Tin nông nghiệp ngày 29 tháng 02 năm 2020

Trang chủ»Tin tức»Tin nông nghiệp ngày 29 tháng 02 năm 2020

Nông dân An Giang thời nay

Nguồn tin:  Báo An Giang

Với sự chịu khó học hỏi, tiếp cận khoa học - kỹ thuật nên nông dân An Giang đã có bước tiến mới về tư duy sản xuất và trình độ canh tác. Tuy nhiên, để họ có thể nâng cao thu nhập và trở thành hộ khá, giàu thì cần có sự hỗ trợ của các cấp, ngành trong việc tiếp cận thị trường một cách đa dạng hơn.

Nông dân An Giang đã mạnh dạn áp dụng những mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

Tư duy làm ăn tập thể

Ông Nguyễn Văn Thẳng (nông dân xã Khánh Hòa, Châu Phú) đã tham gia tổ hợp tác (THT) sản xuất nhãn xuồng của địa phương hơn 1 năm nay. Với ông Thẳng, việc tham gia THT là nhu cầu tất yếu khi người nông dân không thể cứ “tự trồng, tự bán” ra thị trường trước nhu cầu ngày càng “khắt khe” của người mua.

Do đó, khi Hội Nông dân xã Khánh Hòa đứng ra vận động, ông Thẳng đã mạnh dạn tham gia THT. Ông Thẳng biết rằng, mảnh đất dưới chân mình hoàn toàn có thể giúp cho cây nhãn xuồng phát triển tốt, cho nhiều trái và phẩm chất thơm ngon.

Ban đầu, THT trồng nhãn xuồng xã Khánh Hòa chưa có nhiều người tham gia, nhưng hiện nay đã thu hút 25 thành viên cùng tham gia trên diện tích canh tác 19ha. Bằng việc áp dụng tốt kỹ thuật canh tác của ngành chuyên môn và sự hỗ trợ của Hội Nông dân xã, các thành viên trong THT có thể giúp cây nhãn xuồng đạt năng suất 7 tấn/ha, với giá bán đầu vụ đạt mức 45.000 đồng/kg, lợi nhuận thu được trên 210 triệu đồng/ha.

Với kết quả đó, ông Thẳng và các thành viên trong THT rất phấn khởi. Họ tích cực tham gia học tập các lớp hướng dẫn kỹ thuật làm vườn và chăm sóc cây để tích lũy thêm kinh nghiệm, đáp ứng những tiêu chuẩn an toàn mà thị trường đang rất cần.

Với ông Thẳng, việc được hướng dẫn, tạo điều kiện để đăng ký logo thương hiệu nhãn xuồng cơm vàng Khánh Hòa là niềm vui rất lớn. Bởi ông Thẳng hiểu rằng, chỉ có tham gia vào mô hình kinh tế hợp tác và bán nhãn xuồng theo kiểu bao tiêu sản phẩm thì mới đảm bảo lợi nhuận ổn định, tránh sự “chèn ép” trên thị trường. Rõ ràng, tư duy của ông Thẳng và các thành viên trong THT khá phù hợp với xu thế phát triển như hiện nay. Nếu không có sự liên kết, nông dân sẽ phải lệ thuộc thị trường rất nhiều.

Vì vậy, ông Thẳng đề xuất các cấp, ngành, nhất là Hội Nông dân tạo điều kiện, hỗ trợ để nâng THT sản xuất nhãn xuồng Khánh Hòa thành hợp tác xã trong tương lai. Trên cơ sở đó, ông Thẳng và các thành viên khác sẽ có điều kiện đưa những trái nhãn do chính bàn tay mình trồng vươn ra những thị trường xa hơn và nâng cao được lợi nhuận.

Chuyển đổi mô hình sản xuất

Không có điều kiện làm ăn tập thể nhưng ông Ngô Văn Đậu (nông dân xã Phú Thành, Phú Tân) đã mạnh dạn chuyển đổi 3ha đất trồng lúa sang đào ao nuôi cá tra. Nhờ quá trình tiếp cận với những tiến bộ khoa học - kỹ thuật, ông Đậu đã nâng cao được lợi nhuận từ mô hình nuôi cá của mình. Hiện nay, gia đình ông Đậu thu nhập bình quân 1 - 2 tỷ đồng/năm, đồng thời tạo việc làm thường xuyên cho 30 lao động với thu nhập, khoảng 5 triệu đồng/người/tháng.

Khi điều kiện kinh tế gia đình khá giả hơn, ông Đậu tích cực tham gia vào phong trào an sinh xã hội tại địa phương. Thời gian qua, ông Đậu đã đóng góp tích cực vào việc cất cầu, làm đường và tự mua xe cứu thương để phục vụ nhu cầu chuyển bệnh cho người nghèo tại địa phương. Ông Đậu cho rằng, người nông dân tuy phải vất vả “một nắng, hai sương”, tần tảo nhưng thu nhập từ cây lúa không thể giúp họ khá hơn.

Do đó, ông và những nông dân khác mạnh dạn chuyển đổi sản xuất, chịu khó học tập, tiếp thu những tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nhất là cách làm ăn mới để áp dụng tốt vào quy trình sản xuất nông nghiệp của mình.

Ngoài ra, còn thường xuyên theo dõi thông tin trên các phương tiện truyền thông đại chúng để nắm bắt được xu thế thay đổi của thị trường, từ đó tập trung sản xuất đúng định hướng, nhu cầu của thị trường nhằm mang lại giá trị cao cho nông sản của mình.

Tuy nhiên, mô hình chăn nuôi của ông Đậu đang đối mặt với nhiều khó khăn từ tình hình thời tiết, chi phí thức ăn và giá cá tra trên thị trường chưa ổn định. Do đó, ông Đậu mong mỏi các cơ quan và ngành chức năng có cơ chế giúp ổn định chi phí thức ăn chăn nuôi và kết nối đầu ra để nông dân có thể làm giàu bền vững từ việc chăn nuôi, thoát dần sự lệ thuộc vào cây lúa.

Với những đổi mới về mặt nhận thức, có thể thấy nông dân An Giang thời nay đã có thể bắt kịp với xu hướng của xã hội, để từ đó thực hiện những mô hình hiệu quả, vươn lên làm giàu từ sự cần cù của mình.

Bên cạnh đó, các cấp, ngành và tổ chức Hội Nông dân cần tiếp tục có những giải pháp hỗ trợ, tạo điều kiện để người nông dân phát huy tính sáng tạo của mình, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

THANH TIẾN

Hàm Thuận Nam (Bình Thuận): Người dân ‘mặn’ sản xuất thanh long VietGAP

Nguồn tin: Báo Bình Thuận

Được mệnh danh là thủ phủ thanh long của Việt Nam, thời điểm này, huyện Hàm Thuận Nam (tỉnh Bình Thuận) có trên 12.800 ha thanh long. Xác định sản xuất thanh long theo hướng VietGAP sẽ góp phần vào việc nâng cao giá trị sản phẩm thanh long Bình Thuận, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Năm qua, huyện Hàm Thuận Nam đã tích cực triển khai đồng bộ nhiều giải pháp nhằm đẩy mạnh sản xuất thanh long VietGAP.

Vượt chỉ tiêu cấp mới thanh long VietGAP

Xác định hiện nay, thị trường tiêu thụ trái thanh long chính của nước ta là Trung Quốc và một số quốc gia khác. Trước việc thắt chặt nhập khẩu tiểu ngạch, siết chặt yêu cầu truy xuất nguồn gốc và quy trình kiểm soát chất lượng trái thanh long xuất khẩu, đảm bảo an toàn thực phẩm. Do đó, người sản xuất bắt buộc phải tham gia vào quy trình sản xuất thanh long an toàn và cần phải thực hiện nghiêm ngặt các bước theo quy trình để đảm bảo chất lượng trái thanh long. Chính vì vậy, năm qua, Ban chỉ đạo (BCĐ) phát triển thanh long bền vững huyện nỗ lực thực hiện tốt kế hoạch sản xuất thanh long VietGAP. Theo đó, song song với sắp xếp, bố trí thời gian làm việc cùng BCĐ các xã, thị trấn, cán bộ tư vấn tỉnh để tiếp cận các tổ, nhóm đến hạn, BCĐ huyện đã chú trọng vận động thành lập tổ, nhóm mới. Đồng thời, tiến hành hướng dẫn, đánh giá nội bộ và thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở kịp thời những thiếu sót từng hộ về hồ sơ sổ sách và thực địa nhằm đáp ứng theo yêu cầu những tiêu chí VietGAP đề ra. Nhờ đó, năm 2019, toàn huyện cấp mới 734 ha diện tích thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP với 81 tổ, nhóm; đạt 209,7% kế hoạch huyện giao và 272% kế hoạch tỉnh giao.

Mặt khác, Phòng Nông nghiệp và PTNT còn phối hợp với Trung tâm Kỹ thuật và Dịch vụ nông nghiệp huyện tăng cường phổ biến rộng rãi quy trình sản xuất VietGAP bằng nhiều hình thức phù hợp. Cũng như chú trọng tuyên truyền cách phòng trừ các loại bệnh khác và dịch hại phổ biến; cách sử dụng thuốc BVTV đảm bảo thời gian cách ly theo quy định, nhất là không được sử dụng các loại thuốc cấm trong danh mục. Bên cạnh đó, BCĐ huyện, xã, thị trấn duy trì thường xuyên và liên tục công tác vận động, tuyên truyền, tập huấn và hướng dẫn cụ thể các biện pháp phòng trừ bệnh đốm nâu đến người dân. Qua đó, đã góp phần giúp người dân chủ động hơn trong công tác vệ sinh vườn, không để cành non trong mùa mưa, thu gom, cắt tỉa cành, nhánh, trái bị bệnh để xử lý theo đúng quy trình. Đồng thời đầu tư chăm sóc bón phân, phun thuốc phòng bệnh đúng quy trình, liều lượng nên đã hạn chế sự lây lan của bệnh đốm nâu và các loại dịch hại khác.

Tiếp tục sản xuất thanh long VietGAP

Tuy nhiên, theo nhận định BCĐ huyện, năm 2019, giá thanh long giảm hơn nhiều so với những năm trước làm ảnh hưởng đến diện tích tái cấp. Từ đó một số tổ, nhóm không tiếp tục làm theo quy trình VietGAP cũng như khó khăn cho việc thành lập thêm tổ, nhóm mới. Mặt khác, công tác phòng trừ bệnh đốm nâu tại một số hộ dân còn chủ quan, chưa quan tâm đến công tác phòng trừ bệnh và chưa thực hiện đầy đủ, kịp thời các biện pháp phòng trừ. Trên địa bàn huyện vẫn còn tồn tại tình trạng nông dân đổ cành, trái bị bệnh ở ven các tuyến đường nông thôn, hàng ranh vườn tạo điều kiện cho mầm bệnh phát tán, lây lan.

Thời gian tới, BCĐ huyện tiếp tục công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia vào quy trình sản xuất thanh long theo hướng an toàn. Cùng với đó, hướng dẫn các biện pháp phòng trừ bệnh đốm nâu và các loại dịch hại khác trên cây thanh long. Song song, BCĐ huyện sẽ tăng cường bám sát địa bàn, kiểm tra, đôn đốc và chỉ đạo kịp thời, tháo gỡ những vướng mắc khó khăn trong quá trình vận động người dân sản xuất thanh long VietGAP. Đồng thời, đề ra chỉ tiêu cụ thể về tái cấp và cấp mới, rà soát cụ thể các nhóm đến hạn trong năm để thực hiện tái cấp đúng hạn. Riêng đối với các thành viên BCĐ và thành viên Tổ tư vấn huyện sẽ chủ động, phối hợp cùng với BCĐ các xã, thị trấn được phân công phụ trách giúp tổ/nhóm mới hình thành và xây dựng quy trình sản xuất chung của tổ. Mặt khác, chú trọng kiểm tra thường xuyên quy trình sản xuất chung của nhóm, bảo đảm đúng quy trình và không sử dụng thuốc cấm hoặc hạn chế sử dụng trong quy trình sản xuất. Đồng thời, phối hợp cập nhật, trao đổi kinh nghiệm sản xuất, thông tin thị trường nhằm nâng cao nhận thức và thu hút sự tham gia người dân, gắn với việc tuyên truyền, hướng dẫn công tác phòng trừ bệnh đốm nâu.

Thống kê mới nhất của BCĐ phát triển thanh long bền vững huyện Hàm Thuận Nam: Tính đến nay toàn huyện có 6.653 ha/4.236 hộ/201 tổ, nhóm, trang trại tham gia sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP, chiếm 52% diện tích thanh long hiện có trên địa bàn huyện với 12.889 ha. Năm 2019, tất cả các xã, thị trấn đều đạt và vượt chỉ tiêu cấp mới của huyện, trong đó 8/12 xã vượt hơn 200% kế hoạch.

KIM ANH

‘Theo dõi’ chuối bằng chip điện tử

Nguồn tin: Báo Lâm Đồng

Hợp tác xã Laba Banana Đạ K’nàng (huyện Đam Rông, tỉnh Lâm Đồng) đã mạnh tay đầu tư 20 triệu đồng/ ha để lắp đặt chíp điện tử cho từng gốc chuối trên diện tích hơn 40 ha của 7 thành viên hợp tác xã (HTX). Cách làm này giúp HTX quản lý vườn một cách khoa học, còn đối tác có thể truy xuất nhanh nguồn gốc của sản phẩm.

Mỗi gốc chuối được gắn chip điện tử nhằm theo dõi quá trình sinh trưởng và phát triển của cây cũng như dễ dàng truy xuất nguồn gốc

Ông Nguyễn Huy Phương - Giám đốc HTX Laba Banana Đạ K’nàng cho biết: HTX đang liên kết với 40 hộ dân trong và ngoài xã với diện tích 165 ha. Các mô hình sản xuất chuối được thực hiện theo tiêu chuẩn VietGAP và thời gian tới sẽ chuyển sang quy trình GlobalGAP để tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm. Tại vườn, mỗi bụi chuối được lắp đặt chip điện tử để đối tác Nhật Bản nắm bắt thông tin về quy trình sản xuất, chất lượng nông sản.

“Việc triển khai lắp đặt chip điện tử cho từng gốc cây chuối sẽ giúp các bộ phận kỹ thuật của HTX và đối tác tại Nhật Bản có thể cùng theo dõi quá trình sinh trưởng cũng như việc truy xuất nguồn gốc của cây chuối laba. Từ đó, đối tác sẽ yêu cầu chủ vườn đưa ra chế độ chăm sóc phù hợp, đảm bảo chất lượng cho đơn hàng. Chi phí lắp đặt chip điện tử này vào khoảng 20 triệu đồng/ ha” - ông Phương cho hay.

Hiện, HTX bước đầu đang triển khai thực hiện việc lắp đặt chíp điện tử cho từng gốc chuối của 7 thành viên HTX trên diện tích 40 ha. Những chíp điện tử được gắn trên đầu ống nhựa và có mã số riêng. Hệ thống này truyền tín hiệu đến phần mềm trong điện thoại di động của chủ vườn lẫn đối tác tại Nhật Bản. Khi liên kết với người dân, HTX Laba Banana Đạ K’nàng sẽ đầu tư cho 50% về giống, phân bón, kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm với giá cố định 8.000 đồng/ kg. Sản phẩm được xuất khẩu trực tiếp sang Nhật Bản với sản lượng 1 tháng khoảng 60 tấn.

Sau khi thu hoạch, chuối được chuyển đến kho sơ chế của Hợp tác xã Laba Banana Đạ K’nàng để tuyển lựa, rửa sạch và đóng gói. Tại đây, chuối được phân nhỏ thành các chùm 3-5 trái với trọng lượng từ 0,6 -0,7 kg rồi cho vào các túi nylon để hút chân không và chuyển vào thúng lớn chuyển cho đối tác.

Ông Nguyễn Văn Chính - Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đam Rông cho biết: Để phát triển 1 ha chuối Laba, nông dân bỏ nguồn vốn khoảng 100 - 150 triệu đồng cho các chi phí giống, phân bón và hệ thống tưới tiết kiệm. Trồng trong khoảng 12 tháng thì có thể thu hoạch và mỗi bụi có nhiều cây con nên có thể duy trì vườn trong khoảng 3 năm. Trung bình, mỗi năm, 1 ha chuối cho thu hoạch từ 80 - 120 tấn trái. Với giá 8.000 đồng/kg như hiện nay, nhà vườn có thể lãi từ 200 - 300 triệu đồng/năm.

HTX Laba Banana Đạ K’nàng liên kết với 40 hộ dân sản xuất khoảng 165 ha chuối xuất khẩu sang Nhật Bản

Hiện, các đối tác Nhật Bản đang có nhu cầu rất lớn về việc mở rộng vùng sản xuất lên 1.000 ha, địa phương cũng đang có phương án giúp HTX thực hiện. Trước mắt, các HTX sẽ phát triển lên 300 ha và đầu tư, mở rộng cơ sở sơ chế, kho lạnh để bảo quản sản phẩm.

“Mặc dù trồng chuối xuất sang Nhật Bản kỳ công hơn để đảm bảo những yêu cầu khắt khe về lượng thuốc bảo vệ thực vật, kích thước trái, thời gian cắt, nhưng giá bán lại ổn định. Do đó, việc lắp đặt hệ thống chip điện tử để đối tác Nhật Bản nắm bắt thông tin về quy trình sản xuất, chất lượng nông sản là rất cần thiết” - ông Chính nói.

THANH SA

Thành công từ mô hình trồng đu đủ lùn trên đất lúa kém hiệu quả

Nguồn tin: Khuyến Nông TPHCM

Là xã viên của Hợp tác xã nông nghiệp thị trấn La Hai, xuất thân từ một gia đình nông dân, trình độ học vấn không cao, nhưng dám nghĩ, dám làm, biết vận dụng kiến thức khoa học vào sản xuất để làm giàu. Đó là ông Trần Ngọc Bửu thuộc Khu phố Long Châu, thị trấn La Hai, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.

Có dịp thăm mô hình trồng đu đủ lùn đang giai đoạn cho thu hoạch của gia đình ông Trần Ngọc Bửu, được tận mắt thấy những hàng đu đủ thấp, tàu lá xanh mượt, trái đơm kín từ gốc lên ngọn, được trò chuyện và nghe ông kể lại cái duyên của ông với cây đu đủ. Năm 2017, ông được Hội Nông dân tỉnh mời tham dự lớp tập huấn các phương thức chuyển đổi cơ cấu cây trồng có hiệu quả và ông được giới thiệu những mô hình hay, mô hình có hiệu quả kinh tế. Trong đầu ông lóe lên suy nghĩ sao mình không thử chuyển đổi 5.000 m2 đất trồng lúa một vụ sang cây trồng khác có hiệu quả hơn. Thế là ông mày mò nghiên cứu và nhờ đến sự tư vấn của cán bộ khuyến nông về cách trồng cây đu đủ lùn xanh.

Giữa năm 2017, ông bắt đầu ươm giống đu đủ lùn Thái Lan để trồng. Ban đầu, ông trồng khoảng 100 cây đu đủ. Lúc đầu kinh nghiệm chưa có nhiều nên thu nhập chưa cao, ông quyết tâm học hỏi từ cán bộ kỹ thuật trong ngành nông nghiệp và dần dần kinh nghiệm cũng nhiều lên. Theo ông, cây đu đủ rất dễ trồng nhưng muốn cho cây phát triển nhanh, khỏe mạnh, năng suất cao và chất lượng quả tốt thì người trồng phải nắm vững kỹ thuật từ khâu chọn giống cho đến lúc cây ra trái. Đu đủ rất khó nảy mầm nên hạt phải đem ngâm nước ấm trong 24 giờ, sau đó vớt hạt cho vào bầu ươm; ban ngày che mát, ban đêm bỏ ra; thường xuyên tưới nước cho cây con từ 1 - 1,5 tháng rồi đem ra trồng. Bí quyết để cho cây đu đủ tăng trưởng nhanh và sạch bệnh là phải làm kỹ đất. Trước khi trồng, ông đào hố và bón phân chuồng được ủ Trichoderma để diệt sạch mầm bệnh, kích thích bộ rễ phát triển tốt , hạn chế hiện tượng chết ẻo,… Ngoài ra còn phải bón vôi, phân lân và các loại phân vô cơ trong quá trình sinh trưởng phát triển của cây. Khi cây càng lớn phải vun đất xung quanh gốc để chống đổ ngã. Trong suốt quá trình cây phát triển, ông phải theo dõi thường xuyên để kịp thời phát hiện những trường hợp bị bệnh vàng lá, héo rủ và xử lý ngay, tránh lây lan bệnh.

Ông Trần Ngọc Bửu bên vườn đu đủ của gia đình

Gần 03 năm qua, ông Bửu luôn chọn cây đu đủ là cây trồng chủ lực . Cũng theo ông, đu đủ dễ trồng mà lại có hiệu quả kinh tế cao nhất là vào dịp tết. Nếu chăm sóc tốt , trái có trọng lượng từ 1,5-3,5 kg. Đu đủ cho thu hoạch lứa quả đầu tiên sau khoảng 6,5 tháng trồng; khoảng 15-20 ngày lại thu lứa tiếp theo; mỗi năm thu khoảng 3-4 lứa quả. Với diện tích 5.000 m2 trồng đu đủ, dự kiến cho khoảng 50 tấn quả, với giá bán giao động từ 6.000 - 7.000 đồng/kg, trừ chi phí ông lãi gần 240 triệu đồng, so với trồng lúa thì lợi nhuận gấp rất nhiều lần, chưa kể thu nhập từ các loại rau màu trồng xen canh khi đu đủ còn nhỏ.

Ngoài trồng đu đủ, ông còn nuôi thêm 05 con bò theo hướng chăn nuôi vỗ béo, mỗi năm ông thu khoảng 200 triệu đồng, sau khi trừ hết các chi phí ông lãi được khoảng 20 triệu đồng. Mấy năm trở lại đây, gia đình ông có kinh tế khá giả hơn, có điều kiện cho các con ăn học. Ông cũng là người luôn quan tâm, giúp đỡ những người xung quanh muốn học tập kinh nghiệm trồng cây đu đủ lùn. Thành công của mô hình trồng cây đu đủ lùn của ông Trần Ngọc Bửu đã góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên đất lúa kém hiệu quả ở huyện Đồng Xuân.

Quỳnh Như - HTX Nông nghiệp La Hai, huyện Đồng Xuân, Phú Yên

Mùa thu hoạch tỏi trên đảo Lý Sơn

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Người dân huyện đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi) đang bước vào vụ thu hoạch tỏi, năm nay tỏi được mùa, năng suất tăng nhiều lần, người dân Lý Sơn đỡ nhọc công chăm sóc.

Mùa trồng tỏi ở Lý Sơn bắt đầu từ tháng 9 năm trước, kéo dài khoảng 5-6 tháng, thu hoạch từ tháng 2-3 năm sau. Hiện nay nông dân đang bước vào vụ thu hoạch. Trên khắp đồng tỏi tấp nập nông dân chuyên chở, nhổ tỏi chất lên xe, kịp phơi khô và bán cho thương lái.

Ông Lê Văn Ninh, Phó Chủ tịch UBND huyện Lý Sơn, cho biết: “Toàn huyện Lý Sơn có gần 327 ha tỏi đang vào vụ thu hoạch, năng suất đạt 80 tạ/ha, tăng gần gấp đôi so với năm trước. Thời tiết thuận lợi nên vụ tỏi đạt chất lượng cao, tỏi to, đều và đẹp. Giá cả ở mức trung bình, ổn định mức 40.000-50.000 đồng/kg”.

Người dân huyện đảo Lý Sơn đang bước vào vụ thu hoạch tỏi. Ảnh: NGUYỄN TRANG

Ông Phạm Sơn (xã An Hải, huyện Lý Sơn) trồng 3 sào tỏi, vui mừng khi năm nay ruộng tỏi phát triển tốt. Ông nói: “Năm nay thời tiết thuận lợi, sâu bệnh cũng hạn chế, không có dịch hại cây trồng nên tỏi rất tốt. Nhà tôi thu được 1,8 tấn tỏi, với giá bán 45.000-50.000 đồng/kg tỏi tươi, 80.000-90.000 đồng/kg tỏi khô, bình quân nhà tôi thu về hơn 75 triệu đồng/vụ”.

Mỗi mùa tỏi, ông Sơn cũng như nhiều nông dân trên đảo thường để lại một phần tỏi giống để gieo cấy vụ sau.

Ông Phạm Sơn cũng cho biết: “Năm nay tỏi được mùa nên tỏi cô đơn (tỏi một tép) rất ít, như đồng ruộng của tôi chỉ thu được chưa tới vài kg tỏi cô đơn”.

Bà Nguyễn Thị Nở (xã An Hải, huyện Lý Sơn) trồng hơn 600m2 ruộng tỏi, bà thu về hơn 500kg tỏi tươi. Bà cho biết: “Lượng thu về như vậy là quá đạt so với các năm trước nên cả nhà tôi đều rất vui mừng. Giá bán ở mức trung bình nhưng năng suất, sản lượng tăng cũng tăng thu nhập cho gia đình”. Tương tự, bà Nguyễn Thị Đen (xã An Hải, huyện Lý Sơn) trồng 1 sào tỏi, thu về khoảng 400kg.

Người dân Lý Sơn mỗi đợt thu hoạch tỏi đều túc trực ở cánh đồng từ sáng sớm đến tận chiều tối, những người nhặt tỏi thuê cũng được trả 200.000 -250.000 đồng/ngày lao động.

Làm tỏi trên cánh đồng Lý Sơn. Ảnh: NGUYỄN TRANG

Với điều kiện đặc trưng về thổ nhưỡng, khí hậu, cùng kinh nghiệm truyền thống lâu đời của người dân đất đảo Lý Sơn đã tạo nên hương vị tỏi riêng biệt, chỉ có ở đảo Lý Sơn. Với người dân Lý Sơn, mùa nào tỏi phát triển tươi tốt thì mùa ấy rất ít tỏi cô đơn. Năm nay với người dân là mùa tỏi vui.

Nông dân Lý Sơn trồng tỏi cũng rất đặc biệt, đất tạo thành từ núi lửa, cát biển bao bọc quanh đảo. Cũng theo trình tự trải lớp đất lên rồi đến lớp cát, những lớp cát lại lẫn vỏ sò, vỏ ốc từ biển, mang theo hương vị biển đảo quê hương.

Ông Lê Văn Ninh, Phó Chủ tịch UBND huyện Lý Sơn chia sẻ: “Người dân Lý Sơn khi thu hoạch tỏi về chỉ bán một ít còn lại được phơi khô chờ đến giữa năm mới bán thêm đợt nữa. Tỏi Lý Sơn cứ như vậy có hàng trong suốt cả năm”.

- Hình ảnh thu hoạch tỏi trên đảo Lý Sơn - Ảnh: NGUYỄN TRANG

Những ruộng tỏi đã đến ngày thu hoạch trên đảo Lý Sơn. Ảnh: NGUYỄN TRANG

Tỏi được chất lại thành đống để cho vào bao vận chuyển lên xe. Ảnh: NGUYỄN TRANG

Ảnh: NGUYỄN TRANG

Tỏi Lý Sơn đạt chất lượng do thời tiết thuận lợi. Ảnh: NGUYỄN TRANG

Chở tỏi về nhà phơi khô. Ảnh: NGUYỄN TRANG

Đến chiều vẫn còn nhiều người trên đảo thu hoạch tỏi. Ảnh: NGUYỄN TRANG

NGUYỄN TRANG

Nắng hạn gây khó khăn trong khâu cày ải

Nguồn tin: Báo ảnh Đất Mũi

Hiện nay, nông dân huyện Trần Văn Thời (tỉnh Cà Mau) sắp thu hoạch dứt điểm vụ lúa đông xuân và chuyển sang cải tạo đất. Do ảnh hưởng nắng hạn nên bà con gặp khó khăn trong khâu cày ải.

Theo nhiều hộ dân, do năm nay trời dứt mưa sớm, chân ruộng bị thiếu nước thời gian dài nên sau khi thu hoạch xong vụ lúa đông xuân, mặt đất đã khô cứng, nứt nẻ, nếu để lâu sẽ không thể cày ải được.

Mặc dù đã thu hoạch xong vụ lúa đông xuân cách đây hơn nửa tháng, nhưng ông Trần Văn Hải (ấp Rạch Ruộng C, xã Khánh Lộc) chưa dám đốt đồng để cày ải phơi đất, do không có máy cày. Ông Hải lo lắng: “Mặt đất bây giờ quá khô rồi, nếu đốt gốc rạ xong thì phải tiến hành cày liền, chớ để lâu đất càng khô, cứng hơn nữa. Ngặt nỗi bây giờ không có máy cày nên tôi chưa dám đốt gốc rạ. Nếu vài ngày nữa mà không có máy cày, thì chắc phải đợi tới mưa xuống cày giòn hoặc trục nhận để gieo sạ thôi”.

Nông dân huyện Trần Văn Thời đang đẩy nhanh tiến độ cày ải phơi đất.

Cũng như ông Hải, mấy ngày nay ông Phan Văn Sang (ấp Đòn Dong, xã Khánh Lộc) rất lo lắng cho khâu cày ải phơi đất. Theo ông Sang, năm nay, một phần do thiếu máy cày, một phần do nước dưới sông, rạch khô hết, máy cày không di chuyển được nên bà con nông dân gặp khó khăn. “Nếu không cày được, vụ lúa hè thu sắp tới chưa biết sẽ xuống giống làm sao”, ông Sang nói.

Đến thời điểm này, nông dân toàn huyện Trần Văn Thời mới cày ải phơi đất được hơn 5.000ha, đạt chưa tới 20% diện tích. Qua rà soát của Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện trên địa bàn huyện có hơn 200 máy cày lớn, cơ bản đáp ứng nhu cầu cày ải của bà con. Tuy nhiên, do mực nước trong các sông, rạch khô cạn, máy cày không di chuyển được nên tiến độ cày ải chậm.

Đối với những nơi có máy cày tại chỗ, thu hoạch lúa đến đâu, nông dân tiến hành đốt rơm rạ để cày ải phơi đất ngay đến đó. Ông Lê Văn Khởi (ấp Lung Bạ, xã Khánh Bình Đông) cho biết: “Tôi mới thu hoạch lúa có 3 ngày, thấy mặt đất nứt nẻ hết, tôi sợ để lâu không cày được nên liền đốt rơm rạ và kêu máy cày vô cày ải ngay. Thời điểm này, nhiều chỗ đất bắt đầu cứng nên máy cày nhỏ chạy không nổi, nếu để lâu đất càng khô cứng và không cày được”.

Điều đáng ghi nhận là mặc dù các chủ máy cày gặp khó khăn trong việc di chuyển phương tiện, nhưng giá công cày đất năm nay vẫn ổn định như những năm trước. Nếu chủ đất trả tiền mặt thì giá 100.000 đồng/công, nếu để đến thu hoạch vụ lúa hè thu mới thanh toán thì giá 120.000 đồng/công. Hiện tại, nhiều hộ đang tích cực tìm kiếm máy cày, khẩn trương đốt rơm, rạ để đẩy nhanh tiến độ cày ải phơi đất.

Theo dự báo của ngành chuyên môn, mùa khô 2019 - 2020 ở khu vực Nam Bộ sẽ khá gay gắt và kéo dài hơn mọi năm. Nếu thời gian tới, bà con nông dân không chủ động và đẩy nhanh tiến độ cày ải phơi đất thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến việc chuẩn bị xuống giống vụ lúa hè thu.

ANH QUỐC

Tây Ninh: Thời tiết thuận lợi, nông dân trồng thuốc lá phấn khởi

Nguồn tin: Báo Tây Ninh

Cây thuốc lá vàng là cây trồng quen thuộc của người dân thuộc hai huyện Bến Cầu và Châu Thành (tỉnh Tây Ninh). Từng có thời điểm, cây thuốc lá vàng trở thành cây trồng chủ lực, góp phần xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế địa phương.

Tuy nhiên, thời hoàng kim của cây thuốc lá vàng đã qua. Từ những năm 2010 trở lại đây, liên tục nhiều năm thời tiết không thuận lợi, cộng với một số loại bệnh không có thuốc trị khiến người trồng thuốc lá chịu thua lỗ, nhiều nông dân không còn mặn mà với cây thuốc lá mà dần chuyển sang các loại cây trồng khác.

Mặc dù diện tích trồng thuốc lá vàng đã giảm, nhưng thời điểm này, nhờ thời tiết thuận lợi, vụ thuốc lá năm 2019 – 2020 cho cây thuốc phát triển tốt, ít sâu bệnh, giá cả ổn định, hứa hẹn năng suất khá, người nông dân rất phấn khởi.

Thời tiết ổn định, cây thuốc lá vàng phát triển tươi tốt.

Ông Huỳnh Văn Quốc (ngụ ấp Sân Lễ, xã Hảo Đước, Châu Thành) trồng được 2,5 ha thuốc lá cho biết, thời điểm mới xuống giống vào cuối năm 2019 nguồn nước kênh thủy lợi bị cắt để phục vụ công tác thi công, sửa chữa tuyến kênh Tây. Do không có nước tưới kịp thời nên gần một nửa ruộng thuốc lá của ông bị chết khô, sau đó ông phải mua thêm cây giống về dặm lại. may mắn, thời tiết năm nay thuận lợi, nước tưới đầy đủ, ít sương mù nên ruộng thuốc lá của ông và các hộ xung quanh phát triển tốt, ít sâu bệnh.

Còn theo bà Nguyễn Thị Loan, ngụ ấp Bàu Sen, xã Hảo Đước, sau đợt đầu vụ phải dặm lại khoảng 30% bị chết, đến nay 1,2 ha thuốc lá của gia đình bà phát triển khá tốt. Hiện ruộng thuốc lá nhà bà đã thu hoạch được 2 đợt, mỗi đợt khoảng 500 đến 600 gim. “Nói chung năm nay thời tiết ủng hộ người trồng thuốc nên không xảy ra ngập úng hay bệnh xoăn đọt, phía các nhà máy sấy cũng nhiệt tình thu mua nên người nông dân chúng tôi thấy yên tâm”- bà Loan vui vẻ nói.

Năm nay giá thu mua tăng khoảng 2.000 đồng/kg lá thuốc sấy khô so với vụ trước, theo mức giá thông báo hiện giá loại I bán với giá 42.000 đồng/kg, loại II là 40.000 đồng/kg và loại III là 38.000 đồng/kg, hứa hẹn vụ thuốc năm nay sẽ cho thu nhập khá. Tuy nhiên, giá bán tăng thì giá nhân công thu hoạch cũng tăng gần gấp 1,5 lần. “Mọi năm giá công hái thuốc chỉ khoảng 10 triệu đồng/ha nhưng năm nay tăng lên tới 14 triệu đồng/ha. Sau khi trừ hết chi phí đầu tư như cây giống, thuốc bảo vệ thực vật, công chăm sóc và thu hoạch mỗi ha chỉ còn lãi khoảng hơn 20 triệu đồng thôi”- ông Quốc chia sẻ thêm.

Theo đại diện Công ty cổ phần Hòa Việt chi nhánh Tây Ninh, tổng diện tích đầu tư vụ thuốc lá năm 2019-2020 cho nông dân Tây Ninh là 480 ha. Để tạo thuận lợi cho nông dân, công ty đã đưa ra những chính sách cho người trồng, như đầu tư toàn bộ vật tư, hoá chất phòng trừ sâu bệnh, cây giống (khoảng 25 triệu), đầu tư tiền mặt 10 triệu đồng/ 1 ha và ký hợp đồng bao tiêu toàn bộ sản phẩm có giá thu mua ngay đầu vụ.

Bên cạnh đó, công ty thường xuyên cử cán bộ kỹ thuật hướng dẫn toàn bộ quy trình kỹ thuật từ gieo, trồng, sơ chế, phân loại. Chính quyền địa phương cũng hỗ trợ việc xác nhận hợp đồng, quản lý sản phẩm và tổ chức tập huấn khi có khi áp dụng những biện pháp kỹ thuật mới.

Nếu không xảy ra mưa trái vụ hoặc thiếu nước tưới, với tình hình hiện tại, mỗi ha thuốc lá đạt năng suất bình quân khoảng 3.000 kg. Với giá mua bình quân khoảng 40.000 đồng/kg, thu nhập dao động khoảng 120 triệu đồng/ha, trong đó người trồng có thể có lãi từ 50- 60 triệu đồng/ ha.

Đại diện Công ty Hòa Việt cho biết thêm, diện tích thuốc lá vàng mà công ty đầu tư năm nay có giảm hơn năm vừa rồi, nguyên do thiếu công lao động. Bên cạnh đó, do vụ vừa qua xảy ra tình trạng mưa trái vụ làm héo xụ, gây thiệt hại nhiều (khu vực Trảng Bàng) nên một số nông dân tạm ngưng sản xuất.

Minh Dương – Thế Nhân

Đặc sản gà đen ở Ya Hội

Nguồn tin: Báo Gia Lai

Quá trình di cư từ tỉnh Cao Bằng vào xã Ya Hội (huyện Đak Pơ, Gia Lai) lập nghiệp, đồng bào Mông đã đem theo giống gà đen của dân tộc để nuôi. Nhờ được nuôi dưỡng, chăm sóc cẩn thận nên giống gà quý sinh sôi, phát triển không chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt gia đình mà còn bán ra thị trường.

Năm 1991, ông Đào Văn Dinh (làng Mông) đưa vợ con từ Cao Bằng vào Ya Hội lập nghiệp. Bên cạnh các đồ dùng cần thiết, ông mang theo 1 con gà mái và 8 con gà con. Nhờ thích nghi với điều kiện thời tiết và được chăm sóc kỹ nên đàn gà sống 100%. Ông Dinh cho hay: Từ đó đến nay, gia đình tôi luôn duy trì đàn gà trên 30 con. Khoảng 3 năm gần đây, ngoài nuôi tại nhà, gia đình tôi mang vào trại cách khu dân cư chừng 5 km để nuôi.

Gà đen được người Mông ở xã Ya Hội (huyện Đak Pơ)nuôi đem lại lợi ích kinh tế cao. Ảnh: N.M

Theo ông Dinh, gà đen thích sống trong môi trường tự nhiên. Do đó, khi đưa vào rẫy, đàn gà thích ứng và sinh sản, phát triển tốt. Vốn có sức đề kháng cao cộng với sống trong môi trường trong lành và ăn thức ăn hoàn toàn có trong tự nhiên như rau, cỏ, côn trùng… nên đàn gà ít khi bị bệnh. “Nuôi gà đen không khó, không mất thời gian và công chăm sóc. Ngày cho gà ăn 2 lần, thức ăn là bắp hoặc lúa. Phần lớn thời gian trong ngày đàn gà tản mát đi kiếm mồi, tối về chuồng đậu. Chuồng trại cũng không quá cầu kỳ, chỉ cần vây lưới hoặc thưng gỗ tạp xung quanh, trên thì lợp rơm, cỏ tranh; bên trong tận dụng những cây tre, cây gỗ làm nơi cho gà leo đậu… Gà trưởng thành cân nặng khoảng 3 kg, gà trống thiến có con nặng trên 4 kg. Gà mái sinh sản 3 lần/năm, mỗi lần đẻ 15-17 quả trứng. Đặc điểm của gà đen là chân chì, da, mặt, mào đen; lông có 3 màu: trắng, đen và hoa mơ”-ông Dinh chia sẻ.

Gia đình ông Đào Văn Pình cũng có đàn gà đen trên 30 con. Đàn gà được ông Pình nuôi ở trong trại, tách biệt khu dân cư. Ông cho biết: Có thời điểm đàn gà lên tới 50 con. Vài năm gần đây, khi biết được giá trị của giống gà đen, nhiều thương lái tìm đến hỏi mua, giá bán bình quân 120 ngàn đồng/kg, gà trống thiến có giá 130-150 ngàn đồng/kg. Năm 2019, vừa bán gà giống, gà thịt, gia đình tôi thu hơn 7 triệu đồng. Nhờ có số tiền này mà việc chi tiêu trong gia đình vơi bớt khó khăn. Ông Pình cho biết thêm, gà đen là giống quý nên thường được dùng vào các dịp lễ, Tết và tẩm bổ cho người ốm; gà hầm với thuốc bắc, tiềm với sâm để bồi bổ sức khỏe...

Trưởng thôn Đinh Lý Kim Tuyến cho hay: Hiện trong làng có 8 gia đình nuôi gà đen với khoảng 100 con, phần lớn người dân mang gà vào rẫy, trang trại chăn thả. Chúng tôi thường xuyên vận động người dân chú ý cách chăm sóc, chủ động phòng dịch cho đàn gà, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi, thường xuyên vệ sinh chuồng trại, phun thuốc tiêu độc khử trùng nơi nuôi nhốt; cho gà ăn đủ chất để tăng sức đề kháng cho đàn gà… “Nhờ có ý thức bảo vệ, duy trì việc chăn nuôi mà giống gà đen truyền thống ngày càng sinh sôi phát triển và nhân rộng. Mong ngành chức năng quan tâm, hỗ trợ tập huấn kỹ thuật nuôi gà cho người dân, để việc nhân rộng phát triển đàn gà đen đạt hiệu quả”-ông Tuyến chia sẻ.

Trao đổi với P.V, ông Lý Nguyên Hùng-Phó Bí thư Đảng ủy xã Ya Hội-cho biết: “Gà đen là giống gà quý của người Mông, được người dân đưa từ tỉnh Cao Bằng vào Ya Hội nuôi từ năm 1991, thường phục vụ nhu cầu trong gia đình và sử dụng trong việc cúng tế. Ưu điểm của giống gà này là thịt thơm ngon, bổ dưỡng, được thị trường ưa chuộng. Giống gà đen thích nghi với điều kiện khí hậu địa phương và có giá trị kinh tế cao. Do đó, thời gian tới, chúng tôi tiếp tục vận động và khuyến khích người dân mở rộng đàn, góp phần giúp bà con nâng cao thu nhập”.

NGỌC MINH

Kế hoạch ứng phó với các loại dịch trên động vật

Nguồn tin: Sài Gòn Giải Phóng

Tối 25-2, Văn phòng Bộ NN-PTNT cho biết, lãnh đạo bộ vừa ký công văn báo cáo Thủ tướng về tình hình phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm hiện nay.

Cán bộ thú y tiêm vaccine cho đàn gà để phòng chống dịch cúm A/H5N1

Tính đến ngày 24-2, cả nước đã xuất hiện 34 ổ dịch cúm gia cầm (29 ổ do virus H5N6 và 5 ổ virus H5N1) tại 10 tỉnh thành, với trên 100.000 con gia cầm chết, tiêu hủy. Bộ NN-PTNT dự báo thời gian tới dịch bệnh tiếp tục xảy ra nhiều do tổng số gia cầm lớn (467 triệu con), thời tiết thay đổi; có nguy cơ ảnh hưởng sức khỏe cộng đồng, trong điều kiện dịch Covid-19.

Về dịch tả heo châu Phi, từ tháng 2-2019 đến ngày 23-2-2020, đã xảy ra tại 8.549 xã thuộc 667 huyện của 63 tỉnh thành với tổng cộng 5.987.600 con heo tiêu hủy. Tuy nhiên từ đầu năm 2020 đến nay, dịch này chỉ phát sinh thêm tại 24 xã; phải tiêu hủy 17.133 con heo. Từ đầu năm 2020 đến nay, cả nước cũng có hơn 100 ổ dịch lở mồm long móng, tại 9 tỉnh (trong đó đang có 80 ổ dịch vẫn chưa qua 21 ngày). Tổng số gia súc mắc bệnh là 2.833 con (trâu, bò, heo).

Bộ NN-PTNT đề xuất Thủ tướng ban hành chỉ thị về việc tập trung, quyết liệt phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm; phê duyệt kế hoạch phòng chống dịch tả heo châu Phi giai đoạn 2020-2025; phê duyệt kế hoạch ứng phó với nguy cơ xuất hiện dịch Covid-19 trên động vật, tăng cường năng lực chẩn đoán, xét nghiệm phát hiện virus nCoV trên động vật nuôi và hoang dã. Đề xuất Thủ tướng chỉ đạo xây dựng trung tâm phòng, chống bệnh lây truyền từ động vật sang người.

PHÚC HẬU

Bình Dương: Tái đàn heo gắn với chăn nuôi an toàn sinh học

Nguồn tin: Báo Bình Dương

Bệnh dịch tả heo châu Phi (DTHCP) đã xảy ra tại 81 xã, phường, thị trấn của 9 huyện, thị, thành phố trong tỉnh Bình Dương. Đến nay, 81 xã, phường, thị trấn đã qua 30 ngày không phát sinh và công bố hết dịch. Như vậy, toàn tỉnh đã cơ bản khống chế DTHCP; nhiều địa phương đang tập trung tái đàn.

Nhiều trang trại lớn trên địa bàn tỉnh đang tái đàn sau khi dịch bệnh DTHCP được khống chế. Trong ảnh: Trang trại heo của Công ty TNHH Nông nghiệp Trường Thịnh (xã An Thái, huyện Phú Giáo). Ảnh: THOẠI PHƯƠNG

Nhiều địa phương hết bệnh DTHCP

Lãnh đạo Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh cho biết từ khi tình hình DTHCP trong tỉnh được khống chế, nhiều địa phương không còn tái phát sinh ổ dịch sau nhiều ngày, tạo điều kiện thuận lợi cho người chăn nuôi tái đàn.

Phú Giáo là huyện đầu tiên trong tỉnh phát sinh ổ dịch. Với sự nỗ lực của các cấp, các ngành thực hiện nhiều biện pháp ngăn chặn, đến nay huyện đã khống chế được dịch. Ông Trần Minh Đức, Trưởng trạm Chăn nuôi và Thú y huyện, cho biết ngay sau khi dịch bệnh xảy ra trạm đã phối hợp UBND các xã, thị trấn khẩn trương triển khai các biện pháp chống dịch theo quy định; thực hiện các biện pháp vệ sinh, khử trùng tiêu độc bảo đảm yêu cầu vệ sinh thú y tại các ổ dịch, vùng bị dịch uy hiếp, yêu cầu vệ sinh thú y. Nhờ đó đến nay, DTHCP trên địa bàn đã được khống chế (con bệnh chết cuối cùng vào ngày 23-9-2019 và đã qua 30 ngày). 11/11 xã, thị trấn của huyện đã công bố hết DTHCP.

Tại huyện Bàu Bàng, 7/7 xã, thị trấn cũng đã công bố hết dịch. Ông Nguyễn Văn Hiền, Trưởng trạm Chăn nuôi và Thú y huyện, cho hay đến nay huyện đã kiểm soát được tình hình DTHCP. Huyện cũng đã công bố hết dịch, người dân, doanh nghiệp chăn nuôi đã thực hiện tái đàn. Tuy vậy, hiện việc tái đàn phần lớn được các doanh nghiệp chăn nuôi trên địa bàn thực hiện; đối với hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, lượng tái đàn chưa nhiều, do nghi ngại dịch bùng phát trở lại. Trạm khuyến khích người dân thực hiện chăn nuôi an toàn sinh học để phòng ngừa dịch.

Tái đàn an toàn

Theo lãnh đạo UBND huyện Phú Giáo, để kiểm soát tình hình chăn nuôi và tái phát DTHCP, giảm thiểu tối đa thiệt hại, UBND huyện đã có Công văn số 88/UBND-KT về việc kiểm soát việc tái phát DTHCP trên địa bàn huyện. Theo đó, ngành chức năng trong huyện cần phối hợp hướng dẫn người chăn nuôi trong việc tái đàn. Tuy nhiên, huyện chỉ khuyến khích tái đàn ở những cơ sở, trang trại chăn nuôi thực hiện tốt chăn nuôi an toàn sinh học, tránh tái đàn ồ ạt. Lý do là bệnh DTHCP đang còn diễn biến phức tạp, mầm bệnh vẫn còn lưu hành, nguy cơ tái phát ổ dịch mới vẫn có thể xảy ra, do vậy người chăn nuôi cần hết sức cẩn trọng khi tái đàn.

Anh Nguyễn Văn Trinh, Chủ trang trại heo Kim Linh (xã An Linh, huyện Phú Giáo), cho hay trước tình hình diễn biến phức tạp của DTHCP, trang trại đã chủ động áp dụng các biện pháp an toàn sinh học hàng ngày như vệ sinh chuồng trại; vệ sinh, tiêu độc khử trùng người, phương tiện ra vào khu vực chăn nuôi. Trang trại hạn chế tối đa việc ra vào thăm cơ sở chăn nuôi; thực hiện biện pháp tiêu độc khử trùng từ xa trên lối ra vào bằng vôi bột… Hiện trang trại có trên 2.000 con heo, trong thời gian tới sẽ tăng đàn nhằm ổn định chăn nuôi, bảo đảm nguồn cung cho thị trường.

Theo ngành chức năng, việc tái đàn heo có thể thực hiện nếu các địa phương giám sát, kiểm soát chặt chẽ và thực hiện đúng quy trình bảo đảm an toàn sinh học. Các cơ sở tái đàn cần chọn giống heo có nguồn gốc từ cơ sở không nhiễm bệnh và phải được lấy mẫu máu xét nghiệm âm tính với DTHCP. Cùng với đó, cơ sở chăn nuôi phải duy trì vệ sinh, phun thuốc khử trùng tiêu độc để cắt đường lây truyền vi rút từ môi trường vào đàn heo giống mới nuôi.

Không chủ quan với dịch bệnh

Thời gian qua, tỉnh đã thực hiện quyết liệt, đồng bộ nhiều giải pháp phòng, chống DTHCP. Đến nay, toàn tỉnh cơ bản đã khống chế được dịch bệnh; kinh phí hỗ trợ cho người chăn nuôi heo có heo buộc phải tiêu hủy là trên 147 tỷ đồng. Tuy vậy, ngành chức năng khuyến cáo tình hình dịch bệnh tuy đã được khống chế nhưng các địa phương, người chăn nuôi trong tỉnh tuyệt đối không chủ quan trong phòng, chống dịch bệnh nguy hiểm này; các địa phương phải kiểm soát chặt chẽ việc tái đàn.

Ghi nhận cho thấy, vừa qua bệnh DTHCP đã phát sinh ổ dịch mới ở các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ tại 3 xã An Sơn (TP. Thuận An), An Điền (TX.Bến Cát) và Thanh An (huyện Dầu Tiếng). Ông Trần Phú Cường, Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh, cho biết để dịch bệnh DTHCP không bùng phát trở lại, chi cục đã và đang phối hợp với đoàn liên ngành kiểm tra, kiểm soát và xử lý nghiêm các trường hợp mua bán, vận chuyển heo và sản phẩm heo trái phép. Bên cạnh đó, chi cục tích cực phối hợp, hướng dẫn thực hiện nghiêm các biện pháp tổng vệ sinh, cách ly, sát trùng bằng hóa chất, bằng vôi; nâng cấp cơ sở vật chất, dụng cụ chăn nuôi bảo đảm áp dụng có hiệu quả biện pháp an toàn sinh học.

Chi cục đề nghị chính quyền địa phương và cơ quan thú y ở cơ sở tổ chức kiểm tra, xác nhận điều kiện nuôi tái đàn; tăng cường hướng dẫn, kiểm tra, giám sát tình hình chăn nuôi và công tác phòng, chống dịch bệnh. Tới đây, chi cục tiếp tục tuyên truyền các biện pháp chăn nuôi an toàn và vận động người chăn nuôi cần chủ động phối hợp với cơ quan chuyên môn nếu muốn tái đàn nhằm bảo đảm hiệu quả trong chăn nuôi.

Theo Chi cục Chăn nuôi, Thú y và Thủy sản tỉnh, tính từ ngày 20-5 (ngày đầu tiên xuất hiện DTHCP) cho đến thời điểm này, qua ghi nhận thông tin từ các địa phương, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra DTHCP và có hiện tượng heo chết bất thường ở 1.391 hộ/trại chăn nuôi tại 84 xã, phường, thị trấn của 9 huyện, thị, thành phố trong tỉnh, với tổng số heo chết và buộc phải tiêu hủy là 86.934 con. Tỷ lệ số heo chết và buộc phải tiêu hủy so với tổng đàn heo trong tỉnh chiếm 13,12%. Vì vậy, nguồn thịt heo an toàn vẫn bảo đảm cung cấp cho người tiêu dùng trên địa bàn tỉnh.

THOẠI PHƯƠNG

Hiếu Giang tổng hợp

Chăm sóc khách hàng

(84-28) 37445447-(84-28) 3898 9090
Yahoo:
Skype:
Yahoo:
Skype:
Địa chỉ: 22-24 đường số 9, Phường An Phú, Quận 2, TP. Hồ Chí Minh

FANPAGE FACEBOOK

Thông tin cần biết

backtop