Tin nông nghiệp ngày 24 tháng 11 năm 2020

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 24 tháng 11 năm 2020

Khi cây trái đặc sản làm du lịch

Nguồn tin:  Báo Đắk Lắk

Những vườn cà phê, sầu riêng, mắc ca, bơ và rau quả sạch trên địa bàn Đắk Lắk là sản phẩm du lịch đặc sắc, khác biệt có sức thu hút du khách trong nước và quốc tế tìm đến trải nghiệm, khám phá. Nắm bắt nhu cầu và xu thế ấy, từ năm 2007 đã có không ít doanh nghiệp làm du lịch trên địa bàn tỉnh xúc tiến kết nối với nhiều hộ dân, đơn vị sản xuất các loại cây trồng đặc sản này để phục vụ hoạt động du lịch.

Gia tăng chuỗi giá trị cho cây trái

Theo Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Nguyễn Tuấn Hà, từ khi Lễ hội Cà phê Buôn Ma Thuột lần thứ 1 - năm 2007 được tổ chức thì ý tưởng gắn kết du lịch với các loại cây trồng đặc sản ở đây cũng được hình thành rõ nét. Việc thông qua hoạt động du lịch để gia tăng chuỗi giá trị cho ngành nông nghiệp là yêu cầu đặt ra trong mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đắk Lắk. Yêu cầu và mục tiêu ấy được các doanh nghiệp làm du lịch hưởng ứng và triển khai tích cực trong thời gian qua.

Công ty Đầu tư Thương mại - Du lịch Đam San là một trong những đơn vị tiên phong trong việc tổ chức các tour - tuyến du lịch trên và nhanh chóng thu hút sự chú ý của du khách khi đến Đắk Lắk. Ông Lê Hoàng Cơ, Tổng Giám đốc công ty chia sẻ: giai đoạn 2008 - 2015, sản phẩm du lịch trải nghiệm với cà phê được du khách tìm đến ngày càng nhiều. Một số vùng cà phê trọng điểm như Nông trường Thắng Lợi (huyện Krông Pắc), Cư Suê (Cư M’gar), Việt Đức (Cư Kuin)… là những địa chỉ mà công ty liên kết để đưa du khách đến tham quan. Ở đó, hầu hết du khách tỏ ra hài lòng vì sự mới mẻ và khác biệt từ sản phẩm du lịch này mang lại. Chỉ cần một ngày trải nghiệm, mọi người được sống và cảm nhận trọn vẹn đời sống của người trồng cà phê - từ bón phân, làm cỏ, tỉa cành… đến thu hái, chế biến và thưởng thức hương vị đặc sản ấy.

Một số đơn vị làm du lịch, hãng lữ hành ở Đắk Lắk như Công ty Cổ phần du lịch Đắk Lắk, Công ty Cổ phần du lịch văn hóa - cộng đồng Ko Tam, Công ty TNHH Du lịch khám phá Tây Nguyên, Đặng Lê, Cao Nguyên, Ngày Mới... cũng tham gia kích cầu, mở rộng tour - tuyến du lịch này đến với đông đảo mọi người. Những doanh nghiệp này cho đây là hướng đi mới, làm phong phú thêm sản phẩm du lịch ở địa phương, và hơn thế là tạo công ăn, việc làm cho hàng trăm nông hộ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển, thúc đẩy chuỗi giá trị gia tăng kinh tế cho ngành hàng chiến lược này.

Mô hình trồng cà chua công nghệ cao tại xã Ea Nuôl (huyện Buôn Đôn) của Công ty TNHH Ban Mê green Farm là điểm đến hấp dẫn du khách. Ảnh: T.Thanh

Anh Đặng Văn Huy - chủ trang trại cà phê sạch ở xã Cư Suê, huyện Cư M’gar cho biết: Nhờ liên kết với các đơn vị làm du lịch trên mà thương hiệu Cà phê Nam Ka của anh được nhiều người biết đến còn hơn cả một chiến dịch truyền thông, quảng cáo rầm rộ. Dưới góc độ kinh tế, việc kết hợp sản xuất cà phê với hoạt động du lịch đã thật sự mở ra triển vọng tốt đẹp cho người nông dân, nhất là khi giá cà phê rơi vào tình cảnh bấp bênh, sụt giảm. Theo anh Huy, nguồn thu từ du lịch mang lại cũng góp phần giải quyết những khó khăn trước mắt cho nhiều nông hộ làm cà phê cũng như các loại cây trồng đặc sản khác. Về lâu dài, đây là sản phẩm du lịch bền vững, hiệu quả không thua kém gì các tour - tuyến du lịch làng nghề ở các tỉnh, thành vùng đồng bằng Bắc Bộ hay đặc sản cây trái miệt vườn Nam Bộ.

“Thực tế cho thấy loại hình du lịch canh nông ở Đắk Lắk vẫn chưa đi vào quỹ đạo trên, vẫn xảy ra tình trạng tự phát, mạnh ai nấy làm khiến tiềm năng, thế mạnh ấy chưa được khai thác, phát huy đúng mức. Ví như cây cà phê chẳng hạn, bên cạnh những nguyên nhân như giá cà phê sụt giảm, vườn cây già cỗi cho năng suất thấp đã khiến nhiều nông hộ chặt bỏ, hoặc không muốn đầu tư bài bản và thật sự có chiều sâu cho loại cây trồng này, khiến đời sống có tính chất làng nghề để tham gia làm du lịch bị loãng ra, mất đi nét đặc trưng vốn có”

Bà Nguyễn Thị Ngọc Anh, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần du lịch văn hóa - cộng đồng Kô Tam.

Cùng suy nghĩ này, chị Nguyễn Thị Thái Thanh, Giám đốc Công ty TNHH Ban Mê green Farm đã nhanh nhạy biến những cơ sở sản xuất rau quả của mình tại các xã Ea Nuôl (huyện Buôn Đôn), Hòa Thuận, Ea Kao (TP. Buôn Ma Thuột) trở thành điểm đến cho du khách tham quan, trải nghiệm và mua sắm khi đến Đắk Lắk. Chỉ 20.000 đồng/lượt người khi đến tham quan và thưởng thức sản phẩm cà chua trái được sản xuất theo quy trình công nghệ cao, mỗi tháng công ty này cũng thu về hàng chục triệu đồng từ hoạt động du lịch canh nông đang được du khách lựa chọn hiện nay. Hơn thế, theo chị Thanh - thông qua mô hình “du lịch xanh” này, nhiều hộ dân liên kết sản xuất rau quả hữu cơ với Ban Mê green Farm có điều kiện, cơ hội gia tăng chuỗi giá trị kinh tế cho mỗi sản phẩm của mình.

Hướng tới sự bền vững

Tạo dựng được vị thế, cũng như sự bền vững cho loại hình du lịch canh nông trên địa bàn Đắk Lắk là mong mỏi của cộng đồng làm du lịch hiện nay. Nhiều người cho rằng, yếu tố bền vững ở đây không chỉ là câu chuyện chất lượng, vùng nguyên liệu, liên kết sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu, mà còn phải tạo ra được nét khác biệt cho cư dân trồng cây trái đặc sản trên vùng đất này; để khi du khách đến đó, bất cứ ai cũng nhận ra đời sống sinh hoạt, sản xuất và hưởng thụ của người dân có những đặc tính khác biệt, không giống như những vùng miền khác. Chính sự khác biệt ấy là nền tảng quan trọng để hướng tới xác lập giá trị văn hóa, phục vụ mục tiêu phát triển du lịch của địa phương.

Theo ông Võ Văn Tâm, Chủ tịch Hiệp hội Du lịch Đắk Lắk, vấn đề quan trọng nhất và trước hết là phải xây dựng cho được mối hợp tác, liên kết bền chặt và có trách nhiệm giữa các bên: Nhà nước - doanh nghiệp - nông dân trong mục tiêu phát triển du lịch ngắn hạn cũng như dài hạn, phù hợp với điều kiện thực tế từng nơi. Mối quan hệ này phải được nhìn nhận, vận hành xuyên suốt trong hành lang pháp lý đủ mạnh và hữu hiệu về đầu tư, kích cầu lẫn tìm kiếm, phát triển thị trường và phân bổ lợi nhuận từ ngành “công nghiệp không khói” này. Thứ đến là các bên liên quan, nhất là Nhà nước - doanh nghiệp phải tìm cách ổn định đời sống sản xuất cho người nông dân trong bất kỳ hoàn cảnh nào (ví như đầu ra bế tắc, giá cả xuống thấp), nhằm tăng cường sức mạnh cho mỗi gia đình, cộng đồng dân cư vốn gắn bó với các loại cây trồng đặc sản mà họ đã chọn. Bởi nói cho cùng, một khi đời sống ổn định thì các nông hộ mới có điều kiện hợp tác, liên kết với doanh nghiệp để làm du lịch, nếu không thì mọi chuyện trở nên hết sức khó khăn - và nỗ lực hướng đến sự bền vững cho loại hình du lịch trên sẽ khó lòng thực hiện được.

Phương Đình

Tổ chức Tuần lễ quýt Mường Khương và các sản phẩm nông nghiệp Lào Cai tại Hà Nội

Nguồn tin: Báo Lào Cai

Từ ngày 21/11, UBND huyện Mường Khương và Trung tâm Thương mại Big C Thăng Long phối hợp tổ chức Tuần lễ quýt Mường Khương và các sản phẩm nông nghiệp Lào Cai tại Hà Nội.

Quýt ngọt Mường Khương bắt đầu vào mùa thu hoạch rộ.

Theo thông tin từ UBND huyện Mường Khương, Tuần lễ quýt Mường Khương và các sản phẩm nông nghiệp Lào Cai sẽ diễn ra từ 9 giờ ngày 21/11 đến 25/11, tại Trung tâm Thương mại Big C Thăng Long, số 222 Trần Duy Hưng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

Tuần lễ quýt Mường Khương diễn ra với nhiều hoạt động như trưng bày các gian hàng giới thiệu sản phẩm quýt (quýt quả, cây quýt giống) và các sản phẩm nông nghiệp đặc sản của Mường Khương và tỉnh Lào Cai như tương ớt, gạo Séng cù, cam, chuối, dứa, đậu tương vàng, thổ cẩm...

Từ gần 10 năm nay, huyện Mường Khương đã hình thành vùng quýt hàng hóa trên 800 ha, tập trung ở các xã biên giới, cho sản lượng hằng năm đạt hơn 2.800 tấn quả. Quýt Mường Khương được trồng trên vùng đất ở độ cao trung bình gần 1.000 m so với mực nước biển, quả to, vỏ dày, vị ngọt thanh, hương thơm đặc trưng. Đặc biệt, quýt Mường Khương được người dân chăm sóc, thu hái và bảo quản tự nhiên, không dùng thuốc bảo vệ thực vật và hóa chất, bảo đảm sạch, an toàn cao.

Năm 2017, sản phẩm quýt của huyện Mường Khương đã được cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể “Quýt Mường Khương” và được cấp giấy chứng nhận phù hợp quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt cho lĩnh vực trồng trọt (VietGAP), sản phẩm quýt ngọt Mường Khương vì thế được người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh tin tưởng lựa chọn.

Nhiều sản phẩm quýt Mường Khương sẽ được trưng bày, giới thiệu tại Tuần lễ quýt Mường Khương và các sản phẩm nông nghiệp Lào Cai tại Hà Nội.

Theo ông Lê Thanh Hoa, Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Mường Khương, Tuần lễ quýt Mường Khương và các sản phẩm nông nghiệp Lào Cai tại Hà Nội là dịp để quảng bá, giới thiệu sản phẩm quýt đến với người dân Hà Nội, du khách trong và ngoài nước. Thông qua đó giúp liên kết tiêu thụ sản phẩm quả quýt Mường Khương; giúp người dân yên tâm về đầu ra sản phẩm, từ đó tích cực phát triển, hình thành vùng nông sản hàng hóa đặc hữu địa phương.

Tùng Lâm

Kết quả hoạt động của Dự án Chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam trên địa bàn tỉnh Tiền Giang

Nguồn tin: Báo Ấp Bắc

Dự án Chuyển đổi nông nghiệp bền vững tại Việt Nam (Dự án VnSAT) được triển khai trên địa bàn tỉnh Tiền Giang trong thời gian qua đã đạt nhiều kết quả quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành hàng lúa - gạo, giúp nông dân tăng thu nhập…

Dự án VnSAT được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) phê duyệt tại Quyết định 1992/QĐ-BNN-HTQT ngày 29-5-2015. Tiền Giang là 1 trong 13 tỉnh, thành được tham gia dự án từ năm 2016 đến nay. Mục tiêu của Dự án là tăng khả năng cạnh tranh của ngành hàng lúa - gạo, tăng thu nhập cho người trồng lúa, giảm tác động tiêu cực tới môi trường đối với sản xuất lúa.

Nhiều nông dân được hưởng lợi từ Dự án VnSAT.

THAY ĐỔI TẬP QUÁN SẢN XUẤT

Ngay từ khi bắt tay vào triển khai dự án, công tác đào tạo kỹ thuật cho nông dân thông qua các lớp tập huấn về quy trình canh tác lúa tiên tiến “3 giảm 3 tăng” (3G3T), “1 phải 5 giảm” (1P5G) kết hợp với các mô hình trình diễn nhằm thay đổi tập quán sản xuất của nông dân đã được thực hiện. Dự án sẽ hỗ trợ thành lập hợp tác xã (HTX) và qua đào tạo sản xuất theo các mô hình 3G3T, 1P5G. Nếu có 50% nông dân áp dụng thì dự án sẽ đầu tư cơ sở hạ tầng như: Các công trình thủy lợi, đường giao thông nông thôn, hệ thống điện, nhà kho…. cho các HTX, tổ hợp tác.

Song song đó, công tác truyền thông giới thiệu, thông tin nội dung Dự án VnSAT đến các địa phương, tổ chức nông dân, các đoàn thể, nông dân trong vùng dự án cũng được triển khai như: Lắp đặt các pa nô tuyên truyền; phát tờ rơi, áp phích, tài liệu kỹ thuật; phóng sự, bài viết nhân rộng cách làm tốt, hướng đến sản xuất lúa bền vững nhằm từng bước thay đổi nhận thức và thói quen canh tác lúa theo kiểu truyền thống trước đây.

Tại Tiền Giang, Dự án VnSAT được triển khai ở huyện Cái Bè, huyện Cai Lậy và TX. Cai Lậy; vùng dự án có 20 xã với diện tích 27.205 ha và 41.015 hộ. Đến nay, Ban Quản lý Dự án VnSAT Tiền Giang đã thực hiện 855 lớp đào tạo 3G3T và 476 lớp đào tạo 1P5G và 42 lớp chuyên đề về quản lý và phát triển HTX, đào tạo VietGAP, luân canh cây trồng, tận dụng sản phẩm phụ lúa - gạo, nhân giống lúa xác nhận... Dự án cũng tổ chức triển khai được 46 điểm trình diễn ứng dụng mô hình canh tác 3G3T, 1P5G, VietGAP…

Số lượng người hưởng lợi thông qua thực hiện công tác đào tạo từ đầu dự án đến nay là 93.612 người, đạt 131,8% mục tiêu. Đồng thời, Ban Quản lý Dự án VnSAT Tiền Giang đã chủ động thực hiện hoạt động lồng ghép giới thông qua khuyến khích phụ nữ tham gia vào các lớp đào tạo, tập huấn và các buổi tham vấn cộng đồng, kết quả đạt được 40% học viên là nữ tham gia.

Dự kiến, đến cuối năm 2020, diện tích áp dụng quy trình canh tác lúa 3G3T là 16.000 ha, đạt 100% so mục tiêu; diện tích áp dụng quy trình canh tác lúa 1P5G là 8.000 ha, đạt 100% so mục tiêu; hỗ trợ tổ chức nông dân (HTX, tổ hợp tác) hạ tầng, trang thiết bị (11/20 tổ chức nông dân), đạt 55% so mục tiêu; diện tích liên kết sản xuất - tiêu thụ lúa đạt 4.650/5.500 ha, đạt 84,5% so mục tiêu; giảm phát thải khí nhà kính trong canh tác lúa là 98.011/106.667 tấn, đạt 91,9% so với mục tiêu.

XÂY DỰNG TỔ CHỨC NÔNG DÂN, HỖ TRỢ HẠ TẦNG

Nhìn chung, mức gia tăng lợi nhuận sản xuất lúa trung bình trong vùng Dự án VnSAT là 29,1% so với trước khi triển khai dự án và 29,2% so với vùng sản xuất lúa ngoài dự án. Bên cạnh đó, việc thành lập các HTX thực hiện dịch vụ cung cấp các vật tư nông nghiệp (giống, phân, thuốc bảo vệ thực vật...); gặt đập liên hợp, nhà kho trữ lúa và dịch vụ sấy đã góp phần tăng thu nhập và lợi nhuận cho các thành viên. Đến nay, Dự án VnSAT đã hỗ trợ thành lập mới 15 HTX, lũy kế toàn dự án hiện có 19 HTX, 1 hợp tác xã.

Từ việc hỗ trợ của dự án, hội đồng quản trị và các thành viên trong HTX đều được tập huấn về nâng cao năng lực cho Ban Giám đốc HTX; tập huấn về liên kết sản xuất - tiêu thụ góp phần hình thành và phát triển liên kết sản xuất - tiêu thụ với doanh nghiệp, làm cơ sở cho sản xuất lúa - gạo bền vững. Trong vùng Dự án VnSAT có 15 HTX tham gia liên kết tiêu thụ lúa trong Cánh đồng liên kết với diện tích 4.640 ha lúa được ký hợp đồng bao tiêu với doanh nghiệp. Ngoài ra, HTX Dịch vụ nông nghiệp Mỹ Trinh (xã Hậu Mỹ Trinh, huyện Cái Bè) còn tham gia liên kết chuỗi giá trị lúa - gạo (Dự án VnSAT vùng Đồng bằng sông Cửu Long).

Cầu giao thông được đầu tư trong vùng Dự án VnSAT.

Trên cơ sở đánh giá công tác đào tạo đạt các tiêu chí của dự án, Ban Quản lý Dự án VnSAT Tiền Giang đã phối hợp các địa phương đề xuất danh mục công trình hạ tầng đầu tư tại các HTX đã đạt tiêu chí đào tạo và thực hiện các thủ tục đầu tư theo quy định của Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Việt Nam. Kết quả triển khai đến nay, có 11 tiểu dự án và 1 công trình được đầu tư. Cụ thể, Dự án VnSAT tại Tiền Giang đã đầu tư nâng cấp 8 đường giao thông nông thôn với kết cấu láng nhựa, trải bê tông, trải đá cấp phối có tổng chiều dài 19,114 km; đầu tư 6 cây cầu giao thông, 10 cống, 4 cống kết hợp trạm bơm, 7 nhà kho tạm trữ, 4 nhà bao che lò sấy.

Ngoài ra, Dự án VnSAT đã hỗ trợ cho các đơn vị trực thuộc Sở NN&PTNT xây dựng phòng thí nghiệm; nâng cấp, sửa chữa Kho lúa giống Trung Lương; xây nhà bao che hệ thống sấy, bin sấy phục vụ việc sơ chế và sấy lúa giống; trang bị máy cấy lúa, máy sàng làm sạch và phân loại hạt giống. Hàng hóa, trang thiết bị hỗ trợ cho các đơn vị trực thuộc Sở NN&PTNT được đưa vào khai thác sử dụng, có hiệu quả khá tốt. Điều này đã góp phần thực hiện tốt công tác đào tạo quy trình canh tác 3G3T, 1P5G, nâng cao năng lực công tác sản xuất lúa giống; kiểm nghiệm, xét nghiệm và kiểm định hạt giống lúa; bộ phận kiểm nghiệm, xét nghiệm đã được cấp chứng nhận ISO 17025:2017.

Để đạt được kết quả khả quan này, trong quá trình triển khai thực hiện dự án đã được sự quan tâm, hỗ trợ của Ban Quản lý Dự án VnSAT Trung ương và các cơ quan chuyên môn của Bộ NN&PTNT. Đặc biệt là sự hỗ trợ, tạo điều kiện của các cấp chính quyền từ tỉnh đến huyện, xã, cùng sự đồng thuận và sự tham gia tích cực của nông dân, doanh nghiệp… Từ nền tảng của những kết quả đạt được sẽ góp phần thực hiện thành công Đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp tỉnh Tiền Giang.

BAN QUẢN LÝ DỰ ÁN VNSAT TIỀN GIANG

Vùng chuối Laba Đạ K'Nàng

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Mạnh dạn chuyển đổi nhiều diện tích cà phê và cây trồng kém hiệu quả sang chuyên canh giống chuối Laba (còn gọi là “chuối tiến vua”), nhiều nông hộ ở vùng xa Đạ K’Nàng (Đam Rông - Lâm Đồng) đã thay đổi cuộc sống, thu nhập ngày càng khá hơn. Nơi đây trở thành vùng chuối Laba công nghệ cao lớn nhất tỉnh Lâm Đồng.

Đam Rông huyện vùng sâu, vùng xa của tỉnh Lâm Đồng, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao, trình độ sản xuất, canh tác của người dân còn thấp. Để tạo bước đột phá phát triển kinh tế, huyện Đam Rông đã tập trung đầu tư hỗ trợ sản xuất, phát triển nền nông nghiệp an toàn theo hướng ứng dụng công nghệ cao; phát triển mạnh chuỗi liên kết trong sản xuất, gắn với xây dựng và quảng bá, tiêu thụ sản phẩm. Trong đó, cây chuối Laba được chọn làm cây trồng chủ lực. Hiện toàn huyện Đam Rông có 300 ha chuối, trong đó riêng xã Đạ K’Nàng đã chiếm 250 ha

Tất cả hơn 200ha “chuối tiến vua” liên kết sản xuất với HTX Chuối Laba Đạ K’Nàng đều thực hành theo quy trình VietGAP. Hiện đối tác từ nước Nhật đã đầu tư khoảng 2 tỷ đồng gắn chip trên từng gốc chuối kết nối với điện thoại thông minh để theo dõi, điều khiển các “lệnh” canh tác chuối của HTX hàng ngày theo hướng GlobalGAP

Với hơn 50 ha chuối đang ở thời kỳ kinh doanh, sản lượng thu hoạch chuối Laba trên địa bàn xã đạt 5.000 tấn/năm

Giá hợp đồng bao tiêu với nông hộ liên kết với HTX trồng chuối là 5.500 đồng/kg, trung bình 1 ha trồng chuối, gia đình anh Đỗ Văn Tịnh, thôn Đạ Sơn xã Đạ K’Nàng thu về lợi nhuận từ 300 - 350 triệu đồng/ha, gấp 6 - 7 lần trồng cà phê

Ông Nguyễn Huy Phương - Giám đốc HTX Laba Banana Đạ K’Nàng cho biết: Hiện tại với 7 thành viên chủ lực và 50 hộ dân liên kết với diện tích lên đến hơn 235 ha, đều đặn mỗi tuần, HTX xuất sang thị trường Nhật Bản 24 tấn hàng

Vì thương hiệu được phát triển vững chắc và uy tín nên hiện tại ngoài thị trường Nhật, HTX đã được nhiều đối tác tại các thị trường khó tính như Hàn Quốc, Singapore, và Dubai đặt vấn đề thu mua sản phẩm. Ngoài ra, HTX còn dự kiến phát triển mạnh thị trường trong nước, đặc biệt là hệ thống các siêu thị

HOÀNG SA- HOÀNG YÊN

Nhân rộng các hợp tác xã điển hình tiên tiến

Nguồn tin:  Hà Nội Mới

Những năm qua, với sự phát triển của các hợp tác xã, đặc biệt là các hợp tác xã chuyển đổi theo Luật Hợp tác xã năm 2012 đã góp phần rất lớn cho sự phát triển của nền kinh tế tập thể trên địa bàn thành phố Hà Nội. Nhiều hợp tác xã điển hình tiên tiến được nhân rộng, là những nhân tố giúp nâng cao giá trị ngành Nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế Thủ đô nói chung.

Mô hình nuôi cá theo hướng hữu cơ của Hợp tác xã Thủy sản công nghệ cao Đại Áng (huyện Thanh Trì) cho hiệu quả kinh tế cao.

Những điển hình

Hợp tác xã Phát triển công nghệ cao Thăng Long (quận Ba Đình) là một trong những hợp tác xã điển hình của Hà Nội về kinh doanh, sản xuất các chế phẩm sinh học và xây dựng các mô hình sản xuất hữu cơ.

Giám đốc Hợp tác xã Phát triển công nghệ cao Thăng Long Lê Ngọc Dân chia sẻ: Để nhân rộng các mô hình sản xuất sạch, chất lượng cao, hợp tác xã đã tập trung đầu tư sản xuất các chế phẩm sinh học cung ứng cho người sản xuất. Đến nay, hợp tác xã sản xuất chế phẩm sinh học hữu cơ cung cấp cho nhiều tỉnh, thành phố lân cận, đã thuê 15ha đất ở huyện Cao Phong (tỉnh Hòa Bình) để trồng cam; thuê 5ha đất bãi sông Hồng trồng chuối tiêu hồng (giống Thái Lan) xuất khẩu, thuê 1ha đất ở huyện Hoài Đức nuôi cá chép, năng suất đạt 5 tạ/ha…

Hay như Hợp tác xã Thủy sản công nghệ cao Đại Áng (huyện Thanh Trì) lựa chọn phát triển theo hướng hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao, đến nay, hợp tác xã đã xây dựng thành công mô hình nuôi cá thương phẩm trên diện tích 10ha, doanh thu mỗi năm khoảng 15 tỷ đồng. Giám đốc Hợp tác xã Thủy sản công nghệ cao Đại Áng Nguyễn Văn Thiêm cho biết: Từ thành công ban đầu, hợp tác xã đã đầu tư 1.800m2 thử nghiệm nuôi cá mú, bước đầu đem lại giá trị kinh tế cao.

Đánh giá về hoạt động và vai trò của các hợp tác xã điển hình tiên tiến trên địa bàn thành phố thời gian qua, Phó Chủ tịch Liên minh hợp tác xã thành phố Hà Nội Nguyễn Trung Thành cho hay, các hợp tác xã điển hình tiên tiến đã và đang đóng góp rất lớn cho nền kinh tế tập thể, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, đồng thời thúc đẩy thành lập mới hợp tác xã. Dự kiến đến hết năm 2020, toàn thành phố có 2.164 hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân (bằng 7,9% tổng số hợp tác xã của cả nước). Trong đó, 1.262 hợp tác xã nông nghiệp, 293 hợp tác xã công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, 23 hợp tác xã xây dựng, 253 hợp tác xã thương mại dịch vụ, 189 hợp tác xã vận tải,… Từ đầu năm 2018 đến nay, đã thành lập mới 315 hợp tác xã, tăng bình quân 105 hợp tác xã/năm.

Có thể khẳng định, Hà Nội là địa phương có số lượng hợp tác xã lớn nhất và là một trong những địa phương có số lượng hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập mới hằng năm nhiều nhất trong 63 tỉnh, thành phố của cả nước. Đáng ghi nhận, chất lượng, hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã ngày càng được nâng lên. Nhiều mô hình liên kết, sản xuất gắn với chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa chủ lực được hình thành; luôn thực hiện cung ứng dịch vụ phục vụ cho phát triển kinh tế của thành viên. Hiện nay, toàn thành phố có 65% hợp tác xã sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt là sự phát triển của các hợp tác xã nông nghiệp.

Theo Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Tạ Văn Tường, những năm qua, các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp cơ bản được chuyển đổi theo Luật Hợp tác xã năm 2012. Nhờ sự chuyển đổi đó, các hợp tác xã nông nghiệp đã thực hiện tốt các khâu dịch vụ cho khoảng 200.000ha đất sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình, thành viên toàn thành phố; một số hợp tác xã tổ chức sản xuất hàng hóa, chế biến, tiêu thụ sản phẩm kinh doanh đa ngành có hiệu quả. Ngoài ra, nhiều hợp tác xã đã tích tụ ruộng đất với quy mô tập trung; một số hợp tác xã ứng dụng khoa học và công nghệ cao vào sản xuất, quản lý, tiếp cận thị trường trong nước và xuất khẩu…

Để các hợp tác xã trở thành “mũi nhọn”

Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã thành phố Hà Nội Nguyễn Trung Thành cho biết, mặc dù Hà Nội đạt được nhiều kết quả trong việc phát triển, đổi mới các hoạt động của hợp tác xã, song cũng phải thẳng thắn nhìn nhận, việc phát triển các hợp tác xã chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của nền kinh tế tập thể Thủ đô; các hợp tác xã nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn thấp. Do đó, để tiếp tục phát huy thế mạnh từ các hợp tác xã, đưa các hợp tác xã trở thành điển hình, “mũi nhọn” trong phát triển kinh tế tập thể, Hà Nội tiếp tục hỗ trợ chuyển đổi, thành lập mới các hợp tác xã; phối hợp với các sở, ngành, địa phương tháo gỡ khó khăn về quỹ đất, về nguồn vốn…

Theo Trưởng phòng Kinh tế huyện Ứng Hòa Đặng Thị Tươi, để phát huy thế mạnh từ các hợp tác xã, UBND huyện Ứng Hòa đã xây dựng kế hoạch định hướng chiến lược phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021-2030. Theo đó, huyện Ứng Hòa phấn đấu đến năm 2030, toàn huyện có 110 hợp tác xã. UBND huyện phối hợp các sở, ngành ban hành chính sách chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, hỗ trợ vốn; chuyển giao kỹ thuật…

Phó Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã thành phố Hà Nội Nguyễn Trung Thành thông tin thêm, liên minh sẽ phối hợp với các sở, ngành để xây dựng môi trường pháp lý, hành chính thuận lợi tạo điều kiện cho thành lập mới và phát triển hợp tác xã. Đồng thời, đơn giản hóa các thủ tục hành chính đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong đăng ký thành lập, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, lập và quyết định chấp thuận dự án đầu tư; đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ trong quản lý, quản trị sản xuất kinh doanh; xây dựng mô hình sản xuất kinh doanh an toàn, chất lượng, hiệu quả gắn với chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa, xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường cho các hợp tác xã…

ĐỖ MINH

Mời gọi đầu tư phát triển hơn 43ha muối trải bạt

Nguồn tin:  Báo Bạc Liêu

Huyện Đông Hải (tỉnh Bạc Liêu) hiện có 1.360ha sản xuất muối, cho tổng sản lượng 80.714 tấn (muối trắng trải bạt 3.529 tấn), vượt 74% kế hoạch và tăng 77,4% so với cùng kỳ.

Phát huy thế mạnh từ nghề sản xuất muối, huyện Đông Hải đã và đang tiếp tục tranh thủ các nguồn vốn để đầu tư hoàn chỉnh hạ tầng phục vụ vùng sản xuất muối chất lượng cao; đẩy mạnh công tác mời gọi đầu tư phát triển muối trải bạt hơn 43ha và xây dựng cánh đồng mẫu lớn sản xuất muối chất lượng cao tại xã Long Điền Đông. Ngoài ra, huyện Đông Hải còn chuyển 73ha đất diêm nghiệp kém hiệu quả sang các mô hình sản xuất có hiệu quả như: nuôi Artemia, cá kèo, tôm…

PV

Đồng Tháp: Nông dân tập trung xuống giống vụ lúa đông xuân 2020 - 2021

Nguồn tin: Báo Đồng Tháp

Vụ đông xuân (ĐX) là vụ sản xuất chính trong năm và đóng vai trò quan trọng đối với việc thực hiện kế hoạch sản xuất nông nghiệp cả năm. Thời điểm hiện tại, để chuẩn bị cho vụ lúa ĐX 2020 - 2021, nông dân tại các huyện: Lai Vung, Châu Thành, Lấp Vò đã tiến hành vệ sinh đồng ruộng, giống và đảm bảo chờ lịch xuống giống.

Ngành chuyên môn khuyến cáo nông dân phải vệ sinh đồng ruộng kỹ trước khi gieo sạ

Theo dự báo của ngành chức năng, năm nay, lũ thấp nên đồng ruộng ít được phù sa bồi đắp, bên cạnh đó cỏ dại, lúa chét phát triển tạo điều kiện lưu tồn sâu bệnh sang vụ ĐX 2020 - 2021. Ngoài ra, tình hình thời tiết diễn biến phức tạp, nắng nóng, mưa giông trái mùa cũng sẽ ảnh hưởng nhiều đến sản xuất.

Theo Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) huyện Lai Vung, lũ năm 2020 xuất hiện trễ và thấp hơn trung bình nhiều năm 0,1 - 0,3m. Tuy nhiên, triều cường giữa tháng 11 được dự báo cao. Sau khi đạt đỉnh, mực nước sẽ rút nhanh dần. Mực nước lũ thấp là điều kiện cho các đối tượng như rầy nâu, muỗi hành, ốc bươu vàng, chuột, bệnh đạo ôn phát triển.

Trong vụ ĐX 2020 - 2021, toàn huyện dự kiến xuống giống hơn 8.900ha lúa. Theo đó, huyện đã xây dựng lịch thời vụ chia làm 2 đợt: đợt 1 từ ngày 30/11 - 7/12/2020 (nhằm 16/10 - 23/10/2020 âm lịch); đợt 2 từ ngày 29/12 - 5/1/2021 (nhằm 16/11 - 23/11/2020 âm lịch). Về cơ cấu giống, khuyến cáo nông dân sử dụng một số giống lúa như: Đài Thơm 8, OM 5451, OM 6976, OM 4900, IR 50404...

Để đảm bảo cho nông dân xuống giống hiệu quả, ông Huỳnh Minh Trí - Trưởng Phòng NN&PTNT huyện Lai Vung cho biết, trong vụ lúa ĐX, khuyến cáo nông dân xuống giống đúng lịch thời vụ, tập trung vệ sinh đồng ruộng nhằm loại bỏ độc trong đất, hạn chế ngộ độc hữu cơ. Đồng thời, ngành nông nghiệp cũng tập trung rà soát, gia cố những tuyến đê bao xung yếu để đảm bảo việc thoát nước và chủ động quản lý nước. Các hợp tác xã và nông dân hợp đồng liên kết với các doanh nghiệp sử dụng giống lúa xác nhận, giống lúa chất lượng cao, thích nghi với điều kiện đất tại địa phương, năng suất cao ổn định, đáp ứng yêu cầu thị trường...

Tương tự, tại huyện Châu Thành, vụ lúa ĐX 2020 - 2021, toàn huyện xuống giống khoảng 11.000ha, trong đó lúa chất lượng cao chiếm 20% diện tích. Đến nay, nông dân đã hoàn tất khâu chuẩn bị từ vệ sinh đồng ruộng, giống đến phân bón.

Theo UBND huyện Châu Thành, huyện đã xây dựng lịch thời vụ sản xuất tập trung 3 đợt như sau: đợt 1, xuống giống từ ngày 9/11/ - 11/11/2020 (nhằm ngày 24 - 26/9 âm lịch); đợt 2, xuống giống từ ngày 20/11 - 24/11/2020 (nhằm ngày mùng 6 - 10/10 âm lịch); đợt 3, xuống giống từ ngày 6/12 - 10/12/2020 (nhằm ngày 22 - 26/10 âm lịch). Đồng thời, huyện cũng xây dựng cơ cấu giống lúa chủ lực cho vụ ĐX 2020 - 2021 gồm: OM5451, OM4900, OM6162, OM4088, OM8017, Đài thơm 8, OM 18, OM380, OM9915, OM9916, OM6976, OM8017...

Bên cạnh đó, để đảm bảo tốt cho việc sản xuất vụ ĐX 2020 - 2021, ngành nông nghiệp huyện cũng yêu cầu từng xã, thị trấn nắm rõ nhu cầu lúa giống của nông dân để vận động nông dân trao đổi hoặc liên hệ với Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện, các điểm bán lúa giống ở khu vực lân cận nhằm chủ động nguồn lúa giống cho sản xuất. Đồng thời vận động nông dân dọn cỏ nhằm khai thông các kênh mương dẫn nước để chủ động bơm rút nước ra; thường xuyên theo dõi tình hình nước lũ để chỉ đạo xuống giống lúa cho phù hợp. Trong điều hành sản xuất, các xã, thị trấn cần tổ chức họp dân từng tổ sản xuất, từng ô bao để thống nhất lịch thời vụ, thời gian bơm nước, chỉ đạo chặt chẽ việc xuống giống tập trung nhằm hạn chế bị hao hụt giống.

Ngoài ra, vận động nông dân thăm đồng thường xuyên, áp dụng đồng bộ các biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất để sản xuất đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. Căn cứ tình hình thổ nhưỡng trong huyện, vụ lúa ĐX khuyến cáo nông dân sử dụng bón phân theo công thức cho 1ha lúa là 70 – 90 N + 40 – 60 P2O5 + 40 – 60 K2O. Đồng thời, huyện cũng tiếp tục nhân rộng mô hình sản xuất lúa chất lượng cao, đủ điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm gắn với tiêu thụ, với quy mô các xã: An Phú Thuận, Tân Nhuận Đông, Phú Long, Tân Phú Trung...

Tại huyện Lấp Vò, theo Phòng NN&PTNT huyện, lịch xuống giống lúa ĐX 2010 - 2021 của địa phương là đợt: Đợt 1, từ ngày 18/11 - 26/11/2020 (nhằm 4/10 - 12/10/2020 âm lịch); đợt 2, từ ngày 18/12 - 26/12/2020 (nhằm 5/11 - 13/11/2020 âm lịch). Về cơ cấu giống, huyện đa dạng hóa cơ cấu giống lúa cho từng vùng sản xuất, tránh tình trạng sử dụng giống nhiễm trên diện tích lớn. Khuyến khích nông dân chọn những giống lúa chủ lực đang sản xuất đại trà, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của địa phương như: OM 6976, OM 5451, OM 384, Đài Thơm 8, IR 50404...

Theo khuyến cáo của Phòng NN&PTNT huyện Lấp Vò, các xã, thị trấn căn cứ tình hình thời tiết, thủy văn và rầy di trú, tổ chức họp dân bàn quyết định thời điểm xuống giống phù hợp; chỉ đạo các hợp tác xã, tổ hợp tác gia cố cống đập và có kế hoạch bơm rút nước kịp thời để đảm bảo cho nông dân xuống giống tập trung, an toàn cho từng cánh đồng, từng khu vực...

Trang Huỳnh

Đắk Lắk: Hiệu quả phát triển cây khoai tây ở Ea Drơng

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Là loại cây ngắn ngày, có hiệu quả kinh tế cao, khoai tây đang được nhiều người dân xã Ea Drơng (huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk) lựa chọn để phát triển sản xuất, mang lại nguồn thu nhập ổn định.

Trong một lần tham dự hội thảo, tham quan một số mô hình trồng khoai tây ở Lâm Đồng, nhận thấy hiệu quả từ loại cây này, cuối năm 2017, anh Bùi Anh Dũng (buôn Táh B) đã thuê đất của Nông trường Cao su Phú Xuân để trồng thử nghiệm khoai tây trên diện tích 1 ha. Trước khi gieo trồng, gia đình anh đã ký kết với Công ty TNHH Thực phẩm PepsiCo Việt Nam bao tiêu sản phẩm và được công ty hỗ trợ kỹ thuật, cung cấp giống, phân bón… Sau 3 tháng trồng, ruộng khoai tây của gia đình anh thu được 28 tấn củ/ha, với giá bán 8.200 đồng/kg, anh thu lời khoảng 60 – 70 triệu đồng/ha. Sản xuất thành công từ vụ đầu, anh Dũng mở rộng diện tích trồng lên từng năm. Vụ mùa năm nay, anh trồng 12 ha khoai tây, hiện đã xuống giống được một tháng và cây phát triển xanh tốt.

Cán bộ Hội Nông dân xã Ea Drơng (bên trái) tham quan mô hình sản xuất khoai tây của người dân.

Theo anh Dũng, khoai tây là loại cây ưa khí hậu lạnh, nên chỉ trồng được vào thời điểm gần cuối năm. Để cây đạt năng suất, chất lượng cao, người trồng cần làm tốt khâu làm đất, xử lý đất, tạo luống và tuân thủ các quy trình bón phân, phun thuốc để phòng ngừa các bệnh liên quan đến tuyến trùng, bệnh sương muối do ảnh hưởng của thời tiết.

Nhận thấy nhiều người phát triển thành công mô hình trồng khoai tây, tháng 10 vừa qua, gia đình anh Hoàng Văn Cường (thôn An Phú) cũng đã thuê 7 ha đất của Nông trường Cao su Cuôr Đăng trong vòng 3 tháng (với giá 15 triệu đồng/ha) để xuống giống trồng khoai tây. Anh đầu tư khoan giếng để lấy nước tưới và mua hai máy đánh luống, hệ thống tưới nhỏ giọt… trang bị đầy đủ máy móc, thiết bị để phục vụ cho sản xuất. Công ty TNHH Thực phẩm PepsiCo Việt Nam cũng ký kết bao tiêu sản phẩm cho gia đình anh và đưa ra mức giá cố định, khi đăng ký trồng đợt 1 (từ giữa tháng 10 dương lịch) công ty sẽ thu mua với giá 8.800 đồng/kg, còn đợt 2 (trồng từ tháng 11) là 8.200 đồng/kg, nên gia đình tính toán trước được lợi nhuận khi thu hoạch.

Anh Hoàng Văn Cường (thôn An Phú) đang dùng máy đánh luống cho ruộng khoai tây.

Anh Cường cho biết, trồng khoai tây đòi hỏi đầu tư vốn lớn (150 triệu đồng/ha), nhưng loại cây này nhanh cho thu hoạch, lại dễ chăm sóc, chủ yếu sử dụng máy móc nên giảm được sức lao động. Là vụ đầu trồng khoai tây, nên anh vừa chăm sóc cây kỹ lưỡng vừa học hỏi, nắm bắt kỹ thuật, với hy vọng mùa vụ này ruộng khoai tây sẽ đạt năng suất, chất lượng cao.

Bà H’Zang Niê, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Ea Drơng cho biết, trên địa bàn xã hiện có hơn 20 hộ dân sản xuất khoai tây, với diện tích khoảng 45 ha. Người dân chủ động phát triển mô hình một vụ khoai lang – một vụ khoai tây, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên, cây khoai tây thuận lợi hơn về đầu ra, giá cả cao hơn so với cây khoai lang. Khoai tây lại phù hợp với đất đai, khí hậu tại địa phương nên năng suất trung bình đạt 26 - 30 tấn/ha, sản phẩm thu được có chất lượng cao. Để phát triển khoai tây, vốn đầu tư ban đầu khá lớn, từ vụ thứ hai trở đi sản xuất ổn định, vốn đầu tư giảm dần, lợi nhuận tăng lên. Xã cũng vận động người dân áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp để có đầu ra ổn định, nâng cao thu nhập cho người dân.

Phương Thảo

Hướng tới nền chăn nuôi bền vững

Nguồn tin: Hà Nội Mới

Nâng cao hiệu quả tăng đàn, tái đàn, tạo nguồn thực phẩm sạch, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của người dân Thủ đô, Hà Nội đã và đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi, coi đây là “chìa khóa” mở cánh cửa hướng tới nền chăn nuôi bền vững. Tuy nhiên, để đưa công nghệ cao vào chuỗi khép kín từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm, ngành chăn nuôi vẫn còn nhiều việc phải làm.

Chăn nuôi gà khép kín ứng dụng công nghệ cao tại Công ty Giống gia cầm Ngọc Mừng (xã Liên Hà, huyện Đông Anh). Ảnh: Quỳnh Ngọc

Những kết quả đáng ghi nhận

Thời gian gần đây, Hà Nội đã đẩy mạnh việc ứng dụng chế phẩm sinh học và công nghệ thông tin trong quản lý chăn nuôi, đặc biệt là đưa công nghệ cao vào lĩnh vực sản xuất giống. Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Giống gia súc Hà Nội Vũ Văn Hải cho biết, để nâng cao chất lượng giống bò thịt, đáp ứng nhu cầu phát triển chăn nuôi của các trang trại và người dân, những năm qua, công ty đã nghiên cứu lai tạo giống bò thịt BBB trên nền bò cái lai Sind tạo thành đàn bò F1. Đến thời điểm hiện tại, công ty đã lai tạo và sản xuất được hơn 160.000 con bê lai F1 BBB, mang lại giá trị khoảng 1.000 tỷ đồng. Việc đưa ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất giống bò đã làm tăng năng suất của đàn bò thịt lai tạo so với các giống trước đây khoảng 20-30%; đồng thời tạo điều kiện để Hà Nội phát triển chăn nuôi bò thịt chất lượng cao, tiến tới xây dựng thương hiệu “Thịt bò Hà Nội”.

Việc ứng dụng chế phẩm sinh học trong chăn nuôi cũng được nhiều trang trại triển khai. Giám đốc Công ty cổ phần Trang trại Bảo Châu (huyện Sóc Sơn) Nguyễn Đại Thắng thông tin, hiện công ty đang áp dụng phương pháp nuôi lợn hữu cơ theo công nghệ vi sinh hữu hiệu (EM-Effective) của Nhật Bản; bảo đảm xử lý môi trường trong chăn nuôi cho 250 lợn nái sinh sản và 3.000 lợn thương phẩm của công ty sinh trưởng tốt. Các sản phẩm thịt lợn đã có hệ thống mã vạch để nhận diện, truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

Còn theo ông Vũ Kim Tuyền, xã Thuần Mỹ (huyện Ba Vì), trang trại của gia đình đã ứng dụng kỹ thuật chế biến, bảo quản các loại phụ phẩm nông nghiệp (thân cây ngô, rơm, rạ...) bảo đảm đủ nguồn thức ăn cho 120 con bò thịt vào mùa đông...

Liên quan đến ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi của Hà Nội thời gian qua, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Nguyễn Huy Đăng cho biết: Hiện, thành phố có 101 mô hình ứng dụng công nghệ cao, giá trị sản phẩm chăn nuôi đạt 45% tổng giá trị chăn nuôi trên địa bàn. Điểm nổi bật trong ứng dụng công nghệ cao vào chăn nuôi là đã tạo ra nguồn giống chất lượng cao; tỷ lệ thụ tinh nhân tạo đạt 80-90%... Nhiều trang trại đã sử dụng máng ăn tự động, công nghệ làm hầm biogas; đưa chế phẩm vi sinh vào xử lý môi trường góp phần giảm 80-90% mùi hôi của chuồng nuôi, tăng khả năng kháng bệnh cho đàn vật nuôi.

Mở “cánh cửa” phát triển chăn nuôi bền vững

Để ngành chăn nuôi phát triển bền vững, đáp ứng nhu cầu thực phẩm an toàn cho người dân Thủ đô, cần phải đưa công nghệ cao vào sản xuất. Tuy nhiên, theo Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Nội Nguyễn Ngọc Sơn, chăn nuôi trên địa bàn thành phố có quy mô nhỏ; chăn nuôi nông hộ vẫn chiếm tỷ lệ cao (hơn 60%) nên việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất gặp khó. Trong khi đó, nguồn vốn đầu tư máy móc, công nghệ lớn, người chăn nuôi lại thiếu kiến thức khoa học để áp dụng vào thực tiễn.

Để tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các cơ sở chăn nuôi đưa công nghệ cao vào sản xuất, Giám đốc Hợp tác xã Chăn nuôi và dịch vụ Hòa Mỹ, xã Vạn Thái (huyện Ứng Hòa) Nguyễn Văn Thanh đề xuất, các cấp, ngành tạo điều kiện cho người chăn nuôi tiếp cận với nguồn vốn vay ưu đãi để mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư chuồng trại khép kín.

Từ thực tế phát triển chăn nuôi tại địa phương, Chủ tịch UBND huyện Thanh Oai Bùi Văn Sáng thông tin, huyện sẽ tạo mọi điều kiện về đất đai cho các doanh nghiệp có kế hoạch sử dụng đất 3-10ha trở lên để xây dựng chuồng trại chăn nuôi, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất.

Phó Giám đốc Sở NN&PTNT Hà Nội Nguyễn Huy Đăng cho biết, thời gian tới, thành phố sẽ chú trọng phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp hiện đại, ứng dụng công nghệ cao. Ngành chăn nuôi phấn đấu đến năm 2025, sản lượng thịt xẻ các loại sẽ đạt 5-5,5 triệu tấn; xuất khẩu 15-20% sản lượng thịt lợn, 20-25% thịt và trứng gia cầm. Ngoài ra, Hà Nội sẽ chú trọng đưa ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất giống để trở thành trung tâm cung cấp con giống (bò, gia cầm) chất lượng cao cho các địa phương. Cùng với đó, hỗ trợ kinh phí cho người chăn nuôi, doanh nghiệp mua giống gia súc, gia cầm nhập ngoại có năng suất, chất lượng cao; mở các lớp tập huấn kiến thức cho người chăn nuôi sử dụng các trang thiết bị hiện đại từ sản xuất đến giết mổ, chế biến sản phẩm.

Có thể nói, ứng dụng công nghệ cao chính là “chìa khóa” mở cánh cửa phát triển bền vững ngành chăn nuôi, cũng là đòi hỏi của thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế để sản phẩm chăn nuôi Hà Nội có thể cạnh tranh với sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu, hướng đến xuất khẩu.

NGỌC QUỲNH

Nuôi vịt biển ở môi trường nước ngọt

Nguồn tin: Khoa Học Phổ Thông

Vịt biển 15 - Đại Xuyên (còn được gọi là vịt biển) là giống gia cầm mới được công nhận giống và chuyển giao sản xuất vào tháng 6/2014 ở nước ta và là cái tên còn khá mới trong lĩnh vực chăn nuôi của tỉnh Quảng Trị.

Thấy được tiềm năng của vùng đất Quảng Trị có bờ biển dài và để tạo sinh kế bền vững cho người dân vùng biển bãi ngang, năm 2018, Trung tâm khuyến nông Quảng Trị xây dựng mô hình nuôi vịt biển đảm bảo an toàn sinh học tại các xã Triệu Vân (huyện Triệu Phong), Hải An, Hải Khê (huyện Hải Lăng). Qua quá trình theo dõi cho thấy các thông số kỹ thuật đều đạt và vượt so với yêu cầu kỹ thuật đề ra, mô hình phù hợp với nhiều hộ dân sống tại vùng ven biển.

Để khẳng định giống vịt biển nuôi được trong điều kiện nhiều nguồn nước và phương thức nuôi khác nhau, năm 2020, Trung tâm khuyến nông Quảng Trị phối hợp với Trung tâm nghiên cứu vịt Đại Xuyên triển khai thực hiện mô hình chăn nuôi vịt biển đảm bảo an toàn sinh học trong môi trường nước ngọt cho 10 hộ dân trên địa bàn xã Hải Định, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Với quy mô 3.400 con, 10 hộ tham gia được hỗ trợ 50% giá trị về giống, thức ăn và thuốc thú y. Mục tiêu của mô hình nhằm chuyển giao đến nông dân giống vịt mới có khả năng thích nghi ở nhiều môi trường nước, tạo sinh kế cho các hộ dân vùng nước lợ, nước mặn... và người chăn nuôi trên địa bàn tỉnh; là điểm trình diễn cho các nông dân khác trong vùng tham quan, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm nhằm nhân rộng mô hình trong thời gian tới.

KS. Trần Lương, Trạm khuyến nông Hải Lăng (cán bộ phụ trách thực hiện mô hình) cho biết: Trước khi nhận con giống và vật tư, các hộ tham gia mô hình được cán bộ kỹ thuật kiểm tra các điều kiện, tiềm năng chăn nuôi như chuồng trại, tài chính, nhân công. Trong quá trình chỉ đạo thực hiện, các hộ dân đã được hướng dẫn về quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng, cách phòng trừ dịch bệnh, phương pháp ghi chép nhật ký chăn nuôi, kỹ thuật chăn nuôi an toàn sinh học và hạch toán hiệu quả kinh tế của mô hình. Nhờ chọn con giống đạt tiêu chuẩn, chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật và giữ gìn tốt vệ sinh môi trường, đặc biệt là khâu tiêm chủng đầy đủ nên đàn vịt ở các điểm thực hiện mô hình đều phát triển tốt, không bị dịch bệnh. Vịt biển nuôi nhanh lớn và có khả năng cho lợi nhuận cao hơn so với nuôi giống vịt ở địa phương, tiêu tốn thức ăn thấp nên rất thích hợp với hình thức chăn nuôi công nghiệp.

Sau hơn 2 tháng nuôi, đàn vịt biển 15 - Đại Xuyên có sức đề kháng cao, tỷ lệ nuôi sống bình quân đạt 93%. Qua theo dõi của cán bộ kỹ thuật cho thấy những hộ nuôi vịt chăn thả trên khe nước chảy, hồ nước sạch không bị ô nhiễm thì có tỷ lệ nuôi sống cao. Vịt biển dễ nuôi, có khả năng thích nghi cao với nhiều phương thức nuôi khác nhau, có thể uống được nước nhiều nguồn khác nhau và tìm kiếm, sử dụng thức ăn từ thiên nhiên như cá, ốc… với số lượng nhiều mà không bị tiêu chảy. So với một số giống vịt nuôi phổ biến tại Quảng Trị có cùng độ tuổi, thì giống vịt biển có khả năng tăng trọng nhanh hơn, kháng bệnh cao hơn. Trọng lượng bình quân đạt 2,73 kg/con, vượt mức yêu cầu đề ra (trên 2,5 kg/con) và cao hơn so với vịt lai nuôi tại địa phương có cùng độ tuổi từ 5 - 10%. Mô hình cho lợi nhuận bình quân đạt 5,8 triệu đồng/mô hình (chưa tính khấu hao chuồng trại và công). Do vịt biển là đối tượng nuôi mới, nên hầu hết người dân và các thương lái chưa được biết đến chất lượng thịt của giống vịt biển, mặt khác tại thời điểm kết thúc mô hình do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên giá bán vịt thịt xuống thấp, vì vậy lợi nhuận thu được chưa cao so với trước đây.

Theo đánh giá của Trung tâm nghiên cứu vịt Đại Xuyên, đối với vịt biển có thể sử dụng 50% cá biển (cá đồng) trong khẩu phần thức ăn mà không gây ảnh hưởng đến tiêu hóa, trong khi đó giống vịt địa phương cho ăn 20% có thể bị tiêu chảy. Khả năng tìm kiếm và thu nhận thức ăn của giống vịt biển là rất tốt. So với các giống vịt địa phương có cùng thời gian nuôi thì vịt biển có khả năng tăng trọng nhanh, sức đề kháng cao hơn, ít bệnh, thịt của giống vịt biển nạc dày ít mỡ nên phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.

Từ kết quả nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu vịt Đại Xuyên và kết quả của mô hình nuôi vịt biển Đại Xuyên 15 tại Quảng Trị trong những năm qua có thể khẳng định, giống vịt biển nuôi được trong các điều kiện nước lợ, nước mặn, nước ngọt theo nhiều phương thức khác nhau như: nuôi nhốt trên khô không cần nước bơi lội, nuôi nhốt trong vườn cây, vườn đồi, nuôi nhốt kết hợp cá - vịt, cá - lúa - vịt, lúa - vịt. Từ đó, có thể khuyến cáo người dân chuyển đổi cơ cấu giống, thay đổi tập quán chăn nuôi vịt, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường do hoạt động chăn nuôi gây ra, đồng thời tạo ra sản phẩm thịt vịt với số lượng lớn, chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu thị trường và đảm bảo sinh kế cho người dân trong tỉnh.

THU HIỀN - TRẦN LƯƠNG

Nhiều loại thức ăn chăn nuôi đồng loạt tăng giá

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Từ đầu tháng 11-2020 đến nay, giá nhiều loại thức ăn chăn nuôi như: thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản đã tăng từ 200-400 đồng/kg, tương đương mức tăng từ 5.000-10.000 đồng/bao 25kg so với các tháng trước.

Tại TP Cần Thơ và nhiều tỉnh vùng ÐBSCL như Hậu Giang, Vĩnh Long, Bến Tre… giá nhiều loại thức ăn công nghiệp dành cho gia súc của các thương hiệu như: Hi-Gro, AnCo, Vina, Green Feed, Dabaco, Lái Thiêu… đang ở mức từ 220.000-400.000 đồng/bao (25kg). Trong đó, ở mức cao nhất là thức ăn đậm đặc dành cho heo con, với có giá từ 385.000-400.000 đồng/bao; còn nhiều loại thức ăn dành heo thịt giá bình quân khoảng 270.000-280.000 đồng/bao. Hiện giá nhiều loại thức ăn dành cho gà, vịt và tôm, cá ở mức 250.000-290.000 đồng/bao. Chủ nhiều cửa hàng kinh doanh thức ăn chăn nuôi cho biết, gần đây hầu hết các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thức ăn gia súc, gia cầm và thủy sản đều có thông báo điều chỉnh tăng do giá nguyên liệu đầu vào tăng, nhất là nguyên liệu nhập khẩu. Theo đó, các cửa hàng bán lẻ cũng phải điều chỉnh tăng giá bán.

Hiện nay là thời điểm người dân đẩy mạnh các hoạt động chăn nuôi chuẩn bị nguồn hàng phục vụ cho nhu cầu Tết Nguyên đán 2021. Do vậy, giá thức ăn chăn nuôi tăng đã gây nhiều khó khăn cho người chăn nuôi về nguồn vốn để đầu tư chăn nuôi và ảnh hưởng làm tăng giá thành sản xuất đối với nhiều loại gia súc, gia cầm và thủy sản. Giá tăng cũng khiến nhiều cửa hàng kinh doanh thức ăn chăn nuôi lo ngại tới đây sức tiêu thụ hàng hóa bị giảm do người dân ngán ngại đầu tư phát triển chăn nuôi, nhất là khi giá cả đầu ra nhiều sản phẩm chăn nuôi còn bấp bênh.

KHÁNH TRUNG

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop