Tin nông nghiệp ngày 27-28 tháng 10 năm 2020

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 27-28 tháng 10 năm 2020

Khắc phục thiệt hại, khôi phục sản xuất sau lũ

Nguồn tin:  Báo Thừa Thiên Huế

Theo thống kê của các địa phương, các đợt mưa lũ liên tiếp kéo dài hơn 10 ngày qua làm hơn 330 ha ràu màu, 150 ha sắn, hàng chục ha hoa, cây ăn quả và diện tích nuôi trồng thủy sản bị ngập úng, cuốn trôi gây thiệt hại nặng.

Dốc sức khôi phục sản xuất là nhiệm vụ hàng đầu trong sản xuất nông nghiệp hiện nay.

Tranh thủ nước rút, nông dân ra đồng thăm ruộng, chuẩn bị vật tư khôi phục sản xuất

Ra đồng khi nước rút

Tranh thủ trời mưa tạnh, nước rút, có nắng nhẹ, nhiều địa phương huy động nông dân ra đồng khắc phục bão lũ, từng bước khôi phục sản xuất.

Tại HTX NN Đông Phú (Quảng An, Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế), hàng năm đưa vào sản xuất 350 ha lúa/vụ với năng suất đạt 70-72 tạ/ha. Việc tổ chức khôi phục sản xuất, xử lý đồng ruộng sau mưa lũ để chuẩn bị vụ mùa tiếp theo là khâu hết sức quan trọng sau lũ.

Ông Lê Văn Thứ, Giám đốc HTX NN Đông Phú thông tin, ngay sau khi nước rút, HTX chỉ đạo các xã viên tranh thủ đồng ruộng còn ngập nước nhẹ, chuột co cụm lên các vùng cao, tổ chức diệt chuột bằng mọi biện pháp để hạn chế mật độ, giảm gây hại khi bước vào vụ đông xuân.

Chính quyền địa phương Quảng An cùng HTX NN cũng tranh thủ nước rút, kiểm tra hệ thống đê bao nội đồng, các điểm xung yếu để có kế hoạch tu sửa, gia cố kênh mương, khơi thông dòng chảy; nạo vét bồi lắp, vệ sinh thu gom rác thải, tàn dư cây trồng do lũ lụt để tiêu hủy và chuẩn bị sản xuất.

“Vựa rau” Quảng Thành có 32 ha các loại của hơn 750 hộ dân tham gia trồng với thu nhập bình quân 400 triệu đồng/ha. Vụ mùa năm nay, do mưa lớn kéo dài, nước đổ về trắng đồng khiến nhiều diện tích rau bị dập nát, mất trắng. Ngay sau khi nước rút, bà con nông dân ra đồng tiếp tục khơi thông dòng chảy để nước rút khô nhằm nhanh chóng tổ chức sản xuất trở lại.

Ông Ngô Hợi, Chủ tịch Hội Nông dân xã Quảng Thành cho biết, đối với diện tích rau, địa phương khuyến cáo người kiểm tra, thu hoạch “vớt vát” nhằm giảm thiệt hại. Thu gom các cây rau màu bị thiệt hại nặng để tiêu hủy, tranh thủ khi thời tiết trở lại bình thường thì tranh thủ làm đất để gieo trồng. Đối với diện tích thiệt hại nhẹ, tiến hành chăm sóc, trồng dặm để cây phục hồi, phát triển. Sau khi nước rút, cần tiến hành vệ sinh đồng ruộng ngay, thu gom tàn dư cây trồng, rác thải để tiêu hủy.

Tổ chức kiểm tra, khơi thông dòng chảy kênh mương, những nơi bồi lấp để tiêu thoát nước nhanh. Những vùng đất ruộng thấp cần tăng cường bón vôi bột (20-30kg/sào) để tiêu hủy nguồn bệnh, thau chua rửa phèn trước khi trồng mới. Cán bộ kỹ thuật của HTX cũng theo dõi các đối tượng sinh vật gây hại khác để có biện pháp quản lý và phòng trừ trên diện hẹp, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.

Nông dân ra đồng khắc phục sản xuất, tranh thủ chuẩn bị cho mùa vụ tiếp theo

Chủ động nguồn giống

Sau trận “bão” khảm lá sắn, nhiều vùng trồng sắn ở Phong Điền, Nam Đông, A Lưới bị khan hiếm nguồn giống do phần lớn diện tích sắn phải tiêu hủy để phòng dịch bệnh lây lan trên diện rộng, gây hại cho mùa vụ sau.

Tại xã Phong Hiền (Phong Điền) có khoảng 150 ha sắn bị thiệt hại do ngập úng, trong đó nhiều diện tích bị mất trắng hoàn toàn, tập trung ở 2 thôn Bắc Triều Vịnh và Triều Dương. Nguồn giống sắn lâu nay người dân vốn tự túc.

Ông Trần Đức Thiện, Chủ tịch UBND xã Phong Hiền cho biết, sau khi nước rút, địa phương đã vận động các hộ dân lựa chọn các cây sắn sinh trưởng phát triển tốt, chưa có biểu hiện bệnh khảm lá để làm giống trồng cho niên vụ 2021. Bảo quản và theo dõi chặt chẽ các hom để làm giống nhằm phát hiện sớm bệnh khảm lá để tiêu hủy.

Khuyến cao người dân tuyệt đối không sử dụng các cây sắn bị nhiễm bệnh khảm lá làm hom giống tránh tình trạng bùng phát dịch như mùa vụ năm 2020. Cán bộ kỹ thuật cũng tăng cường kiểm tra các đối tượng sinh vật gây hại để khi xuống giống vụ mới để có biện pháp phòng ngừa, xử lý.

Hiện tại, ngoài tuyên truyền, hướng dẫn nông dân kỹ thuật trồng, chăm sóc đưa vào sản xuất các giống cây ngắn ngày và triển khai trồng mới, chính quyền địa phương các cấp còn phân công cán bộ trực tiếp xuống cơ sở kiểm tra, đánh giá mức độ thiệt hại, hỗ trợ khôi phục sản xuất và chủ động cân đối nguồn giống cây trồng, vật nuôi cho mùa vụ tiếp theo.

Đối với cây lúa, hàng năm nguồn giống lúa tại các HTX luôn chủ động bởi dù trời lụt người dân vùng trũng vẫn có phương án bảo quản tốt nguồn lúa giống để tái sản xuất sau lũ. Các địa phương, HTX cũng chuẩn bị đầy đủ vật tư, giống để sản xuất vụ đông xuân tới; tiến hành rà soát, cân đối nguồn giống tự sản xuất đăng ký mua giống xác nhận để gieo cấy và dự phòng gieo cấy lại khi gặp điều kiện thời tiết bất lợi.

Ông Hồ Đắc Thọ, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh thông tin, đánh giá ban đầu cho thấy hiệt hại do mưa lụt gây ra đã làm thiếu hụt lượng giống rau màu để cung ứng cho sản xuất vụ Đông 2020 và vụ Đông Xuân 2020-2021.

Nhằm khắc phục thiệt hại, tạo điều kiện hỗ trợ cho bà con nông dân tại các địa phương khôi phục sản xuất, giảm bớt khó khăn, chi cục đang tiếp tục phối hợp với các địa phương nắm bắt cụ thể, tổng hợp tình hình thiệt hại để tham mưu Sở NN&PTNT đề nghị các cơ quan, ban ngành cấp trên hỗ trợ thiệt hại cho bà con nông dân theo Nghị định số 02/2017/NĐ-CP ngày 9 tháng 1 năm 2017 của Chính phủ về cơ chế, chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh.

Năm nay diện tích nuôi trồng thủy sản ít thiệt hại hơn do người dân đã chủ động thu hoạch và Sở NN&PTNT đã chỉ đạo Chi cục Thủy sản, các địa phương hướng dẫn người dân khẩn trương di chuyển các lồng, bè nuôi thủy sản đến nơi an toàn; gia cố đảm bảo an toàn cho các lồng, bè trên sông, đầm phá và các ao, hồ nuôi thủy sản cao triều, hạ triều ven biển, ven sông, suối; đối với những diện tích có thể thu hoạch thì thu hoạch sớm để giảm mật độ, tránh rủi ro thiệt hại do mưa lũ.

Bài, ảnh: Hà Nguyên

Trồng dưa lưới theo công nghệ Israel hiệu quả kinh tế cao

Nguồn tin: Báo Long An

Mô hình trồng dưa lưới theo công nghệ Israel lần đầu tiên được áp dụng tại huyện Cần Đước (tỉnh Long An) mang lại hiệu quả kinh tế cao, mở ra hướng phát triển mới cho ngành Nông nghiệp địa phương.

Mạo hiểm đầu tư

Vài năm trở lại đây, việc áp dụng tiến bộ khoa học- kỹ thuật vào sản xuất để cho ra nông sản sạch, bảo đảm sức khỏe người tiêu dùng và là giải pháp nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu đã dần được nông dân trên địa bàn huyện Cần Đước mạnh dạn đầu tư. Trong đó, phải kể đến mô hình trồng dưa lưới ứng dụng công nghệ Israel được anh Võ Hoàng Trọng, ngụ ấp 5, xã Long Sơn, thực hiện đầu tiên.

Trồng dưa lưới theo công nghệ Israel mang lại hiệu quả kinh tế cao

Sau chuyến đi tham quan ở Đà Lạt và biết đến cách sản xuất rau, quả trong hệ thống nhà màng có nhiều ưu điểm hơn cách sản xuất truyền thống, anh Trọng đã mạnh dạn đầu tư mô hình nhà màng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với hệ thống công nghệ tưới nhỏ giọt kiểu Israel cho 3.500m2 đất, mang lại hiệu quả cao. Anh Trọng cho biết: “Sau khi tham quan nhiều mô hình và học hỏi được nhiều kinh nghiệm, tôi đã thuê 7.000m2 đất trong thời gian 8 năm để trồng dưa lưới, trong đó, xây dựng nhà màng 3.500m2, với khoảng 2.500 gốc dưa lưới, phần đất còn lại sử dụng làm các khu vực phụ trợ. Từ tháng 4/2019, tôi thu hoạch 10 đợt, mỗi đợt cách nhau khoảng 70-75 ngày, năng suất từ 3,5-4 tấn/nhà màng, thu nhập khoảng 100 triệu đồng mỗi đợt. Giá trung bình ổn định bán cho siêu thị khoảng 35.000 đồng/kg, giá bán lẻ 60.000 đồng/kg. Tuy nhiên, từ đầu năm 2020 đến nay, do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19, giá rất thấp, chỉ có 18.000 đồng/kg, cộng với thời tiết mưa nhiều gây ngập úng, hàng trăm cây chết, chi phí nhân công lao động nên tôi có lãi không cao”.

Hệ thống trồng dưa lưới của anh Trọng được lắp đặt nhà màng và hệ thống tưới, phía trên được che nylon đặc biệt, bên trong lắp đặt một loạt hệ thống điều khiển tự động, gồm: Cáp treo dây, lưới cắt nắng, điều hòa không khí và tưới nhỏ giọt theo công nghệ Israel. Nhà màng giúp chắn mưa và ngăn côn trùng xâm nhập, do đó không cần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.

Cũng theo anh Trọng, để dưa lưới phát triển đồng đều, cần thường xuyên cắt tỉa dây và theo dõi lượng nước cung cấp hàng ngày theo từng thời điểm phát triển của cây, nhất là giai đoạn cây ra hoa kết trái, vì dưa được trồng trong nhà màng sẽ không có ong bướm thụ phấn tự nhiên. Dưa không trồng trực tiếp xuống đất mà được trồng trong chậu gồm mạt cưa trộn xơ dừa, thêm một ít phân chuồng và phân vô cơ tạo chất dinh dưỡng nuôi cây. Đặc biệt, anh đang hướng tới xây dựng mô hình và sản xuất theo chuỗi giá trị, đăng ký thương hiệu và dán tem truy xuất nguồn gốc. Đây là hướng đi phù hợp với xu thế sản xuất nông nghiệp sạch hiện nay nhằm cung cấp cho người tiêu dùng sản phẩm an toàn, chất lượng cao và tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp.

Cần nhân rộng

Hiện nay, xã Long Trạch cũng có khoảng 4.000m2 đất trồng dưa lưới trong nhà màng, áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt của anh Nguyễn Hoàng Vũ. Anh Vũ chia sẻ: “Trồng dưa lưới có lợi thế ít người trồng và hiệu quả cao. Với 1.000m2, tôi trồng khoảng 2.400 dây dưa lưới. Dưa được trồng ứng dụng khoa học và công nghệ, chỉ sử dụng các chế phẩm sinh học nên cho năng suất cao, bảo đảm chất lượng, mỗi trái nặng từ 1,5-1,7kg, bán với giá 32.000-33.000 đồng/kg. Trung bình mỗi vụ, tôi có lợi nhuận vài chục triệu đồng”. Theo kinh nghiệm trồng dưa của anh Vũ, nếu dưa lưới được trồng ngoài tự nhiên thì năng suất kém, màu sắc trái không đẹp, cây dễ bị sâu, bệnh. Do vậy, việc phát triển mô hình trồng dưa lưới trong nhà màng hoàn toàn phù hợp với điều kiện khí hậu, thời tiết của địa phương; đồng thời, áp dụng những biện pháp kỹ thuật sẽ là một giải pháp an toàn, mang lại hiệu quả kinh tế. “Trồng dưa lưới là mô hình sản xuất mới cần được nhân rộng, góp phần chuyển biến nhận thức cho nông hộ canh tác nông nghiệp theo hướng an toàn và bền vững, tạo ra sản phẩm nông nghiệp chất lượng và an toàn” - anh Vũ nói.

Tuy nhiên, hiện nay, người dân vùng thượng huyện Cần Đước cũng gặp khó khăn về vấn đề thoát nước. Theo anh Vũ và anh Trọng, trồng rau, quả ứng dụng công nghệ cao mang lại hiệu quả. Tuy nhiên, người trồng còn gặp nhiều khó khăn do không có hệ thống thoát nước. Mong địa phương, ngành chức năng hỗ trợ xây dựng hệ thống thoát nước để người dân sản xuất hiệu quả, nhân rộng mô hình.

Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Cần Đước - Nguyễn Hồng Chương cho biết: “Có thể thấy, trước nhu cầu thị trường về những loại nông sản sạch, bảo đảm sức khỏe người tiêu dùng và trong bối cảnh sản xuất nông nghiệp phải chịu nhiều tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu thì việc đầu tư lắp đặt nhà màng, nhà lưới cùng những hệ thống tưới tiết kiệm đang là hướng đi đúng đắn trong sản xuất nông nghiệp và cũng là một trong những giải pháp góp phần thực hiện Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp ở địa phương. Thời gian tới, địa phương tuyên truyền người dân sản xuất ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sản xuất, đời sống”./.

Huỳnh Phong - Kim Thoa

Bắc Ninh: Giá trị canh tác đạt 109 triệu đồng/ha

Nguồn tin:  Báo Bắc Ninh

Từ việc tích cực ứng dụng kỹ thuật, phương thức sản xuất nông nghiệp tại Bắc Ninh đang chuyển đổi mạnh mẽ theo hướng thâm canh, hàng hóa. Trên địa bàn tỉnh đã hình thành 71 vùng sản xuất rau, màu chuyên canh quy mô từ 5ha trở lên, có 14 cơ sở sản xuất rau an toàn được cấp giấy chứng nhận VietGAP hoặc tương đương với tổng diện tích 91,2 ha. Toàn tỉnh hiện có 717 ha diện tích hoa, cây cảnh; 2.350 ha diện tích trồng cây ăn quả.

Đây là kết quả quá trình đẩy mạnh áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và biện pháp thâm canh, chuyển đổi cơ cấu mùa vụ và cơ cấu cơ cấu cây trồng theo hướng tăng tỷ lệ diện tích cây trồng có năng suất, chất lượng và giá trị kinh tế cao, giảm tỷ lệ cây trồng dài ngày có năng suất và giá trị kinh tế thấp, góp phần nâng cao năng suất và sản lượng cây trồng, đưa giá trị sản xuất trồng trọt/1ha đất canh tác tăng từ 89 triệu đồng (năm 2014) lên 109 triệu đồng (năm 2020).

V.T

Phát triển các mô hình sản xuất hiệu quả

Nguồn tin:  Báo Ấp Bắc

Thời gian qua, TX. Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang đã xây dựng và duy trì các mô hình sản xuất hiệu quả góp phần giúp người dân phát triển kinh tế.

TX. Cai Lậy đã xây dựng và duy trì hoạt động hiệu quả các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp, nhằm phát huy tối đa lợi thế cây ăn trái sẵn có trên địa bàn.

GẮN SẢN XUẤT VỚI TIÊU THỤ

Hiện tại, TX. Cai Lậy có 10 HTX hoạt động ở các xã Mỹ Phước Tây, Mỹ Hạnh Đông, Mỹ Hạnh Trung, Tân Phú, Tân Bình, Tân Hội, Nhị Quý, Thanh Hòa, Phú Quý, Long Khánh, với mô hình liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản chủ lực.

Trong đó, HTX Long Khánh có 2.089 thành viên tham gia, cung cấp nước sinh hoạt và tiêu thụ trái cây. HTX tham gia thực hiện chuỗi giá trị bưởi da xanh với diện tích 12 ha và sầu riêng trên diện tích 13 ha theo hướng VietGAP, doanh thu trên 1,7 tỷ đồng/năm; thu nhập bình quân của thành viên HTX từ 500 - 600 triệu đồng/năm.

Ông Lê Hữu Phước thu nhập 150 triệu đồng/năm từ 1.000 m2 trồng dưa lưới bằng công nghệ tưới nhỏ giọt.

TX. Cai Lậy còn đẩy mạnh phát triển mô hình doanh nghiệp nông nghiệp trong lĩnh vực trồng trọt. Cụ thể, Công ty TNHH MTV Xuất nhập khẩu (TNHH MTV XNK) Chín Phẻ (xã Long Khánh) được thành lập vào năm 2018, đáp ứng nhu cầu thực phẩm an toàn, đặc biệt là bảo quản, xử lý sau thu hoạch và hướng đến mục tiêu xa hơn là mang trái sầu riêng Việt Nam xuất sang thị trường nước ngoài.

Theo đó, công ty liên kết với hơn 300 nhà vườn, tổng diện tích hơn 100 ha sầu riêng ở khu vực TX. Cai Lậy và huyện Cai Lậy, với tổng lượng bao tiêu khoảng 1.000 tấn/năm, giá bao tiêu cao hơn giá thị trường 20.000 đồng/kg, giúp các hộ dân tham gia liên kết với công ty thu lãi cao hơn 300 triệu đồng/ha so với sản xuất và buôn bán sầu riêng nhỏ lẻ trước đây.

Theo Chủ tịch UBND xã Long Khánh Nguyễn Văn Kính, Công ty THHH MTV XNK Chín Phẻ giúp ổn định đầu ra cho trái sầu riêng với mức giá bao tiêu. Nhờ đó, người dân tránh được việc ép giá hay đầu ra bấp bênh, tạo nguồn thu nhập ổn định cho người dân. Bên cạnh đó, công ty còn tạo việc làm cho 20 lao động tại địa phương với thu nhập từ 6 - 7 triệu đồng/tháng.

ÁP DỤNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀO SẢN XUẤT

Hiện tại, TX. Cai Lậy đang xây dựng vùng sản xuất chuyên canh tập trung phía Nam Quốc lộ 1 (các xã Long Khánh, Phú Quý, Thanh Hòa và Nhị Quý), với diện tích hơn 2.100/2.600 ha sầu riêng trên toàn thị xã. Phó Chủ tịch UBND TX. Cai Lậy Võ Thị Búp cho biết: “UBND thị xã đang triển khai thực hiện đăng ký chứng nhận theo tiêu chuẩn VietGAP ở 3 HTX trên địa bàn các xã Phú Quý, Long Khánh và Thanh Bình.

Các HTX này sẽ thực hiện liên kết sản xuất với tiêu thụ sản phẩm của các thành viên HTX và hộ ngoài HTX với doanh nghiệp; đồng thời, cung cấp vật tư nông nghiệp đầu vào thông qua liên kết doanh nghiệp sản xuất phân, thuốc, giúp các thành viên tránh được tình trạng cò, lái ép giá và vật tư đảm bảo chất lượng”.

Bên cạnh các mô hình kinh tế tập thể, người dân trên địa bàn thị xã còn chủ động phối hợp với các cơ quan chuyên môn áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất mang lại hiệu quả kinh tế cao. Vườn dưa lưới áp dụng công nghệ tưới nhỏ giọt của ông Lê Hữu Phước (ấp Long Phước, xã Mỹ Phước Tây) đã canh tác được gần 2 năm, với mức giá bán ổn định mang lại thu nhập khá cho gia đình.

Ông Lê Hữu Phước cho biết: “Được Trung tâm Kỹ thuật và Công nghệ sinh học - Sở Khoa học và Công nghệ chuyển giao kỹ thuật trồng dưa lưới, sau 2 năm canh tác tôi đã mở rộng nhà lưới từ 500 m2 lên 1.000 m2. Với giá bán trung bình 30.000 đồng/kg, tôi thu lãi 150 triệu đồng/3 vụ trong năm, mức lãi này cao hơn so với trồng các loại cây theo kiểu truyền thống”.

Công tác triển khai và duy trì hoạt động hiệu quả các mô hình kinh tế đã góp phần nâng cao thu nhập cho người dân các xã vùng ven trên địa bàn thị xã. Cụ thể, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn trên địa bàn thị xã tính đến tháng 6-2020 là 52,5 triệu đồng/người/năm (tăng trên 4,3 triệu đồng so với năm 2019); tăng 1,29 lần so với cuối năm 2015 và tăng 3,7 lần so với cuối năm 2011. Qua đó, TX. Cai Lậy có 10/10 xã đạt tiêu chí Thu nhập của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2017 - 2020.

Theo đồng chí Võ Thị Búp, trong thời gian tới, Thị ủy, UBND TX. Cai Lậy sẽ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn; tập trung các giải pháp, huy động tối đa mọi nguồn lực để phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển thủy sản, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ…

Cùng với đó, UBND TX. Cai Lậy tiếp tục xây dựng và phát triển thêm nhiều HTX nông nghiệp, dịch vụ làm đầu mối trong hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ; phát triển nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ gắn với vùng sản xuất nông nghệp hàng hóa lớn; thu hút doanh nghiệp đến đầu tư, dạy nghề và giới thiệu việc làm… để nâng cao thu nhập cho người dân.

CAO THẮNG

Thu nhập cao từ trồng nấm

Nguồn tin: Báo Thái Bình

Kỹ thuật đơn giản, nhanh thu hoạch, chi phí nguyên liệu thấp mà giá bán lại cao, cung không đủ cầu... - đó là nhận xét của bà Phạm Thị Phượng, thôn Thượng Cầm, xã Vũ Lạc (thành phố Thái Bình) khi trao đổi về mô hình trồng nấm sò.

Mô hình trồng nấm của bà Phạm Thị Phượng, thôn Thượng Cầm, xã Vũ Lạc (thành phố Thái Bình).

Bắt đầu trồng nấm sò và mộc nhĩ cách đây 20 năm nhưng 5 năm trở lại đây bà Phượng mới đầu tư phát triển mạnh mô hình trồng nấm sò.

Bà Phượng cho biết: Thấy bà con đốt rơm rạ nhiều ảnh hưởng tới sức khỏe mọi người, qua sách báo, tôi tìm hiểu về mô hình trồng nấm, hiệu quả mang lại thu nhập cho gia đình ổn định.

Dẫn chúng tôi tham quan khu lán trồng nấm ngay trên thửa đất của gia đình, bà Phượng cho biết thêm, hiện nay gia đình có 1 lán trồng nấm với diện tích 2 sào. Thời điểm thích hợp để trồng nấm là từ tháng 7 năm trước đến tháng 2 năm sau với khoảng 1 vạn bịch nấm giống.

Để có nấm đạt tiêu chuẩn, theo bà Phượng, các khâu sản xuất phải được thực hiện theo quy trình khép kín và “sạch từ đầu vào cho tới đầu ra”. Mỗi bịch nấm được làm từ bông tự nhiên và mùn cưa, rơm rạ, nước sử dụng để tưới nấm là nước sạch. Tất cả các nguyên liệu đều được chọn lọc, vệ sinh kỹ càng, không sử dụng thuốc trừ sâu, chất bảo quản hay bị tác động bằng hóa học. Ngoài ra, người trồng nấm phải thường xuyên trông coi để lán tuyệt đối không có côn trùng, đồng thời không bị ảnh hưởng bởi tác động từ các yếu tố thời tiết, nhiệt độ. Trồng nấm cho thu lợi nhuận gấp nhiều lần so với trồng lúa bởi nấm là cây dễ tính, ít sâu bệnh và không đòi hỏi nhiều công chăm sóc, vốn đầu tư không cao, thời gian sản xuất rất ngắn, nhanh cho thu hoạch nên thường xuyên quay vòng vốn. Những năm gần đây, thị trường tiêu thụ nấm rất rộng. Nấm sản xuất đến đâu, tiêu thụ hết đến đó, thậm chí có thời điểm “cháy hàng”. Mỗi ngày, bà thu hái từ 20 - 40kg nấm; thời điểm nấm ra nhiều cho sản lượng lên đến gần 1 tạ/ngày. Hiện giá bán buôn nấm khoảng 30.000 đồng/kg, mỗi năm gia đình bà Phượng thu lãi hơn 100 triệu đồng. Lúc cao điểm, bà thuê thêm 5 người làm với thu nhập khoảng 200.000 đồng/người/ngày. Mô hình trồng nấm của bà Phượng dần trở thành địa chỉ tin cậy cho khách hàng trong và ngoài xã.

Chị Hoàng Thị Trang, tổ 9, phường Hoàng Diệu (thành phố Thái Bình) cho biết: Nấm sò nhiều dinh dưỡng và có nhiều cách để chế biến nấm sò thành các món ăn khác nhau. Đến mua nấm tại cơ sở của bà Phượng, tôi thấy yên tâm vì có nguồn gốc rõ ràng, được tận mắt thấy quy trình sản xuất.

Chị Phạm Thị Thủy, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Vũ Lạc cho biết: Hội Liên hiệp Phụ nữ xã luôn động viên, khích lệ phụ nữ mạnh dạn khởi nghiệp, phát triển kinh tế tại địa phương. Riêng với mô hình trồng nấm của bà Phạm Thị Phượng, chúng tôi đang quảng bá sản phẩm ra thị trường, nếu bà Phượng có nhu cầu chúng tôi sẵn sàng tiếp tục giúp đỡ về hồ sơ vay vốn, kỹ thuật sản xuất... Từ hiệu quả của mô hình này, Hội Liên hiệp Phụ nữ xã Vũ Lạc tiếp tục nhân rộng, giúp chị em mạnh dạn đầu tư sản xuất, kinh doanh, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng thu nhập và giải quyết việc làm cho phụ nữ trên địa bàn.

Xuân Phương

Bình Định: Lợi nhuận từ sản xuất lúa lai tăng 3,5 triệu/ha so với lúa thuần

Nguồn tin: Báo Bình Định

Theo ông Trần Văn Phúc, Quyền Giám đốc Sở NN&PTNT Bình Định, chính sách hỗ trợ lúa lai cho đồng bào các dân tộc thiểu số phát huy hiệu quả tích cực.

Trong 2 năm 2019-2020, ngân sách tỉnh và ngân sách các huyện hỗ trợ 244.573 kg giống lúa lai trị giá hơn 16,6 tỷ đồng để sản xuất 5.435 ha lúa lai các loại. Trên cùng một diện tích sản xuất, dù chi phí sản xuất lúa lai cao hơn lúa thuần khoảng 2,5 triệu đồng/ha, nhưng năng suất lúa tăng cao hơn 10 tạ, sau khi trừ chi phí tăng thêm, lợi nhuận sản xuất lúa tai tăng 3,5 triệu/ha so với lúa thuần.

Sản xuất lúa lai còn là giải pháp tạo sinh kế ổn định, đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ, nhiều hộ dân còn dư thừa phục vụ chăn nuôi hoặc bán để tăng thu nhập, góp phần hạn chế tình trạng phá rừng làm nương rẫy.

TIẾN SỸ

Mô hình trồng nấm mối đen hữu cơ - hướng đi mới cho nông dân

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang

Nắm bắt được nhu cầu tiêu thụ nấm mối đen ngày càng cao của người tiêu dùng, anh Nguyễn Tấn Lương (sinh năm 1995) ngụ ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Hạnh Trung, thị xã Cai Lậy (tỉnh Tiền Giang) đã quyết định đầu tư nhà xưởng khép kín trồng nấm theo hướng hữu cơ để cung ứng cho thị trường. Sau gần 01 năm triển khai thực hiện, đến nay mô hình trồng nấm mối đen của anh Lương đã thành công, đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho gia đình.

Anh Lương cho biết, trước đây, gia đình anh nuôi trên 250 con heo thịt và con heo sinh sản, tuy nhiên sau khi dịch tả lợn Châu Phi xuất hiện và lây lan rộng ở nhiều địa phương trên địa bàn thị xã Cai Lậy, gia đình anh Lương cũng bị ảnh hưởng nên phải tiêu hủy toàn bộ số heo nuôi. Trước tổn thất nặng nề về kinh tế do ảnh hưởng của dịch bệnh nên sau khi tốt nghiệp ra trường chuyên ngành Xây dựng, anh Lương quyết định về quê nhà lập nghiệp. Qua nghiên cứu, tìm tòi trên mạng Internet về kỹ thuật trồng nấm mối đen hữu cơ, đồng thời tham quan nhiều mô hình trồng nấm cho hiệu quả kinh tế cao ở tỉnh Đồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh, anh Lương nhận thấy điều kiện khí hậu địa phương thích hợp để trồng nấm nên anh ấp ủ ý tưởng và bàn bạc với gia đình để thực hiện. Tháng 9/2019, được sự ủng hộ từ gia đình, anh Lương đã mạnh dạn đầu tư xây dựng nhà xưởng khép kín để trồng nấm mối đen hữu cơ, qua gần 01 năm thực hiện, mô hình này đã mang lại nguồn thu nhập ổn định cho gia đình anh.

Để hoàn thiện mô hình này, gia đình anh Lương đã đầu tư 400 triệu đồng xây dựng nhà xưởng với diện tích trên 300m². Đây là mô hình hoàn toàn khép kín, sử dụng hệ thống làm mát tự động để cân đối nhiệt độ và phun sương, đảm bảo nhiệt độ phòng luôn ở mức 26 - 280C, thích hợp cho nấm mối đen sinh trưởng và phát triển, đạt năng suất, chất lượng cao.

Anh Lương chia sẻ, chu kỳ trồng nấm theo phương pháp hữu cơ trong khoảng thời gian 04 tháng là có thể cho thu hoạch nhưng đòi hỏi kỹ thuật rất khắt khe từ khâu xử lý phôi nấm đến khâu nuôi trồng, phải đảm bảo sạch hoàn toàn. Do đó, sau khi thu hoạch nấm phải xử lý tốt khâu khử trùng môi trường cho đợt trồng tiếp theo. Để tìm nguồn nguyên liệu sạch, an toàn cho quá trình trồng nấm, anh Lương đã liên kết với doanh nghiệp ở tỉnh Đắk Lắk mua meo giống và cung cấp cho các hộ trồng nấm mối đen có nhu cầu.

Hiện với 300m² nhà xưởng khép kín, gần 8.000 phôi giống, sau quá trình ủ tối, ủ sáng, kích ẩm, phủ cát và chờ ra nấm. Nấm mối đen mọc đơn lẻ, nên khi cây nào đủ trưởng thành sẽ được hái trước, hái sạch gốc. Nấm cao khoảng 07 - 10cm là thu hoạch được, viền trắng nấm không còn nữa, màu cánh nấm chuyển sang màu đen, các cây nấm không đạt yêu cầu được phân loại để riêng và bảo quản trong ngăn mát tủ lạnh để chờ vận chuyển đến nơi tiêu thụ. Mỗi ngày thu hoạch nấm vào buổi sáng, chiều và tối, năng suất tập trung chủ yếu ở đợt 01, trung bình mỗi ngày thu hoạch trên 10kg và kéo dài cho đến khi hết nấm. Thời gian thu hoạch kéo dài khoảng 16 ngày đối với mỗi đợt. Hiện nay, nhu cầu tiêu thụ nấm mối đen trên thị trường rất lớn, vì vậy, ngay từ khi bắt đầu, anh Lương đã chọn sản xuất theo hướng hữu cơ để tạo ra sản phẩm nấm đảm bảo an toàn cho sức khỏe người tiêu dùng. Với giá nấm mối đen trung bình từ 250.000 - 300.000 đồng/kg, một mùa nấm kéo dài khoảng 04 tháng, anh Lương thu lãi trên 100 triệu đồng. Anh đã liên kết với công ty ở Thành phố Hồ Chí Minh để bao tiêu sản phẩm nấm mối đen.

Bên cạnh việc xây dựng nhà xưởng, kỹ thuật trồng nấm mối đen theo công nghệ 4.0, anh Lương còn hướng dẫn kỹ thuật trồng nấm, lắp đặt nhà xưởng cho nhiều hộ nông dân ở trong tỉnh và các tỉnh lân cận.

Ông Nguyễn Văn Chí, Chủ tịch Hội Nông dân xã Mỹ Hạnh Trung cho biết: "Qua quá trình theo dõi "Mô hình trồng nấm mối đen hữu cơ" của anh Nguyễn Tấn Lương, tuy đây là một mô hình sản xuất mới, nhưng đầu ra sản phẩm ổn định, giá bán cao. Thời gian tới, Hội Nông dân xã sẽ tuyên truyền trong hội viên và người dân có điều kiện để nhân rộng mô hình này, giúp nông dân phát triển kinh tế".

Mô hình trồng nấm mối đen hữu cơ, ứng dụng công nghệ cao vừa mang tính đột phá, vừa mở ra hướng sản xuất mới cho nhiều hộ nông dân với hiệu quả kinh tế cao, qua đó, góp phần cung ứng nguồn nông sản sạch, đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng.

Hải Vân

Trồng lúa thời công nghệ

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Mô hình gieo sạ, cấy lúa, bón phân bằng máy, cùng hệ thống tưới tiêu thông minh điều khiển từ xa, kết hợp máy bay không người lái để phun thuốc trừ sâu trên đồng ruộng đang được nông dân Đồng Tháp thực hiện.

Đưa máy móc vào sản xuất lúa ở ĐBSCL

Mô hình gieo sạ, cấy lúa, bón phân bằng máy, cùng hệ thống tưới tiêu thông minh điều khiển từ xa, kết hợp máy bay không người lái để phun thuốc trừ sâu trên đồng ruộng đang được nông dân Đồng Tháp thực hiện. Với mô hình này, nông dân vừa tiết kiệm ngày công lao động, vừa nâng cao thu nhập, tạo ra chuỗi liên kết sản xuất, tiêu thụ hiệu quả, đặc biệt là bảo vệ tốt môi trường và sức khỏe người dân.

Ứng dụng công nghệ

Xã Mỹ Đông thuộc huyện Tháp Mười (Đồng Tháp) có diện tích trồng lúa trên 2.700ha. Nơi đây đang triển khai mô hình “Cánh đồng sản xuất lúa tiên tiến tiết kiệm nước, ứng dụng các giải pháp công nghệ 4.0”, quy mô khoảng 170ha thu hút nhiều nông dân tham gia.

Theo Sở NN-PTNT tỉnh Đồng Tháp, mục tiêu của mô hình sản xuất lúa tiên tiến là áp dụng đồng bộ các giải pháp kỹ thuật, ứng dụng cơ giới toàn diện trong sản xuất; hình thành chuỗi liên kết và tiêu thụ, nhằm tiết kiệm công lao động, giảm thất thoát, nâng cao hiệu quả sản xuất và tăng thu nhập cho nông dân.

Ngoài ra, mô hình còn giúp người dân nâng cao năng lực và áp dụng tốt các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất. Qua đó, chủ động quản lý và tổ chức canh tác theo hướng hiện đại. Nơi đây còn tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân giao lưu học hỏi, trao đổi kinh nghiệm về sản xuất lúa tiên tiến.

Nông dân tham gia mô hình sẽ áp dụng cơ giới toàn diện từ khâu làm đất, xuống giống, đến thu hoạch. Sử dụng giống lúa chất lượng cao, áp dụng phương pháp cấy máy, bón vùi phân, kỹ thuật tưới ngập - khô xen kẽ trong quản lý nước, phun thuốc bảo vệ thực vật bằng máy bay không người lái, ghi chép nhật ký sản xuất và truy xuất nguồn gốc bằng điện thoại thông minh… Đặc biệt, mô hình có hợp đồng tiêu thụ với doanh nghiệp, nên nông dân không lo đầu ra.

Phó Chủ tịch UBND xã Mỹ Đông Đoàn Văn Tuấn cho biết, dự án được triển khai từ năm 2017, đến nay hoàn thành với tổng mức đầu tư gần 26 tỷ đồng. Thật ra, ban đầu cũng có những khó khăn, nhất là khâu xây dựng hạ tầng, chính quyền địa phương phải vận động người dân hiến đất để đầu tư giao thông nội đồng. Lúc đó người dân chưa hiểu lợi ích mô hình, nên ngán ngại; sau khi vận động nhiều hộ đã tự nguyện tham gia.

Đến nay, vùng dự án được đầu tư trạm bơm điện đảm bảo tưới tiêu cho 170ha đất sản xuất lúa; kênh bê tông có chiều dài 4.317m dẫn nước tưới từ trạm bơm đến ruộng lúa, đồng thời tiêu thoát nước trong mùa mưa lũ; hệ thống quan trắc mực nước từ xa bằng điện thoại di động để vận hành máy bơm; làm đường giao thông nội đồng bằng bê tông, chiều dài hơn 3.600m, rộng 3m, tải trọng 5 - 6 tấn. Ngoài ra, mô hình còn áp dụng thiết bị máy tích hợp đa tính năng vừa sạ, cấy máy và bón vùi phân cùng lúc.

Bảo vệ sức khỏe nông dân

Phòng NN-PTNT huyện Tháp Mười cho biết, trước đây nông dân có thói quen sạ dày, nay dùng máy để sạ lúa nên tiết kiệm được lượng giống. Khi xuống giống phải theo lịch chung của huyện và liên kết với các công ty tiêu thụ. Đối với lúa giống, nông dân được hỗ trợ 900 đồng/kg lúa tươi; khi tới mùa thu hoạch, nhân viên của công ty đến ruộng định ngày cắt và chốt giá theo thị trường để thu mua.

Có thể nói, mô hình sản xuất lúa 4.0 giảm chi phí đầu vào, tiết kiệm nhân công lao động. Đặc biệt, áp dụng phun thuốc bằng máy bay không người lái sẽ cho năng suất cao gấp khoảng 20 lần so với phun thủ công, tiết kiệm khoảng 30% lượng thuốc bảo vệ thực vật so với truyền thống. Điều quan trọng là đảm bảo an toàn sức khỏe cho nông dân và mang lại hiệu quả cao. Mặt khác, tại các tuyến giao thông nội đồng được bố trí các hố chứa rác thải nông nghiệp (bao bì, chai, lọ). Sau đó, có đơn vị chuyên dụng đến tận nơi thu gom rác thải mang đi xử lý, không ô nhiễm môi trường.

Ủng hộ mô hình này, ông Nguyễn Văn Tám Sĩ (xã Mỹ Đông) tự nguyện hiến hơn 2 công đất để làm lộ nội đồng, giúp việc vận chuyển lúa thuận lợi. Tương tự, ông Nguyễn Văn Đồng (xã Mỹ Đông) cũng tự nguyện hiến khoảng 1 công đất làm giao thông. Ông Đồng cười hiền: “Thấy nhiều cái lợi từ mô hình sản xuất lúa 4.0 nên gia đình tôi rất ủng hộ”. Theo ông Đồng, nông dân tham gia mô hình được hỗ trợ phân bón, thuốc trừ sâu, được cán bộ nông nghiệp đến tận ruộng tư vấn kỹ thuật… tất cả đều miễn phí.

Trưởng phòng NN-PTNT huyện Tháp Mười Bùi Văn Sơn nhận xét: “Qua kiểm định thực tế, lợi nhuận từ mô hình này tăng 1,9 - 2,1 triệu đồng/ha so sản xuất bên ngoài. Điều quan trọng là giúp nông dân thay đổi tư duy từ sản xuất truyền thống sang sản xuất hiện đại, đáp ứng tốt nhu cầu thị trường tiêu thụ, hướng đến nền sản xuất lúa gạo bền vững, đảm bảo môi trường…”.

Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp Nguyễn Thanh Hùng đánh giá cao kết quả bước đầu mang lại. Mô hình đã huy động được sự tham gia đầy đủ của đại diện chuỗi liên kết sản xuất lúa gạo gồm doanh nghiệp, nông dân, nhà khoa học, chính quyền… tạo nên sự gắn kết phát triển ngành hàng lúa gạo. Vui mừng nhất là mô hình đã bảo vệ tốt sức khỏe cho nông dân, góp phần thực hiện thành công tái cơ cấu ngành nông nghiệp của tỉnh và sẽ được nhân rộng trong thời gian tới.

QUỐC AN

Tổng đàn heo của Đồng Nai đang phục hồi nhanh

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Đồng Nai

Hiện tổng đàn heo của Đồng Nai đạt gần 2,2 triệu con, tăng 9,73% so với cùng kỳ năm ngoái; tăng hàng trăm ngàn con so với thời điểm tổng đàn thiệt hại mạnh do ảnh hưởng của dịch tả heo châu Phi. Trong đó, hơn 80% tổng đàn heo chăn nuôi theo quy mô công nghiệp.

Nhiều doanh nghiệp, trang trại chăn nuôi heo đang tích cực tái đàn, tăng đàn. Ảnh trang trại nuôi heo ở huyện Vĩnh Cửu.

Nguyên nhân tổng đàn heo hiện nay tăng là hầu hết các đơn vị chăn nuôi có qui mô lớn có đủ điều kiện an toàn đảm bảo công tác tái đàn, đảm bảo nguồn con giống cung cấp ra thị trường. Đặc biệt nhiều công ty lớn trong ngành chăn nuôi như: Công ty CP Chăn nuôi C.P Việt Nam, Công ty TNHH Japfa Comfeed Việt Nam, Công ty Chăn nuôi CP Việt Nam, Công ty TNHH CJ ViNa Agri…thuê lại các chuồng trại để trống trước đây để tiếp tục mở rộng qui mô chăn nuôi.

Theo số liệu từ Cục Thống kê Đồng Nai, trong 9 tháng năm 2020, sản lượng thịt gia súc trên địa bàn tỉnh đều tăng so với cùng kỳ năm ngoái. Cụ thể, so với cùng kỳ, lũy kế 9 tháng, sản lượng thịt heo đạt gần 323 ngàn tấn, tăng 1,2%; sản lượng thịt bò đạt trên 3 ngàn tấn, tăng 3,2%; thịt trâu đạt 170 tấn, tăng gần 2,8%.

Phan Anh

Nuôi heo trong nhà lạnh

Nguồn tin: Báo Cần Thơ

Nhiều năm đi cắt lúa mướn và làm thuê đủ nghề nhưng cuộc sống vẫn khó khăn. Gần 20 năm trước, từ con heo đầu tiên mua bằng tiền tích cóp, đến nay bà Lương Thanh Hương, ở xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, đã trở thành tỉ phú giữa Đồng Tháp Mười.

Hướng đi đúng

Bà Hương đang chăm sóc đàn heo giống mới nhập về.

Giữa lúc bệnh dịch tả heo châu Phi hoành hành khắp nơi thì trang trại heo của bà Hương vẫn an toàn tuyệt đối. Thành công này chính là nhờ cách nuôi heo trong nhà lạnh mà bà đã học hỏi rồi thực hiện theo khá thành công. Bà Hương kể, trước đây bà từng làm đủ nghề kiếm sống, đến mùa vụ, bà lại đi khắp nơi cắt lúa mướn. Nghề cắt lúa cực nhọc nhưng cuộc sống không khá hơn bao nhiêu. “Gần 20 năm trước, thấy một số hộ gần nhà nuôi heo có cuộc sống rất khá nên tôi dành dụm tiền mua 1 con heo về nuôi, sau đó để nái luôn. Từ con heo này, tôi gầy đàn từ từ thành trang trại như ngày nay” - bà Hương kể.

Bà Hương cho biết, sau nhiều năm chăn nuôi heo tích góp, bà mua thêm đất để xây dựng chuồng trại khá cơ bản để phục vụ nuôi heo. Mua thêm bao nhiêu đất, bà đều tính toán để mở rộng trại nuôi. Trong quá trình nuôi, bà tích cực tham gia các lớp tập huấn kỹ thuật chăn nuôi của ngành Nông nghiệp, rồi tham quan chuồng trại của các hộ khác để học hỏi thêm kinh nghiệm, giúp việc nuôi đạt hiệu quả hơn. Bà Hương còn là nhà phân phối thức ăn cấp 1 cho các công ty. Phần hoa hồng bán thức ăn hằng tháng gần đủ chi tiền thức ăn cho đàn heo nên giúp phần lời trong chăn nuôi cao hơn. “Hiện nay, theo cách nuôi của tôi, sau khi trừ hết chi phí, lời trên 2,8 triệu đồng/con. Ngoài ra, tôi còn liên kết với các công ty để bán con giống, nhờ đó giống sản xuất đều đảm bảo có đầu ra”.

Theo bà Hương, lúc cao điểm, trại heo của bà có khoảng 1.000 con heo, gồm nái và heo thịt. Thế mạnh của bà là nuôi heo nái để bán giống cho bà con trong vùng và liên kết cung cấp giống cho các công ty chăn nuôi. Những năm gần đây, khi dịch heo tai xanh, dịch tả heo châu Phi hoành hành, làm cho người chăn nuôi điêu đứng, trại heo của bà Hương có lần cũng thua lỗ vì dịch bệnh. Nhưng với niềm đam mê chăn nuôi, bà Hương quyết tìm ra giải pháp để tháo gỡ khó khăn. Trong đó, nuôi theo phương pháp an toàn sinh học là tiêu chí hàng đầu nhằm đảm bảo heo sinh trưởng, phát triển tốt và đặc biệt không nhiễm bệnh. “Thực tế cho thấy, nuôi heo theo cách truyền thống chỉ phù hợp nuôi nhỏ lẻ, còn quy mô trang trại thì phải nuôi đảm bảo an toàn sinh học. Khi nghe ở đâu có trang trại nuôi heo thành công là tôi liền thu xếp đến tham quan, học hỏi nhưng chưa tâm đắc với mô hình nào. Năm 2014, công ty thức ăn cho đi tham quan mô hình chăn nuôi trong nhà lạnh ở Trà Vinh; qua đó, tác động suy nghĩ và tạo động lực để tôi chuyển hướng sản xuất nhằm đảm bảo bền vững cho nghề chăn nuôi” - bà Hương kể.

Quyết tâm làm ăn lớn

Sau khi tham quan mô hình ở Trà Vinh, bà Hương xin bản vẽ của chủ trại rồi về bán 15 công đất cộng với tiền tích cóp đầu tư xây dựng chuồng trại nuôi heo theo hướng an toàn sinh học và có hệ thống làm lạnh bằng hơi nước. Theo bà Hương, đến nay bà đã đầu tư hơn 3 tỉ đồng để xây dựng hoàn thiện trang trại, dành riêng khoảng 4 công đất làm khu xử lý chất thải để đảm bảo khu vực trại nuôi sạch sẽ, thoáng mát, an toàn vệ sinh, nước thải ra được đưa ra qua hệ thống xử lý, phân ủ làm biogas, nuôi cá.

Sau khi hoàn thiện hệ thống trại, toàn bộ heo được bà Hương cách ly đảm bảo sạch bệnh. Sau đó, heo được đưa vào nuôi trong phòng có hệ thống làm lạnh, có sổ theo dõi tiêm phòng nghiêm ngặt, công tác vệ sinh môi trường xung quanh cũng được thực hiện, vì vậy hạn chế ảnh hưởng của dịch bệnh. Ngoài ra, nhiệt độ môi trường được đảm bảo mát mẻ giúp đàn heo tăng trưởng nhanh, heo khỏe mạnh, có sức đề kháng tốt nên ít dịch bệnh. Nhờ đó, thời gian nuôi được rút ngắn, tăng hiệu quả chăn nuôi. Bà Hương cho biết: “Để đảm bảo an toàn cho đàn heo, trước hết mô hình phải khép kín, khu heo thịt, heo nái phải chia ra, trại nuôi kín muỗi, kín gió, sát trùng chuồng trại mỗi tuần một lần, người ra vào trại phải sát trùng. Heo thả nuôi phải tiêm phòng đầy đủ vắc- xin. Nếu không xử lý kỹ chuồng heo, có mùi, heo sẽ đau mắt, hoặc sặc phân, dẫn đến bệnh phổi”.

Hiện tại, heo giống từ trại nuôi của bà Hương không những được tiêu thụ mạnh trên địa bàn tỉnh mà còn là địa chỉ tin cậy của người chăn nuôi ở các tỉnh thành lân cận. Mỗi năm, trang trại của bà xuất chuồng nhiều lứa heo, sau khi trừ chi phí lời hơn tỉ đồng. Hôm chúng tôi đến thăm cũng là lúc bà đang nhập khoảng 10 con heo giống về để nái. Những con heo này được bà đưa về để tuyển chọn, thay dần heo giống trong trại hiện nay. “Tôi đang cho cách ly đàn heo mới này để xử lý đảm bảo an toàn, sau đó mới đưa vô khu nhà lạnh. Chúng sẽ góp phần thay dần đàn heo giống để có giống tốt chăn nuôi trong tương lai” - bà Hương nói.

Theo thống kê của ngành Nông nghiệp huyện Tháp Mười, thời gian qua, có trên 45% đàn heo trên địa bàn bị tiêu hủy do dịch tả heo châu Phi, chủ yếu là ở các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, không đảm bảo an toàn vệ sinh chăn nuôi. Ông Võ Văn Dũng, Giám đốc Trung tâm dịch vụ nông nghiệp huyện Tháp Mười, cho biết: “Từ thực tế cho thấy bà con muốn nuôi hiệu quả, cần đầu tư mô hình khép kín và ứng dụng khoa học công nghệ. Trong đó, việc nuôi heo bằng hệ thống lạnh đang chứng tỏ ưu điểm vì giúp heo phát triển nhanh và phòng bệnh dịch hiệu quả. Từ hiệu quả thực tế mô hình của bà Hương, Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp huyện đã xây dựng kế hoạch thực hiện mô hình Ứng dụng công nghệ cao trong nuôi heo an toàn sinh học với số lượng khoảng 200 heo thịt ở xã Tân Kiều”.

Bài, ảnh: BÌNH NGUYÊN

Gò Công Tây (Tiền Giang): Nghề nuôi ngựa truyền thống vẫn còn tồn tại và mang lại giá trị kinh tế cao

Nguồn tin: Cổng TTĐT tỉnh Tiền Giang

Tại ấp Thuận Trị, xã Bình Tân của huyện Gò Công Tây (Tiền Giang) nổi tiếng với nghề nuôi ngựa truyền thống. Đâu đó trên những đoạn đường quê, người ta thường hay bắt gặp những cỗ xe ngựa chở hàng hóa, nông sản giúp cho bà con nơi đây.

Người dân của xã Bình Tân tận dụng những khoảnh đất trống để trồng cỏ và chăn thả ngựa. Nghề nuôi ngựa ở đây có từ lâu đời, đây là một nghề không chỉ góp phần giữ gìn nét văn hóa truyền thống của địa phương mà còn tạo nguồn thu nhập cho người dân.

Gia đình anh Bùi Minh Khải, ngụ ấp Thuận Trị, xã Bình Tân, nổi tiếng hơn 03 thế hệ chăn nuôi ngựa. Hiện tại, đàn ngựa của gia đình anh có trên 10 con, ngoại trừ 02 cặp ngựa giống bố mẹ, còn có trên 7 con ngựa tơ với các giống ngựa Hồng, ngựa Giang màu sắc nâu hồng, đen nâu bóng loáng, mạnh khỏe có giá trị kinh tế cao, từ 24 - 35 triệu đồng/con. Anh cho biết, ngựa là con vật dễ nuôi, thức ăn cho ngựa chủ yếu là cỏ tươi, rơm rạ và bổ sung thêm cho ngựa một ít lúa vào buổi tối để vỗ béo. Ngày nào nắng đẹp, người nuôi thường chăn thả cho ngựa ra ăn cỏ và phơi nắng để ngựa có sức đề kháng tốt, ngoài ra cũng cần vệ sinh chuồng trại sạch sẽ để ngựa có môi trường sống khỏe mạnh, không bị bệnh.

Hầu hết các giống ngựa nuôi đều rất hiền và thân thiện với con người, ăn uống lại dễ, vì thế cũng không tốn công chăm sóc. Chu kỳ sinh trưởng của ngựa tương tự như bò nhưng thời gian mang thai lâu hơn bò khoảng hơn 10 tháng (01 chu kỳ mang thai), ngựa con ra đời hơn 01 năm tuổi là trưởng thành mạnh khỏe và có thể xuất chuồng. Mỗi năm, người nuôi ngựa xuất bán trung bình từ 05 - 06 con ngựa tơ, mang về thu nhập hàng trăm triệu đồng.

Hiện tại, trên địa bàn huyện Gò Công Tây chỉ có duy nhất xã Bình Tân là xã có nghề chăn nuôi ngựa. Theo người dân xã Bình Tân, họ nuôi ngựa quanh năm suốt tháng trong nhà, mỗi ngày chăn thả cho đi ăn cỏ, tắm cho ngựa. Ngựa có thể là con vật vận chuyển hàng hóa, có thể cung cấp cho khách hàng khắp nơi trong và ngoài tỉnh mang về làm con vật nuôi phục vụ các giải đua ngựa, hay phục vụ ngành du lịch. Đồng thời, ngựa cũng là nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao cung cấp cho người dân vào các dịp lễ, Tết.

Có thể thấy, nghề nuôi ngựa là một nghề rất đặc biệt của huyện Gò Công Tây, hướng tới đây ngành nông nghiệp huyện cần có sự quan tâm hướng dẫn cũng như hỗ trợ cho người chăn nuôi tại xã Bình Tân để góp phần duy trì nét đẹp văn hóa và phát triển kinh tế cho người dân nơi đây.

Kim Lan - Quốc Nam

Tăng cường giám sát dịch bệnh trên đàn vật nuôi sau lũ lụt

Nguồn tin: Báo Quảng Bình

Do mưa lớn kéo dài liên tiếp nhiều ngày qua, trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã phải gánh chịu đợt lũ lịch sử “lũ chồng lũ” trên diện rộng, gây thiệt hại lớn về tài sản, con người. Thực hiện chỉ đạo của Sở Nông nghiệp-PTNT, cùng với hoạt động cứu trợ, hỗ trợ người dân khắc phục thiệt hại sau lũ lụt, Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh đã có công văn hướng dẫn bà con nông dân các biện pháp phòng, chống dịch bệnh động vật sau mưa lũ.

Theo thông tin ban đầu của Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh nắm từ các địa phương (ngày 22-10-2020), trong đợt lũ lụt vừa qua, đàn vật nuôi trên địa bàn tỉnh bị ảnh hưởng nặng nề. Lũ lụt đã cuốn trôi và làm chết 30.434 con trâu, bò; 102.504 con lợn; 2,1 triệu con gia cầm của người dân.

Sau lũ lụt, nhiều loại chất thải rắn còn tồn ứ trong môi trường, cộng với khí hậu ẩm ướt là điều kiện thuận lợi để các loại dịch bệnh phát sinh, ảnh hưởng đến đàn vật nuôi. Trong đó, loại dịch bệnh dễ xuất hiện nhất là bệnh Niu-cát-xơn ở gà (người dân hay gọi là bệnh gà rù hay cú rụ); bệnh này do vi rút gây ra nên không có thuốc để điều trị, gà mắc bệnh sẽ chết trong vòng từ 7-10 ngày. Bên cạnh đó, sau mưa lũ cũng dễ phát sinh các bệnh, như: tụ huyết trùng và cúm gia cầm; bệnh tả ở vịt; lở mồm long móng (LMLM) ở trâu, bò; dịch tả, phó thương hàn và LMLM ở lợn.

Sau mưa lũ, bệnh cúm gia cầm, tả dễ phát sinh trên gia súc, gia cầm.

Ông Trần Công Tám, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh cho biết, để hạn chế mầm bệnh phát sinh lây lan, Chi cục đã có công văn hướng dẫn cụ thể một số biện pháp phòng, chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi sau mưa lũ.

Cụ thể, đối với đàn gia súc, gia cầm (GSGC), người chăn nuôi cần tổ chức thu gom toàn bộ bùn đất, phân, chất thải, rác thải, quét dọn, lau chùi… tại khu vực chuồng nuôi và khu vực tiếp giáp xung quanh; rắc vôi, đóng vào bao hoặc đào hố ủ phân; thu gom, xử lý GSGC chết theo hướng dẫn của cơ quan thú y địa phương. Sau đó, các hộ chăn nuôi phải tiến hành tổ chức vệ sinh, tiêu độc khử trùng (VSTĐKT) môi trường đại trà với tinh thần nước rút tới đâu thì VSTĐKT tới đó nhằm tiêu diệt, hạn chế mầm bệnh tồn tại và phát triển. Cần phun tiêu độc khử trùng toàn bộ chuồng nuôi và khu vực xung quanh liên tục 1 lần/2 ngày trong vòng 1 tuần đầu tiên bằng các loại hóa chất thuộc danh mục thuốc thú y được phép lưu hành tại Việt Nam, như: Benkocid, Han-Iodine, Vinadin, Virkon...

Bên cạnh đó, người chăn nuôi vẫn phải tiếp tục rà soát, tổ chức tiêm phòng bổ sung đầy đủ các loại vắc xin; tăng cường chăm sóc, nuôi dưỡng, tăng khẩu phần ăn để nhanh chóng phục hồi sức khỏe cho đàn vật nuôi; thường xuyên giám sát, theo dõi tình hình dịch bệnh GSGC, đặc biệt là các vùng có nguy cơ cao, ổ dịch cũ để kịp thời xử lý.

Đối với thủy sản nuôi, người dân cần thu gom, xử lý thủy sản bị chết theo hướng dẫn của cơ quan thú y địa phương; kiểm tra, xử lý các yếu tố môi trường tại ao, đầm, nơi đặt lồng bè hoặc di chuyển lồng bè đến nơi thích hợp. Các hộ nuôi cũng cần bổ sung vitamin hoặc chế phẩm sinh học, theo dõi sức khỏe của thủy sản nuôi để có biện pháp xử lý kịp thời; sử dụng thuốc, hóa chất tiêu độc khử trùng để xử lý môi trường ao nuôi, hệ thống cấp nước sau mưa lũ.

Ông Tám cho biết, để hỗ trợ bà con trong công tác phòng, chống dịch bệnh cho đàn vật nuôi, trước mùa mưa lũ, Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh đã cấp, phát cho các địa phương 100.000 liều vắc xin LMLM, 50.000 liều vắc xin tụ huyết trùng trâu, bò; 100.000 liều vắc xin dịch tả lợn; 20.000 liều vắc xin tai xanh lợn; 2 triệu liều vắc xin cúm gia cầm; 20.000 lít hóa chất Benkocid; 20.000 hóa chất Iodine. Hiện tại, Trung ương đã hỗ trợ cho tỉnh 10.000 lít hóa chất Benkocid, Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh đang khẩn trương triển khai phương án để hỗ trợ cho người dân.

Cùng với công tác phòng, chống dịch bệnh sau mưa lũ, Chi cục Chăn nuôi và Thú y tỉnh cũng đang phối hợp với các địa phương trên địa bàn triển khai phương án để khôi phục, tái đàn vật nuôi, giúp bà con nông dân khắc phục hậu quả, sớm ổn định cuộc sống…

Lê Mai

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop