Tin nông nghiệp ngày 27 tháng 06 năm 2016

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 27 tháng 06 năm 2016

Rau, đậu 'đẻ' tiền tỷ trên vùng đất cao nguyên đại ngàn

Nguồn tin: Nông Nghiệp VN

Trên cao nguyên đại ngàn không chỉ có những loại cây đặc thù, mỗi ha hàng năm “đẻ” ra tiền tỷ mà những loại cây trồng như rau đậu cũng cho thu nhập “khủng” không kém. Tính ra, 1ha đất canh tác nông nghiệp thu về không dưới 1 tỷ đồng/ năm.

Trồng cà chua cherry đỏ theo hướng VietGap của anh Duy mỗi năm thu nhập hàng tỷ đồng

Trang trại trồng cà chua theo hướng công nghệ cao của anh Cao Văn Duy tại TP Đà Lạt (Lâm Đồng) là minh chứng.

Bỏ đại học, ở nhà làm nông

Năm 2012, anh Cao Văn Duy (23 tuổi) ở phường 7, TP Đà Lạt thi đậu vào Đại học Ngân hàng (TP HCM). Ngày nhận giấy báo nhập học, gia đình ai cũng hân hoan, bạn bè chúc mừng, riêng anh Duy rất dửng dưng. Ngay tối hôm đó, anh quyết định thông báo với gia đình từ chối việc đi Sài Gòn học đại học.

Dù đã được ba mẹ động viên nhưng Cao Văn Duy vẫn giữ nguyên ý chí, anh quyết định ở nhà để theo đuổi công việc làm nông mà nhiều năm qua anh đam mê.

Với sức trẻ, sự sáng tạo và có những hướng đi táo bạo, dù kinh nghiệm làm nông chưa nhiều nhưng sau một năm cùng bố mẹ làm vườn, được tiếp cận nhiều mô hình sản xuất nông nghiệp tiên tiến, Duy đề xuất với gia đình phải đưa cây trồng vào trong nhà kính, sản xuất theo phương pháp ứng dụng công nghệ cao để cho ra những nông phẩm sạch.

Thấy Duy có trách nhiệm với công việc, chững chạc trong suy nghĩ, đau đáu với nghề nông nên gia đình đã giao 1/3 diện tích trên tổng số 1ha đất cùng nguồn vốn đầu tư cho Duy tự do lựa chọn mô hình sản xuất theo hướng đi của mình.

Cao Văn Duy lập tức cho làm nhà kính, lắp đặt hệ thống tưới tiêu đạt chuẩn để sản xuất nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao. Ngoài tự tìm hiểu những mô hình sản xuất hay, lạ trên mạng, Duy không ngại ngần tìm đến những trang trại có quy mô sản xuất lớn trên địa bàn TP Đà Lạt để học hỏi kinh nghiệm, tiếp cận công nghệ sản xuất tiên tiến đem về áp dụng thí điểm trên diện tích của riêng mình.

Giống cà chua cherry đỏ là loại giống mới, cho chất lượng cao được Duy đem về trồng. Khi cà chua vừa xuống giống, Duy liền liên hệ với nhiều vựa thu mua nông sản sạch trên địa bàn để chuẩn bị cho đầu ra của sản phẩm.

Nhờ chăm sóc đúng kỹ thuật mà cà chua của Duy phát triển rất nhanh, đơm hoa, kết trái trĩu cành từ gốc lên ngọn. Sản phẩm làm ra có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn VietGAP nên các cơ sở thu mua nông sản sạch đã ký hợp đồng thu mua, bao tiêu dài hạn toàn bộ sản lượng cà chua bi ngọt của anh để nhập vào hệ thống các siêu thị, nhà hàng lớn.

Thấy mô hình làm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nhà kính đem lại hiệu quả kinh tế gấp nhiều lần so với lối canh tác truyền thống, Cao Văn Duy bàn với ba mẹ mở rộng diện tích gieo trồng.

Đến nay, gần 50% diện tích sản xuất nông nghiệp của gia đình đã được đưa vào nhà kính, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất. Năm 2015, anh trai Duy là Cao Văn Khánh tốt nghiệp ngành Quản trị kinh doanh Trường ĐH Kinh tế TP Hồ Chí Minh cũng về nhà hợp sức với em lập trang trại làm nông.

Kiếm tiền tỷ mỗi năm

Trong hơn 4.000m2 nhà kính, hai anh em trồng cà chua, dưa leo baby. Được chăm sóc đúng kỹ thuật nên mỗi gốc cà chua cherry đỏ cho thu hoạch trung bình đạt tới 12kg, quả sai trĩu. Giá bán trung bình từ 25.000-35.000 đồng/kg tùy vào thời vụ.

Dưa leo baby của hai anh em Duy, Khánh trái cũng đầy gốc. Nhờ được cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng với cách thức chăm sóc đặc biệt, loại dưa này đã cho trái giòn, ngọt.

Anh Cao Văn Khánh cho biết, hiện nay người tiêu dùng đang hướng tới những sản phẩm có chất lượng cao, tốt cho sức khỏe nên tất cả những nông sản của gia đình anh đều không sử dụng các loại thuốc hóa học. Để hạn chế tối đa mầm bệnh xuất hiện trên cây trồng, trước khi xuống giống phải xử lý đất thật kỹ để ngăn ngừa các loại bệnh có trong đất.

Bên cạnh đó, khi chọn giống cũng phải lựa chọn các loại giống cây trồng có khả năng kháng được các loại bệnh thông thường. Người trồng cũng phải thường xuyên theo dõi, khi phát hiện những cây mắc bệnh phải lập tức cắt bỏ, gom đốt ngay để tránh lây lan.

Hiện nay, tất cả các sản phẩm nông nghiệp của gia đình anh Cao Văn Duy sản xuất đều đã đạt chuẩn VietGap, được xuất bán đi các thị trường Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Huế. Hai anh em cũng đang tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm và xúc tiến mở rộng thị trường, đưa sản phẩm nông nghiệp của mình sang Singapore và một số nước trong khu vực.

Anh Khánh tiết lộ, hiện với 1ha đất canh tác nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao, mỗi năm gia đình anh thu về không dưới 1 tỷ đồng.

Hiện nay giống cà chua cherry đỏ cho thu nhập "khủng" không chỉ được nhiều người dân TP Đà Lạt trồng cung cấp cho thị trường trong nước mà nhiều doanh nghiệp cũng đã sản xuất với quy mô lớn theo hướng VietGap để xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới.

HOÀNG HẠNH

Sĩ Bình (Bạch Thông, Bắc Kạn): Trồng ớt cho hiệu quả kinh tế cao

Nguồn tin: Báo Bắc Kạn

Mới đưa vào thực hiện năm thứ 2 trên đồng đất xã Sỹ Bình (Bạch Thông, Bắc Kạn), cây ớt xuất khẩu đã thể hiện những ưu điểm vượt trội so với các loại cây trồng khác, điều này đã mở ra nhiều cơ hội cho việc xóa đói, giảm nghèo cho người dân địa phương.

Hộ ông Đinh Quang Thìn ở thôn 1A đang chăm sóc vườn ớt của gia đình.

Ổn định đầu ra nhờ liên kết với doanh nghiệp

Nhận thấy điều kiện thời tiết, đất đai thuận lợi cho trồng cây ớt, vụ hè thu năm 2015, Công ty TNHH Toàn Năng, tỉnh Hưng Yên đã phối hợp với chính quyền địa phương tiến hành trồng hơn 20ha ớt xuất khẩu tại xã Sỹ Bình. Đơn vị đã cho ứng trước cây giống, hướng dẫn khoa học kỹ thuật từ khâu làm đất, trồng, chăm sóc và sau thu hoạch. Sau 3 tháng thực hiện, đã có khoảng 19ha diện tích ớt cho thu hoạch, thu về 44,5 tấn quả, toàn bộ sản phẩm đều được công ty bao tiêu với không dưới 10.000 đồng/kg, một số hộ trồng với diện tích lớn đã thu về mấy chục triệu đồng trong một vụ, cao gấp rất nhiều lần so cây lúa, ngô. Tiêu biểu như các hộ gia đình ông Nông Văn Tấn ở thôn Lọ Cặp, Mạc Văn Nhạc ở thôn 1A, Đỗ Thị Khai ở thôn 1B, Bàn Văn Bảo ở thôn Nà Lẹng đều là những hộ trồng gần 2.000m2…

Được biết, trước khi mở rộng diện tích ở vụ hè thu năm 2015, để giúp bà con yên tâm khi tham gia mô hình trồng ớt, chính quyền xã đã cử đoàn công tác đi tìm hiểu thị trường, trực tiếp xuống thăm nắm doanh nghiệp đầu tư và tiêu thụ sản phẩm. Công ty TNHH Toàn Năng ở Hưng Yên đã ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm với UBND xã, theo đó giá thu mua sẽ tính theo giá thị trường nhưng không dưới 10.000 đồng/kg.

Đến vụ đông xuân năm 2016 một lần nữa xã Sỹ Bình đã đăng ký và thực hiện được 11ha gồm 113 hộ tham gia, tập trung tại các thôn Nà Lẹng, thôn 1A, 1B, thôn 2, Lọ Cặp… thời điểm hiện nay toàn bộ diện tích ớt trên toàn vùng đã bắt đầu cho thu hoạch. Theo đánh giá của cơ quan chuyên môn năng suất vụ đông xuân tuy không cao bằng vụ hè thu, thời gian cho thu hoạch lại dài hơn nhưng vẫn có hiệu quả kinh tế khá.

Thu nhập khá trên một đơn vị diện tích

Ông Đinh Quang Thìn ở thôn 1A là một trong những hộ tiên phong trồng cây ớt ở thôn. Đây là năm thứ 2 ông tham gia trồng ớt với diện tích gần 2.000m2 trên đất ruộng. Vụ hè thu năm 2015, ông Thìn thu về khoảng 20 triệu đồng trong vòng vài tháng, năm nay ông lại đăng ký trồng tiếp trên 1.000m2. Vừa chăm sóc vườn ớt, ông Thìn chia sẻ: “Khi có chủ trương trồng cây ớt xuất khẩu, thấy cơ chế phù hợp lại không phải lo đầu ra nên gia đình tôi liền hưởng ứng ngay. Mô hình ớt thành công nên gia đình cũng thu về một khoản thu nhập khá. Còn vụ đông xuân năm 2016, gia đình đã hái ớt được 2 lứa, lứa đầu tiên công ty trả 40.000 đồng/kg, đợt thứ 2 trả 30.000 đồng/kg, đầu vụ giá cao nên người dân mừng lắm, hi vọng từ nay đến khi kết thúc vụ giá cả thị trường đừng xuống thấp quá là ổn”.

Qua sát 2 bên đường xã Sỹ Bình đều thấy những vườn ớt xen kẽ với các bãi ngô, thuốc lá đang độ sai trĩu quả, những trái ớt đỏ tươi hứa hẹn mở ra nhiều tiềm năng kinh tế của vùng trong tương lai. Chị Phùng Thị Lan ở thôn Lọ Cặp năm nay cũng thực hiện 1.000m2 ớt, tuy mới chỉ bán được 2 đợt nhưng chị cũng về tiền triệu, riêng vụ năm ngoái bằng này diện tích chị cũng thu được gần 15 triệu đồng.

Theo tính toán của cơ quan chuyên môn 1ha ớt nếu được chăm sóc đúng kỹ thuật có thể đạt 150 tạ/ha, tương đương với 150 triệu đồng/ha, trừ chi phí lãi 100 triệu đồng, cao 9 lần so với cây lúa. Tuy nhiên cây ớt đòi hỏi kỹ thuật cao, yêu cầu người trồng phải thật chăm chỉ, biết cách xứ lý tốt từ khâu làm đất, bón lót, chăm sóc nếu không cây dễ chết yểu vì mẫn cảm thời tiết. Riêng vụ hè thu năm nay trên cây đã có xuất hiện các loại bệnh như sâu xám, sâu ăn lá, thậm chí còn gặp phải hiện thối quả, héo rũ... bà con đã xử lý nhưng chưa thể khắc phục.

Thời gian thu hoạch của cây ớt vụ này sẽ kéo dài đến tháng 8. Trước khi thu mua, đơn vị bao tiêu sẽ thông báo và hướng dẫn tiến độ để người dân chủ động hái, nhằm đảm bảo chất lượng quả.

Đồng chí Nguyễn Duy Trọng- Chủ tịch UBND xã Sỹ Bình cho biết: “Mặc dù mới trồng sang năm thứ 2, cây ớt đã thể hiện rõ tiềm năng về kinh tế, phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng tại địa phương. Tuy nhiên kinh nghiệm canh tác của bà con còn hạn chế, dẫn đến một số diện tích cho thu hoạch thấp”. Theo đồng chí Chủ tịch xã, trong các vụ kế tiếp, địa phương vẫn khuyến khích nhân dân trồng ớt với quy mô hợp lý, đồng thời duy trì các cây trồng truyền thống khác nhằm đảm bảo an ninh lương thực cho toàn vùng.

Thu Trang

Nghệ An sẽ mở rộng diện tích ngô biến đổi gen

Nguồn tin: Báo Nghệ An

Giống ngô biến đổi gen được đưa vào khảo nghiệm tại địa bàn xã Trung Sơn (Đô Lương) năm 2015 đã mang lại năng suất và hiệu quả kinh tế cao. Từ 5 sào lúc khởi điểm, nay toàn xã đã nhân rộng giống ngô này trên diện tích 6ha. Sở NN và PTNT dự kiến sẽ mở rộng diện tích loại ngô này.

Ngô biến đổi gen có đặc điểm chống chịu sâu bệnh, hạn hán.

Năm 2015, xã Trung Sơn (Đô Lương) đưa vào thử nghiệm trồng giống ngô biến đổi gen với diện tích 5 sào trên địa bàn xóm 8 với 5 hộ dân trồng, mỗi hộ 1 sào. Sau khi thu hoạch, đã cho 2 tấn ngô bắp, tăng khoảng 20% so với các giống ngô truyền thống mà không mất công chăm sóc nhiều. Năm 2016, xã Trung Sơn đã nhân rộng giống cây này với diện tích 6ha.

Ông Nguyễn Văn Thành, Trưởng ban Khuyến nông xã Trung Sơn cho biết, giống ngô biến đổi gen có rất nhiều ưu điểm: Chống được các loại sâu bệnh, nhất là sâu đục thân, có khả năng chịu hạn tốt trong thời tiết nắng nóng. Đỡ công chăm sóc cho bà con vì các mùa khác phải đi phun các loại thuốc sâu và diệt cỏ. Đặc biệt, ưu điểm lớn nhất của giống ngô này là năng suất cao hơn, chất lượng hạt tốt hơn các giống ngô truyền thống.

Ngô biến đổi gen bắp to, dài và dày hạt.

Giống ngô biến đổi gen ở xã Trung Sơn có 3 loại: B06R, B06G và B21G, các giống này cơ bản tương đương nhau về năng suất cũng như cách trồng và chăm sóc.

Trung Sơn có 560ha đất nông nghiệp, trong đó có 80ha chuyên canh ngô, riêng diện tích ngô biến đổi gen là 6ha, tập trung ở xóm 1, xóm 2 và xóm 8 với 55 hộ dân trồng, trong đó xóm 8 có diện tích lớn nhất (hơn 3ha với 26 hộ dân trồng). Mỗi hộ trung bình trồng từ 1,5 – 2 sào.

Thời điểm này xã Trung Sơn đã cơ bản thu hoạch xong vụ ngô, theo đánh giá, giống ngô biến đổi gen cho năng suất cao, đạt 4 tạ/ sào trong khi các giống ngô thường đạt 3,5 tạ/sào. Với 6ha ngô biến đổi gen, năm nay xã Trung Sơn thu hoạch được 48 tấn ngô, giá thị trường hiện tại lừ 650 - 700 ngàn/tạ, địa phương thu lại hơn 300 triệu đồng. Tuy nhiên, ngô đa phần được dùng trong chăn nuôi chứ không bán ra thị trường.

Ông Nguyễn Quang Vinh (xóm 8, Trung Sơn) năm nay trồng 2 sào ngô biến đổi gen. Sau 3 tháng thu lại gần 1 tấn ngô bắp, ông cho biết : “những năm trước nhà tôi thường mất gần 200 ngàn tiền thuốc sâu, cỏ các loại, nhưng năm nay không mất khoản nào, hơn nữa giống ngô này không cần chăm sóc nhiều, nên đỡ tốn công sức hơn những mùa khác.”

Ưu điểm của ngô biến đổi gen là ít bị sâu bệnh.

Vấn đề duy nhất hiện nay của giống ngô biến đổi gen là giá thành cao hơn các giống khác nên một số hộ dân còn e ngại, chưa dám đầu tư. Trung bình các giống ngô thường có giá từ 90.000 – 130.000 đồng/kg, giống ngô biến đổi gen có giá 210.000 đồng/kg. Tuy phải bỏ số tiền lớn hơn để mua giống nhưng người dân sẽ tiết kiệm được rất nhiều khoản khác, điển hình như thuốc sâu, thuốc cỏ…

Ông Đoàn Văn Kiên – Phó Chủ Tịch UBND xã Trung Sơn cho biết, địa phương sẽ nhân rộng diện tích trồng ngô biến đổi gen lên vào các vụ tới đồng thời đưa giống biến đổi gen vào danh sách các loại giống cho năng suất cao trên địa bàn.

Ông Trương Minh Châu - Trưởng phòng quản lý KHKT Sở NN và PTNT cũng cho biết sẽ nhân rộng giống ngô này ở các địa phương để nâng cao năng suất, chất lượng ngô.

Quang An

Quảng Ngãi: Chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng bắp: Còn những băn khoăn

Nguồn tin: Báo Quảng Ngãi

Nâng cao hiệu quả sử dụng đất nhằm đảm bảo an ninh lương thực, tăng thu nhập cho người dân là mục tiêu của việc chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang trồng bắp.

Dân tự chuyển đổi

Đức Phú (Mộ Đức, Quảng Ngãi) là một trong những xã tiên phong trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất lúa kém hiệu quả. Người dân nơi đây đã chuyển hơn 60ha đất trồng lúa sang trồng bắp, đậu phụng và mè. Trong đó, riêng cây bắp đã chiếm 1/2 diện tích. Điều này, theo bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, thôn Phước Hòa là do: “Bắp dễ trồng, dễ bán, cộng với năng suất và giá cao nên hấp dẫn nhiều nông dân”.

Hơn nữa, vì thiếu nước nên vụ sản xuất hè thu, nhiều diện tích đất lúa chân cao trên địa bàn xã Đức Phú có năm năng suất không đạt đến 45 tạ/ha. Nhưng nếu trồng bắp, không chỉ xen canh hai vụ, mà năng suất đạt từ 80 – 90 tạ/ha. Hiệu quả kinh tế trên cùng một diện tích tăng gấp đôi. Vì thế, nhiều năm qua, cứ đến vụ sản xuất hè thu là nông dân Đức Phú đã tự chuyển hàng loạt diện tích lúa kém hiệu quả sang trồng bắp.

Theo báo cáo của Sở NN&PTNT, toàn tỉnh hiện có hơn 614ha đất trồng lúa kém hiệu quả chuyển sang trồng bắp. Con số này cho thấy, nông dân trong tỉnh đã hiểu và chấp nhận điều chỉnh việc sản xuất theo hướng thích ứng với thời tiết cực đoan. Nhất là khi Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Quảng Ngãi đã xác định: Lựa chọn và chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp trên phần diện tích canh tác lúa bấp bênh là hướng đi tất yếu, đảm bảo tính bền vững, nhằm gia tăng giá trị và tạo "chiều sâu" cho sản xuất nông nghiệp.

Cẩn trọng đầu ra

Sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng bắp (QĐ 915), diện tích trồng bắp trên địa bàn Quảng Ngãi chắc chắn sẽ không dừng lại ở con số 614ha.

Theo lãnh đạo một số địa phương, lâu nay việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo hướng đa dạng hóa, chứ không dành riêng cho cây bắp. Trong khi giai đoạn 2016 – 2019, QĐ 915 lại hỗ trợ cho nông dân chuyển đổi từ trồng lúa sang trồng bắp với mức 3 triệu đồng/ha sẽ khiến phương án chuyển đổi cơ cấu cây trồng phê duyệt trước đây sẽ bị phá vỡ.

Về phía đơn vị quản lý và thực hiện, ông Đào Minh Hường - Phó Giám đốc Sở NN&PTNT cho rằng, năng suất bắp cao gấp đôi lúa, còn giá bán thì luôn luôn bằng hoặc cao hơn nên nông dân trồng bắp nắm chắc có lãi. Riêng vấn đề đầu ra, ông Hường thông tin: Mỗi năm ngành chế biến thức ăn chăn nuôi trong nước vẫn phải nhập hơn 1 tỷ USD tiền bắp để phục vụ sản xuất. Điều này có nghĩa, đầu ra cho bắp là rất rộng mở.

Chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên đất sản xuất lúa bấp bênh là chủ trương đúng đắn. Tuy nhiên, để việc hoán đổi này thực sự mang lại lợi ích bền vững, cũng như đảm bảo an ninh lương thực, thì dù đã lựa chọn được danh mục cây trồng, các ngành chức năng cũng phải “mở” được “cửa ra” cho sản phẩm thì nông dân mới yên tâm sản xuất.

“Chính quyền địa phương và ngành nông nghiệp phải xem QĐ 915 là một trong những điều kiện tiên quyết trong quá trình thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng với mục đích nâng cao lợi nhuận trên một đơn vị diện tích đất sản xuất, góp phần tăng thu nhập cho nông dân. Đó cũng là bước đi, là cách để thực hiện thành công Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên địa bàn tỉnh”.

MỸ HOA

Góp đất trồng cao su - hướng liên kết làm kinh tế mới

Nguồn tin: VOV

Với trên 6.000 ha cao su đến đầu tháng 7 này cho thu hoạch sẽ tạo ra thu nhập, góp phần nâng cao đời sống cho hơn 2.500 công nhân.

Sau 9 năm đưa cây cao su vào trồng với bao khó khăn, nhưng Công ty cao su Sơn La đã vượt qua để đến hôm nay có vườn cao su trên 6.000 ha bắt đầu tháng 7 năm nay cho thu hoạch. Điểm đáng nói là hơn 2.500 nông dân trên địa bàn các huyện đã trở thành công nhân, được hưởng các quyền lợi của người công nhân và đặc biệt là được tham gia đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ

Vườn cao su trên 6.000 ha của Công ty CP cao su Sơn La sẽ bắt đầu cho thu hoạch vào tháng 7 năm nay.

Năm 2009, anh Lò Văn Đôi, bản Bó, xã Bó Mười, huyện Thuận Châu đã góp gần 1 ha đất vào trồng cây cao su. Gia đình còn gần 2 ha đất nữa nhưng không thuộc diện quy hoạch trồng cao su nên vẫn sản xuất nông nghiệp. Với diện tích đất góp này anh đã được nhận vào làm công nhân của công ty.

Từ một nông dân chỉ quen với ruộng đồng, nay làm công nhân, anh tham gia mọi hoạt động của công ty, từ sản xuất tại các tổ đội, anh được phân công làm nhân viên bảo vệ vườn cây. Lương mỗi tháng gần 4 triệu đồng, cùng với 2 ha đất sản xuất nông nghiệp, thu nhập từ trồng ngô, lúa, mỗi năm cũng thêm vài chục triệu đồng, cuộc sống cơ bản ổn định. Hiện cao su tại diện tích đất góp của gia đình chuẩn bị khai thác cạo mủ.

“Bản thân nghĩ và theo thực tế khi cao su cho thu mủ thì công nhân và bà con sẽ có việc làm nhiều hơn, mủ mà có giá thu nhập sẽ tốt hơn”, anh Đôi chia sẻ.

Công ty cổ phần cao su Sơn La hiện đang quản lý trên 6.000 ha cây cao su tại 6 huyện, 12 xã, hơn 100 bản của tỉnh Sơn La. Để người dân thực sự yên tâm và gắn bó với vườn cao su, Công ty cao su Sơn La đã rà soát và đánh giá, so sánh thực tế thu nhập của người dân trước và sau khi góp đất trồng cao su.

Qua tính toán thực tế cho thấy, nếu trồng ngô, loại cây nông nghiệp cho thu nhập cao nhất của người dân hiện nay, tổng thu nhập trong 30 năm là 260 triệu đồng. Nhưng khi trồng cây cao su, từ lương hàng tháng, đến cổ tức nhận được sau khi cao su cho mủ thì tổng thu nhập sẽ hơn gấp 3 lần. Ngoài ra, người công nhân còn được hưởng mọi chế độ theo quy định của Nhà nước, từ ốm đau, thai sản đến trợ cấp khó khăn…

Ông Võ Nhật Duy, Tổng giám đốc Công ty cổ phần cao su Sơn La cho biết, nếu không có sự đồng tỉnh ủng hộ của người dân, chắc chắn không bao giờ có được diện tích cao su rộng lớn và phát triển như hiện nay. Mặc dù trong vài năm gần đây, khi cây cao su khép tán, việc làm của công nhân không được thường xuyên, đời sống của nhiều hộ công nhân không tránh khỏi những khó khăn. Song với sự đoàn kết, quyết tâm cao, đa số công nhân đã khắc phục vượt khó khăn để bảo vệ và phát triển vườn cao su.

Ông Duy cho biết thêm, đến tháng 7 này, khi cao su cho cạo mủ, thì công nhân sẽ bắt đầu có thêm việc làm, chắc chắn sẽ cho thu nhập ổn định hơn. Công ty hiện có trên 3.200 lao động, trong đó có trên 2.500 là công nhân ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Công ty đã đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ hàng tháng cho trên 2.500 lao động, nhiều trường hợp lao động khó khăn về kinh tế, công ty cho ứng trước lương để đóng bảo hiểm kịp thời.

“Công ty đánh giá cao sự cố gắng của bà con đã vượt qua những khó khăn về vật chất và tinh thần trong thời gian vừa qua. Với trên 6.000 ha cao su đang phát triển tốt, sắp bước vào thu hoạch đã tạo ra niềm tin lớn cho công ty và người dân. Tính toán trên cơ sở thực tế từ những khoản thu nhập chỉ tính trên phần cứng cùng 10% sản phẩm, công ty tin chắc cuộc sống bà con ngày càng tốt lên”, ông Duy cho biết.

Thời gian khai thác mủ cao su đang cận kề, trên 6.000 ha cao su trên địa bàn tỉnh Sơn La đang phát triển xanh tốt là một trong những tiền đề để người dân vùng cao Sơn La cùng đoàn kết vượt qua khó khăn, hướng tới tương lai bền vững./.

Tuyết Lan/VOV-Tây Bắc

Nghệ An: Diện tích mía giảm 5000ha: Các nhà máy đường thiếu nguyên liệu

Nguồn tin: Báo Nghệ An

Niên vụ ép 2015 - 2016, các nhà máy chế biến mía đường trong tỉnh Nghệ An đều thiếu hụt nguyên liệu, do diện tích mía giảm, năng suất mía cũng giảm hẳn do nắng hạn.

Mía giảm gần 5 nghìn ha

Huyện Nghĩa Đàn và Quỳ Hợp là những địa phương trọng điểm vùng nguyên liệu mía cho Công ty TNHH Mía đường Nghệ An (NASU), những năm qua diện tích mía ở đây có chiều hướng giảm, do người dân chuyển đổi cây trồng. Ông Hồ Hữu Hoài - Phó Chủ tịch UBND xã Nghĩa Phú (Nghĩa Đàn) cho biết: Từ chỗ 600 ha mía của năm 2014, nay diện tích mía chỉ còn 400 ha, 200 ha ấy người dân chuyển đổi sang trồng cây có múi.

Nông dân xã Tân Long, huyện Tân Kỳ chăm sóc mía

Ông Trương Minh Hoài - Trưởng phòng Nông nghiệp - PTNT huyện Nghĩa Đàn cho biết: Năm 2015 toàn huyện có 8.400 ha mía, thì đến nay giảm xuống còn 7.800 ha. Một số địa phương có diện tích mía được chuyển đổi nhanh như: Nghĩa Phú, Nghĩa Hiếu…

Trên địa bàn huyện Quỳ Hợp, năm 2015 có hơn 6 nghìn ha mía, thì hiện nay còn 5.150 ha. Nguyên nhân dễ hiểu là, người trồng mía thu lãi suất thấp, thậm chí không có lãi, vì giá thu mua mía của nhà máy thấp, tiền thuê nhân công thu hoạch cao, trong khi đó năng suất mía đạt thấp, nên nhiều gia đình đã chuyển sang trồng các loại cây ăn quả khác.

Vận chuyển mía vào sản xuất tại công ty Cổ phần Mía đường Sông Con

Công ty TNHH Mía đường Nghệ An, niên vụ ép 2014 – 2015 đạt trên 860 nghìn tấn, niên vụ ép 2015 – 2016 giảm xuống còn 623 nghìn tấn. Vùng nguyên liệu mía của Công ty Cổ phần mía đường Sông Con vụ ép qua cũng giảm 20% diện tích.

Số liệu của Chi cục Trồng trọt – BVTV tỉnh cho thấy, niên vụ ép 2015 – 2016 diện tích mía nguyên liệu toàn tỉnh đạt 21.672 ha, giảm gần 5 nghìn ha so với niên vụ 2014 – 2015; năng suất mía bình quân đạt 51,34 tấn/ha, giảm 0,66 tấn/ha so với vụ ép 2014 – 2015; sản lượng mía đạt 1.112.600 tấn, giảm 208.353 tấn so với vụ ép 2014 – 2015.

Năng suất đạt thấp

Tín hiệu vui đối với ngành sản xuất mía đường hiện nay là giá đường bán lẻ trên thị trường đang có chiều hướng tăng trong thời gian qua. Hiện nay, giá đường bán lẻ trên thị trường từ 18 - 20 nghìn đồng/kg, tăng 2 - 3 nghìn đồng so với đầu năm 2016.

Do trồng giống mía cũ đang chiếm phần nhiều diện tích, nên diện tích mía bị bệnh chồi cỏ hàng năm nhiều, dẫn đến, năng suất, chất lượng mía thấp.

Ông Nguyễn Bá Quý – Phó Giám đốc Công ty Cổ phần Mía đường Sông Con trao đổi: Niên vụ ép vừa qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn về diện tích mía nguyên liệu giảm, còn hơn 5 nghìn ha, sản lượng mía đạt 349 nghìn tấn, năng suất bình quân chưa đầy 45 tấn/ha. Tuy nhiên, thị trường đường có chiều hướng tăng từ đầu năm đến nay, thuận lợi cho nhà máy hoạt động.

Công ty TNHH Mía đường Nghệ An (NASU) là đơn vị có vùng nguyên liệu mía lớn nhất trong số các nhà máy mía đường trong tỉnh, với 18.500 ha quy hoạch. Thế nhưng, diện tích vùng nguyên liệu thực có mà công ty ký hợp đồng đầu tư, tiêu thụ sản phẩm là 14.470 ha. Năng suất mía ở đây bình quân đạt 52 tấn/ha, khiến sản lượng mía nguyên liệu trong vụ ép vừa qua chỉ đạt 752.500 tấn, sản lượng đường 70.729 tấn.

Do người trồng mía thu lãi thấp, nên diện tích mía đang thu hẹp lại theo từng năm.

Hiện tại trên địa bàn tỉnh có 3 nhà máy chế biến đường, với tổng công suất thiết kế 13.800 tấn mía/ngày. Theo đánh giá của chi cục Trồng trọt - BVTV tỉnh, vụ ép vừa qua, nhìn chung các nhà máy đều có một số chính sách khuyến khích phát triển vùng nguyên liệu.

Kế hoạch của vụ ép 2016 – 2017, tổng diện tích mía nguyên liệu đạt 22.300 ha, năng suất mía đạt bình quan trên 53 tấn/ha, sản lượng mía đạt 1.190.500 tấn. Mục tiêu của tỉnh ta, đến năm 2020 vùng nguyên liệu mía đứng quy hoạch 28.400 ha, năng suất mía bình quân đạt 70,5 tấn/ha, sản lượng mía đạt 1.860.000 tấn, công suất ép của các nhà máy nâng lên 15.500 tấn/ngày.

Xuân Hoàng

Đồng Nai: Hội thảo quy trình trồng tiêu sạch, bền vững

Nguồn tin: Báo Đồng Nai

Sáng 23-6, khoảng 200 bà con nông dân TX.Long Khánh (Đồng Nai) đã tham dự hội thảo Xây dựng quy trình phát triển chuổi liên kết sản xuất hồ tiêu sạch - bền vững do UBND thị xã phối hợp Công ty cổ phần phát triển công nghệ sinh học (Dona-Techno) tổ chức.

Bà con nông dân TX.Long Khánh tham quan mô hình trồng tiêu sạch của Công ty Dona-Techno

Tại đây, sau khi trực tiếp tham quan mô hình trồng tiêu sạch rộng gần 2ha của công ty Dona-Techno, bà con nông dân được lãnh đạo và các kỹ sư của công ty hướng dẫn cụ thể về việc xây dựng và thực hiện quy trình trồng hồ tiêu sạch, bền vững; cách phòng trị bệnh chết nhanh, chết chậm, tuyến trùng trên cây tiêu và giới thiệu đầu ra cho sản phẩm hồ tiêu sạch.

Hiện tại Công ty Dona-Techno đã liên kết với hơn 120 hộ nông dân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trồng hơn 120ha hồ tiêu sạch. Hướng tới, công ty sẽ mở rộng áp dụng quy trình này với các tỉnh lân cận để giúp cho nông dân thực hiện quy trình trồng tiêu sạch, không bị bệnh, đem lại hiệu quả cao.

Thanh Giang

Dự kiến xuất khẩu khoảng 5,7 triệu tấn gạo trong năm 2016

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết với tình hình xuất khẩu gạo hiện nay và các hợp đồng DN đã ký, dự kiến cả năm 2016 cả nước sẽ xuất khẩu khoảng 5,7 triệu tấn gạo.

Theo thống kê của VFA, trong 5 tháng đầu năm, lượng gạo xuất khẩu đạt 2,282 triệu tấn, tăng 9,71%, trị giá FOB tăng 11,29%, trị giá CIF tăng 12,29% so với cùng kỳ năm ngoái; giá FOB bình quân tăng 6,06 USD/tấn. Dự kiến xuất khẩu gạo trong tháng 6 đạt khoảng 450.000 tấn, cộng với lượng gạo đã xuất khẩu 5 tháng đầu năm, tổng lượng gạo xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm đạt 2,732 triệu tấn, với tổng kim ngạch khoảng 1,2 tỷ USD.

Đáng chú ý là tỷ lệ gạo thơm giống Jasmine xuất khẩu đã tăng lên từ 22% lên 29% trong năm nay. Tỷ lệ xuất khẩu lúa nếp cũng tăng nhanh số lượng và theo đó, từ chiếm 6,58% tổng lượng xuất khẩu gạo năm 2015 nhưng trong 6 tháng đầu năm đã chiếm 16% tổng số lượng xuất khẩu gạo.

Giá mua lúa, cũng như giá xuất khẩu đang có chiều hướng tăng, nếu có thêm hợp đồng xuất khẩu giá sẽ tăng dần và khả năng tăng đột biến.

Ông Huỳnh Thế Năng, Chủ tịch VFA dự báo nhu cầu nhập khẩu gạo từ các thị trường chủ chốt như Trung Quốc, Philippines và Indonesia tiếp tục ổn định. Trong khi đó, theo ông Năng, qua cân đối tình hình sản xuất vụ lúa Hè Thu và Thu Đông năm 2016, thì lượng gạo hàng hóa cần tiêu thụ trong 6 tháng cuối năm nay chỉ khoảng 3,9 triệu tấn. Với lượng gạo hàng hóa còn lại không quá lớn, trong khi triển vọng thị trường còn nhiều, việc tiêu thụ dự báo không có gì đáng lo ngại.

Nếu trong vụ Hè Thu, Thu Đông 2016 các địa phương tổ chức sản xuất tốt, tăng sản lượng lúa gạo, nhất là các loại gạo thơm, gạo chất lượng cao, sẽ có nguồn nguyên liệu để xuất khẩu số lượng lớn hơn.

Triển khai sản xuất vụ Hè Thu 2016, Bộ NN&PTNT đánh giá vụ mùa Hè Thu năm nay diễn ra trong tình hình khô hạn, nắng nóng kéo dài từ vụ Đông Xuân 2015-2016 và ảnh hưởng của xâm nhập mặn tiếp tục diễn ra gay gắt trên diện rộng, nhất là các tỉnh ven biển ĐBSCL. Do đó, toàn vùng Nam bộ chỉ có thể gieo sạ khoảng 1,7 triệu ha, giảm 44.539 ha; năng suất ước đạt: 5.57 tấn/ha và sản lượng 9.548.855 tấn, giảm 5.046 tấn so với vụ Hè Thu 2015.

Trước những thông tin nêu trên, ông Lê Quốc Doanh, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, kêu gọi các địa phương trong vùng ĐBSCL mở rộng sản xuất vụ lúa Hè Thu và Thu Đông 2016 lên mức tối đa ở những nơi nằm trong phạm vi an toàn nhằm bù vào phần sản lượng sụt giảm trong vụ Đông Xuân 2015-2016 vừa qua.

PN

Xử lý cho bưởi ra hoa sớm

Nguồn tin: Nông Nghiệp VN

Trong bài này chúng tôi giới thiệu kết quả nghiên cứu và thực nghiệm của Trung tâm Nghiên cứu cây ăn quả miền Đông Nam bộ (Viện Nghiên cứu cây căn quả miền Nam) để làm cho bưởi đường lá cam được ra hoa sớm, nhằm bán được giá, thu lợi nhuận cao cho người trồng...

Trước hết, chỉ nói về thị trường trong nước thì các loại bưởi có chất lượng ngon đang có nhu cầu ngày càng tăng và thị trường nước ngoài cũng vậy. Bưởi đường lá cam là giống có tiêu chuẩn chất lượng được nhiều loại khách hàng ưa chuộng, đang trồng khá phổ biến ở các tỉnh miền Đông Nam bộ như Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu.

Theo số liệu thống kê thì khu vực này có khoảng 3.553ha bưởi, trong đó bưởi đường lá cam chiếm diện tích lớn. Bưởi đường lá cam đã thích nghi trên vùng đất Đông Nam bộ từ lâu, nhược điểm chính là số hạt nhiều, làm ảnh hưởng đến chất lượng. Nhưng số liệu mà tác giả thí nghiệm là trên giống bưởi đường lá cam LĐ4. Đây là kết quả chọn lọc từ đột biến phóng xạ của giống bưởi đường lá cam BC12 mà có.

Ưu điểm nổi bật của giống LĐ4 là số hạt trong quả trung bình từ 50 - 110 hạt, sau xử lý phóng xạ giảm xuống chỉ còn dưới 5 hạt/quả, chất lượng vẫn ngon, nên càng được thị trường ưa chuộng hơn. Để chuẩn bị xử lý ra hoa, cây bưởi cần được chăm sóc tỉa cành, tạo tán hợp lý, bón phân Đầu Trâu cân đối để cây có đủ sức, lá trên chồi non đã chuyển sang màu xanh bánh tẻ ( không phải màu xanh tím).

Thí nghiệm xử lý ra hoa bao gồm các công thức sau:

- Công thức đối chứng để cây ra hoa tự nhiên, không tác động gì.

- Tạo cho cây khô hạn 30 ngày, sau đó tưới nước, 2 ngày tưới 1 lần.

- Tạo khô hạn 30 ngày, kết hợp phun MKP 0,5% (loại phân có chứa K và P, cân 5 gram hóa chất hòa vào 1 lít nước, lắc đều cho tan rồi phun), sau đó cũng tưới nước 2 ngày 1 lần.

- Tạo khô hạn 30 ngày, kết hợp phun hóa chất Paclobutrazol (1000ppm, pha 1 gam hóa chất trong 1lít nước,lắc đều rồi phun), sau đó cũng tưới nước 2 ngày tưới 1 lần

- Tạo khô hạn 30 ngày, sau đó tưới nước 2 ngày 1 lần, kết hợp phun KN03 (0,2%, pha 2 gram trong 1 lít nước, lắc đều cho tan rồi phun).

- Tạo khô hạn 30 ngày kết hợp phun MKP 0,5%, sau đó tưới nước 2 ngày 1 lần, kết hợp phun KN03 0,2%.

- Tạo khô hạn 30 ngày kết hợp phun Paclobutrazol 1000ppm, sau đó tưới nước 2 ngày 1 lần, kết hợp phun KN03 0,2%.

Cần chú ý rằng, với cây bưởi từ lúc ra hoa đến khi bưởi chín thường kéo dài 7 -8 tháng. Vì vậy, cần xác định thời gian có bưởi thương phẩm để chọn thời gian xử lý ra hoa cho thích hợp. Tuy nhiên tạo khô hạn trong mùa mưa là công việc khó khăn. Nếu chỉ dùng biện pháp phủ ni lông để tránh nước mưa cũng rất khó thực hiện cho triệt để, phải chú ý quấn ni lông quanh gốc cây mới hạn chế được nước mưa thấm xuống đất.

Trong tài liệu này chúng tôi xử lý khô hạn vào 15/5, đến 15/6 thì tưới nước và xử lý ra hoa. Thời gian này nằm đầu mùa mưa (ở các tỉnh miền Nam), nên lượng mưa chưa nhiều. Nhưng nếu xử lý vào giữa mùa mưa thì cần thực hiện thận trọng hơn.

Kết quả theo dõi, đo đếm, tính toán cho thấy: Ở công thức đối chứng không xử lý, thì từ khi bắt đầu xứ lý khô hạn đến ngày ra hoa trung bình 64 ngày, trong lúc bình quân 6 công thức có xử lý ra hoa thì chỉ có 36 - 39 ngày, bình quân là 38 ngày, có xử lý ra hoa, cây ra hoa sớm hơn 26 ngày (gần 1 tháng). Tỷ lệ chồi ra hoa ở các công thức có xử lý cao hơn đối chứng, nhưng công thức 7 (tạo khô hạn + phun Paclobutrazol rồi tưới và phun KN03) cho số chồi ra hoa cao nhất, cao hơn đối chứng là 23 chồi hay 105%, công thức 4 đứng thứ 2: 38 chồi, cao hơn đối chứng 16 chồi hay 76%.

Khi thu hoạch số quả trên cây ở các công thức có xử lý đều cao hơn đối chứng,nhưng công thức 7 vẫn có số quả cao nhất, hơn đối chứng 13 quả hay 31%. Các công thức số 4 và số 6 cũng có số quả cao hơn đối chứng đáng tin. Từ đó năng suất quả trên cây cũng có chiều hướng tương tự. Các công thức xử lý ra hoa không ảnh hưởng đến chất lượng của quả. Từ đó kết luận rằng các công thức xử lý ra hoa kết hợp xử lý khô hạn với phun hóa chất MKP, KN03, Paclobutrazol đều mang lại hiệu quả rõ cả về năng suất và thời gian ra hoa sớm. Trong đó công thức xử ly khô hạn 30 ngày kết hợp phun paclobutrazol sau đó tưới nước rồi kết hợp phun KN03 cho hiệu quả cao nhất.

GS MAI VĂN QUYỀN

Khi vườn tạp sinh lời

Nguồn tin: Báo Cà Mau

Trước đây, không ít hộ nông dân không chú tâm đến đất vườn, bỏ hoang, không chăm sóc hoặc chỉ trồng một số cây ăn trái, vài bụi chuối dùng trong gia đình, không đem lại nguồn thu nhập. Nhưng những năm gần đây, nhiều nông dân tận dụng lợi thế đất vườn, cải tạo vườn tạp, đầu tư trồng các loại cây trồng có giá trị kinh tế. Những mảnh vườn kém hiệu quả ngày nào, với sự tính toán, bàn tay chăm sóc của nông dân đã trở thành những mảnh vườn cho thu nhập bạc trăm triệu.

Ông Nguyễn Văn Hiên (ấp Nhà Máy A, xã Khánh Hưng, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau) gia đình chỉ có vài công ruộng, thu hoạch mỗi năm từ cây lúa may mắn lắm thì đủ gạo ăn trong gia đình, chẳng đem lại đồng nào dư dả. Trồng rẫy tuy có thu nhập nhưng không ổn định, lại bị gián đoạn do mất thời gian cải tạo đất nên việc lo cho 2 đứa con ăn học gặp nhiều khó khăn.

Nhận thấy, để có điều kiện lo các con ăn học đến nơi đến chốn, vực dậy kinh tế gia đình, phải tìm mô hình sản xuất khác. Qua tìm hiểu, biết được mấy năm nay, cây chuối và dừa dâu Bến Tre có giá trị kinh tế khá cao, đầu ra khá ổn định, ông quyết định phá bỏ vườn cây ăn trái kém hiệu quả, lên liếp trồng dừa xen canh chuối. Lúc đầu, ông trồng 700 gốc dừa, sau khi dừa bắt đầu lớn, ông trồng xen 1.800 gốc chuối xiêm trắng.

Tuy trồng xen canh 2 loại cây trồng, nhưng theo ông Hiên, kỹ thuật chăm sóc không khó. Ðể cả dừa và chuối đều phát triển tốt, yếu tố đầu tiên là phải trồng dừa trước vài năm, để dừa phát triển rồi mới trồng xen chuối. Khoảng cách giữa cây dừa này đến cây dừa khác là 7 m, trong khoảng đất trống đó trồng xen 2 bụi chuối. Ðến khi chuối lớn lên, cho thu hoạch, chỗ nào chuối con mọc gần gốc dừa thì nhổ bỏ.

200 gốc xoài đã cho thu hoạch, đem lại thu nhập 200 triệu đồng/năm cho ông Huỳnh Công Lý (Ấp 5, xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời).

Hiện dừa đang phát triển tốt, hứa hẹn 2 năm sau sẽ cho thu nhập đáng kể. Còn hàng ngàn gốc chuối đã cho thu hoạch hơn 1 năm nay. Ông Hiên cho biết, trung bình mỗi tháng thu hoạch 4.500-6.000 nải chuối, giá từ 3.000-5.000 đồng/nải, thu nhập đều đều mỗi tháng 10 triệu đồng, có thời điểm lên tới 20 triệu đồng. Riêng bắp chuối, mỗi tháng cũng thu hoạch khoảng 500 bắp chuối, thu nhập 4-5 triệu đồng.

“Nếu làm phép tính so sánh thì tôi dám chắc kinh tế vườn chuối cao hơn so với cây lúa. Tôi cho giá chuối thấp nhất còn lúa thì trúng 50 giạ/công, thu nhập từ chuối vẫn cao hơn gấp đôi. Còn nếu tính theo năng suất lúa thực tế của gia đình tôi hằng năm thì cao gấp 3 lần”, ông Hiên bộc bạch.

Bà Trần Thị Ðịnh, vợ ông Hiên, phấn khởi cho biết thêm: “Nhờ chuyển sang trồng chuối, thu nhập cao, ổn định nên vợ chồng tôi nuôi con ăn học mới thoải mái. Một đứa học đại học, một đứa học trường chuyên, nếu không có thu nhập từ chuối mà dựa vào lúa không thì không đời nào nuôi nổi”.

Nếu ông Hiên vươn lên từ cây chuối thì ông Tám Lý (Huỳnh Công Lý, Ấp 5, xã Trần Hợi, huyện Trần Văn Thời) phát triển kinh tế gia đình nhờ chuyển sang trồng xoài. Năm 2010, ông Tám Lý cải tạo vườn, lên liếp trồng thử 100 gốc xoài Ðài Loan da đỏ và xanh, giống Bến Tre. 2 năm sau, vườn xoài bắt đầu cho thu hoạch, do vụ đầu, năng suất còn thấp nên thu nhập chỉ đạt 50 triệu đồng. Tuy nhiên, ông Tám Lý quyết định mở rộng quy mô vì các thương lái cho biết, hiện giống xoài này cung không đủ cầu, sản lượng bao nhiêu họ đều bao tiêu, giá khá cao và đây là mặt hàng được xuất khẩu sang Trung Quốc. Hơn 3 năm sau, vườn xoài của ông đã có hơn 1.000 gốc xoài, trong đó đã cho thu hoạch 200 gốc.

Không giấu được niềm phấn khởi khi triển vọng từ cây xoài ngày một khả quan, ông Tám Lý chia sẻ: “Tính đến nay, tôi đã thu hoạch 4 vụ rồi, thương lái làm ăn rất đàng hoàng, chặt chẽ. Giá cả tương đối cao, vụ đầu tiên thu hoạch 1 kg có giá 52.000 đồng, vụ vừa rồi tôi trúng xoài nhưng thu hoạch trễ nên giá giảm còn 20.000 đồng/kg. Vào lúc nghịch mùa, 200 gốc xoài cho thu hoạch 6 tấn, còn thuận mùa từ 8-10 tấn. Mỗi năm cho thu nhập 200 triệu đồng”.

Thích thú trước lời mời gọi “Chú cứ trồng đi và vận động bà con trồng thêm. Bao nhiêu tấn xoài, chúng cháu đều thu mua, vì giống xoài này đang xuất khẩu sang Trung Quốc. Hơn nữa, khi thời tiết bên đó không trồng được thì bên mình lại phù hợp” và lợi nhuận mang lại “nửa héc-ta xoài lợi nhuận cao gấp 10 lần 1 ha lúa”, ông Tám Lý đang dự định trồng thêm 500 gốc xoài nữa. Mạnh dạn mở rộng quy mô nhưng ông Tám Lý không làm liều, chủ quan, bởi ông đã có sự tính toán kỹ lưỡng. “Trong trường hợp thương lái không thu mua để xuất khẩu thì tôi cũng không lo sợ, vì mình vẫn có thể tiêu thụ nội địa. Tôi cho giá thấp gì thì 1 kg xoài cũng 10.000 đồng, cao hơn lúa, mà giống xoài này bán ở đây không bao giờ thấp hơn 20.000 đồng/kg. Làm ăn mình phải tính toán, đặt ra nhiều tình huống để có sự chủ động”.

Người phụ đất chớ đất không phụ người, đó là suy nghĩ chung của những lão nông như ông Hiên, ông Tám Lý. Và thực tế qua câu chuyện vươn lên phát triển kinh tế gia đình của họ đã khẳng định rằng thời buổi ngày nay, muốn làm giàu, ngoài cần cù, chịu khó, nông dân cần dám nghĩ dám làm, lựa chọn các giống cây trồng, vật nuôi phù hợp với địa phương, đa canh trong sản xuất./.

Ông Trần Thanh Hải, Phó Chủ tịch Hội Nông dân huyện Trần Văn Thời, cho biết: “Phong trào cải tạo vườn tạp trồng dừa, chuối, cây ăn trái, hoa màu trong hội viên nông dân những năm qua phát triển rộng khắp. Phải khẳng định rằng hiệu quả mang lại rất cao. Thu nhập từ vườn cây ăn trái mỗi hộ từ 150-200 triệu đồng/ha/năm, còn hoa màu cao hơn từ 200-250 triệu đồng/ha/năm”.

Ngọc Minh

An Giang: Lập vườn đặc sản núi Cấm

Nguồn tin: Báo An Giang

Vài năm gần đây, các khu vực vồ Đầu, vồ Bà, Rau Tần, ven suối Thanh Long… (An Giang) xuất hiện nhiều vườn cây ăn trái dựa vào khí hậu và lợi thế ở độ cao 400 – 500m. Cư dân sản xuất nhiều loại đặc sản (bơ, sầu riêng, quýt, cam, bưởi…) rất hấp dẫn người hành hương và du khách lên tham quan núi Cấm.

Khởi sự cây sầu riêng

Hồi mới trồng rừng phủ xanh đất trống và đồi núi trọc, du khách leo núi Cấm, rồi tạt ngang dốc Cao Đài Tự, ai cũng ngạc nhiên khi nhìn thấy cây sầu riêng sung túc. “Đó là miếng vườn của ông bảy Hòa, người đầu tiên lấy giống từ Bến Tre đem về trồng, hương vị đặc biệt, thơm ngon hơn đồng bằng. Dần dà, nhiều người mới trồng xen dưới tán rừng” – ông Nguyễn Văn Ngàn (vồ Thiên Tuế) nhớ lại. Đến năm 1995, ông Nguyễn Văn Chánh (vồ Thiên Tuế) lên Rau Tần lập vườn trồng sầu riêng và bây giờ phát triển 20 công, nào là sầu riêng, bơ xen cây sao, tre lấy măng.

Hơn 20 năm, cây sầu riêng định hình trên núi Cấm, ông Chánh kể, mùa thu hoạch có năm vầy năm khác, song hương vị nó không thay đổi. “Giá sầu riêng núi này lúc nào cũng cao hơn sầu riêng đồng bằng. Thế nhưng, người Chi Lăng và Tri Tôn vẫn ưa thích, tìm mua khi vô vụ bẻ trái” – ông Chánh cho biết. Vườn chuyên canh chỉ vài chủ, sản lượng ít, không sợ dội chợ hay ế hàng. Với kinh nghiệm lập vườn, ông Chánh thừa nhận, cây bị lão hóa, nếu được thay giống mới và đầu tư kỹ thuật, nhất định thương hiệu “Sầu riêng núi Cấm” không thua kém dưới đồng bằng. Ngay cả cây bơ sáp, bơ muỗng… cũng vậy.

Quýt trồng ở suối Thanh Long

Theo ông Phạm Việt Tân, Trưởng ban Nhân dân ấp Vồ Đầu, diện tích vườn và rẫy (gọi nôm na là đất thịt màu mỡ) ở đây chiếm tỉ lệ lớn so các ấp: Vồ Bà, Thiên Tuế, Rau Tần. Cây sầu riêng vườn nào cũng có trồng xen canh, nhưng vườn chuyên canh gần như không có. “Người lập vườn đồi, vườn rừng chọn nhiều loài cây. Điều quan trọng là phải lựa giống thích nghi khí hậu, thổ nhưỡng, vì nguồn nước tưới rất khan hiếm” – ông Tân nói. Mấy năm gần đây, mô hình lập vườn trồng quýt, cam, bưởi… bắt đầu rộ lên, khi các chủ rừng thấy thích hợp và hiệu quả thu nhập gia đình tốt.

Đa dạng các giống loài

Khác với anh Nguyễn Chí Thiện (vồ Rau Tần) trồng quýt hồng, anh Trần Văn Hùng (vồ Bà) chọn cây quýt đường để… không “đụng hàng”, vừa có được ưu thế hương vị và trọng lượng vượt trội cùng loại. Với 20 công đất vườn đồi, anh trồng 15 công quýt và 5 công cam, doanh thu khoảng 200 triệu đồng/năm, sau khi trừ chi phí thu lợi nhuận 120 triệu đồng. “Khắc phục nhược điểm đồi đất dốc, cả nhà mới gom đá chất từng hộc, ngăn bậc thang để chống xói mòn, phủ cỏ cho bộ rễ cây quýt phát triển. Đúng 3 năm, quýt cho trái chiến lai rai, kết quả không uổng công” – anh Hùng phấn khởi.

Nằm ở khu vực dốc 4.000, 15 công quýt được anh Nguyễn Thanh Tùng (suối Thanh Long) xử lý ra hoa và thu hoạch trái vụ, nhờ đầu tư đường ống dẫn nước tưới thường xuyên. Song, 14 công cũng trồng quýt đường bên vồ Bà không có nước tưới mùa khô, đành đi theo thời tiết và thu hoạch ngay dịp Tết. “Xử lý cây quýt thu hoạch trái vụ thấy ham quá, ngặt một nỗi bên vồ Bà không có nguồn nước như ven suối Thanh Long, mình đành chấp nhận như những nhà vườn khác” – anh Tùng chia sẻ. Vườn quýt này thu hoạch trái năm đầu tiên, tăng trưởng cây và trái rất khả quan…

Tìm đến vườn anh Trần Văn Danh, 12 công quýt đường (giống Định Quán, Đồng Nai) lại lọt thỏm khu rừng Latina (núi Cấm). Vợ chồng anh khoe, quýt tiêu thụ về Hà Tiên và Phú Quốc, ngay cả việc bán qua Campuchia tại Cửa khẩu Quốc tế Tịnh Biên – Phnom Den. “Giống quýt của tôi ghép trên gốc cây cam sành, cam mật. Nó hơi lạ hơn giống cùng loại là vậy, cho nên người tiêu dùng và bạn hàng rất thích” – anh Danh cho biết. Trên núi có 2 dạng sản xuất: Địa bàn trữ được nước sẽ tưới thường xuyên và thu hoạch trái vụ, nơi gặp khó khăn nguồn nước để cây ra bông tự nhiên và thu hoạch theo thời vụ.

“Theo thống kê, diện tích cây ăn quả có múi núi Cấm lên tới 150 héc-ta, tăng trong vòng 3 năm. Đây là tín hiệu đáng mừng, hình thành vườn đặc sản ở khu du lịch. Chúng tôi sẽ có giải pháp khuyến cáo kỹ thuật để nông dân đầu tư hiệu quả hơn” – ông Dương Ánh Đông, Trưởng trạm Bảo vệ thực vật Tịnh Biên, nói.

TRỌNG ÂN

Vải thiều vào mùa, tiêu thụ tốt

Nguồn tin: Kinh Tế Đô Thị

Những ngày cuối tháng 6, vải thiều chính vụ ở Lục Ngạn (Bắc Giang) chín rộ. Người trồng vải đang khẩn trương thu hoạch, vận chuyển tới các điểm thu mua.

Còn vải thiều Thanh Hà (Hải Dương) cũng bắt đầu chớm vụ nên thị trường Hà Nội tràn ngập các điểm bán mua.

Giá lên xuống theo giờ

Trên các tuyến đường chính tại phố Kim (xã Phượng Sơn), ngã ba xã Hồng Giang, thị trấn Chũ… từ sáng sớm đến trưa, người, xe nườm nượp chở vải thiều đổ về các điểm thu mua, đâu đâu cũng tiếng gọi mời, ngã giá.

Kiểm dịch thực vật quả vải trước khi xuất khẩu. Ảnh: Văn Thắng

Theo thông tin từ chủ một điểm cân vải thiều tại thị trấn Chũ, vải thiều hiện có giá từ 15.000 – 30.000 đồng/kg, những ngày đầu vụ có giá 35.000 đồng/kg. Giá thậm chí có lúc cao gấp rưỡi so với cùng kỳ năm trước. “Mỗi ngày, tôi thu mua khoảng 70 tấn là đầy 3 xe chạy ra Hà Nội, vào TP Hồ Chí Minh tiêu thụ. Còn ông Nguyễn Thanh Đoạt (53 tuổi, Kép 1, xã Hồng Giang, huyện Lục Ngạn) phấn khởi, từ đầu vụ đến nay, gia đình đã bán hơn 3 tấn vải với giá từ 18.000 - 26.000 đồng/kg, thậm chí 30.000 đồng/kg, cao hơn 20% so với năm trước. Mỗi ngày ông chở 4 chuyến vải thiều đi bán, mỗi chuyến một giá khác nhau.

Việc thu mua vải khá nhộn nhịp những ngày này đã dẫn đến tình trạng ùn tắc vào dịp cao điểm, điều đó là nguyên nhân chính khiến vải thiều mỗi giờ một giá. Được biết, huyện Lục Ngạn đã thành lập Ban chỉ đạo hỗ trợ người dân tiêu thụ vải thiều và chỉ đạo các đơn vị liên quan như Công an, Đoàn thanh niên, lực lượng trật tự đô thị… thường xuyên có mặt tại các điểm hay ùn tắc cục bộ để phân luồng, hướng dẫn giao thông tránh ùn tắc, tạo điều kiện để cho các tiểu thương thu mua.

Sức mua tăng tại Hà Nội

Theo khảo sát của phóng viên, những ngày qua, khi vụ vải bắt đầu, khá nhiều người tiêu dùng Thủ đô lựa chọn sản phẩm này. Giá vải thiều tại các chợ đầu mối, chợ Thành Công (Ba Đình), Phùng Khoang (Thanh Xuân), Nghĩa Tân (Cầu Giấy), hay các cửa hàng kinh doanh hoa quả, trong trung tâm thương mại, siêu thị bình quân từ 20.000 – 35.000 đồng/kg, loại vải chất lượng còn có giá cao hơn.

Tại chợ Thành Công, nhiều năm kinh doanh vải thiều Bắc Giang, anh Nguyễn Mạnh Cường cho biết, năm nay vải thiều Lục Ngạn chất lượng tốt và được nhiều người tiêu dùng chọn mua nên mỗi ngày anh bán được khoảng 1 tạ. “Tuy nhiên, tôi cũng chỉ thu mua vải loại 2 và 3 tại chợ đầu mối về bán kiếm lời”. - anh Cường chia sẻ. Trong khi đó, chị Ngọc Thanh (Nhân Chính, Thanh Xuân) - chủ cửa hàng kinh doanh hoa quả tại ngã ba Hoàng Ngân – Quan Nhân cho biết, mỗi ngày chị bán được gần 1 tạ vải loại 2. “Sáng sớm ngày nào tôi cũng lên chợ Long Biên nhập hàng, nhưng không dám mua vải loại 1 vì giá cao (tới 35.000 – 40.000 đồng/kg), về bán ra chẳng có người mua vì đối tượng khách hàng của mình là phân khúc bình dân, khá. Loại 1 chắc chỉ siêu thị mới thu mua để phục vụ khách hàng cao cấp” – chị Thanh nói.

Việt Anh – Nguyên Dương

Giúp nhà nông ứng dụng khoa học, công nghệ mới

Nguồn tin: Báo Bà Rịa Vũng Tàu

Bưởi da xanh trồng theo tiêu chuẩn VietGAP tại xã Sông Xoài (huyện Tân Thành)

Theo thống kê của Sở KH-CN, trong 6 năm trở lại đây, mỗi năm tỉnh BR-VT có khoảng 10 đề tài, dự án nghiên cứu KH-CN được triển khai và ứng dụng. Trong đó, 3 dự án về sản xuất hồ tiêu, thanh long ruột đỏ và bưởi da xanh được triển khai thực hiện từ năm 2013 đến nay đạt hiệu quả kinh tế cao.

Dự án “Xây dựng mô hình sản xuất bưởi da xanh đạt tiêu chuẩn VietGAP (sản xuất nông nghiệp sạch) tại xã Sông Xoài” được Sở KH-CN triển khai thực hiện từ năm 2013. Ban đầu, có 5 hộ được hỗ trợ kinh phí để sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP. Sau đó, nhận thấy mô hình mang lại hiệu quả cao, 7 hộ khác tự đầu tư kinh phí để sản xuất, đến nay đã đạt 4 tiêu chuẩn về kỹ thuật sản xuất; an toàn thực phẩm; môi trường làm việc an toàn; truy tìm nguồn gốc sản phẩm. Theo các hộ trồng bưởi da xanh, trồng theo hướng VietGAP đã giảm được 50% lượng phân bón, thuốc trừ sâu; tiết kiệm nước nhờ phương pháp tưới nhỏ giọt công nghệ Israel; sản lượng tăng gấp đôi so với phương pháp trồng thông thường. Ông Hồ Hoàng Kha, Phó Giám đốc HTX Bưởi da xanh Sông Xoài cho biết, HTX hiện đang trồng 120ha bưởi da xanh, sản lượng bình quân từ 600 - 800 tấn/năm; trong đó bưởi sản xuất theo VietGAP đạt 290 tấn. Với giá bán từ 40.000 - 50.000 đồng/kg, sau khi trừ chi phí, các hộ trồng bưởi thu lãi từ 600 - 650 triệu đồng/ha. Dự kiến đến năm 2020, toàn huyện Tân Thành sẽ trồng mới và thâm canh 400ha bưởi theo quy trình VietGAP.

Dự án “Xây dựng mô hình trồng cây thanh long ruột đỏ theo hướng VietGAP trên địa bàn xã Bưng Riềng (huyện Xuyên Mộc)” do Hội Nông dân tỉnh và Sở KH-CN phối hợp thực hiện với quy mô 2ha. Bà Nguyễn Mai, 1 trong 5 hộ trồng thanh long ruột đỏ của dự án cho biết, sau gần 3 năm, đến nay tổng sản lượng thu hoạch khoảng 30 tấn/2ha, giá bán 20.000 - 25.000 đồng/kg, doanh thu đạt khoảng 700 triệu đồng, tăng 20 - 30% so với trồng theo phương pháp thông thường. “Các hộ tham gia dự án được theo dõi thường xuyên tình hình sâu bệnh hại thanh long ruột đỏ; định kỳ kiểm tra, theo dõi khả năng áp dụng kỹ thuật trồng thanh long ruột đỏ theo chuẩn VietGAP, qua đó kịp thời giải quyết những khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện dự án”, ông Phạm Tấn Phước (Hội Nông dân tỉnh), chủ nhiệm dự án cho biết.

Nhằm hướng tới sản xuất sạch, bền vững, Sở KH-CN phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu cây ăn quả miền Đông Nam bộ xây dựng mô hình sản xuất hồ tiêu theo tiêu chuẩn GlobalGAP tại huyện Châu Đức. Tiêu chuẩn GlobalGAP yêu cầu các nhà sản xuất phải thiết lập một hệ thống kiểm tra và giám sát an toàn thực phẩm xuyên suốt bắt đầu từ khâu sửa soạn nông trại canh tác đến khâu thu hoạch, chế biến và tồn trữ. Theo đó, từ tháng 1-2014, có 8 hộ dân tại ấp Tân Thành, xã Quảng Thành (huyện Châu Đức) với diện tích 8ha trồng tiêu từ 7-9 năm tuổi đã được chọn tham gia mô hình sản xuất hồ tiêu theo GlobalGAP. Nhờ áp dụng tiêu chuẩn này, tỷ lệ bệnh, sâu hại trên cây tiêu giảm hẳn, nên chi phí sản xuất giảm 20 - 30%, thuốc BVTV giảm 30-40%, năng suất tăng lên khoảng 20% so với phương pháp trồng thông thường (đạt 4,8-5 tấn/ha). Bà Lê Thị Chung, Trưởng bộ môn giống và công nghệ sinh vật (Trung tâm Nghiên cứu cây ăn quả miền Đông Nam Bộ), thư ký dự án cho biết, hiện toàn bộ sản phẩm của 8 hộ trong dự án được Công ty Olam (Ấn Độ), Công ty KSS (Nhật Bản), Công ty Foods (Đức), Công ty Ngô Gia (Việt Nam)… thu mua với giá cao hơn giá thị trường từ 6.000 - 15.000 đồng/kg (hiện nay là 196.000 - 200.000 đồng/kg). “Chúng tôi đang đề xuất với Sở KH-CN mở rộng thêm diện tích trồng tiêu theo tiêu chuẩn GlobalGAP lên 200 - 300ha tại huyện Xuyên Mộc và Châu Đức để đáp ứng nhu cầu của các công ty”, bà Chung nói.

3 sản phẩm nông sản gồm hồ tiêu, thanh long ruột đỏ, bưởi da xanh kể trên đã được tỉnh BR-VT ưu tiên xây dựng, phát triển và quảng bá thương hiệu giai đoạn 2014 - 2020 nhằm nâng cao nhận thức cho các cá nhân, tổ chức về sở hữu trí tuệ, tạo dựng quản lý và phát triển thương hiệu nông sản đặc sản của địa phương. Riêng hồ tiêu BR-VT đã được Cục Sở hữu trí tuệ (Bộ KH-CN) cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu “Hồ tiêu BR-VT”. Đây là cơ hội nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng sản phẩm, giá trị kinh tế của sản phẩm hồ tiêu BR-VT trên thị trường. Ông Mai Thanh Quang, Giám đốc Sở KH-CN tỉnh cho biết, việc đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu cho các sản phẩm đặc sản không chỉ đem lại nguồn lợi lớn về kinh tế cho người dân ở địa phương, mà còn bảo vệ danh tiếng của sản phẩm, tránh nguy cơ bị lạm dụng hoặc giả mạo tên tuổi sản phẩm, giúp người tiêu dùng nhận biết và lựa chọn đúng sản phẩm; từ đó khuyến khích sản xuất phát triển, doanh thu tăng lên, giải quyết việc làm, duy trì giá trị truyền thống của các làng nghề, đời sống người dân được ổn định, phát triển du lịch địa phương.

SONG THƯ

Bơ Booth ở Đăk Lăk không có đủ mà bán, người trồng lãi lớn

Nguồn tin: Nông Nghiệp VN

Những năm gần đây bơ Booth được thị trường các TP lớn như Hà Hội, TP.HCM, Đà Nẵng ưa chuộng. Mặc dù giá bán bơ Booth trên thị trường lên đến cả trăm ngàn đồng/kg, nhưng vẫn hút khách bởi chất lượng thơm, ngon và bổ dưỡng.

Chỉ có 32 cây bơ Booth nhưng ông Tám thu nhập gần nửa tỷ đồng/năm

Thu tiền tỷ

Ở Đăk Lăk hiện nay, bơ Booth được nông dân đánh giá là một trong những cây trồng số 1 Tây Nguyên, thu nhập “khủng”, nhiều hộ thu lãi tiền tỷ.

Nông dân đánh giá ưu điểm loại bơ này chín khác thời điểm so với giống bơ khác, thu hoạch từ tháng 10 đến tháng 12, muộn hơn khoảng 2 tháng so với giống bơ thường. Hơn nữa những năm gần đây bơ Booth rất hút hàng, giá bán lên đến trên dưới 80.000 đ/kg.

Ông Nguyễn Văn Tám, một trong những người trồng bơ Booth đầu tiên ở thôn Tân Lập, xã Ea Na, huyện Krông Ana, cho biết: “Gia đình tôi có 32 cây bơ Booth khoảng 15 năm tuổi. Nhờ giá thu mua ổn định nên mỗi năm sau khi thu hoạch, trừ chi phí tôi lãi mấy trăm triệu đồng. Như vụ năm ngoái, vườn nhà tôi thu hoạch hơn 10 tấn, bán với giá trung bình từ 60.000 - 70.000 đ/kg, lãi gần nửa tỷ đồng”.

Do hiệu quả của bơ Booth mang lại rất lớn nên những năm qua đi đến bất cứ nơi nào của tỉnh Đăk Lăk, chúng tôi đều nghe người dân bàn tán về việc trồng loại bơ này. Nhiều nông dân muốn chặt hạ diện tích cà phê già cỗi để trồng bơ Booth.

Gia đình anh Nguyễn Phát, xã Ea Kpam, huyện Cư M’gar, thấy bơ Booth phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng, giá bán ổn định, nên đã phá bỏ 2ha cà phê già cỗi đầu tư trồng gần 400 cây bơ Booth.

Sau hơn 3 năm chăm sóc, đến nay vườn bơ đã cho thu hoạch. Vụ bơ năm ngoái cho trung bình 150kg quả/cây, giá bán 70.000 đ/kg, trừ chi phí lãi hơn 1 tỷ đồng.

Theo Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên, bơ Booth là giống nhập nội từ Mỹ và đã được trồng khảo nghiệm tại Tây Nguyên từ năm 2002 đến nay. Dòng Booth 7 đã được Viện khảo nghiệm, đánh giá, được Bộ NN-PTNT công nhận giống quốc gia.

So với các loại bơ khác, bơ Booth có các đặc điểm vượt trội: Chín muộn (thời gian thu hoạch rơi vào tháng 10 - 11, so với chính vụ là tháng 7 - 8) nên có thể tạo sản phẩm rải vụ và bán được với giá cao gấp 5 - 6 lần so với chính vụ, năng suất khá (trung bình gần 100 kg/cây), chất lượng quả tốt và là giống quốc tế nên thuận lợi cho việc xuất khẩu sau này. Hiện nay diện tích bơ Booth trồng ở Tây Nguyên ước tính khoảng gần 1.000ha (quy đông đặc), chiếm khoảng hơn 1/3 tổng diện tích bơ toàn vùng.

Hút hàng

Khảo sát của PV tại một số vựa bơ Booth ở TP Buôn Mê Thuột cho thấy, những năm gần đây bơ Booth được thị trường các TP lớn như Hà Hội, TP.HCM, Đà Nẵng ưa chuộng. Mặc dù giá bán bơ Booth trên thị trường lên đến cả trăm ngàn đồng/kg, nhưng vẫn hút khách bởi chất lượng thơm, ngon và bổ dưỡng.

Cây bơ Booth đang được nông dân Đăk Lăk phát triển mạnh

Vì vậy khi giống bơ này bước vào mùa thu hoạch, mỗi vựa đều có nhân viên đi lùng sục các vườn thu mua “non” hoặc đặt hàng với giá cao. Chính vì sức hút của bơ Booth đã khiến nhiều nông dân đổ xô trồng.

Ông Cấn Ngọc Tiến, Chủ tịch Hội Nông dân xã Ea Na cho biết, nếu như năm 2008 toàn xã chỉ có vài hộ trồng bơ Booth với diện tích vài ha thì đến nay lên đến hơn 300ha bao gồm trồng xen và trồng thuần. Hiện diện tích bơ này không dừng lại con số trên bởi nông dân đang tiếp tục mở rộng.

TS Phan Việt Hà, Trưởng phòng Kế hoạch Khoa học và Hợp tác Quốc tế Cây bơ, Viện KHKT Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên, đánh giá cây bơ Booth vẫn còn rất nhiều tiềm năng để phát triển vì hiện nay sản phẩm chủ yếu tiêu thụ nội địa. Trong tương lai, khi cây bơ với diện tích đủ tạo thành quy mô hàng hóa, nếu phát triển thêm các công nghệ chế biến, bảo quản tốt (chiết xuất dầu bơ, bột bơ, xuất khẩu trái tươi...) thì vẫn là cây mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Tuy nhiên việc phá cà phê hay các loại cây trồng khác để thay thế bằng bơ cần cân nhắc kỹ. Bơ nên được trồng xen để tận dụng tốt diện tích và có thể đóng vai trò như cây che bóng chắn gió cho vườn cây. Ngoài ra, cần nghiên cứu trồng đa dạng các loại bơ khác như TA1, TA40, Reed...

Theo ông Phan Việt Hà, ở Tây Nguyên, bơ Booth có tính thích ứng khá rộng nên có thể trồng được ở nhiều nơi với khí hậu và đất đai đa dạng.

Bơ Booth nên được trồng dưới hình thức trồng xen vào các loại vườn cây khác như cà phê, ca cao, chè… với mật độ khoảng 100 cây/ha (khoảng cách 9x12m), đất trồng bơ phải thoát nước tốt, khi trồng thì không nên trồng âm và tạo bồn như cây cà phê.

Trong một vườn không nên trồng thuần 1 loại bơ Booth mà nên trồng thêm các giống bơ hoa nhóm A như TA1 để việc thụ phấn tốt và cho năng suất cao.

KIM SƠ

Hai tấn vải đầu tiên lên đường sang Australia

Nguồn tin: Báo Chính Phủ

Chiều ngày (23/6), hai tấn vải đầu tiên sẽ được chiếu xạ tại Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội trước khi lên đường xuất khẩu sang Australia.

Kiểm tra mẫu vải đã chiếu xạ trước khi đưa đi xuất khẩu. Ảnh: VGP/Đỗ Hương

Ông Nguyễn Quang Thiệu, Giám đốc Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội cho biết điều này. Ông nói thêm, cuối tuần này sẽ có thêm 10 tấn vải nữa của Công ty Rồng đỏ (TPHCM) được chiếu xạ để xuất khẩu đi Australia.

Ngoài ra, còn có 5-6 doanh nghiệp khác đăng ký chiếu xạ vải để xuất khẩu. Năm nay, số lượng vải thiều được chiếu xạ để xuất khẩu đi nước ngoài có thể tăng 3-4 lần năm ngoái, tương đương khoảng 100 tấn vải.

Được biết, vì là năm đầu tiên đi vào hoạt động nên Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội chỉ thu dịch vụ 6.000 đồng/kg, bằng một nửa so với giá dịch vụ chiếu xạ trong miền Nam, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp khoảng 6 triệu đồng/container. Bên cạnh đó, năm ngoái các doanh nghiệp phải vận chuyển vào miền Nam với chi phí khoảng 16 triệu đồng/công. Với việc chiếu xạ tại Hà Nội, các doanh nghiệp đã tiết kiệm được hơn 20 triệu đồng/container, giúp vải Việt Nam có giá cạnh tranh hơn.

Hiện, mẫu bao bì đóng gói vải sau chiếu xạ đã được Trung tâm Chiếu xạ Hà Nội gửi đến Cơ quan kiểm dịch Australia và đang chờ phản hồi. Bên cạnh đó, Bộ NN&PTNT còn có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu vải thiều như miễn phí kiểm dịch đối với xuất khẩu bằng đường hàng không. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể đăng ký kiểm dịch ở địa điểm phù hợp với đơn vị mình, cán bộ kiểm dịch sẽ đến phục vụ 24/24 giờ để giảm bớt phiền hà cho doanh nghiệp.

Ông Hoàng Trung, Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&PTNT) cho biết, ngoài xuất khẩu sang các thị trường mới, việc xuất khẩu ở các thị trường truyền thống vẫn được quan tâm. Cục Bảo vệ thực vật đã có văn bản yêu cầu các cơ quan kiểm dịch thực vật tại các tỉnh Lạng Sơn, Lào Cai phối hợp chặt chẽ với các đơn vị tại cửa khẩu và cơ quan kiểm dịch Trung Quốc để vừa kiểm dịch vừa giải phóng hàng nhanh nhất nhằm phục vụ xuất khẩu. “Trong điều kiện cần thiết, Cục sẽ cử các cán bộ từ các nơi khác đến bổ sung cho các cửa khẩu, bảo đảm không để lô vải nào bị ách tắc do kiểm dịch hay các khâu chuyên môn và kỹ thuật gây ra”, ông Trung khẳng định.

Trước đó, tại TPHCM, Công ty TNHH Ánh Dương Sao (TPHCM) đã xuất khẩu thành công một lô vải thiều đầu mùa với số lượng hơn 1 tấn sang thị trường Mỹ. Toàn bộ số vải thiều xuất khẩu được mua ở các vùng gắn mã số sản xuất theo tiêu chuẩn Thực hành nông nghiệp tốt toàn cầu (GlobalGAP) tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang.

Ông Phạm Ngọc Tú, Giám đốc Công ty Ánh Sao cho biết, trái vải của Lục Ngạn được người tiêu dùng Mỹ rất ưu chuộng vì có vị ngọt, hạt nhỏ và màu sắc đẹp. Đáng chú ý, nhu cầu vải thiều tươi ở Mỹ năm nay sẽ cao hơn nên sau lô vải đầu tiên, Công ty dự kiến sẽ xem xét thu mua thêm khoảng 20 tấn vải nữa để xuất khẩu với giá cao hơn giá thị trường từ khoảng 10% tại thời điểm mua.

Đỗ Hương

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop