Tin nông nghiệp ngày 27 tháng 7 năm 2019

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 27 tháng 7 năm 2019

Triển khai 3 dạng mô hình khuyến nông ứng dụng công nghệ cao, hữu cơ

Nguồn tin:  Hà Nội Mới

Từ đầu năm đến nay, Trung tâm Khuyến nông Hà Nội đã triển khai thực hiện 3 dạng mô hình trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản tại các điểm với hơn 60 hộ dân trên địa bàn thành phố tham gia. Đây là các mô hình ứng dụng công nghệ cao, sản xuất nông nghiệp hữu cơ, áp dụng quy trình, tiêu chuẩn VietGAP, VietGAHP. Trong đó, ở lĩnh vực trồng trọt, trung tâm triển khai thực hiện mô hình thâm canh bưởi theo tiêu chuẩn VietGAP với quy mô 6ha tại 2 điểm (xã Tân Lập, huyện Đan Phượng và xã Cát Quế, huyện Hoài Đức) với 39 hộ tham gia… Còn mô hình nuôi trồng thủy sản theo tiêu chuẩn VietGAHP quy mô 25ha thực hiện tại 6 điểm ở 5 huyện: Mỹ Đức, Chương Mỹ, Ba Vì, Phú Xuyên và Ứng Hòa với 24 hộ tham gia. Sau khi thực hiện thành công, các dạng mô hình trên sẽ được đánh giá và nhân rộng ra nhiều địa phương trên địa bàn thành phố...

SƠN TÙNG

Miệt vườn Nam bộ ở xứ Quảng

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Nghĩa Hành là huyện trung du của tỉnh Quảng Ngãi với những gò thấp, thoải cao, nhiều đồi núi, bao quanh là 2 con sông Vệ và sông Phước Giang. Trên mảnh đất cằn cỗi ấy, không biết từ lúc nào, sầu riêng, bưởi da xanh, chôm chôm, măng cụt… vốn là trái cây Nam bộ, lại bén duyên với vùng đất này, rồi trở thành sản phẩm đặc trưng.

Ông Trương Văn Một (82 tuổi, xã Hành Tín Đông, huyện Nghĩa Hành) trồng hơn 100 cây sầu riêng

Sầu riêng trên núi

Những ngày tháng 7 này, đến các xã Hành Nhân, Hành Minh, Hành Dũng, Hành Tín Đông, Hành Tín Tây (huyện Nghĩa Hành), đều bắt gặp hình ảnh các nhà vườn sum suê cây trái. Các nhà vườn đang thu hoạch sầu riêng, bưởi da xanh, chôm chôm…

Vườn nhà ông Trương Văn Một (82 tuổi, xã Hành Tín Đông) là địa điểm đầu tiên được các cán bộ phòng NN-PTNT huyện chọn làm mô hình phát triển cây ăn trái. Ông Một cũng là người tiên phong đưa cây sầu riêng lên núi. Con đường dẫn vào vườn ông Một là lối đi nhỏ chông chênh sỏi đá, đất cằn cỗi bao quanh. Vừa đến gần vườn, khách đã ngửi thấy mùi sầu riêng thơm nồng. Cả khu vườn 3ha với hơn 100 cây sầu riêng, trong đó có đến 20 cây có tuổi từ 20-40 năm, đặc biệt có 3 cây 44 năm tuổi. Năm 1975, ông Một vô tỉnh Bình Phước thăm người chị thì được chị dẫn ra giới thiệu vườn sầu riêng. Ông mang về vài cây để trồng nhưng do chưa biết cách chăm sóc nên chỉ có 3 cây sống sót, đứng vững, đó là 3 cây 44 tuổi. Ông Một chia sẻ: “Hồi xưa khi tôi trồng cây, người ta bảo tôi là không biết ông còn sống đến lúc cây lớn để ăn trái không. Không biết có phải vì khí hậu vườn xanh mát mà tôi lại sống thọ, chẳng ốm đau gì”.

Vui nhất là đến vụ thu hoạch, bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 9 hàng năm, cây sầu riêng “cổ thụ” đạt tới 300kg/cây, còn lại trung bình các cây đạt 100 - 150kg/cây. Ông Một cho biết: “Cứ trồng 5 năm thì có bán. Sầu riêng có giá bán cao so với nhiều loại cây khác, nên thu nhập khấm khá hơn”. Ông nhẩm tính, một cây lâu năm nhất có thể thu về 20 triệu đồng/vụ/cây, bằng làm 2 sào lúa, mà có khi còn cao hơn, rất có lãi mà lại nông nhàn hơn. Chỉ với cây sầu riêng, ông Một thu về mỗi năm khoảng 300 triệu đồng.

Ông bảo: “Già nhưng vẫn phải làm, làm cho con cháu khi về nhà nội, nhà ngoại có trái cây ăn. Bây giờ, mấy đứa cháu trong TPHCM cứ bảo nhớ sầu riêng của ông. Mỗi lần sầu riêng chín đều để dành gửi cho con cháu”.

Ông Một nghe huyện nói về du lịch cộng đồng, ông cũng ráng làm cho vườn đẹp hơn, thêm vài cái ghế, mắc vài chiếc võng để khách đến thăm vườn. Ông nói: “Tôi làm du lịch cộng đồng thì vui, hàng ngày có người ra vào vườn cho đỡ buồn tuổi già”.

Cây trái quanh năm

Mùa này, trái cây ở Nghĩa Hành đang rộ mùa, mỗi ngày có hàng trăm thương lái dạo quanh các vườn tìm mua. Ông Một cho biết: “Mỗi ngày thương lái đến thu mua ít nhất trên 5 tạ sầu riêng, họ khuân cả bao. Ngoài sầu riêng với giá 70.000 đồng/kg, thì giá măng cụt khoảng 40.000 đồng/kg, chôm chôm vào vụ giá 20.000 đồng/kg, bơ khoảng 20.000 đồng/kg. Năm nay dù thời tiết nắng hạn nhưng trái cây ở Nghĩa Hành nhờ 2 dòng sông chảy quanh nên đỡ khắc nghiệt”.

Nhà vườn của ông Một, cây ra trái quanh năm, từ tháng 2 đến tháng 4, những buồng chuối trĩu quả với hơn 100 cây; từ tháng 4 đến tháng 6, là mùa măng cụt; từ tháng 6 đến tháng 9, hương sầu riêng ngào ngạt; từ tháng 8 đến tháng 10 thì 17 cây chôm chôm chín đỏ cả vườn. Không chỉ có cây trái Nam bộ, ông Một còn trồng khoảng 10 cây bơ giống Tây Nguyên và ông tính trồng thêm vì thấy hợp đất núi Nghĩa Hành.

Hễ nhà nào ở Nghĩa Hành có vườn đều tận dụng để trồng cây ăn trái. Trung bình mỗi nhà có tối thiểu 0,5ha. Nhà ông Nguyễn Duy Khánh (thôn Tân Phú 2, xã Hành Tín Tây) trồng 400 cây sầu riêng, 20 cây bưởi da xanh, chôm chôm. Ông Khánh còn làm mô hình vườn - ao - chuồng. Nhà ông Phan Hai (thôn Long Bình, xã Hành Tín Tây) trồng 2ha bưởi da xanh, bình quân 400 - 500 cây/ha. Hiện giá bưởi da xanh khoảng 30.000 đồng/kg, mỗi cây có thể cho thu hoạch 300 - 400kg.

Ông Lê Quang Nhu, Phó phòng NN-PTNT huyện Nghĩa Hành, cho biết: “Toàn huyện có hơn 300ha diện tích cây ăn trái với đa dạng chủng loại. Hiện nay, huyện đang chuẩn bị xuống giống thêm 80ha, phấn đấu đến năm 2020 đạt 500ha diện tích cây ăn trái. Trong đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, huyện Nghĩa Hành chọn quy hoạch cây ăn trái là kinh tế mũi nhọn, dự kiến sẽ mở rộng quy hoạch 1.000ha, lập phân vùng thích nghi, xác định chất đất để trồng cây mang tính hàng hóa. Quy hoạch vùng sẽ gia tăng giá trị cây đặc trưng từng loại đất, nâng cao mức thu nhập cho người dân. Đặc biệt, Nghĩa Hành có trái cây quanh năm, đến khi Nam bộ hết mùa thì cây trái Nghĩa Hành được thương lái vận chuyển vào miền Nam để bán”.

NGUYỄN TRANG

Thu nhập cao nhờ mô hình trồng xen cây ăn quả

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Trồng xen các loại cây ăn quả trên một đơn vị diện tích đang được nhiều nông dân ở xã Quảng Tiến (huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk) thực hiện để tăng thu nhập. Với mô hình phát triển kinh tế này, ông Nguyễn Đức Cang (SN 1973, thôn Tiến Đạt) đã trở thành triệu phú trên đồng đất của mình.

Từ 8 sào cà phê, tiêu do bố mẹ để lại, nhờ chăm chỉ làm lụng, ông Cang đã tích cóp mua thêm được 6 ha đất rẫy cà phê. Trên diện tích này, ban đầu ông Cang trồng tái canh 1 ha cà phê, chuyển đổi 1 ha cà phê già cỗi sang trồng mít và mãng cầu. Thấy giá cả hồ tiêu, cà phê khá bấp bênh trong khi cây ăn quả phát triển xanh tốt, ông Cang quyết định chặt bỏ 4 ha cà phê, hồ tiêu già cỗi còn lại để phát triển mô hình trồng xen cây ăn quả.

Ông Nguyễn Đức Cang (bên phải) giới thiệu mô hình trồng xen cây ăn quả của gia đình cho khách tham quan.

Để phát triển mô hình trồng xen các loại cây ăn quả, ngoài tìm hiểu kỹ thuật trên tivi, sách báo, ông Cang đi đến các nhà vườn uy tín ở TP. Buôn Ma Thuột để chọn mua những giống cây bảo đảm chất lượng. Ông Cang cho hay: “Mỗi loại cây ăn quả có cách chăm sóc riêng, hơn nữa vốn đầu tư ban đầu lớn để mua giống, phân bón và cần nhiều công sức chăm sóc, mất ít nhất từ 2 - 3 năm mới bắt đầu cho thu hoạch, sau đó vốn đầu tư cho vườn cây sẽ thấp dần, lợi nhuận mới tăng lên. Tôi quyết định chọn trồng xen một số loại cây ăn quả ngắn ngày như: ổi, chanh dây, dứa, mít… để có vốn đầu tư chăm sóc các loại cây ăn quả dài ngày như bơ, sầu riêng...”.

Diện tích ổi trồng xen của gia đình ông Nguyễn Đức Cang (thôn Tiến Đạt, xã Quảng Tiến) đang cho thu hoạch.

Năm 2016, ông Cang đầu tư 120 triệu đồng phát triển mô hình chanh dây trên 1 ha, và thu được 400 triệu đồng ngay năm đầu tiên. Ông Cang dùng toàn bộ số tiền trên đầu tư trồng xen 500 cây mít Thái, hơn 500 cây sầu riêng dona da xanh, bơ, ổi, xoài, bưởi, dừa, quýt đường, dứa…trên 3 ha còn lạu. Hiện nay, một số loại cây ăn quả ngắn ngày trong vườn của gia đình ông Cang đã cho thu hoạch. Trung bình mỗi tuần ông Cang bán 4 tạ mít Thái, thu được hơn 10 triệu đồng; 4 tạ chanh dây thu về gần 2 triệu đồng và hàng chục kg ổi, dứa, quýt đường, xoài… Các loại trái cây này đều được thương lái đến tận vườn thu mua, không cần tìm đầu ra. Với mô hình trồng xen cây ăn quả, gia đình ông Cang đã tạo việc làm ổn định cho 4 lao động địa phương với thu nhập hơn 5 triệu đồng/tháng.

Hiện nay, mô hình trồng xen cây ăn quả của gia đình ông Cang đang phát triển ổn định. Thu nhập của gia đình ông cao hơn nhiều so với trồng thuần cà phê, hồ tiêu. Liên tục nhiều năm gần đây, ông Cang được tuyên dương là hội viên hội nông dân sản xuất kinh doanh giỏi của xã Quảng Tiến.

Thùy Dung

Bất an vì nhà vườn đua nhau sản xuất cây giống

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Thống kê cho thấy, toàn TP Bảo Lộc (tỉnh Lâm Đồng) hiện đang có khoảng 80 cơ sở sản xuất các loại cây giống công nghiệp và cây ăn quả như cà phê, chè, bơ, sầu riêng… Tuy nhiên, mới chỉ có hơn 20 cơ sở được cấp Thông báo tiêu chuẩn cây giống xuất vườn đủ điều kiện sản xuất giống. Số cơ sở, nhà vườn còn lại chủ yếu sản xuất giống theo “hiệu ứng” ăn theo, cho thấy công tác quản lý của cơ quan chức năng còn nhiều bất cập.

Việc đổ xô sản xuất, đang khiến chất lượng cây giống trên địa bàn TP Bảo Lộc ngày càng bị giảm sút

Ðua nhau sản xuất cây giống

Những năm gần đây, tỉnh Lâm Đồng đã có nhiều chính sách hỗ trợ để người dân cải tạo, chuyển đổi giống nhằm tăng năng suất, chất lượng các loại cây trồng. Đó cũng chính là lý do khiến nhu cầu tiêu thụ các loại cây giống công nghiệp và cây ăn quả tăng cao. Kéo theo đó, thì giá cả các loại cây giống cũng được tăng lên và duy trì ở mức ổn định. Hiện, cây giống các loại bơ ghép, sầu riêng ghéo dao động từ 35 - 40 ngàn đồng/cây và có thời điểm được đẩy lên trên 50 ngàn đồng/cây. Trong khi đó, giống cây chè và cà phê cao sản luôn ổn định ở mức từ 1,2 - 1,5 ngàn đồng/cây (giống thực sinh) và từ 5 - 7 ngàn đồng/cây (giống ghép). Có thể nói, sản xuất các loại cây giống đang giúp nhiều hộ dân trên địa bàn TP Bảo Lộc “ăn nên làm ra” và chính điều này khiến nhiều người đua nhau lập cơ sở sản xuất các loại cây giống.

Để nắm rõ những thông tin liên quan, chúng tôi đã có cuộc khảo sát tại nhiều vườn ươm cây giống trên địa bàn TP Bảo Lộc. Theo ghi nhận, ít hay nhiều thì ở tất cả các xã, phường trên địa bàn TP Bảo Lộc đều có vườn ươm, cơ sở sản xuất cây giống. Trong đó, tập trung phần lớn tại các địa phương như phường 1, phường Lộc Phát, phường Lộc Sơn, xã Lộc Nga và xã Đam B’ri. Hầu hết, các cơ sở đều sản xuất và xuất bán ra thị trường từ 150 ngàn - 400 ngàn cây giống cà phê, bơ, chè và sầu riêng mỗi năm. Đặc biệt, có những cơ sở sản xuất, tiêu thụ đến hơn 1 triệu cây giống/năm, nhưng vẫn chưa có giấy phép chứng minh nguồn gốc cây giống. Bà Liên, có vườn sản xuất cây giống tại Phường 1 (TP Bảo Lộc) cho biết: “Người ta làm nhiều thì phải đăng ký giấy phép kinh doanh và giấy chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng cây giống. Còn gia đình tôi, mỗi năm làm hơn 100 ngàn cây giống cà phê, bơ, vì số lượng ít nên gia đình tôi không đăng ký. Xung quanh khu vực này, có hơn 10 vườn ươm cây giống mới mở, nên bà con mạnh ai nấy làm chẳng quan tâm gì đến giấy phép cả”.

Trong khi đó, theo bà Hà thì gia đình có gần 2 ha đất chuyên sản xuất giống chè Olong và xuất bán cho các công ty Đài Loan. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, gia đình bà Hà vẫn không đăng ký giấy phép kinh doanh và chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng cây giống. “Mỗi năm, gia đình tôi sản xuất từ 1,2 - 1,5 triệu cây chè cung cấp cho các công ty sản xuất chè Đài Loan. Cây giống đều được gia đình tôi sản xuất đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn mà đối tác đề ra, nên không cần đến chứng nhận tiêu chuẩn” - bà Hà cho hay.

Nỗi lo chất lượng

Với số lượng cung ứng cho thị trường hàng năm, TP Bảo Lộc được xem là “thủ phủ” cây giống công nghiệp và cây ăn quả của tỉnh Lâm Đồng. Ngoài cung ứng cho hầu hết các địa phương trong tỉnh, thì cây giống Bảo Lộc còn xuất bán đi nhiều tỉnh khác như Đắk Nông, Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Bình Phước và thậm chí xuất khẩu qua cả Lào, Campuchia.

Đại diện Phòng Kinh tế TP Bảo Lộc, cho biết: Hiện, toàn địa phương đang có khoảng 80 cơ sở sản xuất các loại cây giống công nghiệp và cây ăn quả. Theo đó, sản lượng cây giống được xuất bán cung ứng cho thị trường khoảng 7 - 7,5 triệu cây/năm. Trong đó, riêng cà phê và chè chiếm khoảng 5 triệu cây.

Tuy nhiên, đến hiện tại mới chỉ có hơn 20 cơ sở được cấp phép các giấy tờ, thủ tục đủ điều kiện sản xuất cây giống và Thông báo tiêu chuẩn cây giống xuất vườn do Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cấp; số còn lại đều do bà con sản xuất tự phát.

Ông Nguyễn Xuân Bách - Chủ cơ sở sản xuất cây giống Xuân Bách (phường Lộc Sơn), chia sẻ: “Gia đình tôi xây dựng cơ sở và được cấp phép sản xuất cây giống hơn 20 năm nay. Trước đây, tôi sản xuất đủ các loại cây, nhưng khoảng 3 năm nay chủ yếu sản xuất bơ và sầu riêng. Mỗi năm tôi xuất bán từ 400 - 500 ngàn cây giống bơ và sầu riêng. Tất cả cây giống xuất bán đều đảm bảo các điều kiện như nhãn mác, nguồn gốc (vườn đầu dòng) và tiêu chuẩn chất lượng (ngày tuổi, chiều cao, đường kính gốc, số cặp lá thật và kích thước bầu…). Nhờ vậy, cây giống của tôi luôn ổn định mức giá và được bà con tin tưởng lựa chọn”.

Theo tìm hiểu của chúng tôi, bên cạnh những cơ sở làm ăn chân chính, thì vẫn còn đó nhiều cơ sở đủ điều kiện sản xuất cây giống đã lấy cây giống từ các cơ sở khác về gắn nhãn mác bán lại cho người dân. Thậm chí, nhiều cơ sở còn nhập các cây giống không đảm bảo từ các địa phương khác về bán kiếm lời. Trong khi đó, công tác quản lý cây giống còn gặp rất nhiều khó khăn như hệ thống quản lý, kiểm tra cây giống còn sự chồng chéo, chưa thống nhất; chế tài xử phạt vi phạm còn quá nhẹ so với lợi nhuận thu được từ sản xuất cây giống nên chưa đủ sức răn đe…

Ông Lê Văn Bổng - một người dân ngụ xã Lộc Ngãi (huyện Bảo Lâm), lo ngại: “Cách đây khoảng nửa tháng, tôi tìm đến một vườn ươm ở Phường 1 (TP Bảo Lộc) mua gần 1.000 cây bơ giống về trồng. Thấy cây giống tôi mua đẹp, nên nhiều người đã nhờ tôi dẫn đến cơ sở này hỏi mua. Tuy nhiên, lần này, cây giống mà cơ sở bán lại khác hoàn toàn (chiều cao không đạt, bầu nhỏ, gốc bé…). Tôi nghĩ, chắc chắn số cây giống này là do cơ sở mua lại và gắn nhãn mác vào bán lại cho bà con. Sợ cây giống không đảm bảo chất lượng, nên bà con không dám mua”.

Theo Phòng Kinh tế Bảo Lộc, để đảm bảo đủ điều kiện sản xuất cây giống, các cơ sở phải hoàn thiện đầy đủ các thủ tục theo quy định như Giấy phép kinh doanh và Thông báo tiêu chuẩn chất lượng cây giống xuất vườn. Tất cả đều được căn cứ theo các quy định tại Thông tư 18/2017 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Quyết định 02/2011 của UBND tỉnh Lâm Đồng. Trường hợp, nếu người dân không may mua cây giống không đảm bảo chất lượng về thì phải mất 3 năm sau mới xác định được, nên hệ quả xảy ra là rất nặng nề. Vì vậy, cơ quan chức năng cần có những chế tài phù hợp, xử lý nghiêm các trường hợp sản xuất cây giống chui; đồng thời, tăng cường các giải pháp thanh tra, kiểm tra cụ thể từng giai đoạn tại các cơ sở, nhằm đảm bảo tốt nguồn cây giống và đáp ứng nhu cầu cho người dân.

HẢI ÐƯỜNG

Thu lãi tiền tỷ từ bưởi da xanh

Nguồn tin: Báo Bình Dương

Ông Lê Quang Chiến, ngụ ấp 3, xã Tân Hưng là một trong những gương nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi huyện Bàu Bàng (tỉnh Bình Dương) giai đoạn 2017-2019. Mỗi năm, vườn bưởi của ông mang về lợi nhuận gần 2 tỷ đồng. Những năm đầu trồng bưởi ông gặp rất nhiều khó khăn nhưng với sự nỗ lực của bản thân, gia đình cùng sự hỗ trợ của địa phương, những người đi trước đã giúp ông vươn lên, xây dựng thương hiệu bưởi da xanh Phượng Hằng.

Ông Chiến bên vườn bưởi của gia đình. Ảnh: HOÀNG PHẠM

Cần sự công phu

Theo chân ông Chiến, chúng tôi được “mục sở thị” vườn bưởi của gia đình. Trước mắt chúng tôi là những cây bưởi lá xanh tốt, trái bưởi căng tròn đang chờ thu hoạch. Ông Chiến chia sẻ, ông chọn vùng đất Tân Hưng (trước đây ông ở huyện Đông Sơn, Thanh Hóa) để trồng bưởi vì thấy thổ nhưỡng ở đây rất thuận lợi cho việc trồng cây bưởi. Ngoài ra, ông nhận thấy nhu cầu thị trường bưởi đang có xu hướng tăng cao, nhất là ở khu vực miền Bắc nên quyết định gắn bó với loại cây này.

Năm 2007, ông đầu tư gần 500 triệu đồng trồng 3 ha cây bưởi da xanh. Ông Chiến cho hay, cái khó khi trồng bưởi là làm sao chọn được giống tốt, người trồng phải chăm sóc đúng kỹ thuật và chịu tổn thất trong thời gian đầu. Sau 4 năm trồng và chăm sóc, vườn bưởi của ông cho thu hoạch; thu nhập vụ đầu chưa bù được chi phí bỏ ra nhưng điều đáng mừng là thu nhập năm sau cao hơn năm trước. Trong giai đoạn 2011-2013, sau khi trừ chi phí, vườn bưởi mang lại cho ông thu nhập khoảng 1 tỷ đồng. Từ nguồn thu nhập này, ông đã trả được chi phí đầu tư ban đầu và có điều kiện để chăm sóc vườn cây tốt hơn.

Ngoài việc áp dụng các phương pháp canh tác truyền thống, ông Chiến còn tìm hiểu những phương pháp canh tác mới, như sử dụng phân hữu cơ, chế phẩm sinh học vừa bảo đảm các yếu tố về sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, giúp cây sinh trưởng phát triển tốt vừa tăng sức đề kháng cho cây, giảm được một số loại sâu, bệnh, nâng cao năng suất từ 20% trở lên.

Thu lãi 2 tỷ đồng mỗi năm

Từ những kiến thức có được sau khi tham quan các mô hình sản xuất bưởi hiệu quả trong và ngoài tỉnh, đồng thời có sự góp ý, tư vấn của bà Nguyễn Thanh Thủy (chủ trang trại bưởi da xanh Thanh Thủy, huyện Bàu Bàng), ông Chiến đã mạnh dạn cắt bỏ những cây bưởi không thuần chủng để thay vào những cây bưởi thuần chủng, cho năng suất cao hơn.

“Ngoài việc trồng lại giống bưởi thuần chủng từ trang trại bưởi da xanh Thanh Thủy, tôi còn tham khảo tài liệu, sách báo để áp dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong chăm sóc vườn cây. Nhờ đó, từ năm 2014-2018 sản lượng bưởi của gia đình tăng lên, đạt năng suất cao, chất lượng tốt và được chứng nhận vườn cây đạt chuẩn VietGAP”, ông Chiến nói.

Với việc mạnh dạn áp dụng giống bưởi mới, cùng khoa học - kỹ thuật, vườn bưởi 3 ha của ông đã cho kết quả khả quan; sau khi trừ chi phí ông có lãi gần 2 tỷ đồng/năm. Bưởi da xanh của ông chủ yếu cung cấp cho thị trường miền Bắc và cung ứng ở địa phương vào những dịp lễ, tết. Điều quan trọng nữa, với việc được cấp chứng nhận nhãn hiệu bưởi Phượng Hằng đã giúp vườn bưởi của ông ngày càng được nhiều người biết đến.

Bà Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Chủ tịch Hội Nông dân huyện Bàu Bàng, cho biết mô hình trồng bưởi của ông Lê Quang Chiến là một trong những mô hình sản xuất hiệu quả trên địa bàn huyện. Ngoài việc nâng cao thu nhập cho gia đình, mô hình này cũng góp phần nâng cao thương hiệu nông sản tỉnh Bình Dương trên thị trường và từng bước xây dựng nhãn hiệu nông sản của huyện Bàu Bàng.

HOÀNG PHẠM

Thu nhập cao nhờ mô hình trồng xen cây ăn quả

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Trồng xen các loại cây ăn quả trên một đơn vị diện tích đang được nhiều nông dân ở xã Quảng Tiến (huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk) thực hiện để tăng thu nhập. Với mô hình phát triển kinh tế này, ông Nguyễn Đức Cang (SN 1973, thôn Tiến Đạt) đã trở thành triệu phú trên đồng đất của mình.

Từ 8 sào cà phê, tiêu do bố mẹ để lại, nhờ chăm chỉ làm lụng, ông Cang đã tích cóp mua thêm được 6 ha đất rẫy cà phê. Trên diện tích này, ban đầu ông Cang trồng tái canh 1 ha cà phê, chuyển đổi 1 ha cà phê già cỗi sang trồng mít và mãng cầu. Thấy giá cả hồ tiêu, cà phê khá bấp bênh trong khi cây ăn quả phát triển xanh tốt, ông Cang quyết định chặt bỏ 4 ha cà phê, hồ tiêu già cỗi còn lại để phát triển mô hình trồng xen cây ăn quả.

Ông Nguyễn Đức Cang (bên phải) giới thiệu mô hình trồng xen cây ăn quả của gia đình cho khách tham quan.

Để phát triển mô hình trồng xen các loại cây ăn quả, ngoài tìm hiểu kỹ thuật trên tivi, sách báo, ông Cang đi đến các nhà vườn uy tín ở TP. Buôn Ma Thuột để chọn mua những giống cây bảo đảm chất lượng. Ông Cang cho hay: “Mỗi loại cây ăn quả có cách chăm sóc riêng, hơn nữa vốn đầu tư ban đầu lớn để mua giống, phân bón và cần nhiều công sức chăm sóc, mất ít nhất từ 2 - 3 năm mới bắt đầu cho thu hoạch, sau đó vốn đầu tư cho vườn cây sẽ thấp dần, lợi nhuận mới tăng lên. Tôi quyết định chọn trồng xen một số loại cây ăn quả ngắn ngày như: ổi, chanh dây, dứa, mít… để có vốn đầu tư chăm sóc các loại cây ăn quả dài ngày như bơ, sầu riêng...”.

Diện tích ổi trồng xen của gia đình ông Nguyễn Đức Cang (thôn Tiến Đạt, xã Quảng Tiến) đang cho thu hoạch.

Năm 2016, ông Cang đầu tư 120 triệu đồng phát triển mô hình chanh dây trên 1 ha, và thu được 400 triệu đồng ngay năm đầu tiên. Ông Cang dùng toàn bộ số tiền trên đầu tư trồng xen 500 cây mít Thái, hơn 500 cây sầu riêng dona da xanh, bơ, ổi, xoài, bưởi, dừa, quýt đường, dứa…trên 3 ha còn lạu. Hiện nay, một số loại cây ăn quả ngắn ngày trong vườn của gia đình ông Cang đã cho thu hoạch. Trung bình mỗi tuần ông Cang bán 4 tạ mít Thái, thu được hơn 10 triệu đồng; 4 tạ chanh dây thu về gần 2 triệu đồng và hàng chục kg ổi, dứa, quýt đường, xoài… Các loại trái cây này đều được thương lái đến tận vườn thu mua, không cần tìm đầu ra. Với mô hình trồng xen cây ăn quả, gia đình ông Cang đã tạo việc làm ổn định cho 4 lao động địa phương với thu nhập hơn 5 triệu đồng/tháng.

Hiện nay, mô hình trồng xen cây ăn quả của gia đình ông Cang đang phát triển ổn định. Thu nhập của gia đình ông cao hơn nhiều so với trồng thuần cà phê, hồ tiêu. Liên tục nhiều năm gần đây, ông Cang được tuyên dương là hội viên hội nông dân sản xuất kinh doanh giỏi của xã Quảng Tiến.

Thùy Dung

Nông dân Ia Pa trúng mùa mè

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Vụ mùa 2019, nông dân huyện Ia Pa, Gia Lai trồng được hơn 300 ha mè, tập trung ở các xã: Chư Răng, Kim Tân, Pờ Tó. Năng suất trung bình đạt 4,5 tạ/ha. Hiện nay, thương lái thu mua với giá 5.000-5.200 đồng/kg. Nông dân thu về trên 20 triệu đồng/ha.

Ông Đoàn Ngọc Doanh (60 tuổi ở thôn 2, xã Kim Tân, huyện Ia Pa) mới thu hoạch 2 sào mè. Ảnh: Đức Phương

Ông Trần Văn Hùng-Trưởng phòng Nông nghiệp và PTNT huyện Ia Pa-cho hay: Hầu hết diện tích mè do người dân chuyển đổi từ đất trồng mía kém hiệu quả. Sau khi thu hoạch mè, người dân sẽ chuyển sang trồng đậu, bắp, rau màu… Đây là một hướng đi mới giúp nông dân chuyển đổi cây trồng trong bối cảnh giá mía nguyên liệu giảm sâu.

ĐỨC PHƯƠNG

Để trồng cây mắc-ca cho năng suất, hiệu quả cao

Nguồn tin: Nhân Dân

Mắc-ca là cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao, vì vậy những năm gần đây, cây mắc-ca được trồng tại nhiều địa phương, nhất là những vùng nguồn nước tưới còn hạn chế như khu vực Tây Nguyên, tây bắc... Các dòng mắc-ca được trồng chủ yếu như: OC, H2, 246, 344, 508, 695, QN1 849, 741, A38, NH, 800 và 900… Cây mắc-ca là một trong những loại cây dễ trồng, phù hợp nhiều đối tượng nông dân; tỷ lệ sống cao hơn 90% sau năm đầu tiên. Đặc biệt là tốc độ sinh trưởng mạnh, mức độ phân cành nhánh nhiều và có sức chịu hạn cao, thích nghi với nhiều loại đất khác nhau, nhưng mức đầu tư về công chăm sóc, bón phân, nước tưới cho cây lại thấp hơn so với trồng cà-phê, hồ tiêu.

Đến nay, nhiều vườn mắc-ca trồng trong các năm 2012, 2013 đã bước vào thời kỳ cho quả, góp phần đem lại nguồn thu nhập đáng kể đối với nhiều hộ dân. Tuy nhiên, qua thời gian gây trồng, chăm sóc và thu hoạch tại nhiều địa phương cho thấy, cây mắc-ca trồng ở các vùng ra hoa hai vụ, trong đó vụ chính từ tháng 2 đến tháng 3, vụ còn lại từ tháng 9 đến tháng 10. Tỷ lệ ra hoa ở các dòng rất cao, nhưng mức độ đậu quả trên các vùng sinh thái không đồng đều ở các dòng.

Nguyên nhân là do hầu hết các vườn mắc-ca trồng xen cà-phê, do đó giai đoạn ra hoa tập trung vào tháng 2, 3, đúng thời điểm cần tưới nước cho cà-phê, và cũng là lúc gió mùa đông bắc thổi mạnh, kết hợp sương mù, sương muối làm hoa rụng, giảm tỷ lệ đậu quả. Trong khi đó, kỹ thuật chăm sóc như cắt cành, tạo hình, bón phân chưa đúng kỹ thuật cũng ảnh hưởng đến quá trình ra hoa, đậu quả. Tại nhiều địa phương, do tìm hiểu về nguồn giống cây mắc-ca chưa kỹ, không được bảo đảm, dẫn đến vườn trồng mắc-ca cho chất lượng không đồng đều, mức độ ra hoa, đậu quả kém…

Vì vậy, để trồng mắc-ca cho hiệu quả cao, các địa phương cần nghiên cứu, đánh giá để lựa chọn các dòng mắc-ca phù hợp điều kiện từng vùng sinh thái, cũng như hướng dẫn người dân cách cắt cành, tạo hình, bón phân, tưới nước đúng kỹ thuật. Đồng thời đánh giá lại hiệu quả sử dụng đất trồng xen theo xu hướng tăng diện tích trồng thuần, giảm mắc-ca trồng xen để tiện chăm sóc, cũng như dễ phát hiện sâu bệnh.

THÙY AN

Giải pháp lâu dài cho lúa, gạo

Nguồn tin: Báo An Giang

Nguyên nhân giá lúa hè thu 2019 xuống thấp là do sản lượng lúa hàng hóa nhiều, chất lượng lúa chưa thực sự tốt, một số thị trường lớn hạn chế nhập khẩu, đòi hỏi về chất lượng ngày càng khắc khe hơn. Để phát triển bền vững thị trường lúa, gạo, không nên chạy theo sản lượng, cần tăng cường liên kết nhằm xây dựng thương hiệu, uy tín, chất lượng cho hạt gạo An Giang.

Giá lúa giảm mạnh

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), vụ hè thu 2019, toàn tỉnh xuống giống 230.190ha. Lúa hiện đang bước vào thời kỳ thu hoạch rộ với hơn 50% diện tích. Dù diện tích giảm 530ha so vụ hè thu 2018 nhưng nhờ năng suất tăng, sản lượng lúa vụ hè thu 2019 dự kiến đạt cao hơn cùng kỳ.

Ngoại trừ nếp (giá cao hơn cùng kỳ từ 1.150-1.300 đồng/kg) thì nhiều giống lúa giảm đến cả ngàn đồng/kg so vụ hè thu trước. Đáng lưu ý là những giống lúa chiếm diện tích lớn lại có giá giảm mạnh. Điển hình như lúa OM5451 (chiếm 31,4% diện tích) hiện có giá từ 4.750-4.900 đồng/kg, dù tăng 250 đồng/kg so ngày 10-7 nhưng thấp hơn cùng kỳ 650 đồng/kg; lúa IR50404 (chiếm 27,9% diện tích) hiện có giá từ 4.200-4.400 đồng/kg (giảm 900 đồng/kg). Đối với các giống lúa hạt dài, giá cũng chỉ ở quanh mức 4.600-5.000 đồng/kg (cùng kỳ 5.100-5.400 đồng/kg). Riêng các giống lúa thơm như: Đài Thơm 8 có giá 5.500-5.600 đồng/kg, Jasmine giá 5.100-5.200 đồng/kg (cùng kỳ 5.800-6.000 đồng/kg).

Giám đốc Sở NN&PTNT Nguyễn Sĩ Lâm cho biết, những chuyển biến tích cực trong canh tác lúa ở An Giang là lúa chất lượng cao chiếm gần 70% diện tích xuống giống, tỷ lệ sử dụng giống xác nhận đạt 80%. Hiện nay, 100% diện tích đã được cày xới bằng máy, 70% diện tích ứng dụng máy móc vào gieo sạ. Tuy nhiên, giá lúa giảm trong khi giá thành sản xuất tăng khiến giá lúa hiện chỉ còn cao hơn giá thành khoảng 500 đồng/kg, tương đương 2,9 triệu đồng/ha. Với giá này, nếu nông dân thuê đất sẽ lỗ vốn đầu tư.

Hướng vào chuỗi giá trị

Hiện nay, vốn cho doanh nghiệp (DN) thu mua lúa hè thu không phải là vấn đề quan trọng. Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh An Giang Nguyễn Tuấn Dũng cho biết, dư nợ cho vay, tăng trưởng tín dụng trên địa bàn tỉnh đều tăng so cùng kỳ. Riêng ưu đãi cho DN vay sản xuất - kinh doanh và thu mua lúa, gạo mới giải ngân 3.503 tỷ đồng, hiện còn 2.880 tỷ đồng trong hạn mức tín dụng chưa cho vay. “Vấn đề vốn cho DN thu mua lúa, gạo là không khó. Nếu nhu cầu DN cao hơn, có thể đề nghị tăng hạn mức. Các ngân hàng đảm bảo đủ nguồn vốn cho DN với lãi suất linh hoạt” - ông Dũng nhấn mạnh.

Các chi nhánh ngân hàng thương mại trên địa bàn An Giang cũng khẳng định, nguồn vốn cho DN vay thu mua lúa, gạo vẫn dồi dào. Nếu DN muốn kéo dài thời hạn vay, có thể trình bày phương án xây dựng chuỗi liên kết, thu mua tạm trữ… Chính các DN lương thực cũng không than khó về vốn nhưng vấn đề là thị trường tiêu thụ. “Bây giờ thu mua nhiều thì bán đi đâu, lãi suất trong thời gian hàng tồn kho phải tính sao? Tôi đề nghị đối với DN làm thật, có bao tiêu với nông dân thì được nâng thời gian vay lên 6 tháng với lãi suất ưu đãi. Cần hỗ trợ thu mua tạm trữ thường xuyên để bình ổn thị trường” - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Nông sản Vinacam (quận Thốt Nốt, TP. Cần Thơ) Lâm Thành Kiệt đề xuất.

Chủ trì cuộc họp bàn giải pháp tiêu thụ lúa hè thu 2019, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Anh Thư cho rằng, nhu cầu tiêu thụ gạo trên thế giới vẫn lớn nhưng nhiều DN nhập khẩu đang “ngóng” tình hình để có thể “ép” giá thấp hơn. “Chỉ cần Chính phủ có động thái chỉ đạo thu mua gạo tạm trữ quốc gia, các đối tác nước ngoài sẽ đẩy mạnh thu mua gạo của Việt Nam ngay. Sở Công thương cần tham mưu UBND tỉnh văn bản kiến nghị Thủ tướng Chính phủ sớm chỉ đạo vấn đề này. Đồng thời, phối hợp Ngân hàng Nhà nước chi nhánh An Giang hướng dẫn DN xây dựng hợp đồng liên kết sản xuất với nông dân, hợp tác xã để được tăng thời gian vay vốn, hạn mức tín dụng; kết nối với tham tán thương mại các nước để xúc tiến, tìm kiếm thêm thị trường cho mặt hàng gạo” - ông Thư yêu cầu.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Trần Anh Thư giao Sở NN&PTNT tính toán kế hoạch sản xuất vụ thu đông 2019. “Trước mắt là giảm diện tích lúa, nếp để xả lũ ít nhất 20.000ha. Đối với các tiểu vùng dự kiến xả lũ năm 2020, có thể ưu tiên xả lũ ngay trong năm nay để hạn chế gây thêm áp lực về sản lượng lúa. Đồng thời, tìm kiếm những vùng lúa 2 vụ để hỗ trợ DN xây dựng vùng nguyên liệu lúa sạch, an toàn, giá trị cao. Bản thân các DN cần tích cực tham gia xây dựng hợp tác xã kiểu mới để liên kết bền vững hơn. Đối với những DN có thị trường, còn kho chứa thì nên tăng cường thu mua để góp phần bình ổn giá lúa hiện nay” - ông Thư đề nghị.

Trong 230.190ha lúa hè thu 2019, diện tích có hợp đồng liên kết tiêu thụ với 19 DN mới chỉ đạt 14.600ha (chiếm 6,34% diện tích), một con số còn quá khiêm tốn.

Bài, ảnh: NGÔ CHUẨN

Lúa khô hạn giữa mùa mưa

Nguồn tin: Báo Đắk Lắk

Dù đang ở thời điểm giữa mùa mưa, nhưng hầu hết diện tích lúa một vụ tại xã Hòa Phú (TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) đều không có nước, cây lúa khô héo, suy kiệt sau đợt nắng kéo dài gần 20 ngày vừa qua.

Mấy chục năm làm ruộng tại cánh đồng buôn M’Brê, ông Y Sông Byă (buôn M’Brê, xã Hòa Phú) chưa bao giờ gặp tình trạng khô hạn như hiện nay. Gia đình ông có 3 sào ruộng một vụ tại cánh đồng buôn M’Brê, xuống giống từ cuối tháng 5-2019. Thời điểm này, đáng lẽ ra lúa đang kỳ phân hóa đòng, chuẩn bị trổ bông, nhưng do thiếu nước, cây lúa gần như ngưng phát triển, chiều cao bụi chỉ bằng phân nửa so với mọi năm, ngọn lá khô quắt lại.

Ông Y Sông cho biết, nhờ có mưa trong vài ngày qua, ruộng lúa đã dần xanh trở lại. Song những cơn mưa chỉ mới giải nhiệt tạm thời, chân ruộng vẫn còn khô cứng và không có nước. Muốn cứu lúa, ông phải đợi thêm vài cơn mưa nữa cho nước ngập ruộng mới có thể bón phân thúc đòng, hy vọng vớt vát được khoảng 20% sản lượng so với mọi năm.

Ruộng lúa của ông Đậu Đông (thôn 13, xã Hòa Phú) mất trắng do hạn hán.

Ông Đậu Đông (thôn 13, xã Hòa Phú) thì không trông mong gì vào 4,5 sào lúa nước trong vụ hè thu năm nay. Toàn bộ diện tích lúa của ông đã cháy vàng, nhiều vạt lúa chết khô để lộ nền ruộng trơ sỏi đá. Ông Đông cho hay, không giống như những vùng lúa thuận lợi, có nhiều phù sa, các chân ruộng tại cánh đồng buôn M’Brê rất nhiều sỏi đá. Vì vậy, chỉ cần 4 - 5 ngày không có mưa, ruộng đã khô hoàn toàn, đất nứt chân chim. Mọi năm, lượng mưa nhiều và rải đều nên việc canh tác vụ hè thu rất thuận lợi, cây lúa phát triển tốt, đạt năng suất khoảng 6 tạ/sào. Năm nay, nắng kéo dài liên tục, ruộng hoàn toàn không có nguồn nước nào khác ngoài nước mưa nên ông đành bất lực nhìn lúa héo vàng từng ngày, xem như mất trắng hơn 8 triệu đồng tiền thuê cày đất, giống, phân, chưa kể công lao động.

Cánh đồng buôn M’Brê là cánh đồng lớn nhất của xã Hòa Phú, với tổng diện tích gần 100 ha. Những năm qua, việc canh tác của nông dân tại đây vốn phụ thuộc hoàn toàn vào nước tự nhiên nên chỉ gieo trồng được 1 vụ lúa/năm, năng suất khá ổn định. Cuối năm 2018, hệ thống kênh chính dẫn nước từ hồ Ea Kao đến cánh đồng đã hoàn thành song lại thiếu hệ thống kênh cấp II nên chưa điều tiết được nước tưới. Trong đợt khô hạn vừa xảy ra, người dân dọc tuyến kênh cũng không thấy có nước chảy về.

Anh Y Suyên Bkrông (buôn M'Brê) kiểm tra diện tích lúa của gia đình bị khô hạn.

Không chỉ riêng cánh đồng buôn M’Brê, hầu hết diện tích lúa một vụ tại xã Hòa Phú đều bị thiệt hại do thiếu nước. Vụ hè thu, toàn xã gieo trồng 220 ha lúa nước, đạt 100% kế hoạch. Tuy nhiên, hiện chỉ có 24 ha lúa hai vụ tại cánh đồng Tháng 10 và cánh đồng Bắc Phú Thái sinh trưởng ổn định nhờ có nguồn nước thủy lợi.

Theo ông Nguyễn Thanh Trung, Phó Chủ tịch Hội Nông dân xã Hòa Phú, qua kiểm tra hiện trạng, thống kê bước đầu, tổng diện tích lúa bị thiệt hại trên 70% do khô hạn lên đến 25,5 ha, hầu như không thể phục hồi. Phần diện tích còn lại có thể được cứu nếu lượng mưa trong những ngày tới tăng lên, nhưng năng suất chắc chắn sẽ giảm mạnh bởi khô hạn làm cây lúa yếu, ít nhánh, đòng ngắn, tỷ lệ hạt lép cao. Các cán bộ chuyên môn của xã Hòa Phú đang tiếp tục bám sát địa bàn, theo dõi thời tiết để hướng dẫn, khuyến cáo bà con chăm sóc cây lúa và lập danh sách các hộ bị thiệt hại để đề nghị thành phố hỗ trợ theo quy định.

Huyện Ea Súp: Vụ hè thu 2019, thiệt hại trên 53 tỷ đồng do nắng hạn

Đầu vụ hè thu năm 2019, tình trạng nắng hạn gay gắt kéo dài trên địa bàn huyện Ea Súp, gây thiệt hại lớn đến sản xuất của người dân.

Theo thống kê của các cơ quan chức năng huyện, tính đến thời điểm 20-7, diện tích cây trồng thiệt hại là 4.513 ha; trong đó lúa 1.138 ha; ngô, sắn, hoa màu 3.293 ha; cây lâu năm và cây ăn quả 82 ha; có 17 con gia súc bị chết do thiếu thức ăn và nước uống. Tổng thiệt hại do nắng hạn trên địa bàn khoảng 53,43 tỷ đồng.

UBND huyện Ea Súp đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tiến hành rà soát, thống kê diện tích các loại cây trồng bị hại nặng để có cơ sở hỗ trợ người dân; đồng thời chỉ đạo UBND các xã, thị trấn tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân chuyển diện tích lúa thiếu nước tưới sang cây trồng cạn, dùng các biện pháp, tận dụng nguồn nước trong các khe suối để dẫn nước về đồng ruộng...

Đinh Nga - Trang Vũ

Bắc Kạn: Nuôi dê núi ở Vũ Muộn

Nguồn tin: Báo Bắc Kạn

Vũ Muộn là xã vùng cao của huyện Bạch Thông (tỉnh Bắc Kạn), chủ yếu là đồng bào dân tộc Tày, Nùng, Dao cùng sinh sống. Tận dụng điều kiện tự nhiên thuận lợi, vài năm trở lại đây người dân địa phương đã phát triển có hiệu quả nghề nuôi dê núi, góp phần tăng thu nhập.

Có được lợi thế là địa hình đồi núi đá rộng, vài năm trở lại đây nhân dân xã Vũ Muộn đã phát triển có hiệu quả nghề nuôi dê núi.

Anh Đinh Quang Mẫn ở thôn Choóc Vẻn là một trong những hộ nuôi nhiều dê ở xã Vũ Muộn. Giữa trưa, thời tiết khá oi bức, theo chân anh Mẫn chúng tôi vượt qua dãy núi đá tai mèo sắc nhọn đến thăm chuồng nuôi dê của gia đình. Khu nuôi dê nằm trên một ngọn núi đá có nhiều mỏm đá to với 2 chiếc lán tạm được quây bằng thân cây, nền ván, mái phủ bạt. Anh Mẫn cho biết: Nghề nuôi dê đã theo gia đình gần chục năm nay. Ngày trước cuộc sống thiếu thốn, nguồn thu nhập hạn hẹp, làm nhiều thứ mới đủ ăn. Nuôi dê đã góp phần giúp cho cuộc sống gia đình đỡ vất vả hơn. Mỗi năm gia đình anh được bán hơn 10 con dê thịt với giá dao động trên dưới 100.000 đồng/kg, thu về khoảng 20 triệu đồng.

Những hộ nuôi dê ở xã cho biết, khí hậu, thổ nhưỡng ở vùng đất này rất hợp chăn nuôi dê, có diện tích đồi núi đá rộng, có nơi chăn thả, khe nước. Bản tính giống dê ưa sạch nên núi đá càng cao, càng tách biệt dê càng thích. Người nuôi dê chỉ cần bỏ vốn ban đầu mua con giống, còn quá trình phát triển dê chủ yếu dựa vào đồi núi, thức ăn chủ yếu là từ cây cỏ tự nhiên, không cần đầu tư nhiều vào chuồng trại. Ở đây phần lớn người dân đều nuôi dê theo hình thức bán chăn thả, sáng lùa đàn dê lên núi, chiều tối lùa dắt đàn về chuồng. Dê cũng là loài sinh sản nhanh, tính trung bình, mỗi con dê cái 2 năm đẻ 3 lứa, mỗi lứa được 1-2 con, bà con chủ yếu bán dê đực còn dê cái được giữ lại để tái đàn. Các thương lái rất ưa chuộng dê núi ở Vũ Muộn vì dê nuôi hoàn toàn bằng lá cây rừng, chất lượng thịt thơm ngon. Tuy nhiên, nuôi dê không phải lúc nào cũng thuận lợi, người nuôi cũng phải đối mặt với khó khăn khi đàn dê bị dịch bệnh như chướng bụng, xù lông, lở mồm long móng… vì vậy cần phải theo dõi thường xuyên để kịp thời phát hiện và xử lý.

Hiện nay, ở xã Vũ Muộn có gần 700 con dê tập trung chủ yếu ở các thôn Choóc Vẻn (230 con), Tốc Lù (180 con), Còi Có (120 con) và rải rác tại một số thôn khác. Dê mà người dân Vũ Muộn nuôi chủ yếu là giống địa phương có lông màu vàng nâu hay loang đen, trắng. Giống dê này chỉ nặng khoảng 20-30kg/con. Từ chăn nuôi dê mà nhiều hộ gia đình có thêm thu nhập 20-30 triệu đồng mỗi năm.

Đồng chí Đàm Thị Hành- Phó Chủ tịch UBND xã Vũ Muộn chia sẻ: Tận dụng đồi rừng, núi đá người dân đã phát triển chăn nuôi dê núi mang lại hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, hiện nay diện tích chăn thả tại xã đang dần bị thu hẹp; nguồn giống dê bà con nuôi lâu năm có hiện tượng thoái hóa, còi cọc, chậm lớn, dễ mắc bệnh; giá dê có nhiều biến động… khiến đàn dê tại xã đang có xu hướng giảm. Tổng đàn đến thời điểm hiện tại chỉ đạt gần 700 con, giảm hơn 400 con so với cùng kỳ năm ngoái và chỉ đạt khoảng 60% kế hoạch đề ra. Nhiều hộ dân chăn nuôi dê đang tự thay đổi con giống hoặc chuyển sang loại hình chăn nuôi khác.

Là gia đình có truyền thống nuôi dê lâu năm trong xã, ông Dương Đức Tròn, thôn Tốc Lù cho biết: Gia đình nuôi dê từ năm 2011, có thời điểm tổng đàn lên đến 120 con. Trước đây, mỗi năm đều đặn ông có 30-40 triệu đồng tiền bán dê thịt. Tuy nhiên, do giống dê ta nuôi lâu ngày phát triển đàn không còn tốt như trước nữa nên mới đây, ông đã bán hết đàn dê, tiến hành trồng gần 1ha cỏ voi và một số loại cỏ khác dành cho chăn nuôi để tiến hành nuôi trâu, bò, dự kiến cuối năm nay sẽ mua giống dê lai về nuôi nhốt.

Vũ Muộn là vùng đất có khí hậu tương đối khắc nghiệt, gây khó khăn cho một số cây trồng phát triển. Với những điều kiện thuận lợi để phát triển chăn nuôi dê, nghề nuôi dê núi được đánh giá là hướng đi đúng, phù hợp và đã gắn bó với bà con ở hầu hết các thôn hàng chục năm nay, đem lại thu nhập khá cho người dân. Thay vì tự phát như trước thì giờ đây việc phát triển đàn dê đã được đưa vào chỉ tiêu kinh tế - xã hội của địa phương hằng năm… Bởi vậy thiết nghĩ các cấp, ngành cần đẩy mạnh xây dựng các giải pháp phù hợp nhằm duy trì và nâng cao chất lượng đàn dê ở Vũ Muộn. Mong muốn của người dân là được ngành chức năng phối hợp tuyển chọn giống dê tốt, kháng bệnh, chất lượng thương phẩm tốt; tiếp tục tập huấn kiến thức về khoa học kỹ thuật chăn nuôi, phòng dịch bệnh cho dê; có thêm các nguồn vốn để hỗ trợ nông dân đầu tư mở rộng và nâng cao chất lượng đàn; liên kết với các cơ sở để tiêu thụ dê thương phẩm cho bà con… để người dân an tâm phát triển tổng đàn, nâng cao thu nhập./.

Lường Loan

EverGrowth nuôi bò, bán sữa

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Sau 15 năm vượt qua thăng trầm nghề nuôi bò sữa, Hợp tác xã (HTX) EverGrowth, tỉnh Sóc Trăng đạt bước tiến nhanh không ngờ. Sau khi đầu tư xây dựng nhà máy thức ăn chăn nuôi, mới đây HTX EverGrowth khánh thành nhà máy chế biến sữa tươi nguyên chất 100%, hoàn thiện chuỗi sản xuất nuôi bò, bán sữa.

Dây chuyền chế biến sản phẩm sữa tươi Evermilk.

Sữa tươi Evermilk

Ông Trần Hoàng An, Giám đốc HTX EverGrowth, cho biết: HTX đã từng trải qua 3 giai đoạn khó khăn, lắm lúc điêu đứng vì sữa bò bột ngoại nhập dư thừa đổ vào khiến giá thu mua sữa nguyên liệu của nông dân nuôi bò xuống thấp, có khi dưới mức giá thành. Do vậy, trong vài năm gần đây HTX tập hợp lực lượng thành viên nòng cốt đầu tư xây dựng nhà máy thức ăn chăn nuôi đến nhà máy chế biến sữa tươi nhằm hoàn thiện chuỗi sản xuất, tiêu thụ sữa ổn định với giá tốt nhất cho bà con.

Ban đầu từ vài trăm hộ chăn nuôi bò sữa mong thoát nghèo. Nhưng sau gần 15 năm HTX chăn nuôi bò sữa EverGrowth đánh dấu bước tiến mới-hoàn thành xây dựng đưa vào hoạt động nhà máy chế biến sữa tươi nguyên chất 100% tại Khu công nghiệp An Nghiệp, tỉnh Sóc Trăng. Đây là mô hình HTX nông nghiệp kiểu mới đang hướng tới hoàn thiện chuỗi sản xuất khép kín từ nuôi bò đến chế biến sữa tươi với nhãn hàng Evermilk.

Nhà máy sữa EverGrowth xây dựng trên diện tích 2ha (giai đoạn 1 là 1ha), được lắp đặt dây chuyền thiết bị tiên tiến từ châu Âu, công suất chế biến 80 tấn sữa tươi/ngày tổng vốn đầu tư 12 triệu USD, do HTX EverGrowth với hơn 2.300 hộ nông dân chăn nuôi bò sữa góp vốn cùng các cổ đông tham gia làm chủ đầu tư. Mỗi ngày nhà máy tiếp nhận trên 20 tấn sữa bò nguyên liệu từ các hộ chăn nuôi bò trong tỉnh. Giá thu mua sữa ổn định cho tất cả các hộ chăn nuôi bò trong tỉnh với mức cao hơn bên ngoài thị trường từ 5-10%. Ông Lê Minh Huyền, Giám đốc Dự án nhà máy sữa EverGrowth, cho biết: Sau khi nhà máy hoạt động sản xuất ổn định, vững chân trên thị trường với mặt hàng sữa tươi Evermilk đóng hộp tại các tỉnh, thành trong vùng ĐBSCL, chúng tôi sẽ thực hiện bước chuyển tiếp giai đoạn 2. Nhà máy sẽ nâng công suất chế biến đạt 160 tấn sữa tươi/ngày.

Năm 2016, HTX EverGrowth đầu tư 5 tỉ đồng xây dựng nhà máy chế biến thức ăn gia súc với công suất 60 tấn/ngày, chủ yếu nhằm cung cấp cho nông dân nuôi bò sữa với giá rẻ hơn so với mua thức ăn chăn nuôi bên ngoài từ 10-20%. Tuy nhiên, vào những năm chưa có nhà máy chế biến sữa, nông dân phải bán sữa tươi cho một vài công ty sữa lớn nên phần nào gặp bị động, nhất là nhiều lúc giá sữa tươi giảm thấp tới mức ngang với giá thành. Do vậy, chủ trương xây dựng nhà máy chế biến ngay trên địa bàn của HTX được nhiều cổ đông hưởng ứng, đồng tình.

Hằng ngày HTX có xe chở sữa chuyên dụng thu mua về cho nhà máy. Mỗi hộ nông dân nuôi bò sữa bán về nhà máy được cấp mã số, quét qua máy đọc ghi nhận các chỉ số về địa chỉ hộ chăn nuôi, số lượng sữa bán. Bộ phận thu mua sữa lấy mẫu sữa kiểm tra và lưu trữ. Sau 15 ngày, HTX chuyển tiền qua thẻ tài khoản ngân hàng cho các hộ chăn nuôi. Hộ chăn nuôi bò trong HTX được cung cấp thức ăn, tiêu thụ và chế biến sữa bán ra thị trường tạo giá trị gia tăng.

Kỳ vọng từ mô hình nuôi bò sữa

Theo bộ phận kinh doanh nhà máy EverGrowth, sau hơn một tháng bán sữa ra hệ thống phân phối các tỉnh, thành vùng ĐBSCL, sữa Evermilk được người tiêu dùng tiếp nhận, đánh giá chất lượng tốt.

Anh Hồ Minh Đạt, Nhà phân phối các mặt hàng thực phẩm chế biến ở Trà Vinh, cho biết: Sản phẩm mới Evermilk có 2 loại: Sữa tươi ít đường và sữa hương dâu tự nhiên, có đường, giá 29.600 đồng/lốc (4 hộp/lốc, 180 ml/hộp), không sử dụng chất bảo quản. So với sữa cùng loại của các nhãn hàng khác, lợi thế Evermilk là tươi mới 100% nguyên chất. Người tiêu dùng uống dễ dàng nhận biết ngay. Đó là do người chăn nuôi cung cấp sữa tươi trong ngày không qua công đoạn lưu trữ, ướp lạnh. Tương lai sản phẩm này sẽ phát triển tốt trên thị trường.

So với chăn nuôi nông trại quy mô lớn, chăn nuôi hộ gia đình quy mô nhỏ lại có sự phù hợp điều kiện kinh tế hộ, chi phí giá thành có thể cạnh tranh, đồng thời qua tập huấn kỹ thuật tốt cho thấy chất lượng sữa đạt đúng theo tiêu chuẩn yêu cầu.

Chị Nguyễn Thị Mỹ Nhân, xã Thuận Hưng, huyện Mỹ Tú là một trong hàng ngàn hộ chăn nuôi bò sữa ở Sóc Trăng, cho biết: Từ nhiều năm qua, nhờ chăn nuôi 5 con bò sữa đã tạo nguồn thu ổn định cho cuộc sống trong gia đình chị. Phần đất ruộng lúa hơn 5 công được gia đình chị chia ra 2 công dành trồng cỏ. Nhờ bổ sung thêm thức ăn chăn nuôi của HTX, một con bò vào kỳ cho sữa bình quân từ 12-18 kg/ngày. Giá bán sữa cho HTX mức hiện nay 11.500-12.500 đồng/kg, ổn định hơn trước đây khi bán cho nhà máy bên ngoài lúc tăng, giảm thất thường.

Theo anh Tè Hữu Trung, xã Thạnh Thới Thuận, huyện Trần Đề nuôi 8 con bò, trong đó 4 con đang vào lứa cho sữa 18-25 kg/con/ngày, bán sữa cho nhà máy 50-80 kg/ngày. Ngoài công nuôi, chi phí giá thành khoảng 7.000 đồng/kg, với giá sữa nhà máy thu mua 12.000 đồng/kg, bà con nuôi bò sữa an tâm và có thể tăng đàn.

Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn (thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), cho biết: Hiện nay cả nước có hơn 14.450 HTX nông nghiệp, nhưng số HTX quy mô sản xuất lớn chưa nhiều. Tuy nhiên, HTX EverGrowth là một trong những "cánh chim đầu đàn", với trên 2.300 nông hộ nuôi bò sữa là thành viên. Trong đó có hơn 40% hộ đồng bào Khmer, từ những năm đầu là những hộ nghèo nhờ chăn nuôi bò sữa đến nay đã thoát nghèo. HTX EverGrowth phát triển đi lên với số vốn tích lũy hàng trăm tỉ đồng. Đây là một mô hình HTX nông nghiệp kiểu mới đã gặt hái những thành công bước đầu.

Sóc Trăng là tỉnh duy nhất ở ĐBSCL duy trì được đàn bò sữa ổn định theo hình thức chăn nuôi nông hộ. Từ năm 2004 nông dân Sóc Trăng bắt đầu nuôi bò sữa và HTX EverGrowth ra đời với tổng đàn 477 con, được sự hỗ trợ của tổ chức Socodevi (Canada). Đến nay HTX có trên 2.300 thành viên, áp dụng quy trình chăn nuôi tiên tiến, với tổng đàn bò trên 7.000 con. Sản lượng sữa đạt 22 tấn/ngày.

Bài, ảnh: HỮU ÐỨC

Khóc ròng vì dịch tả heo châu Phi

Nguồn tin: Báo Bà Rịa - Vũng Tàu

Trong thời gian ngắn, dịch tả heo châu Phi đã xâm nhập, bùng phát và gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Sau đợt khủng hoảng do giá heo xuống thấp kỷ lục năm 2017, người chăn nuôi heo lại một lần nữa kiệt quệ về vật chất, tinh thần do cơn “bão” dịch tả heo gây ra.

Dù dịch tả heo châu Phi không ảnh hưởng trực tiếp đến đàn heo đang nuôi nhưng gia đình chị Phạm Thị Lệ (xã Xà Bang, huyện Châu Đức) vẫn gặp rất nhiều khó khăn do heo không tiêu thụ được.

Trước đây, ông Vũ Văn Tiên, ấp 5, xã Hòa Hội, huyện Xuyên Mộc nuôi gần 10 heo nái và 50 heo thịt. Tuy nhiên, thời điểm giá heo giảm sâu năm 2017 đã khiến ông thiệt hại trên 200 triệu đồng. Trong đó, khoảng 100 triệu đồng là tiền vay mượn. Sau thời gian gần như “treo chuồng”, giữa năm 2019, giá heo tăng mạnh nên ông tiếp tục đầu tư gần 20 triệu đồng mua 20 heo giống về nuôi. Đến thời điểm đàn heo thịt của ông đã đạt trọng lượng 20-30kg/con thì phát hiện bị nhiễm dịch tả châu Phi và phải tiêu hủy toàn bộ. Ông Tiên nhẩm tính: “Tính đến nay, tôi đã nuôi đàn heo được gần 2 tháng, tiền thức ăn đã tốn trên 20 triệu đồng. Cộng với chi phí giống và các loại thuốc men, tôi mất trắng trên 40 triệu đồng. Sau đợt giá heo thấp kỷ lục, đợt dịch bệnh này thực sự khiến gia đình tôi hết sức khó khăn về tài chính, không còn nguồn vốn nào để làm ăn”. Nói đến đây, ông Tiên lặng đi, thẫn thờ nhìn vào khu chuồng nuôi trống trơn mà chỉ trước đó vài tuần là niềm hy vọng của cả gia đình.

Ông Vũ Văn Tiên (xã Hòa Hội, huyện Xuyên Mộc) bên chuồng trại trống rỗng đã từng là hy vọng của cả gia đình. Ảnh: QUANG VINH

Không chỉ các hộ, trại chăn nuôi có heo trực tiếp mắc dịch bệnh thiệt hại nặng nề, dịch tả châu Phi khiến giá heo hơi giảm mạnh, khó tiêu thụ khiến toàn bộ người nuôi heo “kiệt quệ” về tài chính. Gia đình chị Phạm Thị Lệ, xã Xà Bang, huyện Châu Đức đang nuôi 9 heo nái và 75 con heo thịt. Để phát triển đàn heo này, gia đình chị đã vay 200 triệu đồng từ nguồn vốn của Ngân hàng NN-PTNT và Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh. Tuy nhiên, dịch tả heo châu Phi đã làm gia đình chị gặp nhiều khó khăn, thua lỗ, khiến việc trả nợ trở nên nan giải. Chị Lệ lo lắng: “Giá heo hơi trong thời điểm này khoảng 28-30 ngàn đồng/kg. Trong khi chi phí sản xuất thịt heo phải từ 36-38 ngàn đồng/kg. Như vậy, tôi lỗ từ 7-8 ngàn đồng/kg. Tuy nhiên, không phải cứ muốn là bán được, trong thời điểm dịch, nhiều thương lái không thu mua, có mua cũng ép giá khiến người chăn nuôi “tiến thoái lưỡng nan”. Trong trường hợp nuôi tiếp mà heo mắc bệnh hoặc giá ở mức thấp thế này sẽ khiễn lỗ càng thêm lỗ. Khi đó, nguồn vốn vay ngân hàng thực sự là một gánh nặng “treo lơ lửng” đối với gia đình tôi”.

Người chăn nuôi kiến nghị, cơ quan chức năng đơn giản hóa, đẩy nhanh việc hỗ trợ heo bị tiêu hủy do dịch bệnh. Trong ảnh: Tiêu hủy heo mắc dịch tả châu Phi tại xã Bình Trung, huyện Châu Đức.

Theo bà Nguyễn Thị Thanh Hiếu, cán bộ Nông nghiệp xã Xà Bang, huyện Châu Đức cho biết, một số bà con phản ánh, nhiều thương lái không mua heo hoặc ép giá từ 1-3 ngàn đồng/kg khi heo không đầy đủ các thủ tục, giấy tờ. Do đó, xã đã có văn bản hướng dẫn, đồng thời liên kết với Trạm Chăn nuôi và Thú y huyện để giúp người chăn nuôi thực hiện đúng, đầy đủ, thuận lợi và nhanh chóng các thủ tục kiểm dịch. Nhờ đó, heo thịt đã được tiêu thụ thuận lợi, giá cả cũng ổn định hơn.

Tuy nhiên, theo phản ánh của những người chăn nuôi, khó khăn nhất hiện nay là vấn đề tài chính. Đợt khủng hoảng giá năm 2017 và 2018 đã khiến nhiều hộ chăn nuôi “cạn vốn”. Vì vậy, đa số các trại, hộ nuôi heo hiện nay đều phát triển đàn từ nguồn vốn vay của các ngân hàng. Thời điểm này, giá cả xuống thấp, heo khó tiêu thụ nên khả năng trả nợ là khá khó khăn. Chị Phạm Thị Lệ cho biết thêm: “Do đó, nhiều bà con chăn nuôi có kiến nghị với chính quyền các cấp có những chính sách hỗ trợ để các ngân hàng có thể giãn thời gian thu hồi nợ để chúng tôi có thể vượt qua cơn khủng hoảng. Khi kiểm soát được dịch bệnh, có thể tái đàn, các ngân hàng cũng xem xét các hộ có đủ điều kiện để cho nông dân vay vốn, phục hồi sản xuất. Bên cạnh đó, Nhà nước có chính sách hỗ trợ đối với heo bị dịch, phải tiêu hủy đã khiến người chăn nuôi phần nào vơi bớt khó khăn. Chúng tôi mong cơ quan quản lý các cấp có thể đẩy nhanh, đơn giản hóa các thủ tục để bà con được nhận hỗ trợ sớm, có thể kịp thời tái sản xuất thịt heo, phục vụ thị trường”.

Heo âm tính với dịch tả trong trại nuôi đã có heo mắc bệnh vẫn có thể giết mổ, tiêu thụ

Trước diễn biến phức tạp của dịch tả heo châu Phi (ASF), Bộ NN-PTNT đã ban hành Công văn số 5169/BNN-TY về việc hướng dẫn bổ sung một số biện pháp phòng, chống dịch ASF.

Theo đó, heo mắc bệnh, có kết quả dương tính với dịch tả heo châu Phi trong các hộ nhỏ lẻ, trại nuôi sẽ bị tiêu hủy theo quy định. Số heo có mẫu thử âm tính với dịch tả heo châu Phi, sẽ có những phương án xử lý như sau:

* Đối với các hộ chăn nuôi nhỏ, lẻ: Heo cùng dãy ô, chuồng nuôi với heo mắc bệnh sẽ được nuôi cách ly hoặc giết mổ, tiêu thụ tại địa bàn cấp huyện. Heo không cùng ô, chuồng nuôi với heo mắc bệnh sẽ có 2 phương án xử lý: Giết mổ, tiêu thụ tại địa bàn cấp huyện hoặc vận chuyển sang các trại nuôi khác trên địa bàn cấp tỉnh.

* Đối với các trang trại chăn nuôi lớn, heo khỏe mạnh tại ô chuồng, dãy chuồng có heo mắc bệnh được chuyển đến nơi khác nuôi thuộc phạm vi cấp huyện; heo khỏe mạnh tại ô chuồng, dãy chuồng chưa có heo mắc bệnh được giết mổ và tiêu thụ hoặc nuôi tại địa bàn cấp tỉnh dưới sự giám sát của thú y địa phương.

Tính đến nay, toàn tỉnh đã có 6 huyện, thị xã, thành phố có dịch tả heo châu Phi, với hơn 1.200 con heo phải tiêu hủy, tổng trọng lượng hơn 66 tấn. Ông Nguyễn Xuân Trung, Phó Chi cục trưởng, Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh cho biết, thời gian qua, ngoài tập trung vào công tác phòng, chống dịch, ngành thú y và các địa phương cũng đã có các biện pháp kịp thời để hỗ trợ người chăn nuôi. Theo đó, các chi phí thuốc sát trùng, vôi bột và nhân công phun xịt đều được nhà nước hỗ trợ. Theo quy định, các cơ sở chăn nuôi có heo buộc phải tiêu hủy do bệnh dịch được hỗ trợ theo mức sau: heo con, heo thịt 25.000 đồng/kg heo hơi; heo nái, heo đực 30.000 đồng/kg. “Tuy nhiên, sự hỗ trợ này chỉ giúp người chăn nuôi vơi bớt phần nào khó khăn trước mắt. Với việc loại dịch bệnh này chưa có vắc xin phòng và chữa nên bà con cần áp dụng khoa học, kỹ thuật và các biện pháp an toàn sinh học để vừa giảm chi phí sản xuất, vừa giảm nguy cơ đàn heo mắc dịch bệnh”, ông Trung nói.

Bài, ảnh: QUANG VINH

Hướng dẫn bổ sung biện pháp phòng, chống dịch tả heo châu Phi

Nguồn tin: Báo Đồng Nai

Trước tình hình dịch tả heo châu Phi (ASF) diễn biến ngày càng phức tạp (dịch đã xảy ra tại 62/63 tỉnh, thành phố và chưa có dấu hiệu dừng lại), Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã ban hành Công văn số 5169/BNN-TY ngày 22-7-2019 về việc hướng dẫn bổ sung một số biện pháp phòng, chống dịch ASF.

Nội dung hướng dẫn bổ sung như sau: Đối với hộ chăn nuôi nhỏ lẻ và trang trại lớn xảy ra ổ dịch ASF đều tiêu hủy heo chết, heo mắc bệnh và heo có kết quả xét nghiệm dương tính với dịch. Heo khỏe mạnh tại ô chuồng, dãy chuồng có heo mắc bệnh thì được giết mổ, tiêu thụ ngay tại địa bàn cấp huyện. Heo khỏe tại hộ nuôi có thể được chuyển đến nơi khác thuộc phạm vi địa bàn cấp tỉnh nuôi với sự giám sát của thú y địa phương.

Riêng ổ dịch có quy mô nuôi trang trại, heo khỏe mạnh tại ô chuồng, dãy chuồng có heo mắc bệnh được chuyển đến nơi khác nuôi thuộc phạm vi cấp huyện với sự giám sát của thú y địa phương. Còn heo khỏe mạnh tại ô chuồng, dãy chuồng chưa có heo mắc bệnh được giết mổ và tiêu thụ tại địa bàn cấp tỉnh và được nuôi tại địa bàn cấp tỉnh dưới sự giám sát của thú y địa phương.

Đối với tất cả các trường hợp trên, heo phải được lấy mẫu xét nghiệm kết quả âm tính với dịch ASF thì mới đủ điều kiện được giết mổ, tiêu thụ, hoặc đưa đi nơi khác nuôi.

Với cơ sở giết mổ nhỏ lẻ trong vùng dịch, cơ quan thú y không cần lấy mẫu sản phẩm để xét nghiệm mầm bệnh ASF.

Bình Nguyên

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop