hơn 40 thành viên, mỗi ngày ở HTX đều bắt đầu bận rộn với công việc làm vườn, chăm cây, nhất là trong những ngày này khi diện tích nhãn đặc sản đang trong giai đoạn quan trọng, quyết định mùa quả ngọt.

Ông Nguyễn Duy Quý, Giám đốc HTX cho biết: “HTX luôn ưu tiên, duy trì ổn định diện tích trồng nhãn đặc sản như nhãn muộn Khoái Châu, nhãn Hương Chi, nhãn đường phèn… Năm nay do thời tiết nắng ấm kéo dài, HTX cùng với các thành viên trồng nhãn đã đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật cho từng đối tượng, độ tuổi của cây, thực hiện sản xuất theo quy trình an toàn VietGAP, nhờ đó tỷ lệ nhãn ra hoa đạt trung bình 75 - 80%, một số hộ làm tốt đạt tỷ lệ 90%”.

Đến thăm những vườn nhãn của HTX, những cây nhãn sớm đã bắt đầu đậu quả non, cây chính vụ hoa đang nở rộ, còn những cây nhãn muộn mới bắt đầu ra giò hoa. Mùi hoa nhãn vương vấn khắp vườn, thu hút từng đàn ong tới lấy mật, thụ phấn.

Tổng diện tích trồng nhãn của HTX hiện đạt trên 40 mẫu, diện tích này vẫn được duy trì ổn định từ ngày thành lập. Theo chia sẻ của HTX, mặc dù quan tâm tới cây ăn quả đặc sản nhưng HTX luôn quán triệt các thành viên ổn định diện tích trồng nhãn theo chỉ đạo của tỉnh, của huyện, tập trung vào việc nâng cao năng suất, chất lượng và sản xuất an toàn. Ngay từ sau vụ nhãn năm 2018, các thành viên của HTX đã được tập huấn kỹ thuật chăm sóc phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cây nhãn như: Chăm sóc nhãn sau thu hoạch, cách tỉa cành, làm cỏ, bón phân theo từng giai đoạn của cây… Nhờ đó mỗi cây nhãn đều được “hưởng chế độ” chăm sóc tốt nhất, cây khỏe mạnh, đón được thời điểm thích hợp để trổ hoa, kết quả.

Theo chia sẻ của HTX, do thời tiết năm nay nắng ấm kéo dài làm cho nhãn có thể không ra hoa hoặc chậm ra hoa. Để khắc phục hiện tượng trên, ngay sau khi thu hoạch cần tỉa bớt cành - đây là công đoạn chăm sóc bắt buộc mà bất kỳ nhà vườn nào cũng phải thực hiện và phải hoàn thành càng sớm càng tốt.

Ông Nguyễn Quang Hải - thành viên HTX, cũng là cán bộ kỹ thuật của HTX chia sẻ: Chúng tôi rất vui mừng khi năm nay toàn bộ diện tích nhãn của các thành viên trong hợp tác xã đều ra hoa, đậu quả. Đến nay, HTX đã tổ chức 2 buổi chuyển giao kỹ thuật chăm sóc nhãn, cùng với đó hàng ngày, hàng tuần các thành viên đều gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm trực tiếp với nhau ngay tại vườn.

Thành viên làm vườn giàu kinh nghiệm của HTX nhấn mạnh, công đoạn tỉa tán, bón phân phục hồi cho cây nhãn sau thu hoạch phải hoàn thành trước tháng 10 âm lịch để khống chế không cho cây nảy lộc đông. Liền sau công việc này là xới, xáo gốc, vệ sinh vườn sạch sẽ, đến khoảng 25.10 âm lịch cần phun bổ sung phân bón kali cho nhãn. 20 ngày sau cần tiến hành phun thuốc kích thích phát triển mầm; sau 40 ngày phun lại lần 2. Bên cạnh đó cân đối dinh dưỡng, nguồn nước tưới. Nếu thực hiện tốt các biện pháp trên, tỷ lệ nhãn ra hoa, đậu quả sẽ cao. Quan trọng nữa trong việc chăm sóc nhãn là việc bổ sung phân bón thường xuyên, ưu tiên các loại phân bón hữu cơ để cây bền, đất tốt.

Nhờ những kinh nghiệm, sự tìm tòi học hỏi của mỗi thành viên trong hợp tác xã, những vườn nhãn sai hoa, đậu quả đã làm các thành viên HTX phấn khởi. Để có vụ nhãn thắng lợi, HTX và các thành viên sẽ còn nhiều việc phải làm, phải sẵn sàng ứng phó với khó khăn về thời tiết, sâu bệnh trong những tháng tới. Song có thể tin tưởng rằng đây sẽ là khởi đầu tốt đẹp để HTX phát triển.

Thời gian tới, HTX phấn đấu đạt 100% diện tích sản xuất được cấp giấy chứng nhận VietGAP, từng bước mở rộng diện tích sản xuất cây ăn quả ra các vùng có điều kiện phù hợp, kết nạp thêm các thành viên mới, hướng tới sản xuất an toàn, bền vững.

PV

Sóc Trăng: Dưa hấu ở Mỏ Ó trúng mùa - được giá

Nguồn tin: Báo Sóc Trăng

Vụ dưa hấu chính vụ của bà con ấp Mỏ Ó, xã Trung Bình (Trần Đề) hiện đang trong giai đoạn cuối vụ thu hoạch, với năng suất bình quân đạt trên 5 tấn/công. Niềm vui “trúng mùa” lại được nhân lên khi trái dưa hiện đang “được giá”, dù cuối vụ nhưng vẫn ổn định ở mức giá từ 8.300 đồng đến 8.800 đồng/kg, thậm chí trước đó một số ruộng dưa còn được thương lái mua “làm quen” với giá 9.200 đồng/kg. Đây là mức giá cao nhất từ trước đến nay, nông dân phấn khởi vì thu nhập tăng cao.

Đi trên tuyến Quốc lộ Nam Sông Hậu dễ dàng nhìn thấy từng đống dưa hai bên đường được các thương lái thu mua, rồi đóng thùng chất lên xe vận chuyển đi các tỉnh, thành khác để tiêu thụ. Bên dưới tuyến lộ là những khu đất ven đê lấn ra biển sau tuyến rừng phòng hộ bạt ngàn, những ruộng dưa hấu xanh mướt như làm dịu đi cái nắng oi bức của buổi trưa những ngày trung tuần tháng 3. Hiện nay, nhờ nguồn nước sinh hoạt nông thôn rộng khắp, bà con đã chủ động được nguồn nước sản xuất, lại an toàn cho sản phẩm nên bà con ở Mỏ Ó trồng 3 vụ dưa hấu/năm. Đây là vụ dưa chính vụ nên bà con xã viên của Hợp tác xã Rau màu Mỏ Ó trồng khoảng 23ha dưa hấu. Theo nông dân thì vụ dưa này không chỉ trúng mùa mà lại trúng giá. Bình quân năng suất trên 5 tấn dưa/công, sản lượng ước đạt trên 100 tấn dưa.

Nông dân phấn khởi thu hoạch dưa vì trúng mùa, trúng giá.

Chủ tịch Hội Nông dân xã Trung Bình Trần Văn Cần đưa chúng tôi đến thăm ruộng dưa của gia đình chị Trần Thị Hảo. Qua trò chuyện được biết, để sáng ra có dưa kịp bán cho thương lái ở Cần Thơ, chị Hảo cùng mọi người trong gia đình đã phải đi cắt dưa từ 23 giờ đêm. Nhìn những trái dưa to tròn cắt sẵn khiến chúng tôi ngỡ ngàng bởi đến 90% số dưa hấu trái to khoảng từ 4kg đến 6kg, số còn lại là dưa nhỏ hơn nhưng cũng đạt khoảng 2kg/trái. “Dưa hấu của gia đình tôi đang được thương lái mua tại ruộng với giá 8.300 đồng/kg. Tiếc là năm nay tôi chỉ trồng 1,5 công chứ trồng nhiều thì vụ này trúng lớn. Nếu thu hoạch hết chỗ này cũng khoảng 8 tấn, trừ chi phí ít gì cũng lời trên 50 triệu đồng. Thu hoạch xong cải tạo đất khoảng 2 tuần tôi lại tiếp tục xuống giống dưa tiếp” - chị Hảo cười tươi cho biết.

Rời ruộng dưa của gia đình chị Hảo, chúng tôi đến ruộng dưa của anh Võ Văn Nhanh. Dưa rất xanh tốt, đậu trái nhiều nên chưa xuống đến ruộng đã thấy trái. Với kinh nghiệm trồng dưa lâu năm, anh Nhanh chia sẻ: “Trồng dưa khoảng 56 ngày cho thu hoạch. Khi dưa mới bò được hơn 1 gang tay thì cắt bỏ hết những bơi nhỏ để dưa ra đọt mới rồi sắp ngay ngắn lại, mỗi gốc để 2 dây chính nhưng chỉ lấy một trái, như vậy trái mới to. Để dưa trái to, đều, đẹp thì lúc dưa ra bông phải thụ phấn nếu không thì trái ra không đều và không đồng loạt. Với 2 công dưa ở vụ này thì cầm chắc 11 tấn, năng suất cao hơn những vụ trước rất nhiều, trừ chi phí chắc cũng còn lời trên 70 triệu đồng”.

Kế bên ruộng dưa của anh Nhanh là 3 công dưa của anh Triệu Văn Út chưa đến ngày thu hoạch nhưng cũng đang hứa hẹn bội thu. Do dưa đẹp cùng với thời điểm cuối vụ hút hàng nên anh Út bán được giá cao. “Vụ này tôi trồng 3 công dưa, ít gì cũng 15 tấn, chi phí mỗi công chỉ từ 7 triệu đồng đến 10 triệu đồng. Năm nay, không chỉ có thương lái ở Cần Thơ xuống mua mà còn thương lái ở các tỉnh: Bạc Liêu, Trà Vinh, Vĩnh Long cũng đến mua. Vì vậy, có khi hút hàng không có dưa mua. Ruộng dưa của tôi lái vô bỏ cọc 8.800 đồng/kg rồi đó, tính ra vụ này bán hết cũng cầm chắc hơn 100 triệu đồng sau khi đã trừ chi phí” - anh Út phấn khởi.

Nhờ thường xuyên được ngành chức năng tập huấn kỹ thuật canh tác nên hầu hết bà con trồng dưa ở Mỏ Ó chú trọng đến các khâu sản xuất an toàn từ chọn giống đến cách chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh. Bên cạnh đó, được ngành chức năng hướng dẫn kỹ thuật nên bà con đã tận dụng cây đậu phộng ủ phân hữu cơ để bón cho dưa tạo độ màu mỡ tơi xốp đất, giúp tăng năng suất, chất lượng. Một nguyên nhân khiến dưa ở Mỏ Ó có chất lượng hơn so với các địa phương khác đó là do đặc tính riêng biệt của đất vùng này rất đặc trưng. Theo đó, cũng cùng giống dưa như địa phương khác nhưng khi trồng tại vùng đất giồng cát ở Mỏ Ó thì dưa rất ngon, ngọt, mẫu mã đẹp có màu xanh bóng, ruột màu đỏ son và đặc biệt dưa có thể để được lâu ngày mà không lo bị hư. Với những ưu điểm đó nên được người tiêu dùng ưa chuộng và được thương lái ở khắp nơi tìm về mua với giá cao hơn so với các địa phương khác.

Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Trần Đề Trần Hoàng Dũng cho biết: “Để mang lại hiệu quả kinh tế cao cho nông dân, tạo thương hiệu cho sản phẩm dưa hấu ở Mỏ Ó, chúng tôi đang tiến hành đăng ký nhãn hiệu, hỗ trợ bà con đăng ký chương trình mỗi xã một sản phẩm và làm các thủ tục để gửi Chi cục Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản Sóc Trăng làm chứng nhận đủ điều kiện an toàn thực phẩm. Qua đó, từng bước nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị và uy tín các sản phẩm dưa hấu Mỏ Ó trên thị trường”.

K.Thoa

Giải ‘bài toán’ quy hoạch vùng trồng cây ăn quả

Nguồn tin: Báo Lào Cai

Những năm qua, câu chuyện người dân đổ xô trồng một số loại cây ăn quả theo phong trào dẫn đến nguồn cung thừa, khiến giá bán xuống thấp phải đổ bỏ hoặc bị tư thương ép giá đã xảy ra. Có thể câu chuyện buồn này vẫn tiếp diễn nếu các địa phương và cơ quan chức năng không quản lý tốt quy hoạch, để nông dân tăng diện tích cây ăn quả tự phát.

Diện tích chuối mô tăng cao khiến nguồn cung vượt cầu.

Chuyện từ cây mận Tam hoa đến cây chuối mô

Trở lại những năm 1996 - 2000, hẳn nhiều người còn nhớ hình ảnh cứ đến mùa thu hoạch mận Tam hoa, người dân Bắc Hà lại phải đổ bỏ hoặc để rụng hàng trăm tấn quả vì giá bán quá thấp.

Anh Lục Xuân Trường, ở thôn Nậm Sắt 2, thị trấn Bắc Hà (huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai) nhớ lại: Thời điểm năm 1996, cây mận Tam hoa “hái ra tiền”, 1 kg quả bán với giá 6.000 đồng, trong khi gạo ngon chỉ có 3.000 đồng/kg, nên nhà nhà đua nhau trồng mận Tam hoa. Ban đầu chỉ có vùng thị trấn Bắc Hà trồng với diện tích gần 200 ha, rồi theo từng năm, diện tích tăng cấp số nhân và lan rộng ra các xã Bản Phố, Tà Chải, Na Hối, Thải Giàng Phố, Lầu Thí Ngài… Đến năm 2000, diện tích mận Tam hoa của huyện Bắc Hà đã tăng lên 2.000 ha và sản lượng quả đạt trung bình khoảng 140 nghìn tấn, từ đó, câu chuyện khủng hoảng thừa xuất hiện. Giá mận Tam hoa tại vườn có thời điểm chỉ ở mức 500 đồng đến 1.000 đồng/kg. Lúc này, hàng nghìn hộ trồng mận ở Bắc Hà lâm vào cảnh để thì lỗ vốn mà chặt bỏ lại không đành, cuối cùng vẫn phải chặt bỏ mận để quay về với cây ngô hoặc cây trồng khác. Đến năm 2010, diện tích cây mận Tam hoa giảm xuống còn 500 ha, lúc đó giá mận mới dần phục hồi và người trồng có lãi.

Còn câu chuyện về cây chuối mô cũng tương tự. Cây chuối mô bắt đầu bén rễ ở xã Bản Lầu, huyện Mường Khương từ năm 1999 và đã góp phần giúp người dân nơi đây xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu. Cây trồng này nhanh chóng khẳng định được ưu thế và trở thành hàng hóa xuất khẩu mang lại giá trị kinh tế cao. Từ chỗ chỉ có hơn 270 ha tập trung ở Bản Lầu, cây chuối mô dần phát triển ra các xã khác như Nậm Chảy, Lùng Vai (Mường Khương); Bản Phiệt, Bản Cầm (Bảo Thắng), Cốc Mỳ, Bản Qua (Bát Xát) với tổng diện tích lên đến hàng chục nghìn ha.

Anh Liều Seo Lý, ở thôn Na Lốc 4, xã Bản Lầu kể: Những năm đầu trồng chuối, diện tích và sản lượng chưa nhiều nên chuối bán rất được giá, 1 ha chuối mang lại lợi nhuận khoảng 300 triệu đồng/năm. Tuy nhiên, càng ngày diện tích trồng chuối mô càng lớn kéo theo sản lượng chuối tăng nhanh trong khi đầu ra bấp bênh khiến giá xuống rất thấp.

Được biết, vào năm 2015, chuối ở Mường Khương và Bát Xát được thương lái Trung Quốc mua với giá từ 10 nghìn đến 25 nghìn đồng/kg nhưng đến đầu năm 2017 chỉ từ 4 nghìn - 5 nghìn đồng/kg, cuối năm chỉ mua 1 nghìn đồng/kg. Vậy là hàng trăm hộ phải bỏ mặc chuối chín trên cây không thu hoạch vì càng thu hoạch càng lỗ.

Có thể thấy nguyên nhân lớn nhất của những câu chuyện buồn về cây mận Tam hoa và cây chuối mô, cây dứa… là phát triển diện tích ồ ạt khiến nguồn cung vượt quá nhu cầu thị trường, trong khi việc tiêu thụ nông sản từ trước tới nay vẫn phụ thuộc nhiều vào thương lái và chủ yếu là qua hợp đồng miệng nên đầy rủi ro. Bên cạnh đó, người dân chỉ trồng theo phong trào mà không tính đến thị trường tiêu thụ.

Cần giải bài toán quy hoạch

Việc phát triển ồ ạt, tự phát các loại cây ăn quả không theo quy hoạch đang tiềm ẩn nhiều rủi ro về dư thừa sản phẩm, chất lượng chưa cao, khiến sản xuất thua lỗ. Vấn đề này liên quan đến việc tổ chức quy hoạch cây trồng của ngành nông nghiệp và chính quyền các cấp.

Cây dứa được đánh giá là có sự phát triển nóng.

Thực tế cho thấy, đa số nông dân trong tỉnh phát triển cây ăn quả theo “phong trào”, khi thấy cây gì dễ trồng, được giá thì ồ ạt trồng mà không nắm chắc tình hình thị trường, nhất là thị trường Trung Quốc. Hiện tại, các loại quả có sản lượng lớn của Lào Cai chủ yếu vẫn xuất sang thị trường này, nhưng việc ký kết các hợp đồng bao tiêu sản phẩm hầu như chưa thực hiện, nên chúng ta thường bị động, phụ thuộc, cuối cùng lại mắc vào vòng luẩn quẩn “trồng nhiều - sản lượng lớn - giá thấp”. Tình trạng trên không chỉ đối với cây chuối mô, cây dứa, mà có thể sẽ xảy ra với nhiều loại cây trồng khác trong tương lai như cam, bưởi, ớt…

Lý giải thêm về vấn đề này, ông Nguyễn Mạnh Thành, Trưởng phòng Trồng trọt, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lào Cai) cho biết: Là địa phương không thuộc quy hoạch vùng trồng chuối, dứa nhưng hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 2.195 ha cây chuối mô và khoảng 1.073 ha cây dứa, tập trung ở Mường Khương, Bát Xát, Bảo Thắng và thành phố Lào Cai. Toàn bộ diện tích hiện có do người dân tự phát trồng. Giai đoạn 2006 - 2010, khi diện tích chuối, dứa còn ít, giá cả ổn định nên nhiều hộ thu nhập từ 150 đến 500 triệu đồng/vụ, nhưng sau đó diện tích tăng quá nhanh, kéo theo sản lượng cũng tăng đột biến. Tính từ năm 2015 đến nay, sản lượng trung bình đạt gần 60 nghìn tấn chuối quả và 32 nghìn tấn dứa quả/năm. Việc tiêu thụ rất bấp bênh bởi chỉ một phần nhỏ phục vụ thị trường nội địa, còn trên 90% sản lượng chuối, dứa được bán cho thương lái Trung Quốc. Tuy nhiên, nông sản hầu hết bán tự do, không qua hợp đồng bao tiêu, giá cả phụ thuộc vào tư thương phía Trung Quốc nên không ổn định, có nhiều thời điểm thương lái dừng thu mua khiến nông dân thiệt hại rất lớn.

Trao đổi với phóng viên, ông Nguyễn Văn Hùng, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Lào Cai cho biết: Mặc dù tỉnh đã định hướng quy hoạch cho từng loại cây nhưng do các địa phương muốn tái cơ cấu, phát huy tiềm năng vốn có, cộng với việc người dân trồng cây theo “phong trào” khiến các loại cây ăn quả phát triển “vỡ” quy hoạch. Một nguyên nhân khác khiến việc kiểm soát quy hoạch khó thực hiện là do cơ chế quản lý đất đai đang giao quyền cho người nông dân là chính và chưa có chế tài theo định hướng.

Nhằm khắc phục những hạn chế của quy hoạch cây ăn quả, năm 2017, ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đã tham mưu cho UBND tỉnh thực hiện đề án tái cơ cấu ngành trồng trọt. Theo đó, vấn đề quy hoạch vùng trồng cây ăn quả được định hình cùng với chỉ dẫn địa lý làm cơ sở để sản xuất hàng hóa chất lượng cao, xây dựng nhãn hiệu… gắn với các chính sách ưu đãi về vốn, cơ chế thu hút doanh nghiệp thu mua, chế biến.

Mặc dù tỉnh đã có nhiều giải pháp, song đến nay, ngành trồng trọt nói chung và cây ăn quả nói riêng vẫn còn những bất cập như quy hoạch diện tích cây trồng chưa bám sát thị trường mà vẫn nặng về sản xuất lấy sản lượng; vấn đề kiểm soát và giám sát thực tiễn quy hoạch cây trồng chưa được các địa phương thực hiện nghiêm túc. Do vậy, để phát triển cây ăn quả bền vững, ngành nông nghiệp và các địa phương cần quản lý tốt quy hoạch để tạo ra vùng sản xuất tập trung, đồng thời linh động điều chỉnh cây trồng phù hợp theo nhu cầu thị trường hoặc tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật thực hiện rải vụ thu hoạch một số loại cây ăn quả nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao.

VŨ SƠN

Vĩnh Linh (Quảng Trị): Ngư dân xã Vĩnh Giang đánh bắt được cá thể Đồi mồi biển quý hiếm.

Nguồn tin: Báo Quảng Trị

Vào lúc 3h sáng nay 21.3.2019, trong khi đang đánh bắt cá trên sông Bến Hải, 1 cá thể rùa biển quý hiếm có tên trong Sách Đỏ của thế giới và Việt Nam đã bị mắc vào lưới của ngư dân Nguyễn Tiến Lực ở thôn Tùng Luật, xã Vĩnh Giang, huyện Vĩnh Linh (tỉnh Quảng Trị).

Hiện nay anh Lực đang chăm sóc đồi mồi biển để bàn giao cho các cơ quan chức năng tiến hành thả về môi trường tự nhiên

Sau khi phát hiện, anh Nguyễn Tiến Lực đã kịp thời đưa cá thể rùa biển về gia đình mình chăm sóc, bảo quản và trình báo lên cơ quan chức năng cùng chính quyền địa phương. Theo các ngư dân cao niên ở làng Tùng Luật thì đây là cá thể đồi mồi biển và lần đầu tiên ngư dân ở địa phương này bắt được. Qua tìm hiểu, đồi mồi là một trong những loài rùa biển hoang dã, quý hiếm, có tên trong Sách Đỏ thế giới và Việt Nam, nguy cơ tuyệt chủng cao, cần được bảo vệ nghiêm ngặt. Cá thể đồi mồi biển mà anh Lực bắt được có trọng lượng khoảng 20 kg và trên cơ thể có gắn định vị mang số hiệu 0182.

Hiện nay chính quyền địa phương xã Vĩnh Giang đã báo cáo lên các cơ quan chức năng để kiểm tra, đánh giá và tiến hành các bước thả đồi mồi biển về với môi trường tự nhiên.

Thời gian qua, ngư dân các địa phương ở tỉnh Quảng Trị liên tục đánh bắt được các loài động vật biển quý hiếm và đã kịp thời bàn giao cho lực lượng chức năng để thả về môi trường tự nhiên. Đây là những việc làm hết sức có ý nghĩa nhằm nâng cao ý thức cho cộng đồng trong hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học, nhất là đối với các loài động biển quý hiếm cần được bảo vệ nghiêm ngặt.

Nguyên Đồng - Nguyễn Trang

 Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop