Tin nông nghiệp ngày 26 tháng 02 năm 2020

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 26 tháng 02 năm 2020

Doanh nghiệp xuất khẩu ‘ngồi trên đống lửa’ vì... dịch Covid-19

Nguồn tin:  Báo Đắk Nông

Dịch bệnh Covid-19 đã khiến cho hoạt động xuất khẩu của nhiều doanh nghiệp tỉnh Đắk Nông đang bị ngưng trệ. Nhiều doanh nghiệp rơi vào tình cảnh "ngồi trên đống lửa" vì hàng tồn kho lớn, khong kịp xoay vòng đồng vốn...

Lượng hàng tồn kho lớn

Dịch bệnh Covid-19 kéo dài, cửa khẩu tạm đóng, đối tác Trung Quốc ngưng nhập hàng, nên hiện số lượng hàng tồn kho của các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản ở Đắk Nông tương đối lớn.

Hàng tấn sản phẩm hạt điều rang muối của Công ty TNHH Hồng Đức (Đắk R'lấp) đang tồn kho do không thể xuất qua thị trường Trung Quốc

Những năm trước, 100% lượng hàng điều nhân của Công ty TNHH Hồng Đức (Đắk R’lấp) được xuất khẩu đi thị trường châu Âu. Tuy nhiên, hai năm trở lại đây, gần 60% thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp này lại chuyển qua Trung Quốc; trong đó chủ yếu là hạt điều rang muối. Đặc biệt, trong quý III và IV, năm 2019, có 90% lượng hàng hóa của đơn vị chủ yếu phục vụ cho thị trường Trung Quốc. Thời gian qua, do tác động của dịch bệnh Covid-19, việc xuất hàng qua nước bạn bị ngưng trệ, khiến doanh nghiệp đang rơi vào hoàn cảnh khá éo le.

Hiện tại, doanh nghiệp đang còn gần 30 tấn điều rang muối tồn kho, với tổng trị giá 7 tỷ đồng. Đây là số hàng đã được đối tác Trung Quốc đặt cọc 50% để sản xuất và giao sau Tết Nguyên đán, nhưng không được diễn ra như mong muốn. Điều đáng chú ý là do sản phẩm hạt điều rang muối chỉ có thị trường Trung Quốc tiêu thụ, nên số hàng tồn này Công ty hiện không thể xuất đi nơi khác được. Trong khi đó, đặc trưng của hàng rang muối là không để được lâu. Chỉ sau 2-3 tháng, mùi vị sản phẩm sẽ mất đi, chất lượng giảm xuống…

Tương tự, Nhà máy tinh bột sắn Đắk Song, thuộc Công ty Cổ phần Nông sản thực phẩm Quảng Ngãi (tỉnh Quảng Ngãi) cũng đang gặp nhiều khó khăn do đối tác phía Trung Quốc không thể nhập hàng. Ông Võ Quang Trực, Phó Giám đốc Nhà máy cho biết: "Hiện tại, 80% sản phẩm của nhà máy đang được xuất khẩu qua thị trường Trung Quốc, còn lại là thị trường nội địa. Trước tình hình dịch bệnh Covid-19, các cửa khẩu của Trung Quốc tạm ngừng việc xuất, nhập, nên hàng hóa tồn đọng trong kho rất nhiều. Hiện tại ở nhà máy đang có khoảng 2.000 tấn bột sắn tồn kho. Hàng không xuất được, vốn không thể lưu động đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới vấn đề thu, mua nguyên liệu và hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhà máy…".

Công ty TNHH Hồng Đức (Đắk R'lấp) ưu tiên sản xuất hạt điều nhân trắng cho những đơn hàng cũ ở thị trường châu Âu và Mỹ

Doanh nghiệp “cầm chừng” sản xuất

Hoạt động xuất khẩu qua thị trường Trung Quốc bị ảnh hưởng lớn. Vì vậy, hiện tại, các doanh nghiệp của tỉnh phải vừa theo sát diễn biến của dịch bệnh, vừa cầm chừng sản xuất để duy trì hoạt động.

Theo bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt, Giám đốc Công ty TNHH Hồng Đức, đối với các hợp đồng của đối tác Trung Quốc đã đặt cọc, Công ty vẫn hỗ trợ giữ hàng cho họ và chờ kiểm soát được dịch bệnh rồi sẽ tính tiếp. Song song đó, đơn vị cũng đang sản xuất cầm chừng để trả những hợp đồng cũ từ châu Âu và Mỹ trước đó. Nếu như năm 2019, công suất sản xuất của nhà máy đạt 50 tấn/ngày thì hiện tại giảm xuống còn 20 tấn/ngày.

Một cái khó nữa là do ảnh hưởng của dịch bệnh, nên thị trường châu Âu cũng đang “ép” giảm giá hạt điều nhân trắng. Trước đây, giá điều nhân trắng vào khoảng 8,8 USD/kg thì nay còn 6,8 USD/kg, giảm gần 20%. Trong khi đó, nguyên liệu trong nước do mới vào vụ, nên giá rất cao. Do có sự chênh lệch giữa giá nguyên liệu đầu vào và giá bán sản phẩm, nên buộc Công ty phải cân nhắc kỹ việc ký hợp đồng lâu dài với những đơn hàng mới. Hiện tại, Công ty đang ưu tiên cho các đơn hàng cũ với nguồn nguyên liệu dự trữ sẵn trong kho từ năm trước. Còn mùa vụ mới, doanh nghiệp vẫn chưa triển khai thu mua nguyên liệu.

Đối với Nhà máy Tinh bột sắn Đắk Song cũng vậy. Do thị trường xuất khẩu chính của doanh nghiệp là Trung Quốc, nên đầu ra càng gặp nhiều khó khăn hơn. Hoạt động sản xuất tinh bột sắn của Nhà máy cũng bị ảnh hưởng mạnh. Nếu như trước đây, mỗi tháng, đơn vị sản xuất được 2.000 tấn tinh bột sắn thì nay công suất đã giảm xuống khá nhiều. Để tạm thời vượt qua khó khăn này, Nhà máy vẫn duy trì hoạt động sản xuất đến hết tháng 2 năm nay, với công suất đạt tầm 70%. Quá trình sản xuất, đơn vị cũng ưu tiên cho những đơn hàng cần lấy gấp. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng sẽ tập trung thu mua những nguyên liệu tại chỗ trước để giảm chi phí đầu vào, ổn định sản xuất.

Đóng gói tinh bột sắn xuất khẩu tại Nhà máy tinh bột sắn Đắk Song (Đắk Song)

Hỗ trợ doanh nghiệp tìm thị trường mới

Theo ông Lê Minh Tuấn, Trưởng Phòng Quản lý thương mại (Sở Công thương), hiện nay, tỷ trọng sản phẩm của Đắk Nông xuất sang thị trường Trung Quốc chủ yếu là điều và sắn, nên trong thời điểm này, hai sản phẩm nông sản trên đang gặp nhiều bất lợi.

Để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn trong thời điểm này, Sở Công thương đã tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo cho các đơn vị, lực lượng chức năng tại các cửa khẩu Đắk Peur (Đắk Mil), Bu P’răng (Tuy Đức) thường xuyên duy trì hoạt động, không để ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu cũng như sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Đối với tình hình xuất khẩu qua các cửa khẩu trong cả nước, Sở Công thương cũng đã kịp thời thông tin cho các doanh nghiệp sớm nắm bắt và chủ động về thị trường. Ngoài ra, thực hiện chỉ đạo của Bộ Công thương, ngành cũng có văn bản gửi cho UBND các huyện, thành phố, các ngành liên quan để phối hợp cung cấp thông tin về thị trường nông sản. Qua đó, ngành sẽ có văn bản đề nghị với Sở Công thương thành phố Hà Nội để kết nối, hỗ trợ về thị trường tiêu thụ cho các doanh nghiệp trên địa bàn trong thời gian này.

Mặt khác, Sở Công thương cũng khuyến cáo các doanh nghiệp Đắk Nông cần tập trung sản xuất các mặt hàng bảo đảm các tiêu chuẩn chất lượng, để từng bước tìm các thị trường thay thế cho thị trường trước đó. Đơn vị cũng sẽ phối hợp với Cục Xúc tiến thương mại; Cục Xuất, nhập khẩu (Bộ Công thương) để tìm kiếm các thị trường mới, đa dạng các thị trường cho doanh nghiệp về lâu về dài, nhằm phòng tránh những rủi ro có thể xảy ra như trong đợt dịch cúm vi rút Covid-19 này…

Cùng với các giải pháp trên, Sở Công thương cũng sẽ tích cực đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, liên kết, đẩy mạnh sản xuất, mở rộng thị trường. Từ đó góp phần đa dạng hóa thị trường cho doanh nghiệp, đáp ứng được nhiều yêu cầu từ các đối tác khác nhau kể cả trong và ngoài nước.

Bài, ảnh: Lê Dung

Xây dựng trung tâm nông sản để điều phối thị trường

Nguồn tin:  Sài Gòn Giải Phóng

Ngay sau khi dịch Covid-19 có diễn biến phức tạp, ngành nông nghiệp gặp khó khăn từ tình hình xuất khẩu cho đến thị trường trong nước. Theo nhiều chuyên gia, ngành nông nghiệp cần có trung tâm nông sản thông tin, điều tiết vùng trồng, nắm bắt thị trường để tiêu thụ ổn định.

Tăng lượng nhưng không tăng chất

Giai đoạn 2009-2018, thị trường xuất khẩu nông nghiệp mở rộng tăng từ 72 nước lên 180 nước. Tuy nhiên, nông nghiệp Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào hai thị trường xuất khẩu chính là Trung Quốc và Hoa Kỳ, chiếm khoảng 40% tổng giá trị xuất khẩu nông nghiệp. Trong đó, Việt Nam xuất khẩu trên 70% rau quả sang Trung Quốc.

Cũng chính vì lệ thuộc quá nhiều vào một thị trường, khi xảy ra dịch Covid-19, ngành nông nghiệp gặp phải không ít khó khăn, nhận ra “lỗ hổng” liên kết chưa chặt chẽ, thiếu bền vững, không có thông tin thị trường, vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) thiếu kiểm soát chặt chẽ, nguồn gốc hàng hóa không rõ ràng.

Một số mặt hàng của Việt Nam đứng đầu thế giới về tổng trị giá xuất khẩu tiêu, điều, tôm, cá tra, cà phê, gạo nhưng thứ hạng về giá xuất khẩu lại rất thấp.

Trung tâm cung ứng hàng nông sản Việt Nam hiện đại sẽ bắt buộc các sản phẩm truy xuất nguồn gốc để quản lý chất lượng, số lượng

Theo Bộ NN-PTNT, xuất khẩu hạt tiêu xếp thứ 1 thế giới nhưng giá xuất khẩu tiêu chỉ đứng thứ 8; hạt điều đứng thứ 1 thế giới nhưng giá đứng thứ 6; gạo, cà phê đứng trong nhóm thứ 2 và thứ 3 thế giới nhưng giá xuất khẩu chỉ đứng thứ 10.

Đơn cử, kênh phân phối gạo gồm nhiều tác nhân từ nông dân, thương lái, nhà máy xay xát chế biến, sản phẩm chưa có thương hiệu, xuất khẩu thô… Hệ thống chăn nuôi quy mô nhỏ, chưa thể cạnh tranh được nhiều nước.

Đối với thương mại biên giới việc mua bán, trao đổi một số mặt hàng vẫn theo hình thức đi chợ, không có hợp đồng mua bán, thông tin thị trường còn thiếu. Trái cây chỉ xuất tươi, công nghệ bảo quản còn kém.

Đã thế, dịch Covid-19 bùng phát, Trung Quốc cấm các địa phương “nội bất xuất, ngoại bất nhập” nhưng các doanh nghiệp không nắm được thông tin vẫn cho xe vận chuyển đến biên giới, gây thiệt hại lớn.

Nguyên nhân đầu tiên có thể nhắc đến như thiếu kết nối giữa sản xuất với thị trường xuất khẩu; thông tin về thị trường, giá cả, yêu cầu chất lượng của các nước nhập khẩu còn kém, khiến các doanh nghiệp chưa nắm bắt được hết các thông tin để tổ chức sản xuất hợp lý.

Mặc dù có nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu ở vị trí dẫn đầu thế giới nhưng có đến hơn 80% chưa xây dựng được thương hiệu, chưa có logo, nhãn mác của Việt Nam.

Ngoài ra, chất lượng sản phẩm xuất khẩu chưa đồng đều, trong khi yêu cầu của các nước nhập khẩu ngày càng cao. Do đó, sản phẩm giảm sức cạnh tranh, không tham gia sâu vào hệ thống phân phối bán lẻ của các nước nhập khẩu.

Với quan điểm của một nhà xuất khẩu trái cây lớn, để hạn chế tình trạng “giải cứu”, bà Ngô Tường Vy, Phó Giám đốc Công ty XNK Chánh Thu xác định, thông tin thị trường vẫn là quan trọng nhất. Sau khi có thông tin, doanh nghiệp sẽ đưa về vùng nguyên liệu để điều phối sản xuất.

Tại các nước nhập khẩu, cần sự hỗ trợ của các tham tán thương mại Việt Nam đánh giá tình hình thị trường, giá cả và xúc tiến thương mại vào các hệ thống phân phối.

Kết nối sản xuất với phân phối và tiêu dùng

Bộ NN-PTNT đang triển khai Đề án “Phát triển hệ thống trung tâm cung ứng hàng nông sản Việt Nam hiện đại (gọi tắt Trung tâm), giai đoạn 2020-2030 và định hướng đến 2045” góp phần thay đổi toàn bộ chuỗi sản xuất, cung ứng và phân phối nông sản một cách có hiệu quả.

Từ kinh nghiệm của các nước, mô hình Trung tâm gắn với các sàn giao dịch giúp kết nối được sản xuất với phân phối và tiêu dùng nông sản hiệu quả, đảm bảo chất lượng, VSATTP.

Trung tâm được vận hành trên cơ sở đặt tại các thành phố lớn, kết nối chặt chẽ với các trung tâm thu gom nông sản đặt tại các vùng sản xuất trọng điểm, các trung tâm cung ứng nông sản đường biên và thị trường quốc tế.

Cùng với đó, các sản phẩm khi vào Trung tâm sẽ được kiểm soát, truy xuất nguồn gốc hàng hóa đảm bảo chất lượng, phân loại và đóng gói sản phẩm theo các tiêu chuẩn, số lượng quy định trong giao dịch. Mặt khác, Trung tâm còn có chức năng đấu giá công khai thông qua phương thức truyền thông, trực tuyến. Không những cung cấp thông tin thị trường, Trung tâm được thiết lập mạng cung ứng kỹ thuật số có thể tiếp cận nhiều thị trường, hoạt động logistics thực hiện trên nền tảng thương mại điện tử xuyên biên giới…

Tất cả sẽ giúp doanh nghiệp phát triển sản phẩm trên nhiều phương diện khác nhau, từ đó điều chỉnh sản phẩm, khối lượng cung ứng và lập kế hoạch kinh doanh cho phù hợp. Đặc biệt, sàn giao dịch điện tử với nhiều thông tin giá cả thị trường nhiều nước và tích hợp thanh toán các dịch vụ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp.

Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam cho rằng, đối với Trung tâm, Nhà nước chỉ tạo cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp triển khai. Trung tâm hình thành nhằm tăng hiệu quả của các chuỗi cung ứng nông sản, nâng cao giá trị gia tăng, góp phần định hình lại thị trường nông sản Việt Nam.

Ngoài ra, Trung tâm được thiết lập sẽ tạo ra kênh phân phối hiệu quả, giảm chi phí trung gian, kết nối trực tiếp người sản xuất với người tiêu dùng; góp phần phân bổ lại lợi nhuận của các tác nhân trong chuỗi.

Đồng thời, sản xuất nông nghiệp sẽ giảm tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch, nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm ô nhiễm môi trường, góp phần nâng cao nhận thức của người sản xuất và tiêu dùng cũng như người kinh doanh về các vấn đề môi trường...

Quan trọng hơn hết là nâng cao tính minh bạch trong kinh doanh của các doanh nghiệp, do tất cả các khối lượng hàng hóa giao dịch được quản lý.

THANH HẢI

Giá mãng cầu xiêm xuống thấp

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Nhà vườn ở huyện Phụng Hiệp (tỉnh Hậu Giang) cho biết, hiện nay giá mãng cầu xiêm được thương lái thu mua ở mức thấp, chỉ còn khoảng 6.000 đồng/kg. Mức giá này giảm hơn một nửa so với thời điểm trước Tết Nguyên đán Canh Tý.

Người trồng mãng cầu xiêm đang kỳ vọng giá bán tăng trở lại.

Anh Lý Văn Oanh, nông dân trồng mãng cầu xiêm ở thị trấn Cây Dương, huyện Phụng Hiệp, cho hay là trước tết giá mãng cầu xiêm được mua tại vườn khoảng 15.000 đồng/kg, rồi giảm xuống còn khoảng 11.000 đồng/kg. Sau tết, giá mãng cầu xiêm sụt giảm luôn, lúc này chỉ còn khoảng 6.000 đồng/kg, giá bán xô, không phân loại.

Còn tại huyện Long Mỹ, ngành nông nghiệp huyện cho biết giá mãng cầu xiêm thu mua tại các vườn trên địa bàn cũng đã giảm xuống thấp, hiện chỉ còn khoảng 6.000 đồng/kg.

Tin, ảnh: KỲ ANH

Yên Bái: Sản lượng cam Lục Yên đạt trên 10 nghìn tấn/năm

Nguồn tin: Báo Yên Bái

Theo thống kê của cơ quan chuyên môn huyện Lục Yên (tỉnh Yên Bái), tổng diện tích cam trên địa bàn huyện hiện nay đạt trên 700 ha, trong đó có khoảng 600 ha cho thu hoạch.

Sản phẩm cam sành Lục Yên tại Hội chợ đặc sản vùng miền Việt Nam.

Vùng sản xuất cam tập trung tại các xã: Khánh Hòa, Mường Lai, Minh Xuân, Yên Thắng. Các giống cam chủ yếu được người dân đưa vào trồng là: cam Vinh, cam sành…

Những năm qua, chính quyền, cơ quan chuyên môn và nhân dân đã thực hiện nhiều biện pháp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm cam. Đặc biệt, nhờ áp dụng quy trình sản xuất an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP và theo hướng sản xuất hữu cơ nên sản lượng cam ngày càng tăng. Năm 2019, sản lượng đạt trên 10 nghìn tấn, năng suất đạt trên 20 tấn/ha.

Khắc Điệp

Làm giàu từ cây mít ruột đỏ

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Từ một nông dân có nguồn thu nhập thấp, nhưng từ khi lão nông Hai Trắng (Nguyễn Minh Trắng), ở ấp 3, xã Vị Đông, huyện Vị Thủy (tỉnh Hậu Giang), chuyển sang trồng giống mít ruột đỏ thì ông có nguồn thu nhập tiền tỉ mỗi năm.

Ông Trắng kiểm tra lưới bao trái bảo vệ mít ruột đỏ của mình.

Sau một vòng dạo quanh khu vườn mít trái sai oằn, lão nông Hai Trắng cho biết: “Khu vườn này rộng hơn 2ha, trước đây trồng lúa, sau đó lên liếp lập vườn trồng cây ăn trái như xoài cát Hòa Lộc, sầu riêng, măng cụt… Nhưng do giá cả của những mặt hàng nông sản này thường lên xuống thất thường, thu nhập không mấy khả quan”. 7 năm về trước, tình cờ trong lần đi hội chợ tại thành phố Cần Thơ ông được người bán cây giống tại hội chợ giới thiệu giống mít ruột đỏ. Ông này còn cho biết thêm đây là giống mít “siêu sớm” trồng 18-24 tháng là có trái, trọng lượng từ 7-15kg/trái. Khi mít chín, ruột có màu đỏ như màu gạch nung, cơm dày, mùi vị ngọt giòn, thơm dịu…

Lần đầu nghe giống mít lạ, lão nông Hai Trắng mua liền 50 gốc về trồng thử quanh nhà. Cây mít lớn nhanh không sâu bệnh, không bao lâu bắt đầu ra trái. Nhưng chỉ duy nhất có 1 cây ra hơn chục trái, mỗi trái cân nặng 15-17kg, khi chín thì múi, sơ mít đều có màu đỏ sậm, đúng như lời ông bán cây giống giới thiệu. 49 cây còn lại, cũng ra trái bình thường, nhưng khi chín ruột, sơ mít lại là màu vàng, giống như những giống mít thông thường khác. Vậy là lão nông Hai Trắng quyết định chỉ giữ lại cây mít ruột đỏ này, số cây còn lại ông đốn hạ hết.

Để chuyển đổi giống cây trồng có hiệu quả, lần này lão nông Hai Trắng phá hết vườn sầu riêng, măng cụt để trồng cây mít ruột đỏ, không ít người cho rằng lão “liều mạng”. Mặc kệ người đời, lão bắt đầu chiết cành, ghép nhánh để nhân giống, từ vài trăm gốc ban đầu, nay đã phủ kín hơn 2ha, cây mít lớn nhanh nhờ bón lót nhiều phân hữu cơ, không dùng phân hóa học. Mít ra trái quanh năm, với sản lượng 10-15 trái/cây, mỗi trái nặng từ 7-15kg, khi trái mít lớn đến độ nhất định còn dùng lưới bao trái để tránh sâu hại.

Ông Trắng cho biết do chất lượng mít ngon và đảm bảo được độ an toàn cho người tiêu dùng nên nhiều thương lái tìm đến nhà đặt mua với giá từ 70.000-80.000 đồng/kg, không hạn chế số lượng. Trong khi vườn mít nhà ông, phải có thời gian cách nhau 7-8 ngày mới thu hoạch một lần, theo đúng quy trình kỹ thuật dưỡng cây, nuôi trái riêng. Vì vậy, ông không cho cây mang nhiều trái, chỉ cho mỗi lần thu hoạch với mức độ vừa phải, khoảng 800kg đến 1 tấn trái là nhiều. Từ đó, số lượng mít trái bán ra của ông không đáp ứng đủ nhu cầu của thương lái.

Ông Trắng còn cho biết thêm giống mít này có khả năng bảo quản tốt, từ khi hái đến lúc trái chín thời gian có thể kéo dài được từ 10-15 ngày nên rất thuận lợi cho việc đóng gói, vận chuyển đi xa, kể cả xuất khẩu ra nước ngoài. Theo tính toán của lão nông Hai Trắng, nếu vụ mít năm nay giá cả vẫn giữ nguyên không gì biến động thì hơn 2ha mít ruột đỏ của ông, nếu năng suất đạt được trên 50 tấn trái, khả năng ông thu về lợi nhuận hơn 3 tỉ đồng.

Ngoài mua bán mít trái, ông còn bán thêm cây giống mít ruột đỏ cho nhiều bà con trong và ngoài tỉnh. Tuy giá bán ra đến 200.000 đồng/cây giống và số lượng đặt mua phải từ 200 cây trở lên/người mua ông mới nhận ghép, nhưng cũng có rất nhiều người đặt mua để trồng. Ông Trắng dự định thời gian tới sẽ sản xuất cây giống mít ruột đỏ này theo phương pháp riêng của mình và sẽ đăng ký chất lượng sản phẩm với các cơ quan chức năng để bảo vệ thương hiệu mít ruột đỏ của mình, nhưng ông còn do dự do không am hiểu nhiều về thủ tục.

Bài, ảnh: QUANG HẢI

Làm giàu nhờ trồng bưởi Diễn

Nguồn tin: Báo Vĩnh Phúc

Nhận thấy bưởi Diễn phù hợp để chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên những diện tích đất vườn đồi, anh Đỗ Xuân Hải ở khu 7, xã Đồng Thịnh (Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc) đã mạnh dạn đưa giống cây mới này vào trồng và thâm canh theo hướng sản xuất tập trung, trên cơ sở ứng dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất. Từ đó, góp phần tăng năng suất, nâng cao thu nhập, vươn lên làm giàu.

Anh Đỗ Xuân Hải ở xã Đồng Thịnh (Sông Lô) chăm sóc những gốc bưởi Diễn chuẩn bị cho thu hoạch

Cùng cán bộ địa phương, chúng tôi đến thăm gia đình anh Đỗ Xuân Hải, một trong những người tiên phong đưa vào trồng thành công giống bưởi Diễn. Nhìn vườn bưởi xanh ngát, trĩu quả, ít ai biết rằng, đây từng là vườn cây kinh tế thấp, được anh Hải dày công cải tạo, vun trồng với sự quyết tâm dám nghĩ, dám làm.

Theo chia sẻ của anh Hải, trong một lần đi công tác ở huyện Hoài Đức (Hà Nội), ấn tượng với hương vị quả bưởi thơm, ngọt và lạ miệng, anh đã quyết định mua 5 cây giống về trồng thử tại vườn. Sau 5 năm, cây bưởi được anh vun trồng đã ra quả. Điều làm anh Hải bất ngờ là chất lượng quả bưởi tốt, múi bưởi mọng nước, có vị ngọt đậm, màu sắc quả vàng óng.

Nhận thấy đây là giống cây trồng phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu ở địa phương, anh Hải mạnh dạn chuyển đổi, cải tạo vườn tạp, mua thêm nhiều gốc bưởi Diễn về trồng. Ngoài ra, từ những cây trưởng thành, anh thí điểm chiết cành nhân giống và phủ kín toàn bộ diện tích.

Đây là giống bưởi mới được trồng ở địa phương, ban đầu do không có nhiều kinh nghiệm, nên anh Hải còn gặp khó khăn trong cách ứng dụng kỹ thuật. Với bản tính cần cù, chịu khó, anh đã dành nhiều thời gian đi tham quan học hỏi một số mô hình trồng bưởi Diễn trong và ngoài tỉnh.

Đến nay, vườn bưởi của anh đã lên tới 400 gốc. Do múi bưởi ngọt, hình thức đẹp mắt nên thương lái đã đặt tiền mua trước cả vườn. Với giá bán bưởi loại 1 ở mức 35 nghìn đồng/quả, bưởi loại 2 từ 20 – 25 nghìn đồng/quả, đem lại thu nhập hơn 150 triệu đồng/năm cho gia đình.

Theo anh Hải, bưởi Diễn dễ trồng, dễ chăm sóc, ít sâu bệnh và thị trường tiêu thụ ổn định. Nhưng để đem lại hiệu quả cao, người trồng bưởi phải chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật, nhất là từ khi còn là cây non.

Đặc biệt là kỹ thuật cắt tỉa, tạo tán và kiểm soát chiều cao để cây ra quả theo ý muốn, sử dụng phân bón vô cơ nhằm tạo sản phẩm an toàn. Ngoài ra, để có được những trái bưởi chín vàng đều, bưởi phải được bọc bằng túi chuyên dụng kín ngay từ khi quả đạt đường kính từ 4 - 5 cm. Việc đầu tư túi bọc quả chuyên dụng cũng giúp hạn chế tối đa lượng thuốc BVTV, khi ánh mặt trời chiếu vào thì quả không bị rám nắng, sâu bệnh phá hoại.

Cùng với việc thu hoạch bưởi chín, anh cũng tiến hành chăm sóc những cây đã hái hết quả, chuẩn bị cho vụ mùa sắp tới, cắt tỉa cành chỉ thiên, loại bỏ cành sâu bệnh, tạo tán để cây thông thoáng tránh, dịch bệnh phát triển và lây lan. Ngoài ra, anh còn bổ sung nguồn dinh dưỡng cho cây sau mỗi mùa vụ. Quy trình chăm sóc và thu hoạch cứ vậy tuần hoàn, thế nhưng, điều quan trọng nhất là tư duy về sản xuất nông nghiệp an toàn đã được hình thành và vững chắc hơn theo thời gian.

Chia sẻ về định hướng trong thời gian tới, anh Hải cho biết: “Tôi dự định sẽ mở rộng thêm diện tích trồng bưởi vì vốn đầu tư không nhiều, ít tốn công chăm sóc, đầu ra thuận lợi. Mô hình trồng bưởi Diễn thành công sẽ dần thay thế cây ăn quả cho hiệu quả kinh tế thấp, góp phần giúp hộ dân xóa đói, giảm nghèo. Từ đó, tạo động lực trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp tại địa phương”.

Bài, ảnh Bảo Anh

Tiền Giang: Những lưu ý để bảo vệ cây trồng

Nguồn tin: Báo Ấp Bắc

Trước tình hình hạn, mặn đang khá gay gắt, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Tiền Giang Nguyễn Văn Mẫn yêu cầu: Các địa phương phải theo dõi chặt chẽ diễn biến mặn trên các kinh, khuyến cáo người dân thường xuyên theo dõi, đo độ mặn trước khi lấy nước để tưới cho cây ăn trái và rau màu. Đối với các ruộng vườn đã bị nhiễm mặn, địa phương hướng dẫn nông dân bón vôi và lấy nước ngọt vào để rửa mặn.

Sầu riêng rất mẫn cảm với độ mặn, nên người trồng cần cắt bỏ bông trong giai đoạn khó khăn nước tưới để nuôi cây.

Đối với cây ăn trái, người trồng cần chủ động sử dụng tối đa nguồn vật liệu hữu cơ như: Rơm rạ, lục bình, cỏ khô hoặc màng phủ nông nghiệp phủ gốc để giữ độ ẩm cho cây; cắt tỉa cành, tạo tán gọn; tỉa bớt nụ, hoa để hạn chế thoát hơi nước; củng cố hệ thống đê bao và đê xung quanh vườn để ngăn ngừa nước mặn xâm nhập. Ngoài ra, người trồng cần đo độ mặn trước mỗi lần lấy, không tưới nước có độ mặn trên 1 g/l cho cây.

Riêng một số loại cây ăn trái mẫn cảm với mặn như: Sầu riêng, chôm chôm, thanh long, vú sữa, khóm… không tưới nước có độ mặn cao hơn 0,5 g/l. Trong thời gian nhiễm mặn, người trồng chỉ tưới nước tối thiểu, giúp cây không bị héo và mặt đất không bị khô nứt bằng cách kéo dài thời gian giữa 2 lần tưới, giảm số lần tưới và lượng nước tưới.

Khi đã bị nhiễm mặn, người dân cần bón bổ sung phân Sulphate kali, vôi bột với lượng 500 - 1.000 kg/ha. Nếu hạn, mặn kéo dài, người trồng cần phun thêm phân bón lá và chế phẩm nhằm tăng cường khả năng chống chịu mặn; phân trung vi lượng có chứa canxi, magiê, silic… giúp tăng sức đề kháng cho cây.

Đối với rau màu, địa phương vận động nông dân tuyệt đối không tiếp tục xuống giống các loại rau màu mẫn cảm với mặn tại các vùng nhiễm mặn 0,5 g/l. Riêng các diện tích đã xuống giống, người trồng cần chăm sóc, bón phân theo quy trình kỹ thuật để giúp cho cây trồng sinh trưởng, phát triển tốt và vượt qua những bất lợi của thời tiết; tuyệt đối không lấy nước đã bị nhiễm mặn để tưới cho rau (dù độ mặn có dưới 1 g/l); trữ nước ngọt trên mương, rẫy, ao chứa… để tưới cho cây; cần giảm số lần và lượng nước tưới để tiết kiệm nước tưới.

Đối với cây lúa, người trồng cần quản lý nước trong ruộng lúa theo hướng tiết kiệm nước, giảm phát thải khí nhà kính; bón bổ sung một số loại phân bón, chế phẩm để tăng cường khả năng chống chịu mặn; thường xuyên theo dõi, cập nhật nguồn nước và chất lượng nước để phục vụ sản xuất, tận dụng tối đa nguồn nước để cung cấp cho lúa; tuyệt đối không tưới nước nhiễm mặn (trên 1,5 g/l) cho lúa giai đoạn trổ vì thời điểm này cây rất mẫn cảm.

SĨ NGUYÊN

Mô hình hay ứng phó với hạn, mặn

Nguồn tin: Báo Hậu Giang

Để sản xuất đạt hiệu quả và thích ứng trước tình hình hạn hán, xâm nhập mặn ngày càng diễn ra gay gắt, người dân và ngành chức năng huyện Long Mỹ (tỉnh Hậu Giang) đã thực hiện nhiều mô hình hay trong canh tác nông nghiệp.

Ông Út bên vườn bưởi của gia đình vừa được đầu tư hệ thống bơm tưới tiết kiệm nước.

Hiệu quả mô hình tưới nước tiết kiệm

Nhiều năm trước, khi vào thời điểm mùa khô như thế này, gia đình ông Đặng Văn Út, ở ấp 2, thị trấn Vĩnh Viễn, huyện Long Mỹ, luôn phập phồng lo lắng vì sợ thiếu nguồn nước ngọt trữ trong mương vườn để tưới cho 1ha bưởi (bưởi da xanh ruột hồng) của gia đình hiện gần 3 năm tuổi. Tuy nhiên, điều lo lắng ấy đã không còn trong mùa khô năm nay và những năm tiếp theo khi gia đình ông vừa đầu tư xong hệ thống tưới nước tiết kiệm và có gắn thiết bị điều khiển tự động. Trong đó, có 4 công vườn được dẫn nước bằng đường ống nhựa cứng và có gắn béc phun; còn lại 6 công ông dẫn nước bằng đường ống giãn (ống mủ). Điều mà ông Út phấn khởi là trong tổng số nguồn vốn thực hiện là 28 triệu đồng của 4 công bưởi có hệ thống đường ống dẫn nước bằng nhựa cứng thì ông được ngành nông nghiệp huyện Long Mỹ phối hợp cùng Trung tâm Khuyến nông tỉnh hỗ trợ 50% kinh phí. Riêng phần đường ống dẫn nước bằng ống giãn thì gia đình được huyện hỗ trợ 100% kinh phí.

Ông Út chia sẻ: “Thời tiết bây giờ ngày càng nắng nóng gay gắt, nước mặn thì lấn sâu, có khi nước dưới sông trước nhà mặn vượt 2‰ và nhiều nơi trong huyện có độ mặn đạt 16-18‰ ngay mùa khô năm nay. Chính vì vậy, nhà vườn như tôi luôn lo lắng mỗi khi mùa khô đến. Hiểu được nỗi niềm nên ngành chức năng tỉnh và huyện Long Mỹ đã có những giải pháp hỗ trợ cho nông dân, trong đó gia đình tôi rất mừng vì nhận được sự giúp đỡ của Nhà nước để vừa hoàn thành hệ thống bơm tưới nước tiết kiệm nhằm bảo vệ vườn cây ăn trái của mình”.

Cũng theo ông Út, với 1ha bưởi của gia đình, khi còn tưới nước thủ công bằng vòi phun từ chiếc máy Honda có gắn mô-tơ bơm thì mất khoảng một buổi mới xong và tốn từ 2-3 lít xăng (tương đương 50.000-60.000 đồng). Nhưng khi chuyển sang mô hình tưới nước tiết kiệm, nhà vườn chỉ cần bật cầu dao điện là vận hành và tưới trong vòng 15 phút là đủ lượng nước cho cây trồng, đồng thời tốn khoảng 1-2kWh điện (tương đương 4.000-5.000 đồng). “Ngoài giảm chi phí và công lao động khá lớn thì mô hình còn giúp nông dân tiết kiệm được lượng nước ngọt trong mương vườn khá lớn. Bởi, hệ thống tưới nước tiết kiệm chỉ phun sương và cung cấp đủ lượng nước cần thiết cho cây trồng là ngưng nên nguồn nước trữ trong mương vườn có thể sử dụng được trong 3-4 tháng mùa khô, còn tưới theo cách như làm trước nay thì chỉ khoảng một tháng là hết nước”, ông Út chia sẻ thêm.

Theo báo cáo của Phòng NN&PTNT huyện Long Mỹ, ngoài hộ ông Út hiện trên địa bàn huyện còn có nhiều nhà vườn khác cũng được hỗ trợ kinh phí đầu tư hệ thống tưới nước tiết kiệm nhằm giúp nông dân sản xuất hiệu quả và thích ứng với tình hình biến đổi khí hậu như hiện nay. Qua thống kê của ngành nông nghiệp huyện Long Mỹ, số kinh phí hỗ trợ cho nông dân làm mô hình trên đến thời điểm này gần 400 triệu đồng. Ông Lê Hồng Việt, Trưởng phòng NN&PTNT huyện Long Mỹ, cho biết: Nhằm tiếp tục nhân rộng mô hình hiệu quả trên, chúng tôi đang tiến hành khảo sát và nắm bắt nhu cầu của nhiều nhà vườn trồng cây ăn trái trong huyện để xem xét hỗ trợ cho bà con thực hiện. Bên cạnh đó, để mô hình phát huy hiệu quả cao nhất, ngành nông nghiệp huyện cũng khuyến cao nông dân cần nạo vét mương vườn có độ sâu nhất định để việc trữ nước ngọt được nhiều. Ngoài ra, vào mùa khô, nhà vườn hạn chế làm sạch cỏ tại gốc cây nhằm tạo độ ẩm, hạn chế nước trong đất bốc hơi nhanh…

Kỳ vọng mô hình trồng màu trong nhà kính

Ngoài hiệu quả của mô hình tưới nước tiết kiệm, hiện người dân huyện Long Mỹ còn kỳ vọng với mô hình trồng màu trong nhà kính kết hợp với tưới nước nhỏ giọt. Theo đó, mô hình trồng dưa lưới trong nhà kính có áp dụng công nghệ tưới nước nhỏ giọt ở làng nông thôn mới (NTM) thuộc ấp 9, xã Lương Tâm, là một minh chứng. Hiện mô hình được thực hiện thử nghiệm trên diện tích 1.000m2 tại Hợp tác xã (HTX) Nông nghiệp ấp 9, do tổ chức NTM Hàn Quốc tài trợ kinh phí.

Dẫn chúng tôi đi tham quan vườn dưa lưới của HTX đang kết trái, ông Nguyễn Quốc Khánh, Giám đốc HTX Nông nghiệp ấp 9, xã Lương Tâm, vui vẻ thông tin: “Các thành viên trong HTX đều rất tâm đắc với mô hình thử nghiệm này. Bởi mô hình giúp nhà nông tiết kiệm được nguồn nước tưới rất nhiều trong điều kiện bà con nơi đây phải thường xuyên đối mặt với tình hình xâm nhập mặn và hạn hán vào mùa khô. Theo đó, với việc gắn thiết bị tưới nước nhỏ giọt thì mỗi ngày 1.000m2 dưa lưới nơi đây chỉ tiêu thụ từ 40-60 lít nước (cách một giờ tưới một lần, mỗi lần tưới từ 1-2 phút). Trong khi bà con trồng dưa lê hay rau màu ở đây từ trước tới giờ thì thông thường phải tốn một lượng nước khá lớn so với con số ít ỏi trên”. Ngoài tiết kiệm nước, mô hình còn hạn chế sử dụng thuốc hóa học, phân bón vì được trồng trong nhà kính, từ đó tạo ra sản phẩm sạch và an toàn. Chính vì vậy, tuy dưa lưới mới ở khâu để trái nhưng đã có nhiều thương lái đến đề nghị đặt tiền cọc trước để mua.

Hiện tại, HTX Nông nghiệp ấp 9, xã Lương Tâm có 42 thành viên, trong đó có 20ha bà con trồng dưa lê, đậu bắp và 45ha đang canh tác lúa. Từ hiệu quả của mô hình trồng dưa lưới như trên đã mang lại những kỳ vọng mới cho nhiều thành viên trồng rau màu của HTX trong thời gian tới. “Trước mắt, sau khi thu hoạch xong đợt dưa lưới này, các thành viên trong HTX thống nhất tiếp tục nhân rộng thêm 1.000m2 nữa để đúc kết kinh nghiệm và tạo nguồn vốn. Với hai lần trồng thử nghiệm ban đầu sẽ làm cơ sở để mở rộng diện tích nhiều hơn trong mùa khô năm tới”, ông Nguyễn Quốc Khánh, Giám đốc HTX Nông nghiệp ấp 9, thông tin thêm.

Cùng với bà con tại làng NTM, xã Lương Tâm và nông dân ở thị trấn Vĩnh Viễn thì nhiều hộ dân ở huyện Long Mỹ, nhất là những địa phương thường chịu ảnh hưởng của tình hình xâm nhập mặn như xã Lương Nghĩa, Vĩnh Viễn A… cũng áp dụng hình thức tương tự và có được kết quả chung là giảm nhiều chi phí, công lao động, nhất là giải quyết tốt bài toán về thiếu hụt nguồn nước ngọt trong mùa hạn, mặn để việc sản xuất mang lại hiệu quả hơn. Kết quả trên chính là sự nỗ lực từ ngành chức năng của huyện Long Mỹ nói riêng và của tỉnh nói chung trong việc luôn cố gắng tìm ra hướng đi mới, cách làm hay giúp nông dân sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu bên cạnh những công trình ứng phó.

Bài, ảnh: HỮU PHƯỚC

Trồng sắn dây- Hướng sản xuất hiệu quả trên diện tích bỏ hoang

Nguồn tin: Khuyến Nông VN

“Hàng ngày nhìn thấy khu ruộng bỏ hoang trước nhà mà tôi thấy xót xa lắm. Cả một cánh đồng lúa rộng lớn trước kia, giờ chỉ còn là cỏ dại cao đến ngang đầu người và không ai dám qua lại vì sợ rắn, chuột. Thế rồi gia đình tôi trở thành những “kẻ điên” trong mắt người dân nơi đây khi quyết định khai dựng lại mảnh đất hoang hóa này”.

Đó là lời của anh Phạm Văn Toản xã An Đồng, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình – chủ trang trại trồng sắn dây đã và đang đem lại hiệu quả kinh tế cao hiện nay.

Sau quá trình tìm hiểu, học hỏi anh Toản nhận thấy cây sắn dây phù hợp với đồng đất quê mình, thời gian từ trồng đến thu hoạch ngắn, ít sâu bệnh, đầu ra thuận lợi và có hiệu quả hơn các cây trồng khác nên anh quyết định chọn cây sắn dây để trồng cho mảnh đất hoang này. Gia đình anh đã sang tỉnh Hải Dương mua giống và thuê kỹ thuật về bố trí trồng, chăm sóc cây, kết hợp thuê máy móc để cải tạo đất, đắp ụ lên luống,… Năm đầu tiên trồng thử nghiệm khoảng 400 gốc, khi thu hoạch có nhiều gốc cho năng suất cao tới 180 kg củ/gốc, trừ mọi chi phí, anh thu về gần 200 triệu đồng.

Ban đầu, do đây là cánh đồng bỏ hoang nhiều năm, không thuận tiện cho giao thông, thủy lợi nên tốn nhiều công sức, chi phí để dọn sạch cỏ dại,diệt chuột, xây dựng trang trại, hệ thống đường đi, kênh mương,… Có những lúc tưởng chừng như phải bỏ cuộc, chấp nhận là “kẻ điên” như người dân nơi đây đã nói. Nhưng nhờ tính kiên trì, lòng quyết tâm, cùng sự động viên của gia đình, các đồng chí lãnh đạo thôn, xã và hiệu quả từ cây sắn dây mang lại ngay từ vụ đầu tiên mà gia đình anh thêm vững tâm tiếp tục đầu tư mở rộng sản xuất. Đến năm 2019, anh trồng khoảng 1.000 gốc sắn dây trên diện tích 3,5 ha, năng suất dự kiến khoảng 70-80 tấn củ, với giá bán 10.000-13.000 đồng/kg của tươi, trừ các khoản chi phí cho giống, phân bón, đắp ụ, làm giàn,… thì lợi nhuận thu được dự kiến trên 500 triệu đồng. Ngoài trồng sắn dây, anh còn nuôi thêm 20 con trâu thịt cho thu lãi khoảng 200 triệu đồng/năm.

Anh Toản chia sẻ: “Sắn dây trong trang trại chỉ bán cho thương lái nên giá cả chưa ổn định. Vì vậy gia đình tôi rất mong muốn liên kết được với các công ty để mở rộng diện tích trồng và gắn kết các hộ trồng sắn dây khác để đảm bảo cung cấp sản lượng từ 100 tấn củ/năm trở lên. Trong thời gian tới gia đình có ý định trồng thêm một số cây lâu năm hơn như gấc, cây ăn quả,… Tuy nhiên, hiện nay thời gian cho thuê đất còn ngắn, gia đình chưa dám đầu tư sản xuất”.

Anh Toản đang chia sẻ về kinh nghiệm trồng sắn dây

Theo ông Phạm Minh Tuấn – Chủ tịch Hội Nông dân xã An Đồng, huyện Quỳnh Phụ đánh giá: “Anh Toản là người chăm chỉ, chịu khó tìm hiểu, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Mô hình trồng cây sắn dây trên những diện tích lúa bỏ hoang của gia đình anh được xã đánh giá có hiệu quả cao. Địa phương đã tổ chức cho nhiều đoàn đến thăm quan, học tập để nhân rộng mô hình trong thời gian tới”.

Còn theo ông Long - Trưởng thôn Bắc Dũng, xã An Đồng, Quỳnh Phụ - là người gắn bó với trang trại của anh Toản ngay từ những ngày đầu cho biết: “Đây là mô hình chuyển đổi từ đất lúa kém hiệu quả bỏ hoang được thôn, xã rất quan tâm nên luôn đồng hành cùng gia đình từ hỗ trợ các thủ tục đất cát đến tạo điều kiện khi làm đường điện, đường giao thông thuận lợi, đảm bảo an ninh,…”.

Như vậy, thành công ban đầu của mô hình trồng sắn dây ở trang trại của gia đình anh Toản đã mở ra hướng phát triển cây trồng mới cho bà con nông dân tại địa phương. Hi vọng trong thời gian tới thủ tục đất đai, thời gian thuê đất sẽ thuận lợi hơn để các hộ dân như anh sớm hoàn thành mục tiêu của mình, để biến những mảnh đất bỏ hoang trở thành những vùng sản xuất hàng hóa có hiệu quả cao.

Trần Thị Doanh - TT Khuyến nông Thái Bình

Giá tiêu tại BR-VT tăng 1.000 đồng/kg

Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Ngày 24/2, giá tiêu đồng loạt tăng từ 500 - 1.000 đồng/kg tại các vùng trồng tiêu trọng điểm khu vực Tây Nguyên và miền Nam.

Cụ thể, giá tiêu tại BR-VT là 39.500 đồng/kg, Bình Phước là 38.500 đồng/kg (tăng 500 đồng/kg); Đắk Nông (Gia Nghĩa) và Đắk Lắk (Ea H’leo) là 38.000 đồng/kg (tăng 500 đồng/kg); Gia Lai và Đồng Nai là 37.000 đồng/kg, đây là 2 tỉnh có mức giá thấp nhất trong vùng trồng tiêu trọng điểm.

Theo đánh giá của Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, năm 2020, tình trạng dư cung được dự báo sẽ tiếp diễn, gây áp lực lên giá hạt tiêu. Dự báo giá hạt tiêu toàn cầu sẽ duy trì ở mức thấp trong 6 tháng đầu năm 2020. Bởi thời điểm này, các vườn tiêu trồng từ năm 2016 - 2017 ở các nước sản xuất lớn đã đến lúc cho thu hoạch với sản lượng cao. Tuy nhiên, cuối năm 2020 giá hạt tiêu có thể phục hồi khi cung - cầu trở về mức cân bằng, do nhiều DN tăng cường mua tích trữ. Bên cạnh đó, chất lượng hạt tiêu tăng lên và chi phí nhân công tăng cũng sẽ góp phần đẩy giá hạt tiêu.

VÂN ANH

Đồng Nai: Khuyến khích người dân chuyển sang nuôi bò vỗ béo

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Ngày 21-2, lãnh đạo Sở NN-PTNT Đồng Nai cho biết, thời gian qua, nhiều hộ chăn nuôi trên địa bàn tỉnh đã chuyển sang nuôi bò thịt vỗ béo và đạt hiệu quả kinh tế cao.

Cụ thể, sau bệnh dịch tả heo châu Phi, với điều kiện chăn nuôi thuận lợi về diện tích đất nông nghiệp, chuồng trại đơn giản, ít dịch bệnh, tận dụng công lao động nhàn rỗi và giá cả tương đối ổn định nên nhiều hộ chăn nuôi đã chuyển sang nuôi bò. Gần đây, nuôi vỗ béo bò thịt đang được nhiều hộ chăn nuôi lựa chọn.

Tính đến thời điểm hiện tại, đàn bò trong toàn tỉnh Đồng Nai có khoảng 75.000 con, tập trung ở hai huyện Xuân Lộc và Cẩm Mỹ. Như hộ anh Cao Xuân Lâm ở huyện Xuân Lộc với 2 lứa bò xuất bán khoảng 150 con trong một năm, sau khi trừ chi phí, anh lãi từ 800 triệu đến cả tỷ đồng mà không cần tốn nhiều công lao động. Còn riêng phần phân bò, bình quân mỗi tháng, anh Lâm cũng thu cả chục triệu đồng, bù đắp chi phí đầu vào.

Đây cũng là hướng đi mới trong tình hình hiện nay, đang được tỉnh Đồng Nai khuyến khích phát triển.

TIẾN MINH

Quản lý chặt việc sản xuất, buôn bán, sử dụng thuốc thú y chứa chất gây nghiện

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Tại dự thảo Thông tư quy định về quản lý thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần; kê đơn, đơn thuốc thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đề xuất quy định đối với việc sản xuất, buôn bán, sử dụng thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần.

Ảnh minh họa

Cụ thể, cơ sở sản xuất thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần phải có Giấy chứng nhận thực hành tốt sản xuất thuốc (GMP) do Cục Thú y cấp. Hồ sơ đăng ký lưu hành, việc thẩm định hồ sơ, thời hạn trả lời thực hiện theo quy định tại Điều 3 và Điều 8 Thông tư 13/2016/TT-BNNPTNT.

Cơ sở sản xuất thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần phải lập và ghi chép đầy đủ các loại sổ theo dõi sau đây dưới dạng bản cứng hoặc bản điện tử: 1- Sổ theo dõi pha chế, sản xuất thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần theo mẫu; 2- Sổ theo dõi xuất, nhập, tồn kho thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần, nguyên liệu làm thuốc là tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần dùng làm thuốc theo mẫu; 3- Phiếu xuất kho thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần, nguyên liệu làm thuốc là tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần theo mẫu phiếu quy định tại Phụ lục IV kèm theo Thông tư này; 4- Các chứng từ, tài liệu liên quan đến việc mua bán thuốc thú y có chứa tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần; nguyên liệu làm thuốc là tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần.

Bên cạnh đó, cơ sở buôn bán thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần được phép lưu hành tại Việt Nam phải có Giấy chứng nhận đủ điều kiện buôn bán thuốc thú y theo quy định của pháp luật về thú y.

Cơ sở buôn bán thuốc thú y chỉ được phép bán lại thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần cho cơ sở buôn bán thuốc thú y khác có Giấy chứng nhận đủ điều kiện buôn bán thuốc thú y được cấp bởi Cơ quan quản lý chuyên ngành thú y cấp tỉnh. Trường hợp bán cho người sử dụng phải có đơn thuốc của người kê đơn thuốc theo quy định.

Cơ sở buôn bán thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần phải lập và ghi chép đầy đủ các hồ sơ sau đây dưới dạng bản cứng hoặc bản điện tử: 1- Sổ theo dõi xuất, nhập, tồn kho thuốc thú y có chứa ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần, tiền chất theo mẫu; 2- Phiếu xuất kho thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần theo mẫu; 3- Các chứng từ, tài liệu liên quan đến việc mua bán thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần; 4- Đơn thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần lưu tại cơ sở sau khi bán; Biên bản nhận thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần theo mẫu.

Sử dụng thuốc thú y có chất hướng thần

Theo dự thảo, người được cấp chứng chỉ hành nghề thú y về chẩn đoán, khám chữa bệnh, phẫu thuật động vật được phép sử dụng thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần để trị bệnh động vật theo đơn.

Bác sĩ thú y, người có trình độ tương đương được cơ quan quản lý nhà nước về thú y cấp chứng chỉ hành nghề về chẩn đoán, khám chữa bệnh, phẫu thuật động vật được phép kê đơn đối với thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần được cấp phép lưu hành tại Việt Nam.

Dự thảo nêu rõ, trường hợp trả lại thuốc thú y có chứa chất ma túy, tiền chất, chất gây nghiện, hướng thần do không sử dụng hoặc sử dụng không hết, cơ sở bán lẻ thuốc thú y tiếp nhận và lập biên bản nhận lại thuốc từ người sử dụng theo mẫu. Biên bản được lập thành 2 bản (1 bản lưu tại cơ sở bán lẻ thuốc, 1 bản giao cho người trả lại thuốc).

Tuệ Văn

Tuyên Quang: Cải tạo tầm vóc đàn trâu, bò bằng kỹ thuật sinh sản nhân tạo

Nguồn tin: Báo Tuyên Quang

Xác định chăn nuôi đại gia súc là một trong những giải pháp tăng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, đồng thời với mở rộng chuỗi liên kết chăn nuôi trâu bò, ngành Nông nghiệp tập trung thực hiện các giải pháp cải tạo tầm vóc đàn đại gia súc bằng kỹ thuật sinh sản nhân tạo.

Ông Nguyễn Đại Thành, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, trong những năm qua, việc bình tuyển, chọn lọc hàng năm đối với đàn trâu đực giống không được thực hiện thường xuyên. Việc phục tráng, xử lý các bệnh về sinh sản đối với đàn trâu, bò chưa được quan tâm, tỷ lệ sinh sản thấp; hiện tượng giao phối đồng huyết, cận huyết khá phổ biến… dẫn đến hiệu quả thấp trong chăn nuôi.

Con bê được sinh ra từ phương pháp thụ tinh nhân tạo của gia đình anh Phạm Văn Định, thôn Đồng Chùa 2, xã Bình Xa (Hàm Yên).

Năm 2018, xã Yên Nguyên (Chiêm Hóa) là địa phương đầu tiên của tỉnh được lựa chọn thí điểm mô hình “Ứng dụng công nghệ thụ tinh nhân tạo đàn trâu” cho 50 hộ dân tham gia. Bà Nguyễn Thị Lịch, thôn Khuôn Khoai cho biết, gia đình bà có 1 trâu cái được thụ tinh nhân tạo và hiện đã sinh sản. Nghé được sinh ra bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo có trọng lượng lớn hơn, trung bình từ 30 - 40 kg/con (to hơn nghé được phối giống tự nhiên từ 10 - 15 kg); nghé khỏe hơn, sức đề kháng tốt hơn, lớn nhanh hơn.

Sau hơn 1 năm thực hiện, ở Yên Nguyên đã có gần 100 con trâu được thụ tinh nhân tạo. Từ thành công này, mô hình đã nhân rộng tại Yên Sơn, Chiêm Hóa, Hàm Yên, Sơn Dương. Gia đình anh Đoàn Văn Thái, thôn 1 Tân Yên, xã Tân Thành (Hàm Yên) chăn nuôi trâu sinh sản từ 5 - 6 năm nay. Năm 2018, khi được Trung tâm Dịch vụ nông nghiệp huyện Hàm Yên tập huấn, hướng dẫn về kỹ thuật sinh sản nhân tạo cho đàn trâu, bò, anh thực hiện phương pháp mới này. Đến nay, gia đình đã có 3 cặp trâu mẹ con phát triển khỏe mạnh và hiện tại đang tiếp tục thụ tinh nhân tạo cho 2 con trâu.

Anh Phạm Văn Định, thôn Đồng Chùa 2, xã Bình Xa (Hàm Yên) cũng vừa đón 1 con bê sinh ra từ phương pháp thụ tinh nhân tạo từ nguồn giống bò đực 3B. Theo anh Định, nếu so với sinh sản tự nhiên thì bê con sử dụng giống 3B có trọng lượng lớn hơn 1,5 lần, sinh khối thịt lớn hơn, vì thế chắc chắn giá bán sẽ cao hơn.

Theo Chi cục Thú y tỉnh, việc thụ tinh nhân tạo cho đàn trâu, bò không chỉ giúp cải thiện chất lượng trâu, bò giống; bê, nghé sinh ra có trọng lượng lớn hơn mà còn rút ngắn được thời gian sinh sản con tiếp theo của đàn. Như gia đình ông Chu Văn Tài, thôn 1 Việt Thành, xã Tân Thành (Hàm Yên), ngay sau khi sinh sản con nghé đầu tiên từ con đực thuộc giống Murrah Ấn Độ, gia đình ông tiếp tục lấy giống cho trâu mẹ. Ông Tài so sánh, nếu như là sinh sản tự nhiên thì khoảng 3 năm trâu mẹ mới sinh sản được 2 lứa nhưng thực hiện phương pháp sinh sản nhân tạo thì chỉ 1 năm sẽ sinh được 1 nghé. Hết năm 2019, toàn tỉnh đã có 400 con nghé, bê sinh ra bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo, một số giống chủ yếu được sử dụng là bò 3B, Brahman và giống trâu nội có chọn lọc, trâu Murrah Ấn Độ.

Cải tạo đàn trâu, bò bằng biện pháp thụ tinh nhân tạo sẽ khắc phục tình trạng thiếu trâu, bò đực giống và suy thoái đàn trâu, bò đang diễn ra do cận huyết. Qua đó, góp phần quan trọng trong cải tạo tầm vóc thể trạng của đàn trâu, bò, nâng cao năng suất, mở ra hướng đi mới trong chăn nuôi đại gia súc trên địa bàn tỉnh. Đây cũng là lời giải cho nhu cầu sử dụng trâu, bò giống trong chăn nuôi đại gia súc theo chuỗi mà nhiều trang trại, hợp tác xã chăn nuôi đang gặp phải hiện nay.

Bài, ảnh: Trần Liên

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop