Tin nông nghiệp ngày 24 tháng 05 năm 2021

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 24 tháng 05 năm 2021

Nhãn Châu Thành (Đồng Tháp): Thay đổi tư duy canh tác để phát triển bền vững

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

“Chuyện trồng rồi chặt” ở cù lao An Hòa

Nhắc đến cù lao An Hòa xã An Nhơn, huyện Châu Thành (tỉnh Đồng Tháp), nhiều người thường liên tưởng đến vùng chuyên canh nhãn bạt ngàn với giống nhãn nổi tiếng mang tên nhãn Châu Thành. Cù lao An Hòa nằm giữa dòng sông Sa Đéc và sông Tiền. Với đặc điểm địa hình đặc biệt nên đất ở đây có nhiều phù sa kết hợp với đất cát, rất thích hợp để phát triển cây ăn trái, đặc biệt là cây nhãn. Theo nhiều lão nông ở vùng đất này, từ khoảng những năm 50 – 60 của thế kỷ trước thì cây chôm chôm mới chính là loại cây trồng chủ lực đem lại cuộc sống khấm khá cho nông dân xứ cồn.

Nhiều nhà vườn trồng nhãn ở cù lao An Hòa quan tâm đến việc đẩy mạnh sản xuất theo quy trình để nâng cao chất lượng cho trái nhãn Châu Thành

Ông Nguyễn Văn Thuận (SN 1968) hiện là Chủ nhiệm Canh Tân Hội quán, xã An Nhơn, huyện Châu Thành tâm sự: “Khi tôi mới 8 – 9 tuổi thì đã thấy cây chôm chôm bám rễ ở xứ này. Nhiều nhà vườn xứ tôi giàu lên cũng nhờ cây chôm chôm nhưng rồi tới thời điểm nhà nhà trồng chôm chôm, người người trồng chôm chôm, giá chôm chôm bắt đầu rớt thảm nên đến khoảng những năm 80 gia đình tôi và một số nhà vườn lân cận bắt đầu chuyển sang trồng nhãn long”.

Cũng giống như chôm chôm, cây nhãn long phát triển khá thuận ở khu vực đất cồn. Thời đó, vì là mặt hàng mới lạ nên khi xuất hiện trên thị trường nhãn long rất được người tiêu dùng yêu thích và giá cũng rất cao.

Khi nhắc về cây nhãn long - một loại cây trồng từng mang lại kinh tế sung túc cho nhiều gia đình ở cù lao An Hòa, đôi mắt ông Thuận ánh nên niềm tự hào: “Tôi còn nhớ những năm đó, khi vàng vẫn còn giá 200 – 300 ngàn đồng/chỉ thì hái một giỏ xách nhãn lớn, bà xã tôi đã mua được 2 chỉ vàng. Cũng nhờ cây nhãn long mà cuộc sống gia đình của tôi bắt đầu khấm giá, có tiền cất nhà khang trang. Tuy nhiên, cũng giống như chôm chôm, phát triển thuận lợi được vài năm thì ngày càng có nhiều nhà vườn trồng nhãn long, từ chỗ ít cạnh tranh, bán giá cao thì những năm sau đó giá nhãn long cũng bắt đầu “lao dốc không phanh”.

Khoảng những năm 1995 – 1996, khi cây nhãn long dần mất đi vị thế và giá trị, ông Thuận và nhiều nông dân xứ cù lao lại bắt đầu công cuộc chuyển sang trồng cây nhãn tiêu da bò (hay còn gọi là nhãn tiêu quế). Câu chuyện về nhãn tiêu da bò được nông dân xứ cồn “viết” liên tục trong khoảng hơn 10 năm. Sau khoảng thời gian “thăng hoa”, nhãn tiêu da bò lại bước vào chu kỳ giảm giá sâu. Đi kèm với việc giá nhãn lao dốc thì dịch chổi rồng hoành hành cũng là nguyên nhân khiến cho nhiều nhà vườn ở xứ cù lao tìm hướng chuyển đổi cây trồng mới.

Sau biến cố với cây nhãn tiêu da bò, một vài nông dân ở xứ cù lao bắt đầu đi tìm kiếm những giống cây trồng mới. Trong đó, cây nhãn Idor (và sau này có tên là nhãn Châu Thành) là cây trồng được nhiều nông dân xứ cù lao yêu thích hơn hết. Nhãn Châu Thành là một giống nhãn mới do nông dân Phạm Hữu Hiện sưu tầm và nhân giống. Cũng giống như nhãn tiêu da bò, nhãn Châu Thành phát triển khá thuận lợi trên nền đất phù sa kết hợp cát pha ở miệt cồn. Ban đầu toàn cù lao An Hòa chỉ có một vài nhà vườn chuyển sang canh tác giống nhãn Châu Thành. Hiện nay có gần 80% diện tích canh tác của khu vực này đã được nông dân chuyển đổi sang trồng nhãn Châu Thành. Theo nhiều nhà vườn nơi đây, đối với những vườn nhãn trưởng thành, mỗi năm nhà vườn có thể thu hoạch từ 25 – 28 tấn/ha, lợi nhận bình quân khoảng trên 300 triệu đồng/ha. Nhãn Châu Thành không chỉ được thị trường nội địa ưa chuộng mà những năm gần đây được nhiều doanh nghiệp xuất khẩu nông sản đến thu mua xuất khẩu đi các thị trường khó tính như: Mỹ, Hàn Quốc, Châu Âu... đem lại cuộc sống sung túc cho nhiều nhà vườn xứ cồn An Hòa.

Sản phẩm nhãn Châu Thành không những được người tiêu dùng trong nước ưa chuộng mà còn được xuất khẩu đi nhiều thị trường khó tính

Thay đổi cây trồng không bằng thay đổi tư duy người trồng cây

Cũng giống như nhiều giống cây ăn trái khác từng bén rễ ở xứ cù lao An Hòa, thời gian gần đây, nhiều nông dân cảm thấy bắt đầu lo lắng khi cây nhãn Châu Thành đang có dấu hiệu bước vào thời kỳ khó khăn. Với đặc tính dễ canh tác, cho lợi nhuận cao nên những năm gần đây, nhãn Châu Thành không chỉ phát triển ở khu vực cù lao An Hòa của huyện Châu Thành mà còn đang được nhân rộng và phát triển mạnh ở nhiều tỉnh, thành khác ở đồng bằng sông Cửu Long.

Nông dân Nguyễn Thành Chiến (SN 1962) ngụ ấp Tân An, xã An Nhơn, huyện Châu Thành, thành viên Canh Tân Hội quán tâm sự: “Những năm qua, giá nhãn có dấu hiệu giảm mạnh, đặc biệt tình hình có phần căng thẳng khi dịch Covid-19 bùng phát toàn cầu. Từ đầu năm 2020 đến nay, thị trường xuất khẩu thì đóng băng trong khi thị trường nội địa thì nhãn ùn ứ, có những thời điểm giá nhãn xuống còn 12 ngàn – 15 ngàn đồng/kg, trong khi giá thành sản xuất đã 11 ngàn – 12 ngàn đồng/kg. Giờ ở địa phương, nếu nhà vườn nào sản xuất diện tích lớn thì có thể còn cầm cự được chứ diện tích chừng 1 – 2 công thì không thể sống nổi nhờ trồng nhãn nữa. Rất nhiều nhà vườn có diện tích ít đã chặt nhãn và chuyển đổi sang trồng những loại cây trồng khác. Dù trước mắt tình hình thị trường tiêu thụ nhãn có khó khăn nhưng tôi nghĩ rằng, dù tiếp tục gắn bó với cây nhãn Châu Thành hay chuyển sang loại cây trồng khác thì điều quan trọng bây giờ là phải làm là thay đổi cách canh tác, phải sản xuất sạch trước đã rồi mới nghĩ tới chuyện đòi hỏi giá cả”.

Nghĩ là làm, từ nhiều năm qua, với quyết tâm theo đuổi tư duy sản xuất nông nghiệp sạch, năm vừa qua hơn 0,7ha nhãn Châu Thành của ông Chiến đã chính thức được cấp chứng nhận VietGAP. Không dừng lại ở chuyện làm ăn một mình, ông Chiến đang phối hợp với chính quyền địa phương vận động một số nhà vườn tâm huyết ở ấp Tân An để thành lập Tổ hợp tác sản xuất nhãn ấp Tân An, cùng nhau sản xuất nhãn theo quy trình sạch để từ đó có thể thuận lợi kết nối với doanh nghiệp cung cấp vật tư đầu vào và kết nối với doanh nghiệp tiêu thụ thì mới có thể phát triển kinh tế bền vững với cây nhãn Châu Thành.

Nhãn Châu Thành dù đã được xuất khẩu đi các thị trường khó tính, song có một thực trạng là diện tích nhãn được sản xuất theo quy trình có chứng nhận đạt tiêu chuẩn vẫn còn khá khiêm tốn. Theo thống kê của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Châu Thành, hiện toàn huyện có khoảng 3.766ha canh tác nhãn, tuy nhiên chỉ có 113,3ha nhãn được cấp chứng nhận VietGAP và 19ha đạt chứng nhận GlobalGAP. Đây là một trong những “điểm nghẽn” lớn khiến cho nhãn Châu Thành vẫn còn khó kết nối được với các doanh nghiệp thu mua.

Ông Võ Đình Trọng - Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Châu Thành cho biết, thời gian qua với sự vào cuộc mạnh mẽ của các cấp chính quyền, nhiều nông dân đã có những thay đổi rõ rệt về tư duy sản xuất nhãn. Điển hình là diện tích nhãn sản xuất theo quy trình ngày một được mở rộng. Bên cạnh những tín hiệu tích cực thì vẫn còn nhiều nhà vườn chưa quan tâm nhiều đến việc phải thay đổi tư duy sản xuất, ngại kết nối và làm việc tập thể. Điều này đã ít nhiều ảnh hưởng đến việc thực hiện chuỗi liên kết ngành hàng nhãn ở địa phương.

Để tháo gỡ những nút thắt đó, thời gian qua, huyện Châu Thành đã phối hợp với các viện, trường, ngành chức năng thực hiện các mô hình về chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến trong canh tác nhãn cho nông dân. Ngành nông nghiệp huyện cũng đang phối hợp với Chi Cục Bảo vệ thực vật tỉnh để tiến hành xin cấp thêm mã vùng xuất khẩu cho cây nhãn, nhằm tạo sự thuận lợi hơn cho cây nhãn xuất khẩu ở các thị trường khó tính. Bên cạnh chú trọng nâng chất cho trái nhãn tươi xuất khẩu thì địa phương cũng đang hướng đến kêu gọi doanh nghiệp đầu tư chế biến đối với trái nhãn. Bởi vì thực tế chính việc chỉ tập trung vào bán sản phẩm thô thiếu hụt các sản phẩm chế biến là nguyên nhân khiến cho trái nhãn Châu Thành khó tạo được lợi thế cạnh tranh. Điều quan trọng bây giờ là không phải chuyển sang trồng cây gì tiếp theo mà nông dân cần phải thay đổi tư duy canh tác, cần phải mở rộng diện tích sản xuất sạch và hướng đến chế biến nhiều hơn. Chỉ có con đường đó thì mới có thể giúp trái nhãn Châu Thành khai thác được hết giá trị tiềm năng vốn có và phát triển bền vững.

Mỹ Lý

Hưng Yên: Phòng trừ sâu, bệnh gây hại nhãn

Nguồn tin: Báo Hưng Yên

Hiện nay, trên các diện tích trồng nhãn, sâu đục cuống quả gây hại cục bộ, chủ yếu ở những vườn phòng trừ không tốt, tỷ lệ hại nơi cao 3-5% số quả. Ngoài ra, bệnh thán thư phát sinh và gây hại rải rác.

Theo dự báo của Chi cục BVTV tỉnh Hưng Yên, thời gian tới, bệnh sương mai, thán thư, rệp sáp… tiếp tục gây hại nhẹ ở những vườn nhãn mật độ trồng dày. Các nhà vườn cần phòng trừ bệnh sương mai, thán thư tái nhiễm ở giai đoạn quả non bằng thuốc Phytocide 50WP, Jack M9 72 WP, Ridomil 68WG, Dosay 45WP. Phòng trừ rệp sáp, rệp muội, bọ phấn nơi có mật độ cao bằng các thuốc Movento 150 OD, Radiant 60SC.

Đào Ban

Thu 300 triệu đồng từ 250 cây vải u hồng

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

Hiện nay, vườn vải u hồng hơn 250 cây (tương đương 1,5 ha) của ông Nguyễn Văn Nuôi, bon Păng Sim, xã Trường Xuân (Đắk Song, tỉnh Đắk Nông) đang bước vào mùa thu hoạch. Năm nay, vườn vải vừa sai quả, vừa được giá. Ông Nuôi dự kiến sản lượng vải đạt 20 tấn quả, thu về khoảng 300 triệu đồng trừ chi phí.

Vườn vải u hồng của gia đình ông Nuôi trồng đã hơn 16 năm. Hành trình đến với cây vải của ông Nuôi ban đầu cũng rất vất vả. Năm 2004, gia đình trồng 180 cây vải giống u hồng, nhưng sau 5 năm vẫn không ra quả.

Vườn vải u hồng trĩu quả của ông Nguyễn Văn Nuôi cho thu nhập cao

Do đó, ông đã đi nhiều nơi để học hỏi kinh nghiệm. Ông mời kỹ sư từ thành phố Hồ Chí Minh về tận vườn tư vấn, hướng dẫn và áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăm sóc thì vườn vải mới bắt đầu ra quả. Trong quá trình chăm sóc, ông mất thêm 3 năm nữa để nghiên cứu và áp dụng thêm kiến thức, vườn vải mới cho thu hoạch đều đặn.

Trong 8 năm qua, mỗi năm, vườn vải u hồng của ông Nuôi đều cho thu hoạch từ 15-25 tấn quả, lãi hàng trăm triệu đồng. Một trong những thuận lợi đó là vườn vải của ông Nuôi cho thu hoạch vào đầu tháng 5 dương lịch và kéo dài khoảng 1 tháng.

Khi vườn vải của gia đình ông thu hoạch xong, các vựa vải ở các tỉnh phía Bắc mới thu hoạch, nên giá bán thường ở mức cao, dễ tiêu thụ. Hiện nay, ông Nuôi đang bán sỉ với giá 30.000- 35.000 đồng/kg vải tươi. Vườn vải được gia đình ông Nuôi trồng theo quy trình sạch, nên quả đẹp, mui dày, hạt nhỏ, vị ngọt vừa phải, người tiêu dùng rất ưa chuộng.

Theo ông Nuôi, vải u hồng thường mắc các bệnh thán thư, sâu cuốn, quả bị chua… Do đó, khi trồng loại vải này, bà con nên đề phòng bệnh bằng cách dùng vôi, các loại thuốc sinh dược khác.

Muốn quả vải có vị ngọt, bà con phải bón lượng kali vừa đủ cho cây. Khâu khó nhất trong chăm sóc là để vườn vải sai trái, người trồng phải áp dụng kỹ thuật ức chế ra hoa. Đối với vải u hồng, nhiệt độ từ 15-17 độ C mới phù hợp cho cây ra hoa. Do đó, nếu thời tiết nắng nóng, bà con phải áp dụng biện pháp khoa học kỹ thuật để làm mát cho vườn. Trước thời kỳ ức chế ra hoa, bà con có thể sử dụng hệ thống tưới phun sương, tưới nhỏ giọt để giải nhiệt cho cây.

Năm nào thời tiết lạnh nhiều thì cây vải ra hoa nhiều. Ở thời điểm đang áp dụng kỹ thuật ức chế cây ra hoa thì không cần tưới nước, nhưng thời điểm nuôi hoa, nuôi trái cần tưới nước nhiều hơn.

Vườn vải của gia đình ông Nuôi là mô hình đem lại giá trị kinh tế cao, góp phần chuyển đổi cây trồng trên địa bàn xã Trường Xuân. Là người đầu tiên trên địa bàn xã Trường Xuân trồng vải u hồng và có nhiều kinh nghiệm, nên ông Nuôi luôn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm cho mọi người.

Vải U Hồng được đóng thùng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước

Nhiều năm nay, gia đình ông Nuôi đã mở cửa vườn vải cho mọi người đến tham quan, trải nghiệm miễn phí. Chị Lê Thị Hồng Nhung, ở thành phố Gia Nghĩa, cho biết, chị đã đến tham quan vườn vải của ông Nuôi.

"Vườn vải rất sai quả, chất lượng không thua kém so với các loại vải ở phía Bắc. Đến đây chúng tôi rất thích thú, chụp nhiều ảnh và mua vải về biếu người thân”, chị Nhung chia sẻ.

Theo ông Nuôi, khi mọi người đến tham quan vườn vải, ai cũng mua một ít quả. Điều này giúp ngày càng có nhiều người biết đến vườn vải của gia đình, quan trọng hơn là khâu tiêu thụ sản phẩm được thuận lợi hơn.

Trước đây, gia đình ông Nuôi chủ yếu bán vải ra thị trường các tỉnh Đắk Lắk, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước. Thế nhưng, nhờ có nhiều người dân trong tỉnh biết đến, nên sản phẩm vải của ông được tiêu thụ trong tỉnh nhiều hơn.

Vào thời điểm đầu mùa vụ thu hoạch vải, ông Nuôi thuê 6 người thu hái, mỗi ngày khoảng 1 tấn quả. Khi vào thu hoạch rộ, gia đình ông cần tới 20 người hái vải, với công hái mỗi ngày từ 200.000 - 250.000 đồng/người, tùy vào từng công việc.

Bài, ảnh: Thanh Nga

Gia Lai phát triển 20 ngàn ha cây dược liệu vào năm 2030

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai vừa ban hành quyết định phê duyệt Đề án bảo tồn và phát triển cây dược liệu trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Diện tích cây đinh lăng đang phát triển tốt. Ảnh: Hà Tây

Theo đó, đến năm 2025, toàn tỉnh sẽ trồng 10.000 ha cây dược liệu; năm 2030 trồng 20.000 ha (11.300 ha dưới tán rừng, 8.700 ha trên đất nông nghiệp). Các loại dược liệu được lựa chọn gồm: mật nhân, hà thủ ô, sa nhân tím, đẳng sâm, đương quy, ba kích, đinh lăng, nghệ vàng, sả, gừng...

Cây dược liệu được ưu tiên phát triển tại các địa phương có tiềm năng, lợi thế như: Kbang, Đak Đoa, Mang Yang, An Khê, Chư Sê, Chư Pưh, Chư Prông, Ia Pa. Tổng nhu cầu vốn khoảng 5.200 tỷ đồng (giai đoạn 2021-2025 là 3.310 tỷ đồng; giai đoạn 2026-2030 là 1.890 tỷ đồng). Trong đó, vốn ngân sách nhà nước khoảng 477 tỷ đồng và vốn ngoài ngân sách là 4.723 tỷ đồng.

LÊ NAM

Đắk Lắk: Bí đỏ ‘bí’ đầu ra: Nông dân khốn đốn

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Vì thấy giá bí đỏ vụ trước cao ngất ngưởng (13.000 - 14.000 đồng/kg), không ít nông dân chuyển sang trồng bí. Thế nhưng thời điểm thu hoạch ở một số địa phương lại trúng vào đợt dịch COVID-19 bùng phát mạnh, dẫn đến tình trạng sản phẩm không bán được.

Anh Nguyễn Hoàng Tình (thôn Nam Hòa, xã Dray Bhăng, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk) thẫn thờ nhìn 2 ha bí đỏ đã đến kỳ thu hoạch, năng suất đạt khoảng 30 tấn/ha, nhưng không có ai mua. Anh Tình cho hay, trước đây anh trồng khoai lang, nhưng thấy bí đỏ dễ trồng, giá cao nên anh chuyển sang trồng bí được hai vụ. Vụ trước, đầu ra khá ổn, nhưng vụ này thì lại không có đầu ra. Tính cả tiền thuê đất thì anh đã đầu tư hết 50 triệu đồng/ha. Giờ sản phẩm bán không được, anh coi như là mất trắng.

Ông Nguyễn Sĩ Nghĩa (buôn Mtá, xã Ea Bhốk, huyện Cư Kuin) thu hoạch bí đỏ bảo quản trong nhà kho.

Tương tự, ông Nguyễn Sĩ Nghĩa (buôn Mtá, xã Ea Bhốk, huyện Cư Kuin) cho biết, trước đây gia đình ông trồng gừng, nhưng thấy một số thương lái nói giá bí đỏ đang cao nên ông mua giống, chuyển 1 ha sang trồng bí, với chi phí đầu tư hết 60 triệu đồng. Thế nhưng đến khi bí cho thu hoạch, năng suất đạt 30 tấn/ha thì không có thương lái nào thu mua do tình hình dịch bệnh, sản phẩm không tiêu thụ được. Hiện tại, gia đình ông phải thu hoạch về bỏ trong nhà để dọn đất làm vụ mới mà không biết đến khi nào sản phẩm mới bán được.

Theo Phòng NN-PTNT huyện Cư Kuin, diện tích trồng bí đỏ trên địa bàn huyện khoảng 25 ha, tập trung chủ yếu ở xã Hòa Hiệp. Hiện người dân cơ bản đã thu hoạch xong, giá bán đầu vụ tầm 6.000 - 7.000 đồng/kg. Những diện tích người dân trồng muộn nên thu hoạch trúng thời điểm dịch COVID-19 bùng phát, giá xuống thấp và không bán được. Phòng cũng đã liên hệ một số đơn vị để giúp người dân tiêu thụ số bí còn ứ đọng.

Hội Nông dân huyện Cư Kuin tìm hiểu tình hình thực tế của nông dân trồng bí đỏ tại xã Dray Bhăng

Cũng trong tình trạng "bí" đầu ra, nhiều nông dân trên địa bàn huyện Ea Kar rơi vào tình trạng điêu đứng khi giá sản phẩm xuống quá thấp. Bà Phan Thị Lưu (thôn 19, xã Cư Bông, huyện Ea Kar) cho biết, gia đình bà trồng 4 sào bí đỏ. Gia đình đã đầu tư gần 20 triệu đồng, chưa kể công sức bỏ ra. Tuy nhiên, đến thời điểm thu hoạch thì gặp trúng mùa dịch khiến giá bí xuống thấp, các thương lái cũng không mặn mà thu mua. Hiện tại giá chỉ còn 1.500 đồng/kg, nhưng các thương lái còn kỳ kèo, chỉ lựa những quả đẹp mới mua. Gần cả chục tấn bí mà hiện giờ gia đình chẳng biết xử lý như thế nào, nguy cơ phải cắt bỏ hết khi mưa xuống.

Gần đó, 4 sào bí của ông Trần Thiên Phú (thôn 19, xã Cư Bông, huyện Ea Kar) đến thời điểm thu hoạch nhưng cũng không tìm được đầu ra. Theo ông Phú, gia đình đã đầu tư hết 20 triệu đồng, tuy giá rất thấp nhưng các thương lái cũng không đến mua, gia đình đang phải liên hệ các trại cá, trại nuôi bò, heo rừng để bán được đồng nào hay đồng đó.

Được biết, tổng diện tích bí đỏ trên địa bàn huyện Ea Kar là 132 ha, tập trung ở các xã Cư Yang, Cư Bông, Ea Sô, Ea Tih, Ea Pal, Cư Ni... Năng suất bí khoảng 25 tấn/ha. Hiện nay thu hoạch được khoảng 50% diện tích. Người dân đang gặp khó khăn trong việc bán sản phẩm do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19. Sản phẩm không có thị trường tiêu thụ nên giá rẻ, bí chọn giá 3.000 – 4.000 đồng/kg, loại xô dưới 2.000 đồng/kg.

Ruộng bí đỏ đến kỳ thu hoạch của hộ ông Trần Thiên Phú (xã Cư Bông, huyện Ea Kar).

Theo thông tin của những địa phương có trồng bí đỏ, đối với loại cây này thì không xây dựng kế hoạch riêng cho gieo trồng, mà nằm trong khung kế hoạch sản xuất các loại rau. Vì vậy diện tích luôn biến động theo giá cả thị trường và có năm được giá, năm mất giá.

Năm nay, những vùng thu sớm thì giá cả và đầu ra ổn định hơn; những vùng trồng muộn, thu hoạch trúng thời điểm dịch COVID-19 thì sản phẩm bị ứ đọng, dù giá rất thấp nhưng cũng không bán được. Trước tình hình trên, Công ty Cổ phần Sản xuất và Dịch vụ nông nghiệp Hương Cao Nguyên mới đây cũng đã kết nối với một số hộ trồng bí đưa sản phẩm vào hệ thống siêu thị, nhưng số lượng không được nhiều.

Hiện công ty cũng kêu gọi một số đối tác kết nối với nông dân để tiêu thụ sản phẩm, hy vọng sẽ giúp người dân được hạn chế một phần thiệt hại. Tuy nhiên trước tình hình dịch bệnh, việc tìm kiếm đầu ra cho tất cả các loại nông sản đang là vấn đề khó khăn của các doanh nghiệp.

Ông Nguyễn Hoài Dương, Giám đốc Sở NN-PTNT cho biết, qua thông tin thì có tình trạng người dân một số địa phương trồng bí không có đầu ra. Sở đã giao cho phòng chuyên môn liên hệ các siêu thị, cửa hàng nông nghiệp giải quyết giúp người dân. Tuy nhiên, cái quan trọng hiện nay là phải khắc phục tình trạng sản xuất không gắn với thị trường. “Người dân cần hướng tới việc liên kết sản xuất, tạo ra nguồn sản xuất tập trung, sản xuất có chứng nhận. Khi đạt được những điều này thì sẽ tránh được tình trạng đầu ra không ổn định”, ông Dương nói.

Ông Nguyễn Lưu Tuệ, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Cư Kuin cho biết, trước tình trạng trên, Hội cũng đã hướng dẫn người dân tìm phương pháp bảo quản sản phẩm nhằm tìm kiếm thị trường sau đợt dịch này.

Thời gian tới, Hội sẽ chú trọng công tác phổ biến thông tin thị trường để bà con nắm bắt, không chạy theo giá cả để gieo trồng tự phát như hiện nay.

Minh Thuận

Triển vọng từ mô hình trồng bầu Nhật Bản

Nguồn tin: Báo Khánh Hòa

Sau hơn 1 năm xuất hiện ở Khánh Hòa, cây bầu Nhật Bản tỏ ra rất thích hợp và là một lựa chọn tốt trong quá trình chuyển đổi cây trồng của nông dân. Mô hình trồng bầu Nhật Bản ở xã Ninh Hưng, thị xã Ninh Hòa càng được kỳ vọng khi có sự phối hợp, liên kết giữa nông dân, doanh nghiệp, chính quyền và Liên minh Hợp tác xã (HTX) tỉnh.

Cây trồng thích hợp

Năm 2020, Công ty TNHH Thực phẩm Capsi đã thuê một khoảnh đất ở khu vực xã Vĩnh Trung, TP. Nha Trang để trồng thử nghiệm cây bầu Nhật Bản. Tại đây, doanh nghiệp đã trồng 340 dây bầu trên diện tích hơn 300m2. Ông Paul Edward - Giám đốc Công ty TNHH Thực phẩm Capsi cho biết: “Kết quả thu về rất tốt, cây bầu Nhật Bản thích hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng tại Khánh Hòa nên chỉ sau gần 2 tháng gieo trồng, cây đã bắt đầu cho trái. Cụ thể, mỗi dây có thể cho trái liên tục trong vòng 6 tháng. Tổng cộng một vòng đời, 1 dây bầu cho từ 8 đến 12 trái, mỗi trái nặng từ 9 đến 12kg. Không những đạt về năng suất, trong điều kiện chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật, chất lượng trái bầu to, tròn đều”.

Sau quá trình thử nghiệm, tháng 2-2021, Liên minh HTX tỉnh, Công ty TNHH Thực phẩm Capsi và UBND xã Ninh Hưng đã liên kết sản xuất giống bầu Nhật Bản trên địa bàn xã. Doanh nghiệp đã thuê 1.600m2 đất, gieo 1.600 dây bầu. Đến nay, cây phát triển tốt và bắt đầu ra hoa, đậu quả. Bà Nguyễn Thúy Lan - đại diện Công ty TNHH Thực phẩm Capsi tại Khánh Hòa cho biết, sau khi thu hoạch bầu, doanh nghiệp sẽ chế biến bằng cách thái thành sợi dày 3mm, bản rộng 3cm, sau đó phơi khô rồi đóng gói, một phần bán ra thị trường trong nước, còn phần lớn xuất khẩu sang Nhật Bản, Trung Quốc. Sợi bầu khô được dùng trong chế biến món ăn. Chẳng hạn ở Nhật Bản, sợi bầu được nấu với nước tương và đường, dùng cho món cơm cuộn sushi. Ở Việt Nam, sợi bầu có thể xào tỏi, kho thịt và nấu các món ăn chay.

Trái bầu nặng 9kg trồng thử nghiệm tại Nha Trang năm 2020.

Sẽ nhân rộng

Theo ông Đinh Văn Dũng - Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh, quá trình triển khai, mô hình đạt kết quả tốt; đơn vị đang làm cầu nối để doanh nghiệp chuyển giao quy trình, kỹ thuật canh tác và các thỏa thuận về thu mua sản phẩm cho nông dân, trước mắt là nông dân xã Ninh Hưng và các vùng lân cận. Doanh nghiệp đang xây dựng giá thu mua trái bầu tươi, dự kiến giá bán sợi bầu khô ở thị trường trong nước có thể lên tới 1 triệu đồng/kg. Các sản phẩm này phải đạt được các chỉ tiêu về chất lượng, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc.

Ông Paul Edward cho biết: “Hiện nay, sản phẩm từ quả bầu Nhật Bản của công ty rất được ưa chuộng tại thị trường Nhật Bản, Trung Quốc. Đứng trước yêu cầu về việc mở rộng sản xuất và đáp ứng thị trường tiêu thụ, cùng với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp, điều chúng tôi tâm đắc đó là nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện của chính quyền địa phương, Liên minh HTX Khánh Hòa. Đặc biệt, nông dân nơi đây siêng năng, chịu khó, thông minh. Chúng tôi hy vọng mô hình sẽ không ngừng phát triển về quy mô và chất lượng; đồng thời, chúng tôi sẵn sàng chuyển giao toàn bộ quy trình, kỹ thuật đến nông dân”.

Ngày 13-5, trong chuyến tham quan mô hình do Liên minh HTX tỉnh tổ chức, ông Nguyễn Tấn Tuân - Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh đã chúc mừng những thành công bước đầu của mô hình. Ông đề nghị Liên minh HTX tỉnh, UBND xã Ninh Hưng và doanh nghiệp đồng hành, khuyến khích, hỗ trợ nông dân trong việc tìm hiểu, học hỏi, sớm làm chủ quy trình, kỹ thuật sản xuất, coi đây là một trong những lựa chọn trong quá trình chuyển đổi cây trồng của địa phương.

Hồng Đăng

Thúc đẩy tiêu thụ nông sản trong bối cảnh dịch COVID-19

Nguồn tin:  Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Do dịch COVID-19, hoạt động tiêu thụ hàng nông sản gặp nhiều khó khăn. Ngành nông nghiệp đã bàn các giải pháp ứng phó.

Trước đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, thị trường tiêu thụ nông sản Việt Nam đứng trước khó khăn, thách thức. Trong ảnh: Thu hoạch tôm công nghệ cao tại xã An Ngãi, huyện Long Điền .

GIÁ NÔNG SẢN GIẢM SÂU

Chia sẻ về những khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm do ảnh hưởng của đại dịch COVID -19, ông Nguyễn Kim Chuyên, Giám đốc HTX Nông nghiệp Quyết Thắng (phường Long Hương, TP. Bà Rịa) cho biết, với 2ha nuôi tôm công nghệ cao, sản lượng trung bình mỗi vụ đạt khoảng trên 50 tấn tôm thẻ chân trắng. Toàn bộ sản phẩm này đều được DN thu mua để xuất đi nước ngoài. Tuy nhiên, khi dịch COVID-19 xảy ra, việc xuất đi nước ngoài bị ảnh hưởng nặng nề, do đó, DN thận trọng trong việc thu mua. Việc tôm đến kỳ xuất bán nhưng DN chậm thu mua, mặt khác khiến cho HTX phải tăng thêm chi phí, hồ nuôi phải bỏ trống.

Một trong những địa phương chịu ảnh hưởng nặng nề khi nông sản không tiêu thụ được do dịch bệnh xảy ra là vùng trồng thanh long của huyện Xuyên Mộc. Ước tính toàn huyện có khoảng 900ha trồng thanh long, tập trung chủ yếu tại xã Bông Trang và Bưng Riềng, sản lượng hàng năm khoảng 1.800 tấn. Hiện loại trái cây này vẫn đang chủ yếu được tiêu thụ tại thị trường Trung Quốc thông qua đường tiểu ngạch. Bà Nguyễn Thị Lý, xã Bưng Riềng, huyện Xuyên Mộc cho hay, cả năm nay người trồng thanh long tại địa phương đứng ngồi không yên khi giá liên tục giảm sâu, thậm chí có thời điểm thương lái không thu mua. “Không giống với các loại quả khác, thanh long là không thể “neo” trái trên cây lâu. Vì trái thanh long chín quá gặp mưa nắng thất thường như hiện nay sẽ nứt toác vỏ. Các cành đỡ cũng sẽ bị héo do bị vắt kiệt sức nuôi trái. Điều này sẽ ảnh hưởng đến năng suất thanh long các vụ tiếp theo”, bà Lý nói.

Theo dự báo của ngành nông nghiệp tỉnh, một số loại nông sản hè trên địa bàn tỉnh đang chuẩn bị bước vào vụ thu hoạch, nếu dịch bệnh diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, một số cửa khẩu đóng cửa sẽ dẫn đến các mặt hàng nông sản bị ùn tắc cục bộ. Nông dân thu hoạch tập trung và không tiêu thụ được số lượng nông sản lớn sẽ xảy ra tình trạng đổ bỏ nông sản, người sản xuất bị tổn thất về kinh tế. Hiện giá một số loại trái cây trên địa bàn tỉnh cũng đã giảm mạnh. Cụ thể, thanh long còn 20.000 - 30.000 đồng/kg, giảm 5.000 – 10.000 đồng; giá xoài cát Hòa Lộc 20.000-25.000 đồng/kg, giảm 40% so với cùng kỳ; các loại như chôm chôm, mít thái, sầu riêng, bơ đều giảm từ 10.000-40.000 đồng/kg. Đối với các loại thủy sản tiêu thụ nội địa, một số cơ sở đã giảm công suất chế biến khoảng 10 – 20%, không tăng ca, hoạt động cầm chừng để duy trì sản xuất nên nguồn cung đang có nguy cơ bị ùn ứ.

CẦN GIẢI PHÁP CẤP BÁCH

Hiện đang là thời điểm nhiều loại trái cây xuất khẩu chủ lực có tính mùa vụ trên cả nước như: vải, nhãn, chuối, thanh long, sầu riêng, bơ.... đang vào vụ thu hoạch. Tuy nhiên, trước diễn biến phức tạp của đại dịch COVID-19 các loại trái cây hè năm nay đối diện với nhiều khó khăn. Đặc biệt, trong đợt dịch COVID-19 lần thứ 4 bùng phát lan rộng tại 26 tỉnh, thành phố trên cả nước đã làm ảnh hưởng tới nhiều tuyến giao thông huyết mạch nối các tỉnh với các trung tâm kinh tế, thương mại, cửa khẩu. Nhiều sản phẩm nông sản đang vào vụ thu hoạch và Trung Quốc vẫn là thị trường tiêu thụ chính nên có nguy cơ gây áp lực lên việc xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trong thời gian tới. Bên cạnh đó, những tác động tiêu cực của dịch COVID-19 đã khiến chi phí sản xuất tăng cao, hoạt động kinh doanh nông sản bị đứt đoạn, áp lực chi phí lưu kho phục vụ bảo quản nông sản tăng, công tác thông quan, giao thương hàng hóa tại các cửa khẩu biên giới bị chậm do phải tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp, quy định phòng dịch.

Đứng trước những khó khăn và thách thức đó, tại hội nghị trực tuyến về thúc đẩy tiêu thụ nông sản trong điều kiện dịch bệnh COVID-19 diễn ra ngày 14/5 vừa qua, Bộ NN-PTNT và các bộ, ngành liên quan cùng các địa phương có vùng nguyên liệu lớn cây ăn trái đang và sắp cho thu hoạch đều đang tập trung xây dựng kế hoạch, giải pháp nhằm thúc đẩy tiêu thụ nông sản.

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam cho biết, Bộ NN-PTNT sẽ thành lập các tổ liên Bộ với Bộ Công thương, Bộ Tài chính để giải quyết kịp thời các vấn đề liên quan đến sản xuất cũng như cửa khẩu. Bên cạnh đó, Bộ NN-PTNT sẽ liên hệ với Bộ Ngoại giao để kết nối thông tin nhu cầu nông sản của mỗi nước thông qua các Đại sứ quán. Đặc biệt, Bộ sẽ có văn bản gửi đến các địa phương của Trung Quốc có cửa khẩu với Việt Nam để tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ nông sản trong thời gian tới. Tuy nhiên, các địa phương, DN cũng cần chủ động, sáng tạo, linh hoạt điều chỉnh kế hoạch sản xuất, phương thức kinh doanh để vừa thúc đẩy tiêu thụ nông sản, vừa đảm bảo phòng chống dịch COVID-19 theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ. Bám sát tình hình giá cả, lưu thông hàng hóa, kịp thời triển khai các biện pháp, vừa đẩy mạnh sản xuất đảm bảo nguồn cung hàng hóa trong nước, vừa thúc đẩy mở rộng thị trường xuất khẩu cả ở thị trường truyền thống và cả thị trường mới, nhiều tiềm năng; đảm bảo cân đối cung cầu thị trường nông sản, giảm thiểu thiệt hại về kinh tế cho DN và nông dân trước tác động của dịch COVID-19

Tại BR-VT, thời gian qua, thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, Sở NN-PTNT đã cập nhật các thông tin về thị trường, giá cả, các biện pháp phòng chống dịch COVID-19; tình hình xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu… Từ đó thông báo cho các địa phương, DN, HTX, cơ sở sản xuất, kinh doanh nông lâm sản và thủy sản trên địa bàn tỉnh để người sản xuất nắm rõ. Về giải pháp hỗ trợ cho người nông dân trong tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, ông Trần Văn Cường, Giám đốc Sở NN-PTNT cho biết: “Đơn vị cũng đã có kiến nghị, giải pháp về vấn đề này. Trong đó, Sở kiến nghị Ngân hàng Nhà nước tỉnh BR-VT “cơ cấu lại thời gian giãn nợ” cho cơ sở đang vay, đáo hạn, vay mới. Đề nghị giảm lãi suất cho vay đối với các DN, cơ sở (đặc biệt là các DNNVV) để các DN có nguồn vốn phục vụ tái sản xuất, duy trì sản xuất trong thời gian dịch bệnh xảy ra”.

Theo Bộ NN-PTNT, cần quan tâm đến giải pháp điều chỉnh sản xuất nông nghiệp, tăng cường chế biến, bảo quản, lưu thông để linh hoạt thích ứng với bối cảnh dịch bệnh. Trong đó, các nhà máy chế biến nông sản cần tăng cường công suất tập trung phân khúc hàng khô, sơ chế sản phẩm cấp đông, nước quả cô đặc, thủy sản đồ hộp chế biến, gạo, gia cầm chế biến,… để chuẩn bị tốt nhất phương án hậu dịch COVID-19 cho thị trường Trung Quốc, EU, Hoa Kỳ, đặc biệt khi mùa hè đã quay trở lại. Đồng thời, giảm thiểu mọi thủ tục trong các khâu kiểm tra, cấp giấy chứng nhận đạt chuẩn GAP; tổ chức liên kết sản xuất, lưu thông, tận dụng lực lượng lao động tại chỗ thực hiện ngay tại vườn giúp nông dân bán nông sản phục vụ trong nước, xuất khẩu, trước mắt là tổ chức tốt vụ vải, nhãn và các sản phẩm mùa vụ trong Quý II/2021. Ngoài ra, Bộ Công thương phối hợp chặt chẽ với Bộ NN-PTNT, Bộ Tài chính, UBND các tỉnh biên giới chỉ đạo các trạm kiểm dịch, hải quan tăng cường các biện pháp hỗ trợ hoạt động thương mại biên giới, tạo thuận lợi thủ tục thông quan, không để ứ đọng hàng hóa trên các tỉnh biên giới với Trung Quốc. Hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại nông lâm thủy sản, phát triển thị trường nội địa, tháo gỡ khó khăn cho hoạt động bán lẻ, kinh doanh thực phẩm, hàng nông sản.

Ngoài ra, Sở NN-PTNT cũng thường xuyên theo dõi sát tình hình sản xuất và lưu thông nông sản trên địa bàn tỉnh, không để bị ứ đọng cục bộ; kịp thời thông báo tình hình đến các DN và người sản xuất để chủ động trong điều chỉnh kế hoạch sản xuất và nhu cầu của thị trường tiêu thụ. Bên cạnh đó, Sở cũng tăng cường tổ chức các phiên chợ kết nối tiêu thụ sản phẩm nông lâm sản và thủy sản trên địa bàn tỉnh. Tăng cường hỗ trợ nông dân bán hàng qua các kênh thương mại điện tử trong thời kỳ dịch bệnh xảy ra phức tạp. Về lâu dài, Sở NN-PTNT sẽ tiếp tục thực hiện Quy hoạch ngành NN-PNTN đến năm 2030 theo hướng an toàn, đạt các tiêu chuẩn chất lượng trong nước và quốc tế, đây là điều kiện để loại đặc sản của tỉnh có thể xuất khẩu theo đường chính ngạch và mở rộng sang các thị trường mới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia… “Đặc biệt là tiếp tục khuyến khích bà con nông dân áp dụng khoa học công nghệ; tiêu chuẩn, quy chuẩn vào trong quá trình trồng để có nguồn nông sản chất lượng, đáp ứng yêu cầu các thị trường. Đồng thời, kêu gọi, khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư các nhà sơ chế, chế biến sâu sản phẩm nông sản sau thu hoạch nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng, tránh phải giải cứu nguyên liệu một cách bền vững”, ông Cường nhấn mạnh.

Bài ảnh: PHÚC HIẾU

Làm giàu từ mô hình trang trại tổng hợp

Nguồn tin: Báo Quảng Trị

Ở tuổi 50, anh Nguyễn Đông, hội viên nông dân thôn Tân Thuận, xã Tân Lập, huyện Hướng Hóa (tỉnh Quảng Trị) đã có quy mô trang trại chăn nuôi lợn khép kín cho thu nhập hàng tỉ đồng mỗi năm. Anh là một trong những tấm gương nông dân tiêu biểu trong phát triển kinh tế tại địa phương.

Mô hình chăn nuôi lợn mang lại hiệu quả kinh tế cao của gia đình anh Nguyễn Đông -Ảnh: NGỌC NHÂN

Kể về những ngày đầu lập nghiệp, anh Đông cho biết, năm 2001 từ vùng quê Triệu Thuận, Triệu Phong, anh cùng vợ và các con lên vùng kinh tế mới Tân Thuận sinh sống. Những năm đầu cuộc sống gia đình khó khăn, thiếu thốn trăm bề, 5 đứa con của anh chị đến tuổi ăn, tuổi học nên gia đình luôn thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo triền miên của xã. Không cam chịu hoàn cảnh, anh ngày đêm nghĩ cách, tìm hướng phát triển kinh tế phù hợp để cải thiện cuộc sống, chăm lo cho con cái học hành đàng hoàng.

Năm 2010, vợ chồng anh bắt đầu dựng xây trang trại nuôi lợn với quy mô nhỏ lẻ. Thời điểm này, giá cả thị trường bấp bênh, cộng với kỹ thuật chăn nuôi và nguồn vốn đầu tư còn hạn chế nên dịch bệnh hay xảy ra, hiệu quả kinh tế thấp. Năm 2014, anh Đông quy hoạch lại trang trại, đầu tư chăn nuôi lợn đồng bộ từ chuồng lồng cho lợn hậu bị, chuồng sàn cho lợn nái, chuồng úm lợn con, chuồng nền cho lợn thịt; hệ thống cho ăn cho uống tự động, kho chứa thức ăn; tủ thuốc thú y, hệ thống biogas xử lý chất thải, cổng, tường rào… và nâng quy mô đàn lên 60 lợn nái với giống tự nhân hoàn toàn. Hiện chỉ riêng doanh thu từ nuôi lợn của gia đình anh Đông khoảng 3 tỉ đồng mỗi năm, trừ các khoản chi phí còn lợi nhuận khoảng 1,5 tỉ đồng.

Bên cạnh chăn nuôi lợn trên quy mô lớn, gia đình anh Đông còn trồng thêm 5 ha chuối, 0,5 ha cà phê, 0,5 ha cao su và 1 ha sắn. Thời gian trồng chuối đã 10 năm cho khai thác, mỗi năm thu nhập 100 triệu đồng. Sau các đợt thiên tai cuối năm 2020, vườn chuối của gia đình bị ảnh hưởng đến nay đang trong thời kỳ khôi phục và tái sản xuất. Bên cạnh đó, diện tích đất trồng sắn 1 ha, đạt năng suất 25 tấn/năm, cho thu nhập 60 triệu đồng; 0,5 ha cao su, 0,5 ha cà phê trong thời kỳ khai thác, thu nhập khoảng 20 triệu đồng/năm. Ngoài ra, gia đình anh còn trồng các loại nấm sò, linh chi, mộc nhĩ thu nhập khoảng 50 triệu đồng/ năm. Bình quân hằng năm sau khi trừ các khoản chi phí đầu tư, gia đình anh có lợi nhuận hơn 2 tỉ đồng. Từ đó, kinh tế gia đình anh Đông ngày càng khấm khá, xây dựng được nhà cửa khang trang, mua sắm nhiều tiện nghi sinh hoạt, các con của anh chị tốt nghiệp đại học, có việc làm ổn định.

Với vai trò là Giám đốc Hợp tác xã chăn nuôi lợn Tiên Tiến với 9 thành viên tham gia, bản thân anh Đông luôn nhiệt tình giúp đỡ các thành viên trong hợp tác xã và nông dân trong vùng về kinh nghiệm sản xuất, hướng dẫn kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt phát triển kinh tế, vươn lên xóa đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng.

Năm 2016, anh cùng các hộ dân trong thôn đóng góp xây dựng 1 tuyến đường dài hơn 3 km với tổng trị giá 150 triệu đồng. Trong đó, gia đình anh Nguyễn Đông hiến 6 sào đất vườn và hỗ trợ 30 triệu đồng tiền mặt để xây dựng đường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại và sản xuất của người dân trong thôn, góp phần xây dựng nông thôn mới.

Từ những đóng góp thiết thực dành cho quê hương, từ năm 2010 đến nay gia đình anh Nguyễn Đông liên tục được nhận giấy khen của Huyện ủy, UBND huyện về gương nông dân điển hình học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh và sản xuất kinh doanh giỏi. Từ năm 2017 đến nay, gia đình anh đạt danh hiệu hộ sản xuất kinh doanh giỏi cấp tỉnh. Đặc biệt năm 2020, anh Nguyễn Đông được Chủ tịch UBND tỉnh tặng bằng khen vì đạt nhiều thành tích xuất sắc trong phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững, giai đoạn 2015 - 2020.

Nói về mô hình của hội viên Nguyễn Đông, Chủ tịch Hội Nông dân xã Tân Lập Nguyễn Trung Hiếu khẳng định: “Với quyết tâm cao, luôn năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, anh Nguyễn Đông đã xây dựng thành công mô hình kinh tế tổng hợp với thu nhập cao. Mô hình này đã phát huy được vai trò của người nông dân trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi, trồng trọt, định hình những con nuôi, cây trồng chủ lực của địa phương. Đồng thời, từ mô hình kinh tế của anh Đông góp phần nhân rộng phong trào nông dân làm kinh tế giỏi ở xã Tân Lập; là một điển hình để các hội viên, nông dân khác học tập và làm theo bởi không chỉ làm kinh tế giỏi, anh còn tích cực chia sẻ, giúp đỡ mọi người vươn lên trong cuộc sống”.

Ngọc Nhân

Ngành chăn nuôi với mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh

Nguồn tin: Báo Đắk Nông

Tỉnh Đắk Nông đang thực hiện chiến lược phát triển chăn nuôi theo hướng an toàn, bền vững để kiểm soát dịch bệnh, bảo vệ đàn vật nuôi, góp phần bảo đảm mục tiêu tăng trưởng của ngành nông nghiệp.

Chăn nuôi theo hướng an toàn

Năm 2016, gia đình ông Nguyễn Khắc Tăng, ở thôn Đắk Hà, xã Đắk Sắk (Đắk Mil) liên kết nuôi gà với Công ty CP Việt Nam. Ông Tăng bỏ vốn đầu tư hệ thống chuồng trại theo tiêu chuẩn quy định của công ty.

Đàn dê sinh sản của gia đình anh Đức được chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học

Về phía công ty cung cấp con giống, thức ăn, hỗ trợ kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm đầu ra cho ông Tăng. Mỗi lứa gà, ông Tăng nuôi trong khoảng 60 ngày. Khi mỗi con gà nặng khoảng 1,7-2 kg trở lên là xuất chuồng.

Công ty CP Việt Nam bao tiêu toàn bộ đầu ra và trả công nuôi cho ông Tăng. Theo tính toán của ông Tăng, với mức tiền công mà công ty trả là 8.000 - 10.000 đồng/con gà, sau khi trừ chi phí, mỗi lứa nuôi 20.000 con gà, ông có lãi hơn 150 triệu đồng.

Mỗi năm ông Tăng nuôi 4 lứa gà, mang về tổng thu nhập khoảng hơn 600 triệu đồng. Ngoài ra, ông còn có thêm nguồn phân gà để bán và chăm sóc cây trồng, giúp giảm chi phí sản xuất tầm 80 triệu đồng/năm.

Mô hình chăn nuôi gà đem lại hiệu quả kinh tế cao, ít rủi ro. Do đó, ông Tăng tiếp tục đầu tư thêm một trang trại nuôi gà, với mức kinh phí khoảng 1,3 tỷ đồng.

Theo ông Tăng, để được Công ty CP Việt Nam chấp nhận ký hợp đồng liên kết, người chăn nuôi phải thực hiện các điều kiện như: Xây dựng chuồng trại xa khu vực dân cư, đầu tư trang thiết bị đúng tiêu chuẩn và bảo đảm yếu tố về môi trường, cách ly mầm bệnh...

Còn anh Nguyễn Hồng Đức, ở thôn 9, xã Đắk N’drót (Đắk Mil), đã đầu tư chăn nuôi hơn 170 con dê. Anh Đức cho biết, năm 2017, gia đình anh bắt đầu nuôi dê khi thấy giá nông sản biến động mạnh.

Sau thời gian gây đàn, hiện nay anh duy trì 20 con dê mẹ sinh sản và 150 con dê thịt vỗ béo. Mỗi năm, anh có nguồn thu nhập khoảng 250 triệu đồng đã trừ chi phí. Để chủ động nguồn thức ăn cho dê, anh Đức trồng 6 sào cỏ.

Anh Đức chia sẻ, dê là giống vật nuôi có sức đề kháng tốt, nguồn thức ăn đa dạng, nên dễ sinh lời. Chỉ cần người nuôi nắm rõ cách chăm sóc, phòng bệnh và chăm dê sinh sản đúng cách, có thể sinh lời rất nhanh.

Chăn nuôi theo hướng an toàn là áp dụng các biện pháp kỹ thuật và quản lý nhằm ngăn ngừa, hạn chế sự lây nhiễm của các tác nhân gây bệnh có khả năng gây hại đến con người, gia súc, gia cầm và môi trường nuôi.

Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và PTNT, toàn tỉnh có 112 trang trại và hàng trăm hộ dân chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng an toàn. Người chăn nuôi đang có xu hướng chuyển từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi trang trại tập trung, quy mô lớn.

Hướng tới quy mô lớn, bền vững

UBND tỉnh Đắk Nông vừa ban hành Kế hoạch thực hiện chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2030. Theo đó, ngành chăn nuôi sẽ phát triển theo hướng bền vững, an toàn sinh học và kiểm soát tốt dịch bệnh, nâng cao sức cạnh tranh.

Ngành nông nghiệp sẽ nâng cao tỷ lệ sản phẩm chăn nuôi được sản xuất trong các trang trại, hộ chăn nuôi bảo đảm an toàn sinh học, dịch bệnh, bảo vệ môi trường.

Việc nâng cao tỷ trọng sản phẩm chăn nuôi được giết mổ tập trung công nghiệp, sơ chế, chế biến cũng được quan tâm, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Ngành chức năng cũng hoàn thiện các chính sách khuyến khích thúc đẩy chăn nuôi bền vững, hội nhập quốc tế.

Các loài vật nuôi sẽ được đa dạng hóa để phát huy lợi thế của từng tiểu vùng và nhu cầu đa dạng của từng thị trường. Chăn nuôi nông hộ được chuyển dần sang gia trại, trang trại, phát triển theo hình thức công nghiệp và công nghệ cao.

Tổ chức chăn nuôi sẽ được kiến thiết theo hình thức khép kín, liên kết giữa các khâu trong chuỗi giá trị để giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả và giá trị sản phẩm.

Mục tiêu ngành chăn nuôi đến năm 2025 đạt 39.500 tấn, trong đó thịt lợn chiếm từ 92% - 94%; thịt gia cầm chiếm từ 3% - 4%; thịt gia súc ăn cỏ chiếm từ 3% - 4%.

Theo Sở Nông nghiệp và PTNT, để đạt được mục tiêu trên, ngành nông nghiệp đang xây dựng và nhân rộng các mô hình phát triển hợp tác xã, các chuỗi liên kết liên quan đến lĩnh vực chăn nuôi.

Ngành nông nghiệp cũng thực hiện các mô hình, dự án chăn nuôi, qua đó đánh giá kết quả và nhân rộng cho người dân áp dụng. Việc kiểm soát môi trường và nâng cao hiệu quả xử lý chất thải chăn nuôi, áp dụng công nghệ khoa học trong xử lý chất thải chăn nuôi sẽ được quan tâm, chú trọng.

Bài, ảnh: Đức Hùng

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop