Bến Tre: Tổ hợp tác trồng sầu riêng ấp Hàm Luông
Nguồn tin: Báo Đồng Khởi
Dù phải chịu hạn mặn kéo dài, vùng trồng chuyên canh sầu riêng với diện tích trên 100ha ở ấp Hàm Luông, xã Tân Phú (Châu Thành, tỉnh Bến Tre) vẫn còn duy trì sức sống khá tốt, với tỷ lệ đạt 80%.
Các thành viên của tổ hợp tác bảo vệ thành công vườn sầu riêng mùa hạn mặn.
Được biết, Tổ hợp tác (THT) trồng sầu riêng ấp Hàm Luông triển khai giải pháp về nguồn nước, trong đó có kỹ thuật lọc nước giếng để tạm thời cứu lấy vườn sầu riêng khá thành công. Lúc đầu, các chị tự mua nước về tưới. Lượng nước tưới cho cây cũng chỉ mang tính giải khát tạm thời, ngắn hạn trong khi hạn mặn kéo dài nhiều tháng liền. Để đồng bộ giải pháp, các chị tạm lấy nước từ giếng khoan. Các chị đầu tư mủ dưới mương vườn để trữ nước và lọc các tạp chất phèn, kim loại nặng trong nước bằng phân lân, vôi và cây lục bình. Quy trình xử lý nước giếng trong 3 ngày là có thể tưới cho cây an toàn.
Bà Cao Thị Chiên (67 tuổi) - Tổ trưởng THT trồng sầu riêng ấp Hàm Luông cho biết, tiền thân của tổ là THT trồng sầu riêng ấp Hàm Luông, xã Tân Phú, với 12 thành viên ban đầu là những chị em đam mê trồng sầu riêng của ấp Hàm Luông. Hầu hết các chị xuất thân từ gia đình làm nông nghèo khó. “Trước đây, Hàm Luông là ấp nghèo vì còn đất ruộng. Thấy mô hình trồng sầu riêng hiệu quả của các ấp lân cận, chị em chúng tôi đã mạnh dạn chuyển đổi sang trồng cây sầu riêng. Diện tích sầu riêng phát triển mạnh và trở thành cây trồng chủ lực của địa phương. Chúng tôi trồng giống sầu riêng khổ qua, sau đó là sữa hạt lép, chuồng bò và hiện nay chủ yếu là Ri.6. Không chỉ chăm sóc cho vườn sầu riêng của tổ, các chị vận hành tổ lao động phụ nữ làm thuê để chăm sóc và hướng dẫn kỹ thuật cho các vườn trồng khác trong và ngoài xã”, bà Cao Thị Chiên bộc bạch.
“Tổ lao động phụ nữ trồng sầu riêng xã Tân Phú đã vận hành từ mười mấy năm nay. Chị nào cũng có thể vừa cầm cần xịt thuốc, vừa rải phân, làm gốc, đậy mủ, làm cỏ…”, chị Nguyễn Thị Thinh - Tổ phó THT kể thêm.
Đến nay, THT trồng sầu riêng ấp Hàm Luông có trên 37 thành viên, với diện tích 14,5ha. Cây cho trái đạt năng suất bình quân 2,5 tấn/công. Tổ xây dựng thành công mô hình trồng sầu riêng đạt tiêu chuẩn VietGAP vào năm 2019, với 4,45ha. Hiện tổ đang nỗ lực phát triển thành hợp tác xã, hướng đến chuẩn hóa chất lượng để xuất khẩu.
Tin, ảnh: Cẩm Trúc
Hải Dương: Vải chín sớm giá cao, vải chính vụ hứa hẹn tiêu thụ tốt
Nguồn tin: Báo Chính Phủ
Những ngày này tại huyện Thanh Hà (tỉnh Hải Dương), vùng trồng vải thiều lớn nhất tỉnh Hải Dương, những trà vải chín sớm đang cho thu hoạch. Trong khi đó, nhờ công tác xúc tiến đều tay nên lứa vải chính vụ hứa hẹn tiêu thụ tốt.
Vải chín sớm tại thôn Vĩnh Ninh (xã Thanh Quang, Thanh Hà) có giá bán tốt (50.000 đồng/kg)
Tại huyện Thanh Hà, năm nay vải được mùa, mẫu mã đẹp. Dự kiến năm nay, sản lượng của toàn huyện ước đạt 35.000 tấn. Hiện vải thiều chín sớm đang cho thu hoạch, giá khá cao.
Vải chín sớm được giá
Báo Hải Dương dẫn thông tin từ Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Thanh Hà cho biết năm nay, vải bắt đầu cho thu hoạch từ đầu tháng 5 và đến đầu tháng 7 mới kết thúc, kéo dài hơn từ 7-10 ngày so với những năm trước (cả vải chín sớm và chính vụ). Giá vải ổn định ở mức cao. Ngày 20/5, giá vải sớm được thương lái mua từ 37.000-40.000 đồng/kg, cao hơn cùng thời điểm năm trước từ 10.000-15.000 đồng/kg.
Ở xã Thanh Quang, xã có vải thiều chín sớm nhất huyện Thanh Hà, vải được bán với giá tốt, vải u trứng trắng từ 50.000-53.000 đồng/kg; vải u hồng từ 35.000-37.000 đồng/kg. Theo UBND xã Thanh Quang, hiện nay thương lái trong nước vẫn về thu mua bình thường để tiêu thụ nội địa và xuất sang Trung Quốc.
Chú trọng thị trường nội địa
Những năm trước đây, quả vải Thanh Hà xuất khẩu sang Trung Quốc và một số nước khác chiếm khoảng 40%. Nhưng năm nay, lường trước ảnh hưởng của dịch COVID-19, huyện Thanh Hà tập trung tìm hướng tiêu thụ vải thông qua hệ thống siêu thị, DN chế biến nông sản trong nước...
Vì vậy, huyện đã tăng cường quảng bá quả vải trên các phương tiện thông tin đại chúng; gửi thư mời tới hàng trăm DN trong và ngoài nước đến tham quan, mua vải; tổ chức hội nghị hướng dẫn DN truy xuất nguồn gốc vải thiều Thanh Hà và dự kiến tổ chức tuần lễ vải thiều tại TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh vào cuối tháng 5 và đầu tháng 6.
Sở Công Thương tỉnh Hải Dương đã đề nghị Sở Công Thương các tỉnh, thành phố trong nước cùng các DN, siêu thị, hiệp hội DN phối hợp tiêu thụ vải thiều Thanh Hà. Bên cạnh đó, các xã trồng vải cũng tích cực tìm đầu mối tiêu thụ vải.
Trong việc xuất khẩu, ngay từ đầu vụ, Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh Hải Dương đã cử chuyên gia xuống các vùng vải của Thanh Hà để rà soát, đánh giá các vùng trồng và đề nghị cấp mã số vùng trồng vải xuất khẩu đi Nhật Bản, Mỹ, Australia, Trung Quốc... Bên cạnh đó, Chi cục cũng cử cán bộ đến tận các vùng trồng vải hướng dẫn nông dân thực hiện các biện pháp phòng trừ sâu bệnh bằng các loại thuốc bảo vệ thực vật được các nước Mỹ, Nhật Bản, Australia, EU chấp nhận.
Nhờ đó, huyện Thanh Hà vừa được cấp thêm 8 mã vùng vải xuất khẩu mới, nâng tổng số lên 17 mã vùng với tổng diện tích 155,25 ha và gần 1.500 hộ tham gia.
Nhờ thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nên đến nay đã có nhiều DN đến khảo sát các vườn vải (Tập đoàn Big C Việt Nam, Công ty CP Thương mại đầu tư và Phát triển Thuận Thiên, Cửa hàng Ikon Food, chuỗi thực phẩm sạch Biggreen Việt Nam...). Các DN như Công ty CP Nông sản Hải Dương, Công ty TNHH Xuất nhập khẩu thương mại Happro, hệ thống các siêu thị: Co.opmart, Vinmart, Intimex... đã có kế hoạch thu mua, sơ chế, tiêu thụ quả vải. Công ty CP Ameii Việt Nam và Công ty Quốc tế Bambo Hà Nội đã ký hợp đông tiêu thụ.
Tín hiệu đáng mừng nữa là nhiều DN đã nhận được các đơn hàng từ phía đối tác nước ngoài. Do ảnh hưởng của dịch COVID-19 nên phía đối tác đã ủy quyền cho DN Việt Nam đánh giá, kiểm soát chất lượng quả vải để xuất khẩu.
Chẳng hạn, Công ty TNHH Chế biến nông-lâm sản Thanh Hà (huyện Thanh Hà) năm nay sẽ thu mua 300 tấn vải thiều xuất khẩu sang Hàn Quốc và 50 tấn long vải xuất khẩu sang châu Âu. Ngoài ra, DN này đã ký được đơn hàng xuất khẩu sang các thị trường Anh, Đức, Pháp, Thái Lan, mỗi đơn hàng từ 25-30 tấn. Công ty CP Nông sản Hưng Việt (huyện Gia Lộc) sẽ mua khoảng 1.000 tấn vải Thanh Hà xuất khẩu sang Trung Quốc…
Thương lái thu mua vải chín sớm tại xã Thanh Quang.
Theo lãnh đạo huyện Thanh Hà, địa phương sẽ tạo mọi thuận lợi cho các DN, thương lái đến thu mua vải. Công tác bảo đảm an ninh trật tự, an toàn giao thông trên địa bàn sẽ được tăng cường, giúp các tiểu thương và DN đến thu mua thuận lợi.
Thanh Xuân
Khánh Hòa: Triển khai sản xuất giống xoài Keitt
Nguồn tin: Báo Khánh Hòa
Theo lãnh đạo Trung tâm Nông nghiệp công nghệ cao, xoài Keitt có nguồn gốc từ bang Florida (Mỹ), được công nhận năm 1939, đưa vào Úc năm 1979 và phát triển mạnh vào thập kỷ 1980. Tại Việt Nam, xoài Keitt được du nhập đầu tiên vào Khánh Hòa cùng lúc với 2 giống xoài KP và R2E2 do ông John Ed. Morton - Chủ tịch Hiệp hội cây ăn quả bang Queensland (Úc) cũng là Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty Nông sản EMU (Khánh Hòa) mang sang dưới dạng chồi.
Xoài Keitt trồng tại Trung tâm Nông nghiệp công nghệ cao.
Xoài Keitt gồm 47 cây đầu dòng hình thành từ mắt ghép ban đầu được trồng thử nghiệm tại Trung tâm Khuyến nông và Khuyến ngư tỉnh (nay là Trung tâm Nông nghiệp công nghệ cao). Tuy nhiên, đến nay, giống xoài này vẫn chưa được đưa ra thị trường như 2 giống KP và R2E2. Về năng suất và chất lượng, xoài Keitt không thua kém các giống xoài khác. Quả có hình Oval (bầu dục), vỏ dày, tỷ lệ hạt/trái nhỏ, cân nặng trung bình 0,7 - 1kg/quả, chịu được khí hậu khắc nghiệt như: ngập úng, khô hạn. Xoài Keitt có độ cao trung bình thích hợp cho chăm sóc, tỉa cành… Những quả xoài tiếp xúc với ánh sáng sẽ có màu hồng nhưng không nhiều như giống R2E2. Khi xoài chín ăn ngọt hơn R2E2 và không có xơ. Về năng suất, đến năm thứ 3, xoài Keitt bắt đầu ra bói, năm thứ 4 năng suất tăng dần, trung bình mỗi cây cho 50 - 60kg quả. Khi ổn định, xoài đạt sản lượng bình quân 12 tấn/ha.
Ông Mai Xuân Thương - Giám đốc Trung tâm Nông nghiệp công nghệ cao cho biết, xoài Keitt có ưu thế rất lớn là đặc tính rải vụ. Tuy cùng ra hoa, đậu quả một lúc như các giống xoài khác (từ tháng 12 đến tháng 1 âm lịch hàng năm) nhưng xoài Keitt chín muộn hơn, sau vụ xoài rộ chừng 1 - 1,5 tháng. Đây là đặc tính giúp nông dân bổ sung thu nhập vào thời điểm trái vụ, chủ động sản xuất và cung cấp sản lượng ổn định cho thị trường.
Được biết, năm 2020, Trung tâm Nông nghiệp công nghệ cao ký kết chương trình hợp tác với Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cam Lâm, trình diễn mô hình xoài Keitt để nông dân tham quan, học tập. Dự kiến, số lượng cây giống xoài Keitt cung cấp cả năm đạt 1.000 cây. Ngoài ra, đơn vị cũng chuyển giao giống xoài Keitt cho nhiều khu vực chuyên canh cây xoài tại các địa phương khác trong tỉnh.
Đại diện Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cam Lâm cho biết, khi triển khai giống xoài mới, huyện sẽ xem xét hỗ trợ nông dân theo chính sách khuyến nông của Nhà nước, tối đa 50% giống, vật tư thiết yếu.
V.L
Trà Vinh: Cải tạo 9.000 ha đất vườn tạp, kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả đặc sản
Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Trà Vinh
Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh Đồng Văn Lâm vừa chỉ đạo các sở, ngành liên quan cùng các địa phương thực hiện quyết liệt việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu; trong đó, tập trung cải tạo 9.000 ha đất vườn tạp, đất giồng và triền giồng kém hiệu quả, chuyển sang trồng các loại cây ăn quả đặc sản có lợi thế của tỉnh như bưởi da xanh, cam sành, quýt đường, thanh long ruột đỏ, dừa... để tăng thu nhập cho nông dân.
Nông dân huyện Châu Thành cải tạo vườn tạp trồng bưởi da xanh cho hiệu quả kinh tế cao
Trước đó, tỉnh đã ban hành chính sách hỗ trợ tái cơ cấu nông nghiệp. Các tổ chức, cá nhân thực hiện cải tạo, nâng cấp trồng mới vườn cây ăn trái như cam sành, bưởi năm roi, bưởi da xanh, quýt đường, xoài, chuối, thanh long và cây dừa đáp ứng điều kiện về quy mô diện tích liên vùng tối thiểu 2ha, nằm trong quy hoạch, có dự án đầu tư trồng mới, cải tạo, nâng cấp được UBND địa phương phê duyệt…, được tỉnh hỗ trợ chi phí mua giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật để cải tạo vườn tạp; trồng mới và cải tạo, nâng cấp vườn cây ăn trái và cây dừa già cỗi thành vùng tập trung trong 2 năm.
Cụ thể, đối với vườn cây ăn trái, tỉnh hỗ trợ doanh nghiệp, cá nhân 6 triệu đồng/ha năm đầu tiên, 3 triệu đồng/ha năm thứ 2; hỗ trợ hợp tác xã, tổ hợp tác 12 triệu đồng/ha năm đầu tiên và 4 triệu đồng/ha năm thứ 2. Với vườn dừa, hỗ trợ doanh nghiệp và cá nhân 6 triệu đồng/ha năm đầu tiên, 3 triệu đồng/ha năm thứ 2; 8 triệu đồng/ha năm đầu tiên và 4 triệu đồng/ha năm thứ 2 đối với hợp tác xã, tổ hợp tác.
Chủ tịch UBND tỉnh Trà Vinh Đồng Văn Lâm chỉ đạo các sở, ngành liên quan hướng dẫn, hỗ trợ nông dân trong chuyển đổi, đảm bảo chất lượng về cây giống, quy trình kỹ thuật, thông tin thị trường, tiếp cận chính sách hỗ trợ của nhà nước… Đặc biệt, các đơn vị chú ý phát triển cây dừa, bởi đây là cây trồng chủ lực có lợi thế tại địa phương, khá thích nghi với tình hình hạn, mặn ỏ Trà Vinh. Bên cạnh đó, dừa cũng là một trong 2 sản phẩm (dừa và đậu phộng) được tỉnh xây dựng kế hoạch nâng cấp chuỗi giá trị.
Tỉnh Trà Vinh có hơn 18.000 ha cây ăn quả, với nhiều loại quả đặc sản có giá trị kinh tế khá cao có thể xuất khẩu như xoài, thanh long ruột đỏ, nhãn, chuối, cam, bưởi da xanh… tập trung tại các huyện Cầu Kè, Càng Long, Châu Thành, Trà Cú và Tiểu Cần. Riêng cây dừa, toàn tỉnh có hơn 23.000 ha, nhiều thứ hai trong cả nước, chỉ sau tỉnh Bến Tre./.
Thanh Hòa
Sầu riêng bị ảnh hưởng nặng do hạn, mặn và đại dịch Covid-19
Nguồn tin: Báo Sóc Trăng
Đến thăm vườn sầu riêng của nhiều hộ dân chuyên canh lâu năm trên địa bàn xã Xuân Hòa (Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng), chúng tôi ghi nhận tình trạng vườn cây bị rụng lá gần như trơ trọi, cây chỉ toàn là trái. Mặc dù đây là thời điểm thu hoạch rộ sầu riêng nhưng việc bán buôn có phần trầm lắng, bởi số lượng trái tại vườn không nhiều và thương lái cũng hạn chế tìm đến mua...
Nhiều vườn sầu riêng do ảnh hưởng mặn bị rụng lá. Ảnh: Thúy Liễu
Theo ghi nhận của chúng tôi, nguyên nhân một phần do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19, sầu riêng không thể xuất bán sang thị trường Trung Quốc mà chủ yếu tiêu thụ nội địa nên giá bán không cao kèm với đó chất lượng trái không tốt so cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng của hạn, mặn nên trái nhỏ, thịt trái lạt, bị sượng.
Với diện tích 15 công sầu riêng cho trái gần 20 năm qua, ông Đoàn Út Xuân, ở ấp Hòa Lộc 2, xã Xuân Hòa (Kế Sách) bộc bạch: “Năm nay, bà con trồng sầu riêng trên địa bàn xã Xuân Hòa thất thu khoảng 30% - 50% lợi nhuận, bởi ảnh hưởng mặn xâm nhập sâu nội đồng, mặc dù đa phần hộ dân đã sử dụng hệ thống phun tưới tự động cho vườn sầu riêng nhưng do nước mặn tràn vào các ao trữ nước nên cây ảnh hưởng khá nhiều, thậm chí có vườn sầu riêng bị mất trắng. Đơn cử như vườn sầu riêng của gia đình tôi, năm 2019, diện tích trồng sầu riêng 1,5ha, sản lượng thu về 36 tấn trái nhưng hiện nay thu hoạch hết vụ ước khoảng 17 tấn trái, còn số diện tích vườn mới trồng khoảng 3 - 5 tuổi bị rụng lá mất trắng thu hoạch khoảng 8 công, kèm theo đó giá bán sầu riêng ở mức thấp, loại trái tốt có giá 30.000 đồng - 47.000 đồng/kg, thấp hơn cùng kỳ năm trước tầm 15.000 đồng - 20.000 đồng/kg. Theo tính toán, lợi nhuận vườn sầu riêng vườn nhà thu về giảm hơn 50% so cùng kỳ năm trước và mất trắng hơn 50 triệu đồng khu vườn 8 công bị ảnh hưởng bởi hạn, mặn…”.
Ông Đoàn Út Xuân (ở Xuân Hòa, Kế Sách) đang thu hoạch rộ sầu riêng tại vườn nhà nhưng năng suất giảm 50% so cùng kỳ do ảnh hưởng mặn và giá bán thấp hơn do đại dịch Covid-19. Ảnh: Thúy Liễu
“Năm rồi tôi thu hoạch sầu riêng thấy mà ham, giá bán luôn ở mức 50.000 đồng trở lên, còn năm nay xem như thua, vườn cây bị rụng bông, rụng trái, lá trên cây cũng rụng xơ xác hết, nhìn cây thấy tội. Với 6 công sầu riêng, năm nào tôi cũng thu hoạch tầm 14 - 15 tấn trái/vụ nhưng hiện giờ ước thu hoạch xong chắc tầm 5 tấn trái, thương lái họ thu mua giá dao động 35.000 đồng - 45.000 đồng/kg, trừ chi phí lợi nhuận tầm 100 triệu đồng, thất thu khoảng 500 triệu đồng. Để tránh mặn cho sầu riêng vụ tới, tôi đang tiến hành cải tạo lại vườn sầu riêng làm trái nghịch vụ, xử lý trái ra hoa trong tháng 8 (âm lịch) đến tháng 11 - 12 (âm lịch) sẽ cung ứng sầu riêng ra thị trường, có như vậy mới đảm bảo lợi nhuận tốt cũng như đầu ra trái sầu riêng ổn định, đặc biệt là tránh được hạn, mặn xâm nhập sâu vào nội đồng trong những tháng mùa khô” - ông Đoàn Út Trắng, ấp Hòa Lộc 2, xã Xuân Hòa (Kế Sách) thông tin về tình hình tiêu thụ trái sầu riêng tại vườn của gia đình.
Không được thuận lợi như một số nhà vườn khác, vườn sầu riêng của bà Đoàn Thị Út, ở ấp Hòa Lộc 2, xã Xuân Hòa (Kế Sách) trong 3 năm nay thất thu liên tiếp, mỗi năm sản lượng trái mỗi sụt giảm. Theo bà Út có lẽ nước mặn trong các ao vườn vẫn chưa được rửa sạch mà sầu riêng lại mẫn cảm với mặn nên dù có chăm sóc cẩn thận như phun thuốc dưỡng cây, bón phân cho cây ra lá xanh tốt đến xử lý ra hoa đậu trái thì bông rụng, trái lớn bằng đầu ngón chân cái rụng khá nhiều... Để đảm bảo cho trái đến vụ thu hoạch dù cây đã ít trái vẫn tiếp tục tỉa bỏ bớt trái nên năng suất giảm ở mức thấp nhất. Nếu cùng kỳ năm trước, sản lượng trái thu về 5 tấn/4 công thì vụ sầu riêng hiện tại chỉ thu hoạch được 2 tấn/4 công, xem như không có lời đồng nào. Mặc dù vậy nhưng bà Út vẫn quyết tâm giữ vườn sầu riêng, tiếp tục chăm sóc để năm sau thu hồi lại vốn vì cây trồng đã gần 20 năm, đốn bỏ trồng cây khác rất tiếc.
Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật Nguyễn Thành Phước cho biết: “Tổng diện tích sầu riêng trên địa bàn tỉnh là 682ha, tập trung tại 2 xã Xuân Hòa và Ba Trinh của huyện Kế Sách. Cùng với một số loại cây ăn trái, như: măng cụt, chôm chôm thì sầu riêng là cây mẫn cảm mặn. Đây là những cây đặc sản, chỉ một số vùng có khả năng trồng được. Theo dự báo của các đài khí tượng thủy văn, trong điều kiện thời tiết hiện nay khả năng mưa sẽ về muộn hơn hàng năm và mặn vẫn duy trì ở mức xâm nhập cao như các tháng vừa qua. Để chuẩn bị tốt hơn nữa công tác phòng chống hạn, mặn, bảo vệ vườn cây ăn trái đặc sản mẫn cảm mặn, nhà vườn nên tuân thủ đúng hướng dẫn ngành trong thời gian qua và kế hoạch phòng chống hạn, mặn UBND tỉnh ban hành. Qua đó, đề nghị nhà vườn cần thực hiện các giải pháp sau: thứ nhất tưới nước phải kiểm soát tốt nguồn nước tưới; thứ hai hệ thống kênh mương cố gắng gia cố kỹ không để nguồn nước mặn ngoài sông xâm nhập vào; thứ ba là cần cắt tỉa, tránh ra hoa, trái trong thời gian này vì thời điểm này không thích hợp nuôi trái, nuôi bông, tăng cường nguồn phân hữu cơ, phân bón lá để tăng cường khả năng chống chịu hạn, mặn...”.
Thúy Liễu
Độc lạ vải trứng Hưng Yên
Nguồn tin: Báo Hưng Yên
Những năm gần đây, cây vải trứng đã mở ra triển vọng mới trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên vùng đất chiêm trũng ở các huyện Phù Cừ, Ân Thi (tỉnh Hưng Yên). Năm nay, nhiều hộ dân trồng vải trứng rất phấn khởi vì vải được mùa, được giá.
Cùng với thời gian thu hoạch sớm, ưu thế vượt trội của vải trứng là khi chín, vỏ mỏng có màu đỏ tươi, cùi dày, vị ngọt sắc và thơm mát, quả to như quả trứng gà, trọng lượng mỗi kg từ 20 - 22 quả. Do vậy vải trứng hiện được bán tại vườn với mức trung bình 50.000 - 70.000 đồng/kg, cao gấp 3 lần so với vải lai chín sớm.
Giống vải trứng được trồng khởi điểm tại vườn của gia đình ông Nguyễn Văn Vì ở thôn Ba Đông, xã Phan Sào Nam (Phù Cừ), với cây vải gốc khoảng 150 tuổi, do cụ Nguyễn Văn Diệm (ông nội ông Vì) trồng. Do hợp thổ nhưỡng, nên cây vải này năm nào cũng cho quả to, mã đẹp, vị ngọt thơm đặc biệt khác hẳn các loại vải khác.
Từ cây vải này, con, cháu cụ Diệm lưu giữ và nhân giống cho nhiều người dân trong vùng trồng. Năm 2019, xã Phan Sào Nam đã thành lập Hợp tác xã Nông nghiệp Quyết Tiến nhằm bảo tồn và phát triển giống vải quý này.
Vải trứng chuẩn bị thu hoạch ở thôn Ba Đông, xã Phan Sào Nam (Phù Cừ)
Với 3 mẫu trồng vải trứng, gia đình anh Mai Văn Diện ở thôn Ba Đông hiện là hộ có diện tích trồng loại cây này lớn nhất ở xã Phan Sào Nam. Nhờ thời tiết thuận lợi và kinh nghiệm nhiều năm chăm sóc, vụ này, gia đình anh ước thu trên 7 tấn quả.
Thời điểm này, những chùm vải trứng sai lúc lỉu của gia đình anh đang bắt đầu vào mã, quả to, đẹp mắt khiến người đi qua trông thấy phải trầm trồ. Anh Diện cho biết: “Cách đây khoảng 20 năm tôi đã chiết khoảng 60 cây giống từ vườn vải trứng của gia đình ông Nguyễn Văn Vì. Sau đó tôi tiếp tục nhân giống để mở rộng diện tích. Năm nay sản lượng vải trứng của gia đình tôi cao hơn so với năm ngoái, từ 100 cây vải trứng, tôi ước thu 7 tấn quả, bán với giá 60.000 - 70.000đồng/kg; dự kiến mang lại cho gia đình tôi thu nhập trên 400 triệu đồng”.
Ông Nguyễn Đình Đức, Chủ tịch UBND xã Phan Sào Nam cho biết: “Hiện nay, toàn xã có trên 200 hộ trồng vải trứng với khoảng 78ha, tập trung chủ yếu ở thôn Ba Đông. Trong đó, diện tích đang cho thu hoạch khoảng 20ha, sản lượng năm nay ước đạt từ 20 - 25 tấn. Xã đang đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người dân tiếp tục chuyển đổi diện tích cấy lúa, rau màu, cây ăn quả khác kém hiệu quả sang trồng vải trứng. Đồng thời, phối hợp với Sở Nông nghiệp và PTNT, Sở Khoa học và Công nghệ... xây dựng quy trình chăm sóc, tổ chức các lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân trong xã để nâng cao năng suất, chất lượng vải trứng...”.
Nằm giáp xã Phan Sào Nam, gia đình ông Đoàn Văn Hiểu ở thôn Bình Nguyên, xã Đa Lộc (Ân Thi) hiện có 24 cây vải trứng đang cho thu hoạch. Ông Hiểu cho biết: “Năm nay, thời tiết thuận lợi, sản lượng vải trứng của gia đình tôi ước đạt 2,5 tấn, tăng khoảng 30% so với năm ngoái. Do số lượng không nhiều nên hàng năm, thương lái đếu đến tận vườn đặt mua trước. Tôi cũng sẽ tiến hành ghép mắt thay thế toàn bộ 2,5 mẫu vải lai chín sớm sang vải trứng để nâng cao giá trị kinh tế”.
Theo người trồng vải trứng, đây là loại cây khó tính đòi hỏi chăm sóc kỳ công nhưng cho giá trị kinh tế cao gấp nhiều lần vải bình thường. Thông thường, cây cho thu hoạch cách năm, tức là 1 năm được mùa sẽ xen 1 năm mất mùa. Những năm gần đây, nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật, trồng vải theo quy trình Vietgap, nhiều hộ trồng vải trứng đã khắc phục được hạn chế này để vải ra hoa đều hàng năm.
Theo số liệu của Phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Phù Cừ, hiện nay, diện tích vải của toàn huyện là 836ha, trong đó, vải trứng là 110ha. Năm nay, thời tiết thuận lợi và bà con đã có kinh nghiệm thâm canh giống vải trứng nên sản lượng đạt khoảng 50 tấn, cao hơn năm trước. Vải trứng là giống vải đặc sản của địa phương với mẫu mã, chất lượng vượt trội, được thị trường ưa chuộng, cho hiệu quả kinh tế cao hơn 2 - 3 lần so với vải lai chín sớm. Huyện Phù Cừ đã có kế hoạch phấn đấu đến hết năm 2020, sẽ mở rộng thêm 85,4ha vải trứng, tập trung ở các xã: Phan Sào Nam, Minh Tân, Quang Hưng, Đoàn Đào, Minh Hoàng, thị trấn Trần Cao để phát triển diện tích cây vải trứng theo hướng hình thành vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa.
Hương Giang
Triển vọng phát triển giống cây mới lạ có giá trị kinh tế trên đất Vĩnh Phúc
Nguồn tin: Báo Vĩnh Phúc
Thực hiện chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, nâng cao thu nhập, những năm gần đây, một số giống cây trồng mới như: Hoa hồng xanh Jane Green, địa hoàng, sachi, nho Hạ đen… được đưa về trồng thử nghiệm tại một số địa phương trên địa bàn tỉnh. Sau quá trình nhân rộng và phát triển, đến nay, các giống cây trồng này đang sinh trưởng tốt, hứa hẹn nhiều kết quả khả quan.
Giống hoa hồng xanh Jane Green được trồng thử nghiệm tại Trang trại hoa hồng Tam Đảo, Km 6, quốc lộ 2B, xã Kim Long, huyện Tam Dương mang lại kết quả khả quan.
Năm 2019, Trang trại hoa hồng Tam Đảo, Km 6, quốc lộ 2B, xã Kim Long, huyện Tam Dương bắt đầu đưa giống hoa hồng xanh Jane Green vào trồng thử nghiệm.
Đến nay, các luống hồng xanh Jane Green của trang trại đều sinh trưởng tốt, mang đến một vẻ đẹp rất lạ và độc đáo cho vườn hồng. Không cao lớn như các loại hoa hồng leo hay hoa hồng thân gỗ, hoa hồng xanh Jane Green chỉ cao tầm 50cm. Được đánh giá là loại cây siêng hoa nên mỗi cành mọc ra đều có khả năng tạo thành nụ hoa, nở thành từng chùm từ 5-7 bông và rất lâu tàn.
Anh Hoàng Văn Quý, quản lý trang trại cho biết: Đây là giống hồng bụi, có xuất xứ từ Pháp, được nhân giống tại Nhật Bản.
Sau một thời gian trồng thử nghiệm, nhận thấy đây là loài cây sinh trưởng mạnh mẽ, kháng bệnh tốt và phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng của Vĩnh Phúc, có thể nhân giống bằng cách chiết cành.
Tuy nhiên, loài cây nào cũng cần kỹ thuật chăm sóc riêng. Ngoài việc cấp đủ nước, ánh sáng và chế độ sinh dưỡng hợp lý, người trồng phải thường xuyên vun gốc, bấm ngọn, tỉa cành để tăng năng suất, chất lượng hoa.
Là loài hoa hiếm và được coi biểu tượng cho tình yêu vĩnh cửu nên hoa hồng xanh Jane Green được người tiêu dùng rất ưa chuộng. Vì vậy, giá hoa hồng xanh Jane Green cũng cao hơn 3 lần so với những loài hoa hồng khác. Với triển vọng kinh tế của loài hoa này, thời gian tới, trang trại sẽ mở rộng quy mô lên tới 3ha.
Hiện, Trang trại hoa hồng Tam Đảo có hơn 200 giống hoa hồng khác nhau, đa số đều là hoa hồng ngoại và các giống hồng cổ trong nước. Ngoài việc cung ứng cây hồng cảnh và hoa hồng ra thị trường, mỗi ngày, trang trại còn phục vụ gần trăm lượt khách tới tham quan, chụp ảnh.
Thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm nâng cao thu nhập cho bà con nhân dân, năm 2018, xã Bạch Lưu, huyện Sông Lô phối hợp với Viện Nghiên cứu Ứng dụng và Phát triển, Trường Đại học Hùng Vương trồng thí điểm 20 sào địa hoàng trên cánh đồng thôn Anh Dũng.
Đây là loại cây xuất xứ từ Trung Quốc có giá trị về mặt dược liệu rất cao. Rễ củ làm thuốc bổ chống suy nhược cơ thể, lọc máu, lợi tiểu, chữa ho ra máu, băng huyết, chảy máu cam, động thai, thương hàn và bổ huyết, làm sáng mắt…
Anh Nguyễn Văn Sang, Trưởng thôn Anh Dũng, quản lý dự án trồng địa hoàng cho biết: Nếu nắm được kỹ thuật thì việc trồng cây địa hoàng tương đối đơn giản, giống như các loài cây lấy củ khác.
Mỗi năm, cây có thể thu hoạch hai vụ vào các tháng 2-3 và 8-9. Với năng suất trung bình 20 tấn củ/ha và giá bán khoảng 10 nghìn đồng/kg củ, giá trị kinh tế mà cây địa hoàng mang lại cao gấp vài lần cây ngô.
Đầu ra cho sản phẩm tương đối ổn định, được các doanh nghiệp, cơ sở bào chế dược phẩm thu mua để làm thuốc. Điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng phù hợp cho việc phát triển vùng dược liệu sẽ mở ra hướng đi mới, giúp người dân trong thôn có thêm thu nhập, nâng cao đời sống.
Trong thời gian tới, thôn sẽ định hướng cho bà con mở rộng diện tích trồng cây địa hoàng, đem lại hiệu quả kinh tế trên vùng đất bãi.
Thực hiện Nghị quyết số 02-NQ/HU về “Phát triển chăn nuôi, thủy sản và cây hàng hóa có giá trị kinh tế cao giai đoạn 2016-2020”, những năm qua, phòng Nông nghiệp &PTNT huyện Lập Thạch đã phát triển diện tích một số giống cây trồng mới, bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao như: 0,5 ha nho Hạ đen không hạt, 10 ha trám đen, 0,5 ha dổi xanh, 1 ha sachi…
Những kết quả bước đầu của việc trồng thử nghiệm giống cây trồng mới góp phần đẩy nhanh thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, hứa hẹn sẽ mang lại nhiều đột phá trong phát triển kinh tế nông thôn.
Trong thời gian tới, các địa phương sẽ tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, chú trọng ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, nhân rộng các mô hình sản xuất cây trồng mới có hiệu quả kinh tế. Đồng thời, liên kết với các doanh nghiệp hỗ trợ vốn, chuyển giao KHCN, bao tiêu sản phẩm để bà con yên tâm sản xuất.
Bài, ảnh: Phùng Hải
Thương lái vắng bóng, 150 ha mía có nguy cơ chết khô
Nguồn tin: VOV
Theo người trồng mía, nguyên nhân vụ mía năm nay chưa thu hoạch dứt điểm là ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, thương lái không vào thu mua.
Thông thường đến thời điểm này hàng năm, bà con nông dân huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng cơ bản hoàn thành việc xuống giống vụ mía mới. Tuy nhiên, hiện tại, địa phương này vẫn còn khoảng 150 ha mía chưa thu hoạch được do không có thương lái đến thu mua. Trong đó, nhiều diện tích đang bị khô héo, giảm năng suất, thậm chí là mất trắng, hoặc phải phá bỏ để chuẩn bị cho mùa vụ mới.
Dưới cái nắng hạn của của tháng 5, nhìn 15 công mía nước vẫn chưa thể thu hoạch, bà Đặng Thị Cẩm Giang, ngụ xã Đại Ân 1 than thở, hiện cây mía phần lớn đã khô gốc, cháy lá và giảm trữ đường, nhiều cây đã đổ ngã, thiệt hại rất nặng… Hiện chỉ mong chờ thương lái đến thu mua dứt điểm diện tích mía như hợp đồng đã ký.
“Người ta hứa từ tháng Giêng đến 15 tháng 4 sẽ đốn xong, hai bên cũng làm giấy tờ nhưng nay mía sớm mà dịch bệnh thì kéo dài. Giờ mía đổ, ngã khô gốc hết rồi” - bà Giang chia sẻ.
Chị Đặng Thị Cẩm Giang rất lo lắng cho 15 công mía của gia đình vì tiêu thụ chậm.
Ông Trương Văn Trung cùng ở khu vực này, là một trong những hộ vẫn còn diện tích trồng mía chưa thể thu hoạch. Ông Trung cho biết, 2 công mía nguyên liệu đến thời điểm này gia đình đang chuẩn bị phá bỏ. Từ lúc nhà máy đường ngưng hoạt động, mía không có nơi tiêu thụ; trong khi đã quá ngày thu hoạch từ lâu và mía đang bị chết dần.
“Tôi thì có 2 công đốn chưa kịp, kêu nhân công thì cũng hứa thôi, nhà máy nghỉ, giờ 2 công đó bỏ trắng luôn” - ông Trung nói.
Theo người trồng mía, nguyên nhân niên vụ mía năm nay chưa thu hoạch dứt điểm là do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, thương lái không vào thu mua và thiếu nhân công thu hoạch. Ngoài ra nắng nóng kéo dài làm giảm chất lượng mía, bên cạnh đó là khả năng tiêu thụ của nhà máy đường cũng gặp khó khăn. Hiện nhà máy đã ngừng hoạt động. Tuy thời điểm này, thương lái đến thu mua có khá hơn, nhưng tiêu thụ vẫn rất chậm.
Một ruộng mía ở xã Đại Ân 1 đã khô và đang chết dần.
Ông Nguyễn Văn Đắc, Phó trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cù Lao Dung cho biết, hiện nay trên địa bàn huyện còn khoảng 150ha mía chưa thu hoạch, chủ yếu là mía nước, được người dân trồng bán cho thương lái ở ngoài. Những diện tích này sẽ chết khô nếu nắng nóng kéo dài như hiện nay.
Thời gian tới, nếu không thu hoạch được, mưa xuống, mía sẽ giảm trữ đường nhanh, khả năng thiệt hại rất lớn. Cũng theo ông Nguyễn Văn Đắc, không chỉ khó khăn trong tiêu thụ, hiện tình hình xuống giống mía cho niên vụ tiếp theo của địa phương cũng rất chậm do nguồn nước ngọt còn khan hiếm, bên cạnh đó là khó khăn về nguồn giống.
Cây mía trước đây được xem là cây kinh tế chủ lực của nông dân xứ Cù Lao Dung nhờ hiệu quả kinh tế cao, diện tích lúc cao điểm lên hơn 8.000 ha mỗi niên vụ. Song nhiều niên vụ qua, người nông dân trồng mía vùng Cù Lao này liên tục gặp khó trong khâu tiêu thụ, giá cả bấp bênh. Từ đó, diện tích mía đã giảm nhanh, dự kiến niên vụ tới chỉ còn khoảng 3.500 ha mía; phần lớn diện tích mía được bà con nông dân chuyển sang trồng cây con khác có giá trị kinh tế hơn./.
Thạch Hồng/VOV-ĐBSCL
Cà phê tiếp tục xu hướng tăng giá
Nguồn tin: Công Thương
Nguồn cung cà phê trong nước hạn chế là nguyên nhân khiến giá cà phê tại thị trường nội địa tăng kể từ đầu tháng 5/2020. Xuất khẩu cà phê tháng 4/2020 tăng trưởng khả quan so với cùng kỳ năm trước.
Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho hay, nguồn cung cà phê trong nước hạn chế là nguyên nhân khiến giá cà phê tại thị trường nội địa tăng kể từ đầu tháng 5/2020. Tình trạng thiếu nước nghiêm trọng đã ảnh hưởng đến sản lượng cà phê tại khu vực Tây Nguyên.
Ngày 18/5/2020, giá cà phê Robusta tại thị trường nội địa tăng từ 1,0 – 2,0% so với ngày 8/5/2020, trong đó giá cà phê tại huyện Đắk Hà tỉnh Kon Tum có mức tăng cao nhất là 2,0%, lên mức 31.100 đồng/kg. Trong khi đó, tại tỉnh Đắk Lắk, giá cà phê Robusta có mức cao nhất, từ 31.100 - 31.300 đồng/kg, tăng 1,3% so với ngày 8/5/2020. Tại cảng khu vực TP. Hồ Chí Minh, cà phê Robusta loại R1 cùng tăng 1,2% so với ngày 8/5/2020, lên mức 32.500 đồng/kg.
Mô hình làm cà phê sạch tại huyện Đăk Đoa, Gia Lai
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu cà phê tháng 4/2020 đạt 165,8 nghìn tấn, trị giá 279,83 triệu USD, giảm 2,5% về lượng và giảm 5,1% về trị giá so với tháng 3/2020, nhưng so với tháng 4/2019 tăng 15,4% về lượng và tăng 15,3% về trị giá. Tính chung 4 tháng đầu năm 2020, xuất khẩu cà phê đạt 682,8 nghìn tấn, trị giá 1,148 tỷ USD, tăng 8,1% về lượng và tăng 5,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2019.
Tháng 4/2020, giá xuất khẩu bình quân cà phê đạt mức 1.688 USD/tấn, giảm 2,7% so với tháng 3/2020 và giảm 0,1% so với tháng 4/2019. Tính chung 4 tháng đầu năm 2020, giá xuất khẩu bình quân cà phê đạt mức 1.682 USD/tấn, giảm 2,6% so với cùng kỳ năm 2019.
Theo dự báo của Tổ chức Cà phê thế giới (ICO), lượng tiêu thụ cà phê thế giới năm 2020 sẽ giảm tầm 0,95% do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Mặc dù cà phê thế giới niên vụ 2019/2020 ước thặng dư khoảng 8 triệu bao, tương đương 480 nghìn tấn, nhưng lượng tồn kho thế giới đang giảm xuống đáng kể. Tồn kho cà phê Arabica giảm xuống mức thấp nhất chỉ còn 1.848 triệu bao, tương đương 110 nghìn tấn, tồn kho cà phê Robusta giảm còn 138 nghìn tấn. Thông tin một số nước tiêu thụ lớn như Mỹ hay tại EU muốn ngừng lệnh “giãn cách xã hội” cũng tạo động lực cho các nhà nhập khẩu tăng cường trở lại.
Tuy nhiên, sức ép bán hàng vụ mới gia tăng mạnh từ nhà sản xuất hàng đầu Brazil làm giá cà phê thế giới cũng như cà phê trong nước sẽ còn trì trệ kéo dài cho tới hết niên vụ cà phê 2019/2020 bởi đại dịch Covid- 19 vẫn đang làm nền kinh tế toàn cầu tiếp tục suy thoái.
Nguyễn Hạnh
Vụ mía 2020-2021: Áp dụng nhiều giải pháp khoa học kỹ thuật
Nguồn tin: Báo Tây Ninh
Các chế phẩm chuyên dùng cho mía như Root Booster, Grow Booter, Amino, BiO-Team, CCS Booter và chất ức chế sinh trưởng… đã được nghiên cứu phù hợp với từng giai đoạn sinh trưởng của cây, cung cấp dinh dưỡng, tăng hệ vi sinh vật có lợi cho đất, nâng cao sức đề kháng giúp cây mía có năng suất và chữ đường cao.
Áp dụng nhiều giải pháp khoa học kỹ thuật
Phun chế phẩm phân bón lá ở Nông trường mía Biên Hoà-Thành Long.
Lâu nay, theo tập quán canh tác, nông dân đơn thuần chỉ dùng phân bón vào đất cho cây mía hấp thu qua rễ. Biện pháp này có ưu điểm cung cấp cho cây trồng hàm lượng lớn chất dinh dưỡng, đáp ứng nhu cầu của cây nhưng có hạn chế là tỷ lệ thất thoát cao, phân bón dễ bị đất hấp thu, rửa trôi, bay hơi hoặc cây trồng không sử dụng được.
Đẩy mạnh việc đưa các chế phẩm phân bón lá cho mía
Trong các vụ mía gần đây, Công ty CP Thành Thành Công - Biên Hoà (TTC-BH) và Công ty CP Nghiên cứu ứng dụng mía đường Thành Thành Công (SRDC) đã khảo nghiệm và từng bước đưa vào sử dụng chế phẩm phân bón lá cho cây mía. Đây là biện pháp khoa học kỹ thuật mới, đột phá của TTC-BH, nhằm phát huy hiệu quả phân bón và tiềm năng của cây mía.
Các chế phẩm chuyên dùng cho mía như Root Booster, Grow Booter, Amino, BiO-Team, CCS Booter và chất ức chế sinh trưởng… đã được nghiên cứu phù hợp với từng giai đoạn sinh trưởng của cây, cung cấp dinh dưỡng, tăng hệ vi sinh vật có lợi cho đất, nâng cao sức đề kháng giúp cây mía có năng suất và chữ đường cao. Các kết quả khảo nghiệm cho thấy mía phun xịt chế phẩm và ức chế sinh trưởng đã cho chữ đường tăng 0.5 - 1.12 CCS so với không xịt, ngoài ra còn giúp mía chín sớm, đều để chủ động trong việc thu hoạch mía.
Ông Trần Tấn Việt- Giám đốc Công ty CP Nghiên cứu ứng dụng mía đường Thành Thành Công cho biết, thực tế áp dụng tại Tây Ninh, Bình Dương, Phan Rang, Ninh Hoà và Campuchia cho thấy cây sinh trưởng rất khoẻ, đẻ nhánh nhiều.
Để đáp ứng nhu cầu phun chế phẩm phân bón lá cho vùng nguyên liệu với diện tích hàng ngàn hecta và phun cho mía lớn mà hiện nay chưa có phương tiện đáp ứng, TTC-BH đang kết hợp với đối tác để đưa máy tầm xa về phun cho mía.
Với tầm phun xa 120m-150m và công suất lớn, máy giúp mang lại hiệu quả cao, tiết kiệm thời gian, chi phí cho nông dân và các nông trường. Với kết quả ban đầu đáng khích lệ như vậy, hiện nay, chương trình phun xịt chế phẩm cho mía đang được bà con nông dân và các nông trường trồng mía thuộc công ty quan tâm và hưởng ứng.
Anh Phạm Quốc Tuấn, ngụ ấp Vịnh, xã An Cơ (huyện Châu Thành) cho biết, gia đình anh trồng mía với diện tích 11 ha, vụ mía năm nay anh bắt đầu áp dụng chế phẩm phân bón lá cho cây mía, sản phẩm anh đang dùng là Root Booster.
Chế phẩm phân bón lá có tác dụng tăng khả năng nhảy rễ, nở bụi (phát triển con), giúp điều hoà sinh trưởng, làm cây phát triển. Trên ruộng mía của gia đình, anh sử dụng chế phẩm này vào giai đoạn mía bắt đầu được 2-3 lá, sau thời gian sử dụng anh thấy cây nở con nhiều hơn, phát triển tốt.
Nông trường mía Biên Hoà - Thành Long cũng đang sử dụng chế phẩm phân bón lá cho mía vụ 2020-2021. Anh Nguyễn Trọng Hoà- Giám đốc Nông trường mía Biên Hoà - Thành Long cho biết, diện tích mía của nông trường khoảng 800 ha. Ban đầu nông trường thử nghiệm trên 100 ha, sau đó thấy hiệu quả nên đã tiếp tục sử dụng cho các diện tích còn lại.
“Ưu điểm của sản phẩm này là cây tăng lên rất nhiều, cây to, khoẻ làm cho mật độ kín cây tốt, so với không sử dụng chế phẩm thì tăng được khoảng 15%-20% số cây hữu hiệu, đặc biệt thấy rõ rệt nhất trên diện tích có tưới. Khi không sử dụng thì mía đẻ nhánh không nhiều nên năng suất thấp và không đồng loạt, cây non chữ đường thấp”, anh Hoà chia sẻ.
Theo Công ty CP Thành Thành Công - Biên Hoà, với mục tiêu khi phun chế phẩm tối thiểu phải cho tăng năng suất 5 tấn/ha và chữ đường 0.5 CCS, công ty đã có chương trình hỗ trợ cho nông dân 50% tiền mua chế phẩm, tương đương 910.000 đồng/ha và với diện tích 700 ha cho vùng nguyên liệu mía Tây Ninh.
Áp dụng nhiều giải pháp khoa học kỹ thuật
Ươm mía một mắt mầm dạng stump bầu.
Ươm mía một mắt mầm dạng Stump bầu để trồng giặm vụ mía 2020-2021
Để chuẩn bị nguồn mía giống cho vụ trồng mới và trồng giặm vụ 2020-2021, SRDC và TTC-BH đã triển khai sản xuất số lượng lớn mía stump bầu một mắt mầm với giá thành rẻ cung cấp cho khách hàng, đồng thời chuyển giao kỹ thuật cho nông dân tự làm giảm chi phí vận chuyển, chủ động được nguồn cây giống tốt, hiệu quả phục vụ cho cánh đồng mía.
Mía stump bầu đã được làm từ khá lâu, nhưng do trước đây áp dụng phương pháp làm bầu túi nylon, dùng giá thể đất trộn nên tốn nhiều vật tư và nhân công, tốc độ làm chậm, dẫn đến giá thành cao, không đáp ứng được số lượng lớn nên chưa được áp dụng nhiều.
Ông Trần Tấn Việt- Giám đốc Công ty CP Nghiên cứu ứng dụng mía đường Thành Thành Công cho biết, áp dụng kỹ thuật làm stump bầu mới trên khay nhựa, dùng giá thể xơ dừa trộn sẵn để ươm bầu của SRDC giúp giảm vật tư và nhân công, tốc độ làm nhanh và đáp ứng được số lượng lớn cho nhu cầu trồng mới và giặm mía.
Cùng với việc đưa các chế phẩm Root booter và Amino vào chăm sóc stump bầu đã kích thích mía ra rễ, đẻ nhánh ngay trong quá trình ươm bầu, giúp cây khoẻ và rút ngắn thời gian trong vườn ươm.
So với hom mía, trồng mía stump bầu có lợi thế là tiết kiệm hom giống. Một ha mía stump bầu cần khoảng 2-3 tấn mía giống nên phù hợp cho các giống mía mới cần phát triển nhanh diện tích. Trồng hoặc giặm mía stump bầu cây lên nhanh, tiết kiệm thời gian nảy mầm so với trồng bằng hom. Mía giặm thu hoạch được ngay năm đầu tiên do phát triển kịp với mía gốc.
Chi phí sản xuất stump bầu chủ yếu là công lao động, việc thực hiện khá đơn giản và dễ làm nên khuyến khích nông dân nhân rộng mô hình phát triển. Với giá thành khoảng 800 đồng/cây đã giảm rất nhiều so với trước đây (từ 3.000 - 5.000 đồng/bầu). Ngoài việc sản xuất đại trà ở SRDC, hiện nay, SRDC cùng cán bộ nông vụ, Khuyến nông đã hướng dẫn nông dân làm vườn ươm bầu có chất lượng tốt giá thành hợp lý.
Anh Nguyễn Phi Hùng, ngụ ấp Đông Tiến, xã Tân Đông (huyện Tân Châu) cho biết, anh thuê đất trồng mía ở Campuchia với diện tích hơn 100 ha. Anh đang ươm khoảng 100.000 bầu để phục vụ trồng giặm cho vụ tới bảo đảm tiến độ thời vụ, mía phát triển kịp với mía gốc.
Ông Việt cho biết thêm, để trồng mới bằng mía stump bầu, tiền giống và công trồng (bằng máy) trên diện tích 1 ha khoảng từ 16-17 triệu đồng, cao hơn trồng bằng hom từ 4-5 triệu đồng nên nông dân còn phải tính toán cho có hiệu quả.
Vì vậy, trước mắt nên trồng mới bằng stump bầu cho các giống mía mới, mía trồng nhân giống để có hiệu quả kinh tế. Nhưng việc giặm bằng stump bầu cho hiệu quả cao vì giảm công lao động, ruộng mía bảo đảm mật độ và phát triển đều, trồng giặm hằng năm còn giúp kéo dài thời gian lưu gốc.
Giang Hà
Anh Dương Tấn Làm giàu trên vùng đất khát
Nguồn tin: Báo Ninh Thuận
Năm 2001, anh Dương Tấn, ở xã Lâm Sơn (Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận) quyết định đến thôn Trà Giang 4, xã Lương Sơn để khởi nghiệp. Lúc đầu rẫy trồng lúa, bắp nhưng do phụ thuộc vào nước trời, nên năng suất không cao, nhiều năm nắng hạn kéo dài, cây trồng chết khát, dẫn đến thua lỗ.
Quyết không chịu thất bại, năm 2015, anh Tấn thôi trồng lúa, bắp; đồng thời dồn hết vốn liếng hơn chục triệu đồng, đầu tư lắp đặt hệ thống tưới nước tiết kiệm để chủ động nguồn nước tưới, và chuyển đổi cây trồng cần ít nước tưới và đem lại lợi nhuận cao. Từ đó anh chuyển sang trồng ớt, củ kiệu, đậu phụng, khoai lang…. nhờ chủ động nguồn nước tưới tiết kiệm, mỗi năm, cây đậu phụng cho năng suất 6 tạ/sào, bán cho thương lái với giá 15.000 đồng/kg; củ kiệu đạt 1,5 tấn/sào, bán với giá từ 20-25.000 đồng/kg; khoai lang đạt năng suất 3 tấn/sào, bán với giá 3.400 đồng/kg…, sau khi trừ chi phí, mỗi năm anh còn lãi khoảng 100 triệu đồng. Nhờ đó, đời sống gia đình ngày được cải thiện.
Với tinh thần chịu khó vươn lên, từ nông dân sản xuất có hiệu quả, anh Tấn được bà con tín nhiệm bầu đội trưởng Đội 6, thôn Trà Giang 4. Học tập cách làm của anh, hàng chục nông hộ nơi đây đã mạnh dạn đầu tư hệ thống tưới nước tiết kiệm, chuyển đổi hàng chục ha cây trồng thay cho cây lúa, bắp… thu nhập ngày càng khá hơn nhiều so với trước đây.
Trao đổi với chúng tôi, anh Dương Tấn cho biết, vùng đất này rất phù hợp khi chuyển đổi các loại cây trồng cạn, kết hợp với đầu tư hệ thống tưới nước tiết kiệm. Cho nên, hơn 2/3 số hộ ở đây đã có điều kiện vươn lên khá giả, sắp tới, chúng tôi tiếp tục hỗ trợ nhau để đầu tư nhân rộng mô hình sản xuất hiệu quả, tin chắc một ngày không xa, đời sống người dân nơi đây sẽ no ấm, thôn xóm sẽ trù phú hơn.
Văn Miên
Suối Dây (Tây Ninh): Nuôi dê nhốt chuồng mang lại hiệu quả kinh tế cao
Nguồn tin: Báo Tây Ninh
Nhận thấy hiệu quả từ mô hình chăn nuôi dê nhốt chuồng của một số hội viên nông dân, Hội Nông dân xã Suối Dây (Tân Châu, tỉnh Tây Ninh) đã tích cực vận động các hội viên khác chuyển đổi cơ cấu chăn nuôi.
Suối Dây là xã nội địa, có diện tích tự nhiên trên 11.000 ha. Tính đến cuối năm 2019 xã có trên 3.000 hộ dân sinh sống với gần 13.000 nhân khẩu, 75% người dân sống bằng nghề sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi. Xã có 14 dân tộc thiểu số sinh sống với gần 2.000 nhân khẩu, chủ yếu là dân tộc Chăm.
Nhận thấy hiệu quả từ mô hình chăn nuôi dê nhốt chuồng của một số hội viên nông dân, Hội Nông dân xã Suối Dây đã tích cực vận động hội viên chuyển đổi cơ cấu chăn nuôi, từ những mô hình chăn nuôi kém hiệu quả sang nuôi dê nhốt chuồng. Ban đầu chỉ có vài ba hộ nuôi, hiện toàn xã có gần 40 hộ chăn nuôi dê với tổng đàn trên 800 con.
Thêm vào đó, những năm gần đây, các loại cây thế mạnh như mía, cao su giá cả xuống thấp, nên người dân chuyển qua trồng cây mì. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để người dân phát triển mô hình chăn nuôi dê nhốt chuồng, vì tận dụng được nguồn thức ăn sẵn có là lá mì tại địa phương.
Anh Nguyễn Văn Đông với đàn dê của mình.
Để có nguồn vốn cho hội viên phát triển đàn, mua thêm con giống, Hội Nông dân xã đã hỗ trợ hội viên tiếp cận các nguồn vốn vay có lãi suất thấp. Đồng thời, Hội thường xuyên tổ chức nhiều buổi trao đổi, đưa hội viên đến từng trang trại để học tập kinh nghiệm, hỗ trợ nhau trong phát triển mô hình nuôi dê nhốt chuồng.
Anh Nguyễn Văn Đông (ngụ tại ấp 3, xã Suối Dây) cho biết, đầu năm 2008, gia đình anh đã chuyển từ mô hình chăn nuôi gà vịt kém hiệu quả sang nuôi dê nhốt chuồng. Qua quá trình lựa chọn con giống và bán đi để trang trải cuộc sống, đến nay đàn dê của anh Đông đã có trên 40 con, trong đó có gần 10 con dê sinh sản. Với giá bán trên thị trường trung bình 140.000 đồng/kg dê thịt, mỗi năm gia đình anh thu về từ 50 - 60 triệu đồng.
Theo anh Đông, nuôi dê dễ vì con vật này không kén ăn, lại ít bệnh tật. Nhưng để nuôi dê nhốt chuồng đạt hiệu quả kinh tế cao, ngoài kinh nghiệm ra, việc áp dụng kỹ thuật vào chăn nuôi cũng rất quan trọng.
Người nuôi dê phải biết áp dụng kỹ thuật từ khâu làm chuồng trại cho đến việc theo dõi, quản lý đàn dê, dự trữ thức ăn cho dê vào mùa mưa. Dê không ưa độ ẩm cao, lại rất dễ phát bệnh khi ăn thức ăn ẩm ướt nên chuồng trại cần phải đảm bảo thông thoáng, tránh nắng nóng và ẩm ướt, đặc biệt phải được quét dọn sạch sẽ hằng ngày, thức ăn phải được phơi héo hoặc khô trước khi cho ăn thì mới đảm bảo sức khỏe cho dê.
Khi làm chuồng, tùy theo đặc điểm từng nhà mà xác định vị trí và hướng chuồng thích hợp để tận dụng yếu tố thuận lợi, hạn chế tối đa các yếu tố bất lợi của thời tiết đối với dê. Điều quan trọng hơn cả là tránh cho dê giao phối đồng chủng để bảo đảm năng suất, chất lượng con giống.
Mô hình nuôi dê nhốt chuồng thời gian gần đây còn được Hội Nông dân xã Suối Dây triển khai nhân rộng trong đồng bào Chăm. Tại ấp Chăm có gần 20 hộ dân nuôi dê nhốt chuồng với gần 300 con, hộ nuôi ít nhất cũng trên 10 con. Điển hình có hộ ông Chàm A Tâm, nuôi trên 40 con, trong đó có trên 20 dê cái sinh sản và hơn 20 dê con chuẩn bị bán thịt.
Hội Nông dân xã Suối Dây thăm mô hình nuôi dê nhốt chuồng của ông Chàm A Tâm.
Ông Trần Nguyễn Xốp-Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Suối Dây cho biết: trong thời gian qua, Hội Nông dân xã được Tỉnh hội và huyện Tân Châu hỗ trợ cho hội viên vay vốn thực hiện mô hình nuôi dê sinh sản, với số tiền 500 triệu đồng từ quỹ hỗ trợ nông dân tỉnh Tây Ninh.
Hiện tại, đàn dê của xã có trên 800 con đang sinh trưởng tốt. Giống nuôi chủ yếu mua quanh tỉnh Tây Ninh là giống Lai Bo và Bách thảo đã thuần hóa phù hợp với điều kiện ở địa phương. Mỗi năm dê mẹ sinh được 2 lứa, mỗi lứa 3-4 dê con. Dê con 5–6 tháng xuất chuồng đạt khoảng 20-30 kg. Dê thịt hiện nay rất hút hàng, hễ có dê bán, chỉ cần điện thoại cho thương lái thì trong ngày sẽ có người đến mua ngay, với giá bán hiện nay trên 120.000 đồng/kg dê cái và 140.000/kg dê đực.
Tập tính loài dê rất dễ ăn, thức ăn là tất cả các loại cỏ lá rơm rạ có nhiều ở địa phương, hiện nay chủ yếu bà con cho ăn lá khoai mì phơi khô, có hộ ủ chua để tăng chất dinh dưỡng. Chuồng trại làm bằng cây gỗ đơn giản, yêu cầu có sàn khô, sạch, mái che mưa, chắn gió lùa.
Ông Trần Nguyễn Xốp-Phó chủ tịch Hội nông dân xã Suối Dây cho biết thêm, mô hình nuôi dê nhốt chuồng bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao, nguồn vốn đầu tư ít, vật nuôi ít bệnh tật, lại tận dụng được công lao động nên rất phù hợp với bà con nông dân, nhất là những hộ nghèo ở nông thôn và hộ người dân tộc Chăm; đặc biệt đối với địa phương có diện tích đất tự nhiên khá lớn như Suối Dây.
Đây là một mô hình mang lại hiệu quả kinh tế, thu nhập ổn định cho người dân, nhiều hộ trước đây thuộc diện hộ nghèo của xã nay đã thoát nghèo chính là nhờ áp dụng mô hình này. Để phát triển đàn dê trên địa bàn xã, ông Trần Nguyễn Xốp mong muốn các ngành chức năng xem xét hỗ trợ cho nông dân về vốn đầu tư để mua con giống, tìm đầu ra ổn định để người dân an tâm phát triển tăng đàn.
Chí Thành
Giá Sốc Gà thả vườn VietGAP 50.000 đồng/kg
Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng
Được đánh giá tốt về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, Gà thả vườn VietGAP của Sagrifood được chăn nuôi theo tiêu chuẩn VietGAP kiểm soát từ thức ăn, con giống, nước uống và vệ sinh thú y trước khi xuất chuồng.
Bên cạnh đó, để thịt vẫn giữ được độ tươi ngon khi đến tay người tiêu dùng, Gà thả vườn Sagrifood được giết mổ theo công nghệ hiện đại của Pháp, với công đoạn làm lạnh nhanh sau giết mổ trong môi trường không khí khô nên chất lượng thịt gà có độ dai và ngọt của thịt.
Hiện trên thị trường có rất nhiều loại thịt gà thả vườn, nên chất lượng sẽ khác tùy vào quy trình chăn nuôi và giết mổ nên chất lượng sản phẩm đầu ra có sự khác biệt với nhau, chính vì vậy để sản phẩm còn tươi ngon và độ dai của thịt, Sagrifood ngay từ đầu đã kiểm soát chặt chẽ từ thức ăn, con giống, khâu chăn nuôi đến giết mổ và phân phối đến tận tay người tiêu dùng, nhằm đảm bảo thịt còn tươi ngon.
Đặc tính Sản phẩm thịt gà Sagrifood rất ít mỡ, da giòn, thịt săn, các bà nội trợ hoàn toàn có thể yên tâm chế biến những món ăn tùy thích
Nhằm khuyến khích người tiêu dùng sử dụng sản phẩm thịt gà thả vườn Sagrifood còn tươi ngon, an toàn và chất lượng nên chương trình chỉ áp dụng tại hệ thống cửa hàng tiện lợi Sagrifood và sàn TMĐT Lazada, từ ngày 21-5 đến hết ngày 31-5-2020, với mức giá chỉ 50.000 đồng/kg.
Địa chỉ cửa hàng tiện lợi Sagrifood: số 69-71-73 Bùi Hữu Nghĩa (phường 13, quận 5), 162 Nguyễn Thị Định (phường An Phú, quận 2), 285/180 Cách mạng Tháng Tám (phường 12, quận 10), 220/18 Xô Viết Nghệ Tĩnh (phường 21, quận Bình Thạnh), 200 Dương Thị Mười (phường Tân Thới Hiệp, quận 12), số 3 Bến Súc (ấp An Hòa, xã An Phú, huyện Củ Chi), hoặc thông qua sàn TMĐT Lazada giao nhanh 2 giờ.
TẤN SANG
Triển vọng mô hình nuôi thỏ sinh sản
Nguồn tin: Báo Hậu Giang
Nhiều nông hộ ở huyện Phụng Hiệp (tỉnh Hậu Giang) đã phát triển mạnh mô hình nuôi thỏ sinh sản, bởi chi phí đầu tư khá thấp nhưng hiệu quả kinh tế cao.
Một con thỏ cái mỗi năm sinh sản 6-7 lứa.
Chi phí để làm 1 lồng nuôi thỏ bằng lưới kẽm diện tích 1m2 khoảng 80.000-100.000 đồng, có thể sử dụng 2-3 năm. Thỏ con sau 7 tháng nuôi sẽ cho sinh sản. Một con thỏ cái mỗi năm đẻ 6-7 lứa, mỗi lứa 5-7 con. Thỏ sau khi tách khỏi mẹ khoảng 1 tháng sẽ được bán với giá 100.000 đồng/con. Riêng thỏ thịt sau 4 tháng nuôi sẽ đạt trọng lượng 2,5-3kg, bán với giá 120.000 đồng/kg.
Tin, ảnh: DUY KHÁNH
Nuôi hươu, nai cho thu nhập khá
Nguồn tin: Báo Gia Lai
Huyện Chư Prông (tỉnh Gia Lai) có 10 hộ nuôi hươu và nai để lấy nhung. So với các loại vật nuôi khác, nuôi hươu và nai ít tốn công, kỹ thuật đơn giản mà hiệu quả kinh tế lại cao hơn nhiều.
Dẫn chúng tôi tham quan trang trại nuôi hươu và nai của gia đình, ông Nguyễn Đức Hùng (tổ 3, thị trấn Chư Prông) cho biết: “Năm 2015, tôi được huyện cấp cho một cặp nai giống. Sau hơn 1 năm, nai bắt đầu cho nhung. Mỗi năm, tôi bán nhung nai được 20-30 triệu đồng. Thấy mô hình đem lại hiệu quả kinh tế cao nên năm 2017, tôi tiếp tục mở rộng đàn. Hiện nay, trong chuồng của tôi lúc nào cũng có 4 con hươu và 2 con nai (trong đó có 2 con cái và 4 con đực). Hươu và nai đực nuôi lấy nhung còn con cái để sinh sản”. Theo ông Hùng, mỗi năm, gia đình ông thu được hơn 60 triệu đồng từ trang trại nuôi hươu và nai. Việc nuôi hươu và nai khá đơn giản, ít tốn công chăm sóc, thức ăn cũng dễ kiếm, chủ yếu là cỏ. Dù chi phí đầu tư nuôi 2 loài vật này ban đầu hơi cao nhưng nguồn thu ổn định và nhanh thu hồi vốn.
Anh Trần Văn Nam (tổ 6, thị trấn Chư Prông) chăm sóc đàn hươu của gia đình. Ảnh: T.T
Hiện nay, trên địa bàn huyện Chư Prông có 10 hộ gia đình nuôi hươu và nai với tổng đàn hơn 100 con. Để trao đổi, hỗ trợ nhau về kinh nghiệm sản xuất, tìm đầu ra cho sản phẩm, các hộ này đã thành lập Hội Những người nuôi hươu và nai. Anh Trần Văn Nam (tổ 6, thị trấn Chư Prông) chia sẻ: “Năm 2015, gia đình tôi mua 1 cặp nai trị giá 40 triệu đồng, con đực dùng để lấy nhung, con cái để nhân giống. Hiện nay, con cái đã đẻ được 1 con, còn con đực mỗi năm cho thu 1,5-2 kg nhung, bán được 20-25 triệu đồng. Năm 2018, gia đình tôi tiếp tục đến huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh để mua thêm 2 cặp hươu về nuôi. Hiện gia đình có tổng cộng 10 con nai và hươu, mỗi năm cho thu hơn 6 kg nhung. Giá nhung trên thị trường hiện nay khoảng 15-18 triệu đồng/kg, đem lại lợi nhuận cho gia đình hơn 60 triệu đồng/năm.
Theo các hộ chăn nuôi, việc chăm sóc đàn hươu và nai khá đơn giản, chỉ cần mỗi ngày cho ăn cỏ 2 lần và mỗi tuần vệ sinh chuồng trại 1 lần. Chuồng nuôi nhốt hươu, nai phải chắc chắn, ấm vào mùa đông và thoáng mát vào mùa hè. Thức ăn cho hươu, nai chủ yếu là cỏ. Lúc hươu và nai bắt đầu mọc nhung cần bổ sung thức ăn tinh bột như bắp, mì để nhung to hơn, chất lượng hơn. Nếu chăm sóc tốt, hươu, nai có thể cho nhung đến 18 năm.
Năm 1995, gia đình ông Nguyễn Tiến Dũng rời quê hương Hà Tĩnh vào thị trấn Chư Prông lập nghiệp. Những năm gần đây, giá các mặt hàng nông sản giảm thấp nên ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình. Chính vì thế, ông đã chọn chăn nuôi hươu và nai để phát triển kinh tế. Quê hương ông vốn là “thủ phủ” nuôi hươu, nai của cả nước. Khi thấy 2 loại vật nuôi này phù hợp với địa bàn Tây Nguyên, ông đã về quê mua con giống vào nuôi. Hiện nay, gia đình ông có 7 con hươu và 2 con nai. Ông Dũng cho biết: “2 loại vật nuôi này chủ yếu bị bệnh về đường ruột, nếu phát hiện bệnh thì cho ăn thêm lá xoan, lá ổi hoặc các lá có vị đắng là sẽ khỏi. Gia đình tôi trồng hơn 1 sào cỏ là đủ thức ăn cho đàn hươu và nai. Hộ nuôi ít hơn có thể tận dụng đất trống, hàng rào để trồng cỏ cho hươu, nai ăn. Hiện nay, mỗi con hươu đực 3 tháng tuổi có giá bán 11 triệu đồng, con cái 8 triệu đồng. Giống nai thì đắt hơn, quân bình khoảng 30 triệu đồng/cặp. Mỗi năm, trừ chi phí, gia đình tôi thu được gần 100 triệu đồng từ bán nhung và con giống”.
Theo ông Lưu Hoàng Hưng-Giám đốc Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Chư Prông: “So với chăn nuôi bò, dê thì nuôi hươu, nai cho hiệu quả kinh tế cao hơn rất nhiều. Đến nay, nhiều hộ gia đình trên địa bàn huyện đã mở rộng quy mô nuôi để nhân giống và lấy nhung. Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn các hộ về kỹ thuật chăm sóc. “Các hộ gia đình khi mở rộng đàn cần đăng ký với các cơ quan chức năng để kiểm tra và theo dõi. Thời gian tới, chúng tôi sẽ tham mưu cho UBND huyện để chuyển đổi một số mô hình trồng trọt và chăn nuôi nhằm mang lại thu nhập cao cho người dân”-ông Hưng cho hay.
THIÊN THANH
Hiếu Giang tổng hợp